MỤC LỤC
ã PHẦN MỞĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài . 3
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .6
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 7
6. Những đóng góp của luận văn 9
7. Kết cấu của luận văn . . .10
ã PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
TÌNH HÌNH KINH TẾ NÔNG NGHIỆP TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỚC NĂM 1997
I. Đặc điểm kinh tế - xã hội Bình Dương . 12
II. Tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp Sông Bé- Bình Dương trong
10 năm đầu thực hiện đường lối đổi mới (1986-1996) . .18
1. Đường lối đổi mới của Đảng về sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp (1986-1996) . 18
2. Bình Dương năng động vận dụng đường lối đổi mới, bước đầu thực hiện
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh (1986-1996) 26
2.1. Sự vận dụng đường lối đổi mới của Đảng về quá trình chuyểndịch cơcấu kinh tế nông nghiệp ở Bình Dương (1986-1996) .26
2.2. Kết quả vận dụng đường lối đổi mới của Đảng về chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở Bình Dương.(1986-1996) .34
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH CHUYỂN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ NÔNG
NGHIỆP TỈNH BÌNH DƯƠNG TỪ 1997-2007.
I- Giai đọan từ1997- 2001: . . 39
1. Đường lối của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp.
(1997 -2001) . 39
2. Tỉnh Bình Dương vận dụng đường lối của Đảng vào thực tiễn địa
phương (1997-2001) 44
3. Nông nghiệp Bình Dương bước đầu chuyển đổi theo hướng công
nghiệp hóa hiện đại hóa . 48
II. Giai đọan từ 2001 -2007 . 57
1. Chủ trương mới của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn . 57
2. Sự vận dụng chủ trương đường lối mới về công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp ở Bình Dương (2001-2007) . 61
3. Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông nghiệp, nông thôn ởBình Dương (2001-2007) 67
III. Nhận xét về những thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Bình Dương
những năm 1997 - 2007 75
A. Những thành tựu chủ yếu . . 75
B. Những hạn chế chính . 88
C. Một số kinh nghiệm lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn của
Bình Dương (1997-2007 ) . . . 94
ã PHẦN KẾT LUẬN . .102
133 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1545 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Bình Dương (1997-2007), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày trên thực tế đã được các
ngành, các cấp thực hiện rất tốt, đem lại những thành tựu to lớn cho kinh tế của
tỉnh, đồng thời góp phần quan trọng giải quyết được nhiều vấn đề xã hội. Đảng
bộ Bình Dương đã biết tận dụng, phát huy những kinh nghiệm và những thành
tựu đạt được trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn của tỉnh Sông Bé
cũ. Đảng bộ đã huy động được mọi nguồn lực của địa phương về cả nhân lực,
vật lực, tài lực, sức mạnh của nhân dân để tổ chức, thực hiện tốt công tác phát
triển nông nghiệp, xây dựng kinh tế nông thôn, cải thiện đời sống của nhân dân.
- Được sự quan tâm của Tỉnh ủy, vai trò của Hội nông dân luôn được
củng cố, đổi mới nội dung và phương thức họat động, đẩy mạnh các họat động
sản xuất, xóa đói giảm nghèo. Hội còn chú ý phối hợp với Trung tâm khuyến
nông, ngành nông nghiệp tổ chức tập huấn kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm canh
tác, giúp người dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng, nâng hiệu quả
kinh tế trên một đơn vị diện tích canh tác; ngoài ra Hội còn phối hợp với ngân
hàng và ngành Lao động- Thương binh và xã hội tạo vốn cho người dân vay để
phát triển sản xuất.
- Điều vô cùng quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển nhanh
về kinh tế - xã hội là Đảng bộ Bình Dương đã sớm xác định cơ cấu kinh tế phù
hợp với từng vùng, từng khu vực trong tỉnh, mạnh dạn đầu tư vốn chuyển dịch
cơ cấu sản xuất, quyết tâm đưa ngành chăn nuôi công nghiệp trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn, kiên quyết đấu tranh xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao
cấp, thực hiện cơ chế mới phù hợp với quy luật kinh tế thị trường; năng động
trong việc đổi mới tổ chức và phong cách lãnh đạo, tạo nguồn sức mạnh mới cho
Đảng bộ.
- Người Bình Dương luôn biết nắm lấy cái mạnh của chính mình, biết tận
dụng cơ hội để tồn tại và phát triển.Trong chặng đường hình thành, người Bình
Dương đã tự khẳng định mình bằng cách phát triển ngành nghề và những cây
trồng đặc sản. Trong kháng chiến người Bình Dương biết dựa vào địa hình hiểm
trở, dựa vào sức mạnh của lòng yêu nước, yêu quê hương của các cư dân để
chiến đấu và chiến thắng quân thù. Khi hoà bình người Bình Dương biết thoát
khỏi chế độ độc canh trong sản xuất cây lương thực để đi vào sản xuất cây công
nghiệp, cây nông sản và phát triển mạnh ngành nghề truyền thống. Khi đất nước
vào thời kỳ đổi mới, người Bình Dương đã năng động nắm bắt thời cơ mới, tạo
ra những chuyển biến nhanh chóng trong lĩnh vực kinh tế để hoà nhập vào khu
vực kinh tế trọng điểm phía Nam, có thể nói truyền thống Bình Dương là truyền
thống chịu khó, năng động, luôn học hỏi kinh nghiệm, biết nắm lợi thế, tranh thủ
thời cơ để khai thác chính thế mạnh của đất đai, tài nguyên và con người để phát
triển.
Nguyên nhân khách quan
- Bình Dương là một tỉnh thuộc tứ giác động lực kinh tế, tiếp giáp với tỉnh
Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh - những thị trường lớn, những trung tâm kinh
tế, khoa học kỹ thuật, do đó Bình Dương có những thuận lợi:
9 Nằm trong vùng hấp dẫn của các nhà đầu tư
9 Tiếp cận nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, có
điều
kiện đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, nông thôn
9 Có thuận lợi lớn về tiêu thụ nông sản
9 Tận dụng năng lực của công nghiệp chế biến
- Bình Dương có khí hậu và thổ nhưỡng rất phù hợp với nông nghiệp nhiệt
đới đa dạng, có thể phát triển nhiều loại cây trồng, vật nuôi và thủy sản
- Bình Dương là vùng hội cư của nhiều người từ nơi khác đến, do đó Bình
Dương không chỉ là nơi hội tụ kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp trong cả nước,
mà còn là nơi hội tụ ý chí lập nghiệp, làm giàu của nhiều người, từ nhiều vùng
trong cả nước. Đây là một thuận lợi không phải tỉnh nào cũng có.
- Sản xuất công nghiệp Bình Dương đã tạo bước phát triển đột phá, luôn
giữ mức tăng trưởng bình quân cao, là ngành kinh tế trọng điểm của tỉnh, làm
động lực thúc đẩy phát triển các ngành khác, trong đó sự phát triển mạnh mẽ của
ngành công nghiệp chế biến và trở thành động lực thúc đẩy ngành nông nghiệp
Bình Dương phát triển.
