Về cơ chế chấp hành của Chính phủ đối với Quốc hội, quy định của Hiến pháp 1946 về sự tín nhiệm của Quốc hội đối với Chính phủ đem lại những kinh nghiệm giá trị. Hiện nay, Hiến pháp chỉ quy định Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhưng Hiến pháp không quy định một hình thức cụ thể nào để Quốc hội tỏ thái độ tín nhiệm đối với Chính phủ.
Vận dụng và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946, chúng tôi cho rằng Hiến pháp cần phải xác định rõ tập thể Chính phủ có thể bị phê bình hoặc giải tán nếu không còn có sự tín nhiệm của Quốc hội. Ngoài ra, cũng cần phải quy định lý do, chủ thể có quyền đặt vấn đề tín nhiệm, hậu qủa của việc giải tán Chính phủ. Cũng cần quy định cụ thể hình thức trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ trước Quốc hội: cơ sở, chủ thể có quyền đặt vấn đề bất tín nhiệm một thành viên của Chính phủ trước Quốc hội.
Hiến pháp xác định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, nhưng quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ chưa thật ngang tầm với vị trí đó. Để xây dựng một Chính phủ mạnh cần tăng cường hơn nữa thẩm quyền của Chính phủ trong việc quyết định các vấn đề, dự án quốc gia; đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với chính phủ các nước; lãnh đạo nền hành chính quốc gia.; hạn chế tính chất hội đồng trong hoạt động của Chính phủ; tăng cường vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ và các thành viên của Chính phủ.
Để xây dựng một Chính phủ mạnh, cần cơ cấu lại Chính phủ theo hướng Chính phủ chỉ bao gồm các bộ, các cơ quan ngang bộ, không bao gồm các cơ quan thuộc Chính phủ. Sự tồn tại quá nhiều cơ quan thuộc Chính phủ với tư cách là cấp trung gian thấp hơn các bộ, các cơ quan ngang bộ, đã tạo ra sự phân tán trong chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ và các bộ, các cơ quan ngang bộ. Cho nên, hướng xây dựng một chính phủ mạnh là sắp xếp, điều chỉnh, thu gọn dần các cơ quan thuộc Chính phủ vào các bộ tương ứng, tập trung và tăng cường chức năng, thẩm quyền thực thi quyền hành pháp của Chính phủ vào cơ cấu, tổ chức của Chính phủ [34;110]. Ngoài ra, một Chính phủ mạnh cần được tổ chức theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Điều này có ý nghĩa làm cho cơ cấu Chính phủ được tinh gọn khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước.
Về toà án, cần suy nghĩ cách tổ chức toà án theo cấp xét xử như Hiến pháp 1946 và Sắc lệnh số 13 đã quy định. Từ năm 1960 đến nay, hệ thống toà án nhân dân Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc đơn vị hành chính có kết hợp với việc phân định thẩm quyền xét xử, theo đó, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện trở lên có một toà án. Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức toà án như trên ở nước ta có những ưu điểm như thuận tiện cho nhân dân đi lại trong điều kiện đường xá giao thông khó khăn, hoạt động của toà án nhân dân địa phương gắn liền với sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, với cách tổ chức như vậy đã bộc lộ nhiều điều bất hợp lý, làm hạn chế hiệu qủa hoạt động xét xử của toà án: đã tạo ra một sự ngộ nhận cho rằng các toà án nhân dân từ trên xuống được tổ chức như một ngành, một bộ thuộc Chính phủ, và là một trong những nguyên nhân làm cho nguyên tắc độc lập xét xử của toà án không được tuân thủ nghiêm ngặt; gây sự tốn, kém lãng phí về tài chính; không tập trung được thẩm phán giỏi; không phân định được thẩm quyền xét xử. Cho nên, trong công cuộc cải tư pháp hiện nay, chúng ta cần trở lại những giá trị của Hiến pháp 1946, được cụ thể trong Sắc lệnh số 13, về tổ chức toà án không nên dựa vào đơn vị hành chính mà phải phân định thẩm quyền của toà án theo cấp xét xử. Theo đó, cần vận dụng quy định trong Sắc lệnh số 13 về khả năng thành lập toà án khu vực. Việc thành lập toà án khu vực kéo theo hàng loạt các vấn đề như sửa đổi Hiến pháp, các văn bản pháp luật về tố tụng, quan hệ giữa toà án với Đảng, với Hội động nhân dân, với cơ quan quản lí toà án, với các cơ quan tiến hành tố tụng Cho nên, trong điều kiện hiện nay, thiết nghĩ chưa thể thành lập toà án khu vực ở các cấp mà chỉ nên thành lập ở cấp huyện, tại các thành phố lớn nơi đông dân cư, giao thông, thông tin liên lạc thuận tiện. Tiến tới sẽ dần dần mở rộng việc thành lập toà án khu vực khi có đủ kinh nghiệm cũng như những điều kiện cần thiết khác.
130 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1834 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Sự tương đồng và sự khác biệt của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 với chính thể của một số nước trên thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n dân huyện và các toà án quân sự. Giống như quy định của Hiến pháp 1946, trong trường hợp xét xử những vụ án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập toà án đặc biệt. Theo quy định của Hiến pháp 1959, chế độ bổ nhiệm thẩm phán từ Hiến pháp 1946 đã bị bãi bỏ và thay vào đó là chế độ bầu thẩm phán. Việc xét xử ở các toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, và khi xét xử hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán.
Theo mô hình tổ chức bộ máy nhà nước của các nước xã hội chủ nghĩa thời bấy giờ, Hiến pháp 1959 đã quy định việc thành lập hệ thống Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật và thực hiện quyền công tố. Như vậy, đến Hiến pháp 1959, chức năng công tố đã được thực hiện bởi một cơ quan tư pháp độc lập chứ không thuộc cơ cấu tổ chức của hệ thống toà án. Theo quy định của Hiến pháp 1946, việc thực hiện quyền công tố do toà án đảm nhiệm, nhưng có sự phân công rõ ràng giữa thẩm phán xét xử và thẩm phán công tố. Các thẩm phán công tố có nhiệm vụ thay mặt Nhà nước buộc tội các bị cáo trước phiên toà hình sự và bảo vệ quyền lợi của một số đương sự tại phiên toà dân sự. Thẩm phán công tố còn có quyền ra chỉ thị và kiểm soát công việc của các cán bộ được giao nhiệm vụ tiến hành các hoạt động điều tra.