- Các vùng nông nghiệp của Bình Dương có vị trí rất thuận lợi, kết cấu địa
tầng phù hợp với phát triển giao thông, công nghiệp chế biến tại chỗ. Đó là thuận
lợi không nhỏ so với các tỉnh khác.
B. Những hạn chế chính
- Cơ cấu sản xuất nông nghiệp mặt dù đã có những chuyển biến tích cực
trong những năm gần đây nhưng chăn nuôi vẫn còn chiếm tỷ trọng thấp trong cơ
cấu sản xuất nông nghiệp; chưa có các chính sách khuyến khích phát triển cây,
con theo các quy hoạch đã được phê duyệt nên việc chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp nhiều nơi vẫn còn mang tính tự phát, làm theo phong trào đã dẫn đến hiệu
quả kinh tế chưa cao (như: vùng trồng cây tiêu ở xã An Bình huyện Phú Giáo
thường bị thiếu nước tưới vào mùa khô, trồng cây ăn trái ở một số vùng đất nông
ven sông Sài Gòn dễ bị ngập úng vào mùa mưa hoặc trồng trên vùng đồi gò
thiếu nước tưới vào mùa khô...).
- Trình độ công nghệ trong sản xuất vẫn còn thấp, chất lượng nông sản
chưa đồng đều; chưa đáp ứng được yêu cầu là nền sản xuất nông sản hàng hóa có
chất lượng cao. Các mô hình sản xuất nông nghiệp công nghệ cao chưa được
tổng kết, đánh giá để đưa ra được các mô hình mẫu để nhân rộng trong sản xuất.
- Kết cấu hạ tầng phục vụ nông nghiệp, nông thôn trong những năm gần
đây đã được tăng cường đầu tư, tuy nhiên vẫn còn yếu: chưa hình thành được các
khu nông nghiệp để tạo điều kiện áp dụng kỹ thuật, công nghệ cao vào sản xuất;
hệ thống đường nội đồng một số nơi vẫn còn thiếu...
- Đời sống vật chất tinh thần của dân cư nông thôn ở nhiều vùng còn khó
khăn; chất lượng nguồn lao động thấp. Mức hưởng thụ văn hóa của dân cư vùng
nông thôn còn thấp chưa tương xứng với tốc độ phát triển công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp- nông thôn; nhiều xã đến nay vẫn chưa đầu tư xây dựng
thiết chế văn hóa; một số công trình văn hóa vẫn chưa sử dụng tốt.
- Hiện tượng nông dân bỏ ruộng đất hoang còn diễn ra, do hiệu quả sản
xuất nông nghiệp thấp, do phải chi phí đầu vào lớn; nông dân không thiết tha với
ruộng đồng do chuyển sang ngành, nghề khác có thu nhập cao hơn. Một số hộ
dân bỏ hoang ruộng để chạy theo lợi nhuận, có tâm lý chờ đợi các doanh nghiệp
về mua đất hoặc thuê để hưởng tiền đền bù, trợ giúp... ở những vùng nằm trong
dự án quy hoạch
Chất thải từ các khu công nghiệp chưa được xử lý triệt để, xả trực tiếp ra
quanh vùng gây ảnh hưởng trực tiếp đến cây trồng và sức khỏe nhân dân.
- Mặc dù ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã khuyến cáo nông
dân thực hiện đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi. Song do việc kết hợp giữa “4
nhà” (nhà nông - nhà doanh nghiệp (cả ngân hàng) - nhà nước và nhà khoa học)
trong sản xuất kinh doanh chưa tốt, nên thị trường đầu ra, đầu vào của sản phẩm
chưa ổn định .
- Năng suất, chất lượng sản phẩm nông sản của tỉnh trong thời gian qua có
tăng, nhưng so với các tỉnh lân cận và khu vực thì vẫn còn thấp; vấn đề xây dựng
thương hiệu cho nông sản phẩm chưa được chú trọng nên khả năng cạnh tranh
trên thị trường trong nước và xuất khẩu kém.
- Do tốc độ phát triển công nghiệp và đô thị trên địa bàn tỉnh diễn ra
nhanh, đã phá vỡ các quy họach của ngành, làm cho các doanh nghiệp chưa an
tâm đầu tư phát triển sản xuất (một số cơ sở chăn nuôi phải di dời); do tác động
của giá tiêu thụ nên một số loại cây trồng phát triển chưa phù hợp với quy họach
như: diện tích cao su tiếp tục phát triển ở những vùng đất nông không thích hợp
cho các loại cây trồng cạn. [99.tr10]
- Công tác quản lý, tổ chức và kinh nghiệm kinh doanh của nông dân,
trang trại cán bộ các hợp tác xã nông nghiệp và tổ hợp tác còn hạn chế, khả năng
tiếp thị yếu. Các hộ nhỏ lẻ còn chậm trong tiếp cận tiến bộ kỹ thuật mới vào sản
xuất, giá lao động trên địa bàn tỉnh cao nên giá thành sản phẩm sản xuất ra cao.
- Lực lượng lao động nông thôn đông, giá rẻ nhưng chất lượng chưa cao,
nhất là về tay nghề, khả năng quản lý, tác phong công nghiệp. Vì vậy với nhiều
doanh nghiệp, đầu tư vào nông thôn vẫn là nơi lợi nhuận thấp mà rủi ro cao. Vì
thế, thời gian qua tuy có nhiều chủ trương, định hướng về nông thôn nhưng phát
triển nông nghiệp nông thôn chưa được như ý muốn.
- Công tác quản lý an toàn vệ sinh thực phẩm trong lĩnh vực ngành đã có nhiều
cố gắng trong việc tổ chức tuyên truyền, kiểm tra giám sát. Tuy nhiên, vẫn chưa
thực sự hiệu quả do chưa xây dựng các qui trình, thủ tục quản lý, công nhận sản
phẩm an toàn. Nhất là việc triển khai thực hiện quyết định 04/2007/QĐ-BNN của
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn còn nhiều vướng mắc. [99.tr11]
- Hầu hết các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển sản xuất (nhất là các mô
hình nông nghiệp công nghệ cao) việc triển khai còn chậm, đến cuối năm 2007
vẫn chưa có dự án nào được phê duyệt. [99.tr11]
- Giá cả biến động có xu hướng bất lợi cho người nông dân, giá đầu vào
sản xuất nông nghiệp không giảm hoặc tăng nhanh, trong khi giá nông sản tăng
ít, không tăng , mà còn giảm mạnh. Mặt khác nông sản thất thường làm tổn hại
nghiêm trọng đến việc duy trì tính bền vững của phương hướng sản xuất.
- Tính thích ứng trong cơ chế thị trường của nông dân ở Bình Dương chưa
cao, do phần lớn đất đai ở đây chỉ thích hợp với trồng cây lâu năm. Gặp khi giá
cả thất thường, người nông dân do chạy theo lợi nhuận có thể chặt phá vườn cây
trước nguy cơ thua lỗ. Việc trồng mới sẽ kéo theo thời gian kiến thiết cơ bản,
nhiều năm không có thu nhập. Do đó tình trạng trồng, chặt… có thể dẫn đến tình
trạng phá sản, về mặt này Bình Dương rất bất lợi so với những vùng trồng cây
hàng năm.
- Rau quả tươi là thế mạnh của ngành nông nghiệp nước ta nói chung và
của Bình Dương nói riêng. Nhưng cũng do không có thị trường tiêu thụ ổn định
và tác động của việc đẩy mạnh thực hiện chuyển đổi từ đất nông nghiệp sang
công nghiệp làm cho diện tích cây ăn quả cũng bị thu hẹp dần. Nhược điểm lớn
nhất trong sản xuất rau quả là phân tán, tự phát, sản xuất theo quy mô hộ gia
đình nông dân, với phương thức tự cấp, tự túc, thị trường tiêu thụ chủ yếu vẫn là
chợ nông thôn và thành thị... Điều quan trọng là nhiều nơi nông dân chưa chú ý
sản xuất hàng hóa, vẫn còn theo tập quán cũ, chưa tích cực đổi mới cơ cấu cây
trồng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Ngành nghề nông thôn phát triển chưa toàn diện: quy mô, năng lực sản
xuất còn nhỏ, phân tán, áp dụng cơ khí hoá, điện khí hoá chưa cao do đó mức độ
rủi ro và tổn thất sau thu hoạch còn cao, sản xuất còn mang tính tự phát, phân
tán; dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống dân cư nông thôn chậm phát triển.
- Vận dụng khoa học và công nghệ trong nông, lâm nghiệp chậm. Công
tác nghiên cứu chuyển giao khoa học kỹ thuật tuy có đóng góp không nhỏ cho
sản xuất nhưng còn nhiều bất cập. Hệ thống quản lý thủy nông, thú y, bảo vệ
thực vật, giống cây trồng vật nuôi, vật tư nông nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế.
Nông dân còn phải tự đối phó với rủi ro, gánh chịu nhiều chi phí làm tăng giá
thành sản xuất. Thông tin và công nghệ thông tin chưa được chú trọng như một
nguồn lực của sự phát triển.
- Các thành phần kinh tế chưa đáp ứng yêu cầu phát triển: Kinh tế tập thể
chưa thể hiện hết vai trò là đầu mối cung cấp các yếu tố đầu vào và đầu ra cho
sản xuất của các thành viên, kinh tế trang trại chỉ mới phát triển về số lượng và
chưa chú trọng đầu tư theo chiều sâu. Kinh tế hộ vẫn còn thụ động, tuổi lao động
bình quân cao, các doanh nghiệp chế biến chưa chú trọng phối hợp, liên kết xây
dựng vùng nguyên liệu để ổn định sản xuất... Chưa có hiệp hội đầu tư của ngành
nông nghiệp, năng lực nội tại ở hầu hết các HTX còn rất yếu kém, quy mô nhỏ,
cơ sở vật chất kỹ thuật còn nghèo, trình độ công nghệ lạc hậu, sản xuất thủ công
là chính, thiếu vốn. Tài sản chung của HTX chưa được xác lập hoặc công nhận
nên chưa vay được các nguồn vốn tín dụng. Hiệu quả sản xuất kinh doanh, dịch
vụ còn thấp, một số HTX hoạt động không hiệu quả phải giải thể hoặc hoạt động
cầm chừng (HTX Tân Trường hoạt động một thời gian rồi suy yếu). Kinh tế tập
thể hiệu quả chưa cao, chưa thực sự trở thành nền tảng cho sự phát triển kinh tế
nông nghiệp, nông thôn; chưa có sự liên kết, liên doanh giữa doanh nghiệp và hộ
nông dân. Kinh tế tư nhân phát triển tự phát, năng lực còn nhiều hạn chế.
- Phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế chưa gắn chặt với bảo vệ tài
nguyên và môi trường. Khả năng phòng chống, giảm nhẹ thiên tai còn hạn chế,
môi trường tiếp tục xấu đi, môi trường nông thôn bị suy thoái, tình trạng ô nhiễm
còn xảy ra ở nhiều nơi, tình trạng xói lở đất, ô nhiễm nguồn nước do nước thải
công nghiệp vẫn còn diễn ra khá nghiêm trọng, đe dọa tính bền vững của nền
kinh tế.
• Nguyên nhân của những hạn chế.
Nguyên nhân khách quan
- Khi cả nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
thì tỉnh Bình Dương vừa được tái lập. Do đó Bình Dương vừa phải hoàn thiện
các tiền đề cho Công nghiệp hoá, hiện đại hoá, vừa phải đẩy mạnh Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn tại địa phương.
- Nhìn tổng thể nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bình Dương có điểm xuất
phát thấp, sản xuất nhỏ, trình độ canh tác lạc hậu; cơ sở vật chất - kỹ thuật và kết
cấu hạ tầng nông thôn còn thấp kém. Trình độ kiến thức sản xuất hàng hóa của
đại bộ phận nông dân còn có khoảng cách xa, so với yêu cầu công nghiệp hoá,
hiện đại hoá .
- Sản xuất nông sản của Tỉnh vẫn chủ yếu theo qui mô hộ gia đình, phân
tán, kỹ thuật sản xuất còn lạc hậu nên việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới là
rất khó khăn. Những khó khăn đó đã và đang hạn chế xu hướng chuyển sản xuất
nông nghiệp lạc hậu sang sản xuất nông nghiệp hàng hóa gắn với xuất khẩu
- Thị trường thế giới có nhiều biến động bất lợi cho sản xuất nông nghiệp
và kinh tế nông thôn. Trong quá trình từng bước hội nhập nền kinh tế thế giới,
kinh tế cả nước nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng luôn chịu tác động của
thị trường và giá cả của thế giới, của khu vực.
Nguyên nhân chủ quan
- Việc quán triệt đường lối của Đảng, các Nghị quyết của Trung ương,
chủ trương của Đảng bộ tỉnh còn chưa thật sự sâu sắc trong cán bộ, đảng viên,
làm cho việc tổ chức thực hiện cụ thể còn nhiều mặt hạn chế, thậm chí có nơi
còn sai sót. Việc chỉ đạo, điều hành thiếu tập trung, đồng bộ chưa tạo được sự
thống nhất cao.
- Công tác quy hoạch, kế hoạch chậm, được điều chỉnh phù hợp với cơ
chế thị trường, chưa nhìn đúng và giải quyết kịp thời những mối quan hệ trong
các mặt kinh tế, giữa kinh tế với văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh.
- Do chạy theo thành tích đôi khi có cấp Lãnh đạo còn coi nhẹ sản xuất
nông nghiệp, quá chú trọng vào sản xuất công nghiệp là vì sản xuất công nghiệp
sẽ làm cho sự tăng trưởng GDP của tỉnh được... đẹp hơn, thu ngân sách nhiều
hơn.
- Còn người nông dân vì chạy theo lợi nhuận hàng chục năm qua, bài toán
trồng - chặt cứ luẩn quẩn với nông dân nay trồng cây này, mai lại trồng cây khác
điều này cũng phá vỡ quy họach chung của tỉnh.
C. Một số kinh nghiệm lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn của
Bình Dương (1997-2007)
Qua 11 năm (1997 - 2007) thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới, mặc dù còn một số hạn chế, nhưng Đảng bộ và nông dân
Bình Dương đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần ổn định tình
hình
kinh tế - xã hội, tạo tiền đề cần thiết cho việc hoạch định chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế - xã hội trong những năm tiếp theo.