Cơ cấu tổ chức hệ thống viện kiểm soát bao gồm: Viện kiểm sát nhân dân tối cao; viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; viện kiểm sát nhân dân huyện, thành phố thuộc tỉnh, thị xã; và các viện kiểm sát quân sự. Viện kiểm sát nhân dân tổ chức và hoạt động theo chế độ thủ trưởng trực thuộc một chiều. Viện kiểm sát cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện kiểm sát cấp trên và tất cả đều đặt dưới sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội. Trong thời gian Quốc hội không họp thì báo cáo công tác và chịu trách nhiệm trước Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
Trong việc quản lý các cơ quan tư pháp, do giải thể Bộ Tư pháp, cho nên các chức năng của Bộ tư pháp được giao cho các cơ quan có liên quan như Toà án nhân dân tối cao, Bộ nội vụ thực hiện, trong đó có việc quản lý đối với các cơ quan tư pháp.
Năm 1980, Hiến pháp mới được ban hành, những quy định của Hiến pháp 1980 về tổ chức và hoạt động của toà án so với quy định Hiến pháp 1959 về cơ bản là giống nhau. Một điểm mới là, sau khi có Hiến pháp 1980, vào năm 1981 Bộ tư pháp được thành lập lại, và Luật tổ chức toà án nhân dân đã giao việc quản lý các toà án nhân dân địa phương về mặt tổ chức cho Bộ trưởng Bộ tư pháp đảm nhiệm. Bộ trưởng Bộ tư pháp phối hợp chặt chẽ với Chánh án Toà án nhân dân tối cao trong việc thực hiện nhiệm vụ đó.
Về cơ quan kiểm sát, Hiến pháp 1980 đã khẳng định những nội dung đúng đắn, đồng thời bổ sung những quy định mới so với Hiến pháp 1959. Điểm nổi bật là trong Điều 138 của Hiến pháp 1980 không chỉ ghi rõ chức năng của viện kiểm sát nhân dân là kiểm sát tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước từ cấp bộ trở xuống, trong đó kể cả ''tổ chức xã hội và đơn vị vũ trang nhân dân'', mà còn đặc biệt nhấn mạnh đến chức năng “thực hành quyền công tố” của viện kiểm sát. Mặt khác, các điều của Hiến pháp quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát của nhân dân đã khẳng định rõ hơn vai trò và trách nhiệm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Cũng như Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 1960, Luật tổ chức viên kiểm sát nhân dân năm 1981 vẫn giữ nguyên những quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm sát là cơ quan tư vấn cho viện trưởng .
Đến Hiến pháp 1992, tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp kế thừa những quy định của Hiến pháp trước và đã có những sự thay đổi cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới của đất nước.
Kế thừa các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân đã được quy định trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, Hiến pháp 1992 đã quy định một số nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động như: việc xét xử của toà án nhân dân có hội thẩm nhân dân, của toà án quân sự có hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của pháp luật; khi xét xử, hội thẩm ngang quyền với thẩm phán; khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định; toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số;…
Hiến pháp 1992 thay thế chế định bầu thẩm phán được quy định trong Hiến pháp 1959, 1980 bằng chế định bổ nhiệm thẩm phán mà từ Hiến pháp 1946 đã được thực hiện .
Để đáp ứng đỏi hỏi của thực tiễn đất nước, trong tổ chức hệ thống toà án nhân dân các cấp cũng có những thay đổi cho phù hợp, trong toà án nhân dân tỉnh thành phố trực thuộc trung ương bên cạnh các toà án dân sự, hình sự, đã thành lập thêm các toà chuyên trách như toà hành chính, toà kinh tế, toà lao động .
Về viện kiểm soát nhân dân, Hiến pháp 1992 cũng xác định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn như trước đây, nhưng về tổ chức và trách nhiệm cũng có những sự thay đổi và bổ sung nhất định. Uỷ ban kiểm sát không còn là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng nữa mà sẽ có luật quy định những vấn đề quan trọng phải được uỷ ban kiểm sát thảo luận và quyết định theo đa số. Như vậy, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tỉnh không được quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của viện kiểm sát nhân dân .
Điểm mới thứ hai là, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân địa phương về thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân. Theo nội dung của quy định này thì Hiến pháp đã khẳng định Hội đồng nhân dân cùng cấp giám sát hoạt động của viện kiểm sát nhân dân.
Một thay đổi hết sức quan trọng trong chức năng, nhiệm vụ của viện kiểm sát đã được Hiến pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 quy định hệ thống viện kiểm sát tập trung vào chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Tức là Hiến pháp sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã quy định bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung) của các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan thuộc Chính Phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức kinh tế xã hội đơn vị vũ trang nhân dân và công dân.
3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay dựa trên cơ sở Hiến pháp 1992 là một bước phát triển mới trong lịch sử Nhà nước cách mạng Việt Nam. Được ban hành trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước, Hiến pháp 1992 đã hoàn thiện một bước mô hình tổ chức quyền lực nhà nước cho phù hợp với mục tiêu chuyển đổi kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ. Phương thức tổ chức quyền lực nhà nước được ấn định trong Hiến pháp 1992 thể hiện sự kế thừa sâu sắc tính chất tiến bộ của mô hình Nhà nước đã được tổ chức theo các Hiến pháp 1946 ,1959, 1980. Hiến pháp 1992 thật sự hướng tới việc xây dựng một mô hình tổ chức nhà nước vận hành hiệu quả, thích ứng với cơ chế kinh tế xã hội thời kỳ đổi mới. Cho nên, được tổ chức trên cơ sở Hiến pháp 1992, mô hình Nhà nước Việt Nam trong thực tiễn đã phát huy tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi cơ chế kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị, mở rộng dân chủ, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế và khu vực vì sự tiến bộ và phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, thực tiễn vận hành của mô hình Nhà nước Việt Nam trong hơn một thập kỷ qua cho thấy còn tồn tại khoảng cách giữa mô hình Nhà nước theo hiến định và thực tiễn đời sống xã hội. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam hiện nay đang đặt trước mô hình tổ chức Nhà nước những vấn đề cần phải hoàn thiện.