Trong quá trình lãnh đạo phát triển nông nghiệp, nông thôn, Đảng bộ và
nhân dân Bình Dương đã rút ra những kinh nghiệm sau:
Một là, Nắm vững đường lối, chủ trương của Đảng và vận dụng sáng tạo
vào tình hình thực tế của tỉnh Bình Dương để đẩy mạnh phát triển sản xuất nông
nghiệp và xây dựng nông thôn.
Nông nghiệp có vị trí to lớn trong nền kinh tế quốc dân ở hầu hết các quốc
gia trên thế giới. Nó là ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất và lương thực, thực
phẩm thiết yếu cho con người mà không một ngành sản xuất vật chất nào có thể
thay thế được. Ở nước ta, nông nghiệp lại càng có vị trí quan trọng, có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế và ổn định tình hình chính trị - xã hội
của đất nước. Vì vậy, ông cha ta cũng đã từng tổng kết “phi nông bất ổn”.
Trong quá trình lãnh đạo, xây dựng và phát triển kinh tế, Đảng ta luôn
luôn đặt nông nghiệp ở vị trí quan trọng trong các ngành kinh tế của đất nước.
Đại hội V của Đảng đã xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đại hội VI
tiếp tục khẳng định vị trí hàng đầu của nông nghiệp, tập trung thực hiện 3
chương trình kinh tế, trong đó quan trọng nhất là chương trình sản xuất lương
thực - thực phẩm. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta chủ trương:
“phát triển nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển
toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng
hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội” [37, tr.63]. Tiếp tục kiên trì sự
nghiệp đổi mới, Đại hội VIII của Đảng chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, trong
đó trọng tâm là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bước sang thế kỷ XXI, với
những thành tựu to lớn mà ta đã giành được trong lĩnh vực nông nghiệp, Đại hội
IX , X của Đảng khẳng định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước ta 10
năm (2001 - 2010) là phải đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước, trong đó CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của CNH, HĐH đất
nước.
Từ định hướng trên, Đảng và Chính phủ đã có những quyết định đúng đắn
về đổi mới cơ chế quản lý, chính sách đầu tư phát triển nông nghiệp... Có thể nói
một trong những bước đột phá của công cuộc đổi mới là đột phá trong nông
nghiệp, hướng tập trung chủ yếu là giải phóng mọi năng lực sản xuất mà “chìa
khóa” là khuyến khích lợi ích chính đáng của người lao động. Bắt đầu từ “khoán
100” năm 1981, “khoán 10” năm 1988, Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII)
năm 1993, Nghị quyết Trung ương 6 (khóa VIII) năm 1998 đến Nghị quyết
Trung ương 5 (khóa IX) năm 2002... là cả một quá trình Đảng ta tổng kết từ thực
tiễn những sáng tạo của quần chúng để xác định đường lối và từng bước hoàn
thiện đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn, cơ chế quản lý nông nghiệp,
trong đó lợi ích cá nhân người lao động luôn được xem trọng. Đó là một trong
những nguyên nhân để nông nghiệp nước ta đạt được những thành tựu quan
trọng.
Đảng bộ và chính quyền Bình Dương đã vận dụng sáng tạo đường lối, chủ
trương của Đảng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn, tập trung vào các khâu
then chốt sau:
Tập trung thực hiện, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, thực hiện chuyển diện
tích đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng cây công nghiệp ( chủ yếu là cây cao
su), thực hiện đa dạng cây trồng, vật nuôi ... Vì vậy nông - lâm - thuỷ sản - Bình
Dương đã đạt được những kết quả toàn diện. Cơ cấu kinh tế nông thôn có những
biến đổi quan trọng, trong đó chăn nuôi, trồng cây công nghiệp tăng nhanh. Đây
là kết quả rất quan trọng, là động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói
chung và của vùng nông thôn nói riêng. Đảng bộ, chính quyền tỉnh đã vận dụng
một cách chủ động, sáng tạo chủ trương của Đảng về đổi mới nông nghiệp vào
tình hình thực tế của Bình Dương, khai thác tiềm năng thế mạnh của tỉnh để phát
triển nông nghiệp. Đồng thời đã đặt nông nghiệp trong việc giải quyết tổng thể
vấn đề nông dân và nông thôn; phát triển nông nghiệp đi liền với phát triển kinh
tế - xã hội nông thôn và chăm lo giải quyết tâm tư, nguyện vọng và lợi ích chính
đáng của nông dân.
Trong quá trình sản xuất, Đảng bộ, UBND tỉnh đã chỉ đạo các cấp, các cơ
quan chức năng tìm mọi cách góp phần tăng năng suất cây trồng vật nuôi, xây
dựng cơ cấu giống hợp lý, phù hợp với từng loại đất, áp dụng tiến bộ khoa học -
kỹ thuật trong canh tác, xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện, cơ giới
hoá các khâu trong quy trình sản xuất.
Tỉnh có chủ trương, giải pháp đúng đắn, phù hợp với từng địa phương,
khuyến khích nông dân tích cực sản xuất, khai thác triệt để nguồn đất hiện có, áp
dụng chính sách miễn thuế nông nghiệp ở những vùng mới khai hoang, có chính
sách vay vốn hợp lý để người dân yên tâm đầu tư sản xuất. Kết quả phát triển
nông nghiệp của Bình Dương trong những năm 1997 - 2007 đã có tác dụng thúc
đẩy các ngành kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển khá, góp phần ổn định chính trị
- xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng. Kết quả trên đã khẳng định từ thực tiễn
tính cách mạng và khoa học của chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn.
Hai là, Phát huy ý thức tự lực, tự cường, sáng tạo, huy động sức dân, dựa
vào dân để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Nông dân Việt Nam là động lực to lớn của xã hội. Cùng với giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân là quân chủ lực của cách mạng Việt Nam trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc cũng như xây dựng đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn đánh giá đúng vai trò của nông dân, của sản xuất nông nghiệp và kinh tế
nông thôn. Nói đến nông dân là phải nói đến vấn đề ruộng đất. Đó là lẽ sống của
cả cuộc đời họ. Hiểu sâu sắc điều đó nên mỗi lần tiếp xúc với bà con nông dân,
Hồ Chí Minh vẫn dành những lời xúc động nhất để nói về ruộng đất. Người nói:
“Ruộng đất khôn lắm, nó cũng biết suy nghĩ đấy. Người chăm sóc nó chừng nào
thì nó trả ơn cho người chừng ấy” [73, tr.196].
Nói đến sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp ở đây cần được hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp. Trong phát triển
sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, người nông dân vừa là động lực,
vừa là mục tiêu. Vì vậy, lãnh đạo nông dân phát triển sản xuất nông nghiệp, xây
dựng nông thôn phải chú trọng lợi ích chính đáng của người nông dân.
Thực tiễn trong suốt quá trình lãnh đạo phát triển nông nghiệp và xây
dựng nông thôn mới, Đảng bộ tỉnh Bình Dương luôn xuất phát từ thực tiễn, từ lợi
ích của người nông dân, “lấy dân làm gốc” để vận dụng các chủ trương, chính
sách của Đảng cho phù hợp với điều kiện của tỉnh. Khi một chủ trương chính
sách đưa ra được nông dân hưởng ứng, hợp lòng dân là cơ sở thực tiễn để kiểm
nghiệm tính đúng đắn của đường lối, lúc đó đường lối của Đảng mới trở thành
hiện thực sinh động trong đời sống của hàng triệu nông dân.
Đường lối chính sách của Đảng muốn đi sâu, bám rễ trong nông dân thì
đòi hỏi Tỉnh ủy, Đảng bộ các cấp phải tổ chức quán triệt, phát động nông dân
tiến hành phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH, hết sức chú
ý đến xây dựng và tổng kết điển hình. Tin dân, dựa vào dân, phát huy ý thức tự
lực, tự cường, giáo dục, tổ chức, hướng dẫn dân làm những điều có lợi cho dân,
đó là quan điểm và cũng là kinh nghiệm trong lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh.
Tỉnh Bình Dương được tái lập vào đầu năm 1997. Sự kiện này vừa là niềm
vui vừa là nỗi lo của Đảng bộ và nhân dân Bình Dương. Vui vì từ nay tỉnh sẽ có
điều kiện đầu tư và phát triển rộng đều các vùng trong tỉnh mà trước đây chưa
được quan tâm đầu tư đúng mức, nhưng nỗi lo lắng không nhỏ đó là xuất phát
điểm của tỉnh khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH còn rất thấp, kết cấu
hạ tầng, kinh tế- xã hội còn thiếu rất nhiều, mức thu nhập bình quân, thấp hơn so
với các tỉnh trong khu vực.
Khó khăn không phải ít, nhưng với sự tin tưởng vào sức mạnh của nhân
dân, dựa vào dân, Đảng bộ đã biết phát động phong trào toàn dân làm công tác
thủy lợi, thủy nông nội đồng, làm giao thông, kéo điện về nông thôn... Có thể coi
đây là một cuộc cách mạng mới ở nông thôn, cuộc cách mạng nhằm CNH, HĐH
nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới ấm no, hạnh phúc, văn minh. Với những
chính sách hợp lý về giao quyền sử dụng đất, về chính sách thuế nông nghiệp, về
vốn... đã thực sự phát huy ý thức tự lực, tự cường, khai thác triệt để sức lao
động, trí tuệ, kinh nghiệm, nguồn vốn trong nông dân để phát triển trong nông
nghiệp toàn diện; sử dụng sức lao động, trí tuệ và vốn đóng góp từ dân để xây
dựng kết cấu hạ tầng và phát triển kinh tế ở nông thôn.
Ba là, Tập trung xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho nông
nghiệp, nông thôn.
Cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp là một trong những điều kiện rất
cần thiết để phát triển nông nghiệp. Ngày xưa ông cha ta đã đúc kết những kinh
nghiệm trong sản xuất nông nghiệp là “nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống”.
Những kinh nghiệm đó vẫn còn nguyên giá trị cho đến ngày nay, trong quá trình
thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Trong quá trình lãnh đạo và chỉ đạo, Tỉnh ủy và UBND tỉnh Bình Dương
cùng với Đảng bộ và chính quyền các cấp luôn tranh thủ nguồn vốn của Trung
ương, nguồn ngân sách của địa phương và nguồn đóng góp của nhân dân để tập
trung xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ cho nông nghiệp và nông thôn : giao
thông, thủy lợi, điện, đường, trường trạm, trại...
Mạng lưới điện cũng được tỉnh tập trung đầu tư, chương trình điện lưới
quốc gia được đưa về phủ kín các vùng nông thôn của tỉnh, đây là một thành tựu
lớn nó vừa có ý nghĩa về mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc
phòng. Nó còn làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc, 100% xã, phường,
thị trấn có điện sử dụng, tạo điều kiện cho phát triển nông thôn, đời sống tinh
thần của vùng sâu, vùng xa được cải thiện.
Văn hóa, giáo dục, y tế ở nông thôn Bình Dương không ngừng phát triển
về cả quy mô và chất lượng. Trong những năm 1997 - 2007, nông thôn Bình
Dương được sự quan tâm của Trung ương, của Tỉnh đã cố gắng rất nhiều trong
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nông nghiệp, góp phần rất lớn
trong công tác chuyển dịch cơ cấu sản xuất, nâng cao năng suất, sản lượng nông
sản. Đảng bộ tỉnh Bình Dương đã khơi dậy ý thức vượt khó của nông dân, tăng
sức sản xuất trong nông nghiệp, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ cho
nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
Bốn là, Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng ở nông thôn để đáp ứng
yêu cầu phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Cuộc sống luôn luôn sôi động, biến đổi, hàng ngày, hàng giờ luôn đặt ra
những yêu cầu mới trong đời sống xã hội cũng như trong phát triển sản xuất.
Nắm bắt kịp thời các yêu cầu đó, đồng thời có ngay những biện pháp giải quyết
kịp thời ở địa phương đó chính là các Đảng bộ, chi bộ ở cơ sở. Do vậy, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng không phải chỉ ở Trung ương, ở Tỉnh, ở huyện mà
phải ngay từ ở cơ sở, từ xóm ấp, để cho mỗi tổ chức Đảng ở nông thôn nhận thức
được rõ nhiệm vụ của mình trong việc phát triển kinh tế - xã hội nông thôn.
PHẦN KẾT LUẬN
Bình Dương là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, là một cực quan trọng
của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam ( khu vực kinh tế phát triển nhất và hiệu
quả nhất của nước ta), nằm cạnh thành phố Hồ Chí Minh (một trung tâm kinh tế-
công nghiệp-thương mại-dịch vụ- khoa học công nghệ; đầu mối giao thông và
giao lưu kinh tế lớn nhất của cả nước. Bình Dương có điều kiện tự nhiên thuận
lợi ( vị trí địa lý, khí hậu, sông ngòi ) dồi dào và phong phú ( tài nguyên về đất ,
rừng, sông nước) và cả cơ sở xã hội ( nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng…) đồng thời
có giá thuê đất và lao động thấp. Từ khi thực hiện chủ trương đổi mới kinh tế của
Đảng (1986), tiếp theo đó là hình thành vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Với
tam giác tăng trưởng này, Bình Dương có ảnh hưởng trực tiếp và mở ra nhiều cơ
hội hơn, đó là từ khi Đảng, Nhà nước chủ trương “mở cửa”, Sông Bé đã lên tiếng
“trải chiếu hoa” và thực hiện cơ chế một cửa để mời các doanh nghiệp tới đầu tư,
đồng thời nhấn mạnh sẽ tiếp nhận bình đẳng mọi nguồn đầu tư thuộc tất cả các
thành phần kinh tế, phấn đấu tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và
ngoài nước đến Sông Bé. Hình ảnh của Bình Dương hôm nay về hợp tác đầu tư
chính là thành quả của lời mời gọi đó...Quả thật, yếu tố chủ quan đóng vai trò rất
quan trọng trong phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược của mỗi
địa phương. Ở Bình Dương yếu tố đó cũng đồng nghĩa như “nhân hòa” để hợp
với “thiên thời, địa lợi” góp phần làm cho Bình Dương “cất cánh”.