Mô hình Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1992 là một mô hình Nhà nước của thời kỳ chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường. Hiện nay, ở nước ta về cơ bản, cơ chế kinh tế thị trường đã được hình thành và tạo ra những chuyển đổi sâu rộng trong đời sống kinh tế xã hội, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã đạt được những thành tựu đáng kể. Quá trình toàn cầu hoá đang đặt trước Nhà nước ta những cơ hội và thách thức mới trong việc hội nhập khu vực và hội nhập quốc tế. Trước tình hình đó, cần hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và các nhu cầu hội nhập quốc tế của đất nước ta trong kỷ nguyên mới.
Những quan điểm, phương hướng hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam đã được đặt ra trong Hội nghị Trung ương lần thứ 8 khoá VII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Hội nghị Trung ương lần thứ 3 Khoá VIII. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá X, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992. Như vậy, việc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam đã được xác định như một khuynh hướng tất yếu hiện nay. Nhiều đề tài nghiên cứu khoa học về cải cách mô hình tổ chức Nhà nước đã được triển khai thực hiện.
Trong qúa trình nghiên cứu hoàn thiện cơ sở hiến định mô hình tổ chức quyền lực Nhà nước, cần vận dụng và phát triển nội dung và tinh thần về hình thức chính thể nhà nước trong Hiến pháp 1946. Những quan điểm, tư tưởng về hình thức chính thể nhà nước trong Hiến pháp 1946 dựa trên cơ sở những thành tựu lý luận tiên tiến của thời đại, xuất phát từ thực tiễn cách mạng, phù hợp với điều kiện phát triển của xã hội Việt Nam, không chỉ phát huy tác dụng trong các giai đoạn cách mạng mà còn cả trong sự nghiệp cách mạng của chúng ta hiện nay và sau này. Nội dung và tinh thần chính thể nhà nước Hiến pháp 1946 soi sáng công cuộc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Chúng ta có thể vận dụng và phát triển nội dung và tinh thần chính thể Hiến pháp 1946 ở một số vấn đề sau đây:
3.2.1. Hình thành một hệ thống lý luận độc lập về mô hình tổ chức Nhà nước
Như đã trình bày, chính thể cộng hoà dân chủ Hiến pháp 1946 là một mô hình chính thể đặc thù, sản phẩm tư duy của Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người từ việc vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mácxít về nhà nước, tiếp thu những tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây, truyền thống văn hoá Việt Nam. Chính thể Hiến pháp 1946 không phải được bê nguyên từ một mô hình Nhà nước nước có sẵn mà chính là sự căn cứ vào thực tiễn cách mạng hình thành nên một mô hình nhà nước riêng biệt phù hợp với sự phát triển của xã hội Việt Nam. Cho nên, có thể nói, chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 là một hệ thống quan điểm độc lập về mô hình tổ chức nhà nước - những quan điểm, tinh thần mang tính chất chủ đạo trong việc xây dựng mô hình tổ chức quyền lực nhà nước .
Trong những năm qua, đã có lúc chúng ta áp dụng một cách máy móc mô hình nhà nước của nước ngoài vào Việt Nam. Mô hình Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1980 gần như một sự mô phỏng mô hình Nhà nước Liên bang Xô Viết, đã có nhưng yếu tố thoát ly cơ sở thực tiễn, nên trên thực tế không phát huy được hiệu quả. Chúng ta đã sớm nhận được điều đó và ban hành Hiến pháp 1992 thay thế. Hiện nay, trong tư duy khoa học cũng như trong tư duy lập hiến, chúng ta chưa thật sự hình thành được một hệ thống quan điểm độc lập về mô hình tổ chức nhà nước, mà thường có xu hướng gán ghép từ các hệ thống lí luận, mô hình nhà nước có sẵn ở những điểm mà chúng ta cho là phù hợp. Chẳng hạn, trong Hiến pháp hiện hành vẫn còn những dấu ấn của mô hình Nhà nước Xô Viết mà thật sự không phù hợp với xã hội ta. Trong khoa học, đã tồn tại những quan điểm coi chính thể Việt Nam hiện nay là cộng hoà Xô Viết. Những bất cập của mô hình Nhà nước Việt Nam hiện nay có một trong những nguyên nhân sâu xa là chúng chưa có một hệ thống lý luận độc lập về xây dựng mô hình nhà nước. Chúng ta cần vận dụng và phát triển hệ thống quan điểm về chính thể Hiến pháp 1946. Đây là một hệ thống quan điểm, luận điểm về xây dựng mô hình tổ chức nhà nước. Hệ thống lý luận độc lập về mô hình nhà nước mà chúng ta sẽ hình thành dựa trên những cơ sở sau đây:
Thứ nhất, những quan điểm, luận điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức chính thể Nhà nước cách mạng vô sản. Trên cơ sở này, cần quán triệt những vấn đề cơ bản: Giữ vững và phát huy tính chất dân tộc, nhân dân của việc tổ chức quyền lực nhà nước, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc tổ chức quyền lực nhà nước, đảm bảo sự vận hành của mô hình tổ chức nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc tổ chức quyền lực nhà nước phải dựa trên cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc, lấy nhân dân làm nền tảng. Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra những phương hướng, quan điểm định hướng cho việc tổ chức quyền lực nhà nước. Mô hình Nhà nước Việt Nam phải được tổ chức để thực hiện các mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, thành tựu lý luận và kinh nghiệm tổ chức nhà nước ở các nước trên thế giới. Một hệ thống lí luận độc lập không có nghĩa là bài ngoại, khép kín. Học tập Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc hoàn thiện mô hình Nhà nước Việt Nam hiện nay cần tiếp thu một cách sáng tạo, có chọn lọc những hạt nhân hợp lý của học thuyết về tổ chức quyền lực nhà nước và kinh nghiệm về thực tiễn xây dựng mô hình nhà nước ở các quốc gia. Những học thuyết về tổ chức nhà nước, thực tiễn của các hình thức chính thể cộng hoà đại nghị, cộng hoà tổng thống, cộng hoà hỗn hợp và các biến thể của nó ở các quốc gia hiện nay. Tuy về bản chất giai cấp không phù hợp với chế độ ta, nhưng những yếu tố về tổ chức kỷ thuật, cơ chế phân công và phối hợp trong việc thực hiện quyền lực nhà nước cũng có những hạt nhân hợp lý mà chúng ta cần phải tiếp thu. Hơn nữa, xu hướng toàn cầu hoá, nhu cầu hội nhập quốc tế của đất nước đòi hỏi chúng ta phải tổ chức Nhà nước thích ứng với sự hợp tác quốc tế về phương diện nhà nước. Do đó, cần nghiên cứu và tiếp thu kinh nghiệm của các mô hình tổ chức nhà nước phổ biến trên thế giới để xây dựng một mô hình Nhà nước Việt Nam hiện đại
Thứ ba, truyền thống dân tộc, kinh nghiệm tổ chức nhà nước và thực tiễn của xã hội Việt Nam nay. Việc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam cần tính đến những yếu tố đặc thù của truyền thống văn hoá dân tộc, đặc biệt là truyền thống dựng nước và giữ nước, kinh nghiệm tổ chức nhà nước của ông cha trong lịch sử. Ngoài ra, cần kế thừa và phát huy những kinh nghiệm của việc tổ chức Nhà nước cách mạng Việt Nam trong các giai đoạn trước đây. Điều đặc biệt phải quan tâm là hoàn thiện mô hình tổ chức nhà nước xuất phát từ thực tiễn xã hội Việt Nam hiện nay: đặc điểm của tình hình kinh tế xã hội; đặc điểm quan hệ quốc tế của Việt Nam; đặc điểm của hệ thống chính trị Việt Nam;... Đó là những yếu tố có ảnh hưởng lớn đối với việc tổ chức quyền lực nhà nước.