Ngoài yếu tố thiên thời - địa lợi, yếu tố nhân hòa cũng là lợi thế của Bình
Dương. Phần lớn nhân dân Bình Dương rất đồng thuận và ủng hộ cho công cuộc
đổi mới, phát triển kinh tế- xã hội của Tỉnh nói chung và cho ngành nông nghiệp
nói riêng. Vì thế mà ngày nay, Bình Dương được mệnh danh là “mảnh đất lành”
cho phát triển kinh tế, nơi hội tụ đủ ba yếu tố “Thiên thời, Địa lợi- Nhân hòa”.
Mười một năm đã đi qua một chặn đường quá ngắn so với lịch sử hình
thành và phát triển của Bình Dương. Song với tinh thần năng động, sáng tạo,
đoàn kết, hợp tác; toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tỉnh Bình Dương đã vươn lên,
khắc phục mọi khó khăn, tận dụng và khai thác những thuận lợi về vị trí địa lý,
tiềm năng lao động, đất đai….tiếp tục kế thừa, phát huy những thành quả của
tỉnh Sông Bé trước đây để có được tỉnh Bình Dương hôm nay: Tỉnh liên tục đạt
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế đúng hướng,
quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng, cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư,
nâng cấp, sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y tế…được tăng cường. Tất cả, Bình
Dương hướng tới mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”. Tất nhiên Bình Dương cũng còn nhiều khó khăn, trăn trở; song,
những gì đã có, sẽ là hành trang Bình Dương tự tin cùng cả nước, cả vùng bước
vào thiên niên kỷ mới. Để có được một thành quả to lớn trong sự nghiệp phát
triển nông nghiệp và kinh tế xã hội của Bình Dương, trước hết phải kể đến sự
đoàn kết thống nhất cao độ của nội bộ lãnh đạo Tỉnh mà không phải một sớm
một chiều dễ dàng có được. Chính nhờ sự đoàn kết này đã tạo nên sức mạnh tổng
hợp, để từ đó tập trung sức lực và trí tuệ chỉ đạo công cuộc đổi mới đi đến thành
công. Có thể khẳng định sự phát triển của Bình Dương trong những năm qua,
chủ yếu không phải do cơ chế hay do Tỉnh có những chính sách riêng nào cả, mà
do Tỉnh ngoài việc vận dụng, thực hiện đầy đủ và triệt để những chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước một cách năng động, còn có phần nhạy bén,
sáng tạo, cụ thể hoá thêm cho phù hợp với tình hình thực tiễn của địa phương.
Qua 11 năm (1997 - 2007), Bình Dương bắt tay vào thực hiện CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn, thuận lợi cũng có nhưng khó khăn cũng không ít.
Song với lòng quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân Bình Dương, những năm
qua trong lĩnh vực phát triển sản xuất nông nghiệp đã được những kết quả quan
trọng. Nhưng cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hướng
giải quyết. Nhìn một cách tổng thể, quá trình Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng nông thôn mới trong những năm qua
chủ yếu tập trung vào những nội dung sau:
1. Đảng bộ tỉnh Bình Dương lãnh đạo nông dân phát triển sản xuất nông
nghiệp, xây dựng nông thôn mới trước hết là giải phóng sức sản xuất, khơi dậy
tiềm năng, thế mạnh của người nông dân và của cả vùng kinh tế nông thôn. Giải
phóng sức sản xuất của người lao động gắn liền với lợi ích thiết thực của người
nông dân. Đảng bộ tỉnh đã sớm thấy rõ lợi ích chính đáng của người nông dân
chỉ được thực hiện và nâng cao khi sản xuất nông nghiệp phát triển. Đảng bộ
tỉnh đã chủ trương, khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế hộ gia đình thành
đơn vị kinh tế tự chủ; các cấp các chính quyền, các cơ quan chức năng thực hiện
tốt việc giao đất cho nông dân, giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, các dịch vụ cung ứng
vật tư, tiêu thụ sản phẩm, phát triển công nghệ chế biến và các nghề tiểu thủ
công nghiệp; gắn phát triển sản xuất nông nghiệp trong mối quan hệ với nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần. Phát triển tín dụng nông thôn, mở rộng việc cho
nông dân nghèo vay vốn sản xuất kinh doanh, giúp đỡ cho nông dân tổ chức sản
xuất và tham gia các hình thức kinh tế nông nghiệp, phát triển nhiều loại hình tổ
chức sản xuất; cải tiến cơ chế, chính sách của Nhà nước đối với nông dân, nông
thôn, nông nghiệp nhằm tạo đà thúc đẩy quá trình đổi mới, định giá nông sản,
chính sách thuế, chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm...Các cấp ủy Đảng,
chính quyền đã chỉ đạo nông dân tích cực, áp dụng các thành tựu khoa học kỹ
thuật đưa vào giống mới, cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, coi trọng công
tác khuyến nông, đẩy mạnh hoạt động của các Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn
thanh niên... Những địa phương nông dân có cuộc sống khá là do đã thực hiện tốt
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng.
2. Coi trọng các chính sách xã hội ở nông thôn vì trong quá trình phát triển
sản xuất nông nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo vẫn thường xuyên diễn ra. Do đó,
trong sự lãnh đạo của các cấp, Đảng bộ Bình Dương đã quán triệt quan điểm của
Trung ương là tăng trưởng kinh tế đi liền với bảo đảm các chính sách xã hội.
Đảng bộ các cấp đã cố gắng khơi dậy, chú trọng tổng kết và duy trì các phong
trào quần chúng rộng lớn như phong trào xóa đói, giảm nghèo xây dựng nhà tình
nghĩa cho các gia đình chính sách, hoạt động từ thiện... trong đó hoạt động của
Hội nông dân, Hội phụ nữ các cấp có vai trò rất quan trọng ở nông thôn... Cùng
với sự phát triển của tỉnh trong quá trình đô thị hóa, diện tích nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp nhưng giá trị sản lượng nông, lâm nghiệp, thủy sản ở Bình
Dương vẫn tăng. Điều quan trọng hơn cả là cuộc sống ở nông thôn Bình Dương
đã thực sự đổi mới. Mức sống của người nông dân được nâng dần lên về mọi
mặt. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đang chuyển dịch theo chiều hướng
tích cực, phù hợp với quá trình CNH, HĐH nông thôn. Sự phát triển nông nghiệp
gắn liền với xây dựng nông thôn về mọi mặt, trong đó trọng tâm là thực hiện các
chính sách đối với con người cụ thể là người nông dân. Nông dân trong đường
lối, chủ trương của Đảng, vừa là mục tiêu, vừa là động lực trên con đường xây
dựng CNXH.
3. Xóa bỏ cơ chế hành chính tập trung quan liêu bao cấp, xác lập cơ chế
mới. Đây là một cuộc cách mạng làm thay đổi từ tư duy, nhận thức đến thực tiễn,
hành động. Kinh tế thị trường với quy luật của nó chứa đựng cả những yếu tố
tích cực và tiêu cực đã tác động sâu sắc đến người nông dân Bình Dương. Bên
cạnh nhiều yếu tố tâm lý truyền thống tốt đẹp vẫn được giữ vững, người nông
dân Bình Dương đã khắc phục được nhiều thói quen cũ lạc hậu để tự khẳng định
mình, tự thích nghi với điều kiện kinh tế - xã hội mới. Người nông dân Bình
Dương có ý thức hơn trong cuộc sống và làm việc theo pháp luật, đoàn kết gắn
bó với nhau trong cộng đồng, thực hiện đúng các nghĩa vụ, bảo vệ quyền lợi của
bản thân và xã hội. Người nông dân cũng có điều kiện để nâng cao về trình độ
học vấn, tay nghề, chủ động tiếp xúc với khoa học và công nghệ mới. Tâm lý thụ
động, ỷ lại, trông chờ dần bị xóa bỏ, thay vào đó là tâm lý, thói quen hành động
năng động, tháo vát, dám cạnh tranh. Đây là những yếu tố tích cực tác động
mạnh mẽ tới quá trình đổi mới.
Tuy nhiên trong xây dựng và phát triển nông nghiêp, nông thôn từ năm
1997 đến năm 2007, Bình Dương cũng còn nhiều mặt hạn chế, thể hiện ở chỗ:
Tốc độ phát triển kinh tế chưa đều, chưa cân đối giữa các vùng, miền. Sản xuất
còn phân tán. Khả năng cạnh tranh của một số nông sản phẩm thấp. Kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu chuyển dịch cơ cấu
sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn Bình Dương theo hướng hiện đại...
Sở dĩ có những hạn chế trên là do: Trình độ quản lý của cán bộ còn yếu, cán bộ
khoa học thiếu nhiều, nhận thức của đại bộ phận nông dân về sản xuất hàng hoá
còn khoảng cách xa so với yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Sự lãnh đạo của Đảng bộ Bình Dương trong lãnh đạo CNH, HĐH nông
nghiệp và xây dựng nông thôn mới trong những năm 1997 - 2007 đã để lại
những kinh nghiệm quan trọng, góp phần thiết thực vào việc thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và Bình Dương nói riêng.
Trong đó, quan trọng nhất là: Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn phải xây dựng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh. Đảng bộ phải
chịu trách nhiệm trước những thành công và khuyết điểm trên các lĩnh vực nói
chung và trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng, chịu trách nhiệm đối
với đời sống của người nông dân. Đảng bộ đã tự chỉnh đốn về cả chính trị, tư
tưởng và tổ chức, từng bước đáp ứng yêu cầu của cách mạng lãnh đạo xây dựng
chính quyền và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp, coi chính quyền và các
đoàn thể có vai trò quan trọng trong việc chỉ đạo, vận động nông dân thực hiện
đường lối phát triển sản xuất nông nghiệp. Trong đó, điều không kém phần quan
trọng là việc quan tâm đến xây dựng Hội nông dân, một tổ chức quần chúng rộng
rãi, gần gũi, thiết thực nhất đối với người nông dân.
Dù còn một số hạn chế, nhưng những thành tựu phát triển nông nghiệp,
nông thôn ở Bình Dương trong 11 năm (1997 - 2007) là to lớn. Thành tựu đó
khẳng định trong thực tế vai trò lãnh đạo của Đảng bộ với tinh thần chủ động và
sáng tạo; khẳng định tinh thần của nông dân Bình Dương một lòng, một dạ tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, của Đảng bộ, ra sức phấn đấu vì
mục tiêu dân giàu, tỉnh mạnh. Đây là những yếu tố cơ bản, rất quan trọng để
nông nghiệp, nông thôn Bình Dương có những bước phát triển mới trong những
năm tới.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (2002), Con đường công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Hà Nội.
2. Ban dân vận Trung ương (2000), Một số vấn đề về công tác vận động nông
dân ở nước ta hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương (2003), Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Bình Dương 1930-1975,NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
4. PGS. Nguyễn Văn Bích - KS. Chu Quang Tiến (1996), Chính sách kinh tế
và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt
Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Một số văn bản pháp luật hiện
hành về phát triển nông nghiệp, nông thôn, NXB Lao động xã hội.
6. Cục thống kê tỉnh Sông Bé, Niên giám thống kê 1990.
7. Cục thống kê tỉnh Sông Bé, Niên giám thống kê 1991.
8. Cục thống kê tỉnh Sông Bé, Niên giám thống kê 1992.
9. Cục thống kê tỉnh Sông Bé, Niên giám thống kê 1993.
10. Cục thống kê tỉnh Sông Bé, Niên giám thống kê 1994.
11. Cục thống kê , tỉnh Sông Bé Niên giám thống kê 1995.
12. Cục thống kê tỉnh Sông Bé, Niên giám thống kê 1996.
13. Cục thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám thống kê 1997.
14. Cục thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám thống kê1998.
15. Cục thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám thống kê 1999.
16. Cục thống kê tỉnh Bình Dương , Niên giám thống kê 2000.
17. Cục thống kê tỉnh Bình Dương, Niên giám thống kê 2001.
18. Cục thống kê tỉnh Bình Dương , Niên giám thống kê 2002.
19. Cục thống kê tỉnh Bình Dương , Niên giám thống kê 2003
20. Cục thống kê tỉnh Bình Dương , Niên giám thống kê 2004
21. Cục thống kê tỉnh Bình Dương , Niên giám thống kê 2005
22. Cục thống kê tỉnh Bình Dương , Niên giám thống kê 2006
23. Cục thống kê tỉnh Bình Dương , Niên giám thống kê 2007 (T8-2008)
24. Nguyễn Tấn Dũng (20/3/2002), “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong tiến trình CNH,
HĐH đất nước”, Báo Nhân dân, trang 2.
25. Chu Viết Luân (2003), Bình Dương -Thế và lực mới trong thế kỷ XXI, NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội
26. PTS,TS Nguyễn Sinh Cúc (12/2004), “ Bình Dương một mô hình về
chuyển dịch cơ cấu kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài” Tạp chí
Cộng sản (23), tr 56 -60.
27. PGS, TS Nguyễn Sinh Cúc (2003), Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời
kỳ đổi mới (1986-2002), NXB Thống kê, Hà Nội.
28. PTS,TS Nguyễn Sinh Cúc (2004), “Nông nghiệp Việt Nam nửa đầu kế
hoạch 5 năm 2001 - 2005”, Tạp chí Cộng sản (6), tr 15 -18.
29. TS Trần Văn Châu (2003), Phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở Việt
Nam thực trạng và giải pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (5/4/1988), Nghị quyết số 10 của Bộ Chính trị về
đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, NXB Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, NXB Sự thật, Hà Nội.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, NXB Sự thật, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ
năm (Khoá VII), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khoá
VIII), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khoá
VIII), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (10/1997), Chỉ thị về một số công việc cấp bách
ở nông thôn hiện nay, Hà Nội.