Tóm lại, cần hình thành một hệ thống lí luận độc lập về mô hình tổ chức Nhà nước dựa trên cơ sở các quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về hình thức Nhà nước vô sản, thành tựu lí luận và kinh nghiệm thực tiễn tổ chức nhà nước ở các nước trên thế giới, truyền thống dân tộc, kinh nghiệm tổ chức nhà nước trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam, thực tiễn hội Việt Nam. Một hệ thống lý luận như thế có nhiệm vụ vạch ra những quan điểm chung, mang tính chủ đạo cho việc xây dựng mô hình tổ chức nhà nước. Có thể coi hệ thống lí luận đó là những quan điểm, tư tưởng về triết học nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh và những đồng chí của Người đã đặt những viên gạch đầu tiên và chúng ta có nhiệm vụ tiếp tục xây dựng toà lâu đài triết học nhà nước. Một hệ thống tư tưởng độc lập về triết học nhà nước sẽ đóng vai trò quan trọng việc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay.
3.2.2. Xác định chính thể Việt Nam hiện nay.
Chính thể là vấn đề trung tâm của Hiến pháp, mỗi bản Hiến pháp đều phải có nhiệm vụ xác định một hình thức chính thể. Hiện nay, về mặt khoa học, vấn đề chính thể Việt Nam còn có những ý kiến khác nhau. Xác định chính thể sẽ liên quan đến việc sửa đổi các quy định của Hiến pháp về tổ chức quyền lực nhà nước.
V.I. Lênin viết: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản cố nhiên không thể không đem lại rất nhiều hình thức chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất nhiên chỉ là một, tức là: chuyên chính vô sản” [10;44]. Tất cả các dân tộc sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội, đó là điều tất yếu. Nhưng Lênin chỉ ra rằng, tất cả các dân tộc sẽ đi tới chủ nghĩa xã hội không hoàn toàn giống nhau, mỗi dân tộc đều sẽ mang lại một đặc trưng nào đó cho một hình thức dân chủ này hay một hình thức dân chủ khác, cho một dạng này hay một dạng khác của chuyên chính vô sản. Vào thời đại của C.Mác, Cộng xã Paris được coi là một hình thức chính trị rốt cuộc đã tìm ra được của chuyên chính vô sản. Đến Lênin, cộng hoà Xô Viết là hình thức Nhà nước thích hợp trong điều kiện cầm quyền của giai cấp công nhân ở Liên Bang Nga. ở Việt nam, Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người đã sáng tạo ra một hình thức chính thể đặc thù, trong điều kiện cách mạng của dân tộc Việt Nam. Đó không phải là cộng hoà nghị viện hay cộng hoà hỗn hợp như một số học giả đã quan niệm mà là cộng hoà dân chủ nhân dân. Hồ Chí Minh đã quán triệt đúng tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính đa dạng của hình thức Nhà nước vô sản.
Tiếp tục mạch tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta cần nhận thức thấy rằng, về bản chất, Nhà nước ta là Nhà nước chuyên chính vô sản, chúng ta không thể không mang lạI những hình thức chính thể đặc thù của riêng mình phù hợp với đặc điểm của xã hội Việt Nam trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta. Chính thể Việt Nam theo các Hiến pháp 1946, 1959 là cộng hoà dân chủ nhân dân. Đến Hiến pháp 1980 - Hiến pháp của thời kỳ cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, hình thức chính thể đã thay đổi cho phù hợp với các giai đoạn cách mạng mới. Chính thể Việt Nam theo Hiến pháp 1980 mang nhiều dấu ấn của chính thể cộng hoà Xô Viết thể hiện ở những đặc điểm: quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, mọi cơ quan nhà nước khác do Quốc hội thành lập, chịu trách nhiệm và chịu sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, xác định trong Hiến pháp vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng Cộng sản. Với Hiến pháp 1992, bản chất chính thể so với Hiến pháp 1980 không thay đổi, nhưng trong cấu trúc quyền lực nhà nước có một số sự điều chỉnh cho phù hợp với tinh thần đổi mới: Hội đồng Nhà nước được tách thành hai thiết chế là Chủ tịch nước và Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ được tăng cường. Nhìn chung, sự điều chỉnh này không làm thay đổi bản chất của hình thức chính thể đã được xác lập từ Hiến pháp 1980. Vấn đề đặt ra ở đây là hình thức chính thể là gì?
Có ý kiến cho rằng, đó là chính thể cộng hoà xã hội chủ nghĩa. Khái niệm xã hội chủ nghĩa mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mácxít đã dùng đến không phải để chỉ một hình thức chính thể cụ thể, mà để chỉ chung một nền cộng hoà tồn tại trong nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong nền cộng hoà xã hội chủ nghĩa tồn tại các hình thức chính thể cụ thể như Công xã Paris, cộng hoà Xô Viết, cộng hoà dân chủ nhân dân,... Cũng như trong nền cộng hoà tư sản có các hình thức chính thể như cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị, cộng hoà hỗn hợp,... Cho nên, cộng hoà xã hội chủ nghĩa không phải là khái niệm xác định cụ thể chính thể Việt Nam hiện nay.