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (lần
1) (khoá VIII), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
40. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết 06/TQ - TW của Bộ Chính trị
về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn, NXB Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
41. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Đảng Cộng sản Việt Nam (2/2001), Chỉ thị của Bộ Chính trị về đẩy mạnh
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, Hà Nội.
44. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Các Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương khoá IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Đảng cộng sản Việt nam với công cuộc đổi mới đất nước (2003), NXB
Quân đội nhân dân, Hà Nội.
46. Đảng cộng sản Việt nam (2000). Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi
mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX ) NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
47. Nguyễn Điền (1997), Công nghiệp hóa, nông nghiệp, nông thôn các nước
châu Á và Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
48. NguyễnThị Hằng (1997), Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta
hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Đảng bộ tỉnh Sông Bé (1986), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Sông Bé lần thứ IV
50. Đảng bộ tỉnh Sông Bé (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Sông Bé lần thứ V
51. Đảng bộ tỉnh Sông Bé (1991), Bỏo cáo tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Sông Bé lần thứ V (vòng 2)
52. Đảng bộ tỉnh Sông Bé (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Sông Bé lần thứ VI
53. Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Bình D ư ơng lần thứ VI
54. Đảng bộ tỉnh Bình Dương (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Bình D ư ơng lần thứ VII
55. Đảng bộ tỉnh Bình Dương (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Bình D ư ơng lần thứ VIII
56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (8/1996), Nông thôn Việt Nam
sau 10 năm đổi mới, Thông tin chuyên đề.
57. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam: Thực trạng và một số vấn đề đặt
ra, Tư liệu chuyên đề.
58. Hội nông dân Việt Nam (1998), Lịch sử phong trào nông dân và Hội nông
dân, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. Hà Hùng (2002), “Tiếp tục thực hiện mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn theo tinh thần Nghị quyết đại hội IX”, Tạp chí Lịch sử Đảng,
(11), tr.32-35.
60. PGS, TS. Lâm Quang Huyên (2002), Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. PGS, TS. Lâm Quang Huyên (2002), Nông nghiệp, nông thôn Nam Bộ
hướng tới thế kỷ XXI, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
62. Nguyễn Hữu Khải (2003), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn Việt Nam và Chương trình đẩy mạnh xuất khẩu nông sản (sách
tham khảo), NXB Thống kê, Hà Nội.
63. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
64. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Một số vấn đề về công tác vận động nông dân ở nước ta hiện nay (2000),
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Ngô Anh Ngà (2003), “Cần có chính sách đồng bộ của nhà nước cho phát
triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn”, Nông thôn mới, (90), tr.5-6.
70. PGS.TS Ngô Đức Cát (2004) Kinh tế trang trại với xoá đói giảm
nghèo.NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
71. Nghị quyết số 09 của Chính phủ (15/6/2000), Về một số chủ trương, chính
sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, Hà
Nội.
72. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (24/11/2000), về một số chính sách
khuyến khích phát triển ngành nghề nông thôn, Hà Nội.
73. Lê Quốc Sử (2001), Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển kinh tế của
nông nghiệp Việt Nam theo hướng CNH - HĐH từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI
trong “thời đại kinh tế tri thức”, NXB Thống kê,TP.Hồ Chí Minh.
74. PGS, TS. Khoa học Lê Đình Thắng (chủ biên, 2002), Chính sách phát triển
nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ chính trị (Sách tham
khảo), NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
75. UBND tỉnh Bình Dương, Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương vai trò và tác
động
76. UBND tỉnh Bình Dương (1997), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
1997 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1998.
77. UBND tỉnh Bình Dương (1998), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
1998 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 1999.
78. UBND tỉnh Bình Dương (1999), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
1999 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2000.
79. UBND tỉnh Bình Dương (2000), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2000 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2001.
80. UBND tỉnh Bình Dương (2001), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2001 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2002.
81. UBND tỉnh Bình Dương (2002), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2002 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2003.
82. UBND tỉnh Bình Dương (2003), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2003 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2004.
83. UBND tỉnh Bình Dương (2004), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2004 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2005.
84. UBND tỉnh Bình Dương (2005), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2005 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2006.
85. UBND tỉnh Bình Dương (2006), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2006 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2007.
86. UBND tỉnh Bình Dương (2007), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch năm
2007 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2008
87. Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Bình Dương (1999) Thủ Dầu Một –Bình Dương
Đất lành chim đậu ,NXB Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Bình Dương (1998) Kỷ yếu hội thảo khoa học;
Thủ Dầu Một- Bình Dương 300 năm hình thành và phát triển.
89. Sở Nông nghiệp & PTNT (1997), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 1997 và phương hướng nhiệm vụ năm 1998
90. Sở Nông nghiệp & PTNT (1998), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm í998 và phương hướng nhiệm vụ năm 1999
91. Sở Nông nghiệp & PTNT (1999), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm í999 và phương hướng nhiệm vụ năm 2000
92. Sở Nông nghiệp & PTNT (2000), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2000 và phương hướng nhiệm vụ năm 2001
93. Sở Nông nghiệp & PTNT (2001), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ năm 2002
94. Sở Nông nghiệp & PTNT (2002), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2002 và phương hướng nhiệm vụ năm 2003
95. Sở Nông nghiệp & PTNT (2003), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2003 và phương hướng nhiệm vụ năm 2004
96. Sở Nông nghiệp & PTNT (2004), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005
97. Sở Nông nghiệp & PTNT (2005), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2005 và phương hướng nhiệm vụ năm 2006
98. Sở Nông nghiệp & PTNT (2006), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2006 và phương hướng nhiệm vụ năm 2007
99. Sở Nông nghiệp & PTNT (2007), Báo cáo tình hình hoạt động ngành nông
nghiệp-PTNT năm 2007 và phương hướng nhiệm vụ năm 2008.
100. Trần văn Lợi (2000), Kinh tế trang trại tỉnh Bình Dương thực trạng và giải
pháp phát triển. Ban kinh tế Tỉnh Uỷ tỉnh Bình Dương.
101. Trần Trác- Bùi Anh Vũ (2001) Kinh tế trang trại với nông nghiệp nông
thôn Nam bộ. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.
102. Tạp chí Lịch sử Đảng (2005) Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong 20 năm đổi
mới (tr39 -43-66)
103. Tạp chí x ưa và nay (1997), Bình Dương một thế kỷ xưa .
104. Thư Viện Tỉnh Bình Dương (1998), Bình Dương -đất nước -con người
105. Thư viện Tỉnh Bình Dương (2008), Đất và người Bình Dương.
PHỤ LỤC
Vòng xoay ngã 6 thị xã Thủ Dầu Một
Chăm sóc hoa kiểng một nghề mới có thu nhập cao
Chăm sóc vườn tiêu
Vườn cao su đang khai thác
Cánh đồng trồng rau màu
Chăm sóc rau xanh
Vùng bưởi Tân Uyên
Chăm sóc rau xanh
Chế biến hạt điều
Lao động nông thôn
Cơ sở sơ chế cao su
Nuôi cá lồng bè
Chăn nuôi bò sữa
Chăn nuôi công nghiệp tập trung
Mô hình chăn nuôi trang trại
Một trang trại nuôi heo công nghiệp
Tiêm phòng dịch bệnh trong chăn nuôi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ls1.PDF