Cũng có ý kiến đề nghị gọi chính thể Việt Nam hiện này cộng hoà Xô Viết. Phải thừa nhận rằng, những nhà lập hiến Việt Nam học tập rất nhiều các nhà lập hiến Liên Xô trước đây trong cách thiết kế quyền lực nhà nước. Nhưng do xã hội Việt Nam khác xã hội Liên Xô, do đó chính thể Việt Nam không thể là bản sao của chính thể cộng hoà Xô Viết. Về tên gọi, thẩm quyền, mối quan hệ giữa các cơ quan quyền lực nhà nước trung ương thì thực sự chính thể Việt Nam có những điểm giống chính thể cộng hoà Xô Viết. Nhưng sự tham gia của nhân dân vào việc tổ chức quyền lực nhà nước, một vấn đề cơ bản xác định hình thức chính thể, thì chính thể Việt Nam không giống chính thể cộng hoà Xô viết. Trong chính thể cộng hoà Xô Viết, nền tảng của nó là công - nông - binh, Xô Viết tối cao chủ yếu bao gồm các đại diện của Đảng Cộng sản. Trong đó, cơ sở của chính thể Việt Nam hiện nay là toàn dân, Quốc hội Việt Nam là hiện thực sống động của khối đại đoàn kết dân tộc. Tính dân tộc, tính nhân dân, tính giai cấp tồn tại trong sự hòa quyện thống nhất là nét đặc trưng của chính thể Việt Nam.
Việc cố gán ghép chính thể Việt Nam vào loại hình chính thể cộng hoà Xô Viết là không phù hợp với lí luận Mácxít về tính đa dạng của hình thức chính thể nhà nước. Cần xuất phát từ thực tiễn đất nước mà hình thành nên lí luận độc lập về hình thức chính thể nhà nước, không nhất thiết phải dựa hoàn toàn vào những mô hình có sẵn. Bọn theo chủ nghĩa xét lại có mưu toan áp đặt cho Lênin tư tưởng coi hình thức chính thể cộng hoà Xô Viết là hình thức Nhà nước duy nhất của chuyên chính vô sản trong tất cả các thời kỳ phát triển lịch sử sau này và đối với tất cả các nước. Trên thực tế, V.I Lênin đã hoàn toàn đúng khi về ý nghĩa quốc tế của các Xô Viết, về sự cần thiết phải tổ chức chính quyền Nhà nước của nhân dân lao động theo kiểu các Xô Viết. Nhưng không bao giờ và không khi nào Người khẳng định rằng Xô Viết là hình thức duy nhất bắt buộc của nhà nước xã hội chủ nghĩa [10;33]. Nhà nước nước Việt Nam hiện nay và Nhà nước Liên Xô trước đây đều có bản chất là chuyên chính vô sản, nhưng chính thể Việt Nam không nhất thiết là cộng hoà Xô Viết.
Như đã trình bày, mô hình tổ chức Nhà nước cách mạng Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định không phải là một mô hình chỉ mang tính sách lược, tính giai đoạn mà mang tính chiến lược lâu dài, là một mô hình phù hợp về lâu dài với điều kiện phát triển của xã hội Việt Nam. Bản chất của mô hình Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 so với hiến pháp 1946 không thay đổi. Các Hiến pháp này vẫn giữ những quy định cơ bản của Hiến pháp 1992. Việc sửa đổi Hiến pháp 1980, bên cạnh việc thể hiện nhận thức mới của chúng ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời cũng là dịp chúng ta tìm lại những giá trị đích thực của Hiến pháp 1946. Dưới góc độ này có thể nói rằng, những Hiến pháp 1959,1980,1992 chỉ là những tu chính án của Hiến pháp 1946 [18;64]. Về tổ chức quyền lực Nhà nước, Hiến pháp 1959,1980,1992 có điều chỉnh một số quy định cụ thể. Nhưng sự điều chỉnh đó không làm thay đổi bản chất của hình thức chính thể. Cho nên, thực chất chính thể Việt Nam từ Hiến pháp 1946 đến nay vẫn là cộng hoà dân chủ nhân dân.
Tuy nhiên, nghiên cứu cách gọi tên hình thức chính thể trong khoa học luật Hiến pháp hiện nay cho thấy tên gọi của hình thức chính thể thường dựa vào tính ưu trội của một cành quyền lực trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Về thực chất, chính thể Việt Nam hiện nay vẫn là cộng hoà dân chủ nhân dân. Nhưng để thống nhất với cách gọi tên hình thức chính thể trong khoa học, chúng tôi cho rằng, chính thể Việt Nam hiện nay nên gọi là cộng hoà Quốc hội. Khái niệm ''Quốc hội'' là sản phẩm của ngôn ngữ Việt Nam xuất phát từ một sự kiện chính trị quan trọng là Quốc dân đại hội ở Tân Trào năm 1945. Quốc hội Việt Nam là hiện thân của khối đoàn kết toàn dân, là sự thể hiện tập trung nhất tính dân tộc, tính nhân dân, tính giai cấp trong một sự quyện hoà thống nhất của chính thể Việt Nam. Hơn nữa, trong cấu trúc quyền lực nhà nước, Quốc hội là cơ quan nổi trội nhất: cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan nhận sự uỷ thác trực tiếp chủ quyền nhân dân, thành lập các cơ quan nhà nước khác ở trung ương, các cơ quan nhà nước này phải báo cáo, chịu trách nhiệm trước Quốc hôị, chịu sự giám sát tối cao của Quốc hội. Những yếu tố đó cho phép xác định Quốc hội là cơ quan thống nhất quyền lực nhà nước. Ngoài ra, cũng chính tại Quốc hội, những đường lối, những chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam được chế hoá, bảo đảm sự phát triển của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quy kết lại, chính thể Việt Nam hiện nay là cộng hoà Quốc hội
Khi xác định chính thể Việt Nam là cộng hoà quốc hội, chúng ta cần chú ý, cân nhắc các vấn đề: vị trí pháp lý của Quốc hội, quyền giám sát tối cao của Quốc hội, sự chấp hành của Chính phủ đối với Quốc hội, quan hệ giữa Quốc hội với Toà án...
3.2.3. Nhận thức đúng đắn nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói nhiều về vấn đề dân chủ, quyền lực thuộc về nhân dân, Nhà nước là tổ chức do nhân dân thành lập ra để đại diện nhân dân thực hiện quyền lực nhân dân. Không có chỗ nào Người nói quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Hiến pháp 1946 ghi: "Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam...", Hiến pháp 1959 quy định: "Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đều thuộc về nhân dân". Như vậy, tất cả quyền lực thuộc về nhân dân chứ không phải tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân nghĩa là quyền lực chính trị nói chung thuộc về nhân dân. Đó là nội dung của quan điểm chủ quyền nhân dân. Chủ quyền ở đây được hiểu là chủ quyền chính trị. Chủ quyền chính trị là quyền lực chính trị vô giới hạn được xem như khả năng đòi hỏi sự phục tùng với sự trấn áp bằng bạo lực. Quyền lực nhà nước là sự trấn áp bằng bạo lực có tổ chức của giai cấp này đối với giai cấp khác thông qua Nhà nước. Cho nên, quyền lực nhà nước phải thuộc về Nhà nước. Quyền lực nhà nước đó do nhân dân trao cho Nhà nước. Việc nhân dân uỷ thác quyền lực cho Nhà nước đã tạo ra một sự chuyển đổi trạng thái quyền lực: quyền lực nhân dân chuyển thành quyền lực nhà nước, chủ quyền chính trị của nhân dân chuyển thành chủ quyền chính trị - pháp lý của Nhà nước. Chủ quyền chính trị - pháp lý là một loại quyền lực chính trị, nhưng việc tổ chức và triển khai thực hiện được ràng buộc bởi các quy tắc của Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ việc nhân dân uỷ thác quyền lực nhân dân cho Nhà nước, và thuộc về Nhà nước. Hiến pháp 1980, 1992 quy định tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không phù hợp với tinh thần Hồ Chí Minh.
Như đã trình bày, tư tưởng quyền lực thuộc về nhân dân bao gồm tư tưởng về sự thống nhất quyền lực. Quyền lực, về nguyên tắc, là ý chí được phục tùng, nên thống nhất, không thể phân chia. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, cũng có nghĩa là tất cả quyền lực thống nhất vào nhân dân. Quyền lực nhà nước cũng là thống nhất. Quốc hội là cơ quan do toàn thể nhân dân bầu ra, nhận sự uỷ thác quyền lực trực tiếp từ nhân dân. Cho nên, Quốc hội là cơ quan thống nhất quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước, về nguyên tắc, thống nhất vào Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất chủ quyền nhân dân. Nhưng để điều hành có hiệu quả, Quốc hội không thể trực tiếp thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước mà thành lập ra các cơ quan khác, phân nhiệm quyền hạn cho các cơ quan đó cùng Quốc hội thực hiện quyền lực nhà nước.
Gần đây, trong giới luật học nước ta đã hình thành quan niệm quyền lực nhà nước thống nhất vào nhân dân chứ không phải thống nhất vào Quốc hội. Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực thống nhất vào nhân dân. Nhưng quyền lực nhà nước thuộc về Nhà nước, do nhân dân uỷ thác, nên thống nhất vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là Quốc hội. Nhân dân là một phạm trù thống nhất. Nhân dân tổ chức ra Nhà nước, uỷ thác quyền lực cho Nhà nước, nên nhân dân là cơ sở của sự thống nhất quyền lực nhà nước chứ không phải quyền lực nhà nước thống nhất ở nhân dân.
Xuất phát từ quan niệm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, thống nhất vào nhân dân, đã có ý kiến lập luận rằng Quốc hội không thể là cơ quan thống nhất ba quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp), không nên coi Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất mà chỉ là cơ quan lập hiến và lập pháp. Theo quan điểm này thì không khác nào thừa nhận sự phân chia quyền lực trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Theo đó, chủ quyền tối cao của nhân dân không được bảo đảm. Quan điểm này mâu thuẫn về mặt lí luận và không phù hợp về mặt thực tiễn.
Cùng với vấn đề thống nhất quyền lực nhà nước, cần lí giải quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp cần được hiểu như thế nào?. Khái niệm "quyền" dùng ở đây phải được hiểu là quyền hạn chứ không phải là quyền lực nhà nước. Quyền lập pháp, quyền hành pháp là quyền hạn lập pháp, quyền hạn hành pháp chứ không phải là quyền lực lập pháp, quyền lực hành pháp. Quyền lực nhà nước là thống nhất. Nếu coi quyền lập pháp, quyền hành pháp là những quyền lực nhà nước thì có nghĩa là thừa nhận sự phân chia quyền lực nhà nước. Quyền lực là ý chí phục tùng. Để triển khai quyền lực nói chung có các công đoạn: xác lập ý chí; tổ chức thực hiện ý chí; bảo vệ cho ý chí đó được thực hiện. Quyền lực nhà nước cũng được triển khai theo một quy trình chung đó: xác lập ý chí phổ biến (lập pháp); tổ chức thực hiện ý chí đó trong thực tiễn (hành pháp); bảo vệ ý chí đó khi thực hiện (tư pháp). Quyền lực nhà nước nói chung bao gồm quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp, ba quyền này hợp thành quyền lực nhà nước chứ bản thân chúng không phải là quyền lực nhà nước. Quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp là những quyền hạn, là những khâu tạo thành quy trình thực hiện quyền lực nhà nước thống nhất.
3.2.4. Hoàn thiện tổ chức và cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nhưng không phải là cơ quan thực hiện toàn bộ quyền lực. Để thực hiện quyền lực nhà nước, Quốc hội thành lập ra các cơ quan nhà nước khác và phân công, phân nhiệm quyền hạn cho các cơ quan nhà nước đó. Trong điều kiện hiện nay, vấn đề này cần phải được quán triệt và cần hoàn thiện cơ sở hiến định của việc tổ chức và phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp.
Về vị trí pháp lý của Quốc hội có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến đề nghị không nên coi Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất là phù hợp với lí luận về sự thống nhất quyền lực nhà nước, bảo đảm chủ quyền nhân dân. Nếu không coi Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất thì có nghĩa thừa nhận hành pháp, lập pháp ngang bằng với Quốc hội có thể can thiệp vào hoạt động của Quốc hội, tài phán về hành vi của Quốc hội, trong khi Quốc hội đại diện cho ý chí thống nhất toàn dân. Như vậy, chủ quyền nhân dân bị vi phạm. Cho nên cần giữ quy định của Hiến pháp về vị trí pháp lý của Quốc hội.
Vấn đề đặt ra là hoàn thiện các quy định để bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất: tăng cường năng lực thực hiện quyền lập pháp, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyền giám sát tối cao, tăng cường năng lực của đại biểu Quốc hội; đổi mới hoạt động của Quốc hội, chuyển từ một Quốc hội tham luận sang một Quốc hội tranh luận, tăng cường các kỳ họp của Quốc hội...
Về Chủ tịch nước, hiện nay có ý kiến đề nghị giao cho Chủ tịch nước quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại luật, quyền tuyên bố chức trách. Hiến pháp 1946 trao hai quyền hạn này cho Chủ tịch nước, trong điều kiện hiện nay, thiết nghĩ là không cần thiết.
Một Chính phủ mạnh theo quy định và tinh thần của Hiến pháp 1946 đáng để suy ngẫm trong việc hoàn thiện cơ sở hiến định của Chính phủ. Tính chất của hoạt động Nhà nước trong một nền kinh tế thị trường đã được xác lập, nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và sự hội nhập quốc tế phát sinh nhu cầu về một Chính phủ mạnh mẽ, đủ thẩm quyền và khả năng giải quyết các nhiệm vụ của nền hành chính hiện đại và phát triển.
Theo Hiến pháp hiện hành, Chính phủ được xác định là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Trên lập trường quan điểm về một Chính phủ mạnh, có ý kiến đề nghị không nên coi Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội mà xác định Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất thì có nghĩa là thừa nhận nguyên tắc phân quyền trong việc tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Sự chấp hành của Chính phủ đối với Quốc hội không mâu thuẫn với nhau về một Chính phủ mạnh. Một Chính phủ mạnh phải gắn liền với một Quốc hội mạnh. Sự giám sát tối cao của Quốc hội đối với Chính phủ là yếu tố quan trọng để Chính phủ hoạt động hiệu quả. Do đó, cần tiếp tục khẳng định Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Vấn đề đặt ra là phải xác định rõ hơn cơ chế chấp hành của Chính phủ trước Quốc hội và những vấn đề thuộc quyền hành chính cao nhất của Chính phủ.
Về cơ chế chấp hành của Chính phủ đối với Quốc hội, quy định của Hiến pháp 1946 về sự tín nhiệm của Quốc hội đối với Chính phủ đem lại những kinh nghiệm giá trị. Hiện nay, Hiến pháp chỉ quy định Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội. Nhưng Hiến pháp không quy định một hình thức cụ thể nào để Quốc hội tỏ thái độ tín nhiệm đối với Chính phủ.
Vận dụng và phát triển các quy định của Hiến pháp 1946, chúng tôi cho rằng Hiến pháp cần phải xác định rõ tập thể Chính phủ có thể bị phê bình hoặc giải tán nếu không còn có sự tín nhiệm của Quốc hội. Ngoài ra, cũng cần phải quy định lý do, chủ thể có quyền đặt vấn đề tín nhiệm, hậu qủa của việc giải tán Chính phủ. Cũng cần quy định cụ thể hình thức trách nhiệm của từng thành viên Chính phủ trước Quốc hội: cơ sở, chủ thể có quyền đặt vấn đề bất tín nhiệm một thành viên của Chính phủ trước Quốc hội.
Hiến pháp xác định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, nhưng quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ chưa thật ngang tầm với vị trí đó. Để xây dựng một Chính phủ mạnh cần tăng cường hơn nữa thẩm quyền của Chính phủ trong việc quyết định các vấn đề, dự án quốc gia; đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế với chính phủ các nước; lãnh đạo nền hành chính quốc gia...; hạn chế tính chất hội đồng trong hoạt động của Chính phủ; tăng cường vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ và các thành viên của Chính phủ.
Để xây dựng một Chính phủ mạnh, cần cơ cấu lại Chính phủ theo hướng Chính phủ chỉ bao gồm các bộ, các cơ quan ngang bộ, không bao gồm các cơ quan thuộc Chính phủ. Sự tồn tại quá nhiều cơ quan thuộc Chính phủ với tư cách là cấp trung gian thấp hơn các bộ, các cơ quan ngang bộ, đã tạo ra sự phân tán trong chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ và các bộ, các cơ quan ngang bộ. Cho nên, hướng xây dựng một chính phủ mạnh là sắp xếp, điều chỉnh, thu gọn dần các cơ quan thuộc Chính phủ vào các bộ tương ứng, tập trung và tăng cường chức năng, thẩm quyền thực thi quyền hành pháp của Chính phủ vào cơ cấu, tổ chức của Chính phủ [34;110]. Ngoài ra, một Chính phủ mạnh cần được tổ chức theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Điều này có ý nghĩa làm cho cơ cấu Chính phủ được tinh gọn khắc phục sự chồng chéo, trùng lắp chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính nhà nước.
Về toà án, cần suy nghĩ cách tổ chức toà án theo cấp xét xử như Hiến pháp 1946 và Sắc lệnh số 13 đã quy định. Từ năm 1960 đến nay, hệ thống toà án nhân dân Việt Nam được tổ chức theo nguyên tắc đơn vị hành chính có kết hợp với việc phân định thẩm quyền xét xử, theo đó, mỗi đơn vị hành chính cấp huyện trở lên có một toà án. Thực tiễn cho thấy, việc tổ chức toà án như trên ở nước ta có những ưu điểm như thuận tiện cho nhân dân đi lại trong điều kiện đường xá giao thông khó khăn, hoạt động của toà án nhân dân địa phương gắn liền với sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, và chịu sự giám sát của Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, với cách tổ chức như vậy đã bộc lộ nhiều điều bất hợp lý, làm hạn chế hiệu qủa hoạt động xét xử của toà án: đã tạo ra một sự ngộ nhận cho rằng các toà án nhân dân từ trên xuống được tổ chức như một ngành, một bộ thuộc Chính phủ, và là một trong những nguyên nhân làm cho nguyên tắc độc lập xét xử của toà án không được tuân thủ nghiêm ngặt; gây sự tốn, kém lãng phí về tài chính; không tập trung được thẩm phán giỏi; không phân định được thẩm quyền xét xử. Cho nên, trong công cuộc cải tư pháp hiện nay, chúng ta cần trở lại những giá trị của Hiến pháp 1946, được cụ thể trong Sắc lệnh số 13, về tổ chức toà án không nên dựa vào đơn vị hành chính mà phải phân định thẩm quyền của toà án theo cấp xét xử. Theo đó, cần vận dụng quy định trong Sắc lệnh số 13 về khả năng thành lập toà án khu vực. Việc thành lập toà án khu vực kéo theo hàng loạt các vấn đề như sửa đổi Hiến pháp, các văn bản pháp luật về tố tụng, quan hệ giữa toà án với Đảng, với Hội động nhân dân, với cơ quan quản lí toà án, với các cơ quan tiến hành tố tụng… Cho nên, trong điều kiện hiện nay, thiết nghĩ chưa thể thành lập toà án khu vực ở các cấp mà chỉ nên thành lập ở cấp huyện, tại các thành phố lớn nơi đông dân cư, giao thông, thông tin liên lạc thuận tiện. Tiến tới sẽ dần dần mở rộng việc thành lập toà án khu vực khi có đủ kinh nghiệm cũng như những điều kiện cần thiết khác.
Cách tổ chức toà án theo nguyên tắc hai cấp xét xử, toà án sơ cấp, toà án đệ nhị cấp thực hiện quyền xét xử sơ thẩm, toà thượng thẩm ở cấp kỳ thực hiện quyền xét xử phúc thẩm. Điều này cần được suy nghĩ để kế thừa. Việc phân định thẩm quyền xét xử của toà án theo hướng cải cách nên chăng là: toà án cấp huyện có quyền sơ thẩm các vụ án theo luật định; toà án cấp tỉnh có quyền sơ thẩm những vụ án không thuộc thẩm quyền sơ thẩm của toà án cấp huyện, có quyền phúc thẩm các bản án sơ thẩm của toà án cấp huyện, không có quyền giám đốc thẩm và tái thẩm; toà án tối cao không có quyền xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm, có quyền phúc thẩm các bản án của toà án cấp tỉnh, có quyền giám đốc thẩm, tái phẩm theo hướng huỷ án hoặc y án, không có quyền xử án.
Cách phân định thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán theo Sắc lệnh số 13 cũng nên được áp dụng trong điều kiện hiện nay. Theo quy định hiện hành, tất cả các thẩm phán từ Chánh án Toà án nhân dân tối cao, đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Quy trình này đã bộc lộ nhiều bất cập. Việc tập trung quyền bổ nhiệm thẩm phán vào Chủ tịch nước đã tạo ra tình trạng quá tải trong công tác của Văn phòng Chủ tịch nước
Hơn nữa, vì phải xem xét nhiều hồ sơ bổ nhiệm thẩm phán, nên từ khi Hội đồng tuyển chọn thẩm phán gửi hồ sơ lên Văn phòng Chủ tịch nước ký quyết định bổ nhiệm thẩm phán phải trải qua một thời gian dài, trong khi chúng ta đang thiếu trầm trọng thẩm phán. Do đó, nên chăng chúng ta nên trở lại với quy định phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán như sau: Chủ tịch nước bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao (trừ Chánh án Toà án nhân dân tối cao), thẩm phán Toà án quân sự Trung ương; Bộ trưởng Bộ tư pháp bổ nhiệm thẩm phán toà án nhân dân địa phương, toà án quân sự quân khu và toà án quân sư khu vực.
Liên quan đến tổ chức và hoạt động của toà án, cũng cần đề cập đến vấn đề tổ chức cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay. Xung quanh vấn đề này, có có ý kiến đề nghị thành lập Toà án Hiến pháp thực hiện quyền bảo hiến như mô hình nhiều quốc gia đã áp dụng. Cũng có ý kiến cho rằng không cần thành lập Toà án Hiến pháp mà giao quyền bảo hiến cho Toà án nhân dân tối cao. Việc tổ chức Toà án Hiến pháp hay việc giao quyền bảo hiến cho Toà án tối cao được thực hiện ở các nhà nước áp dụng học thuyết phân quyền. ở nước ta, quyền lực nhà nước thống nhất vào Quốc hội nên không thể có một cơ quan nào đứng trên Quốc hội tài phán về hành vi của Quốc hội. Trong chính thể Việt Nam, sự độc lập của quyền tư pháp không có nghĩa là Toà án có thể tài phán hành vi của Quốc hội. Cho nên, việc thành lập Toà án Hiến pháp hay giao quyền bảo vệ Hiến pháp cho Toà án nhân dân tối cao thiết nghĩ chưa thật hợp lý và khả thi ở Việt Nam.
Tóm lại, khi nghiên cứu chính thể Việt Nam, những nội dung và tinh thần về chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946 thật sự đem lại những kinh nghiệm giá trị trong việc hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Kết luận
Nội dung và tinh thần của chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 đã được hình thành và phát triển qua các giai đoạn phát triển của cách mạng, dựa trên cơ sở truyền thống, kinh nghiệm tổ chức Nhà nước Việt Nam trong lịch sử, các học thuyết về tổ chức nhà nước và thực tiễn tổ chức nhà nước ở các quốc gia hiện đại, lý luận Mácxít về hình thức nhà nước, thực tiễn hoạt động cách mạng và nhân cách Hồ Chí Minh.
Chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 là hệ thống các quan điểm, luận đểm rõ ràng, nhất quán về chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân phù hợp với đặc điểm xã hội, văn hoá, truyền thống, cơ cấu kinh tế Việt Nam đáp ứng được nhu cầu về một Nhà nước có khả năng giải quyết các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc.
Chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân Hiến pháp 1946 mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người đã sáng tạo, lựa chọn là một loại hình chính thể đặc thù với sự phân công, phối hợp trong tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước một cách rất rõ ràng, rành mạch giữa các thiết chế: Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính Phủ, Toà án. Trên phương diện chính thể Nhà nước, nghiên cứu Hiến pháp 1946 và các Hiến pháp sau này trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, ta có thể thấy được sự kế thừa, phát triển chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 những nội dung, tư tưởng xuyên suốt lịch sử lập hiến của Nhà nước cách mạng Việt Nam:
+ Các Hiến pháp của Nhà nước ta đều khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Khẳng định tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc luôn luôn quyện chặt vào nhau trong các thiết chế, chế định của nền lập hiến phù hợp với tình hình, nhiệm vụ đấu tranh cách mạng của từng giai đoạn.
+ Xuất phát từ bài học giành độc lập đầy gian khổ và hy sinh, các bản Hiến pháp đều khẳng định nhiệm vụ xây dựng kiến thiết nước nhà trên nền tảng dân chủ gắn liền một cách hữu cơ với nhiệm vụ giữ nước, bảo vệ tổ quốc Việt Nam độc lập, thống nhất.
+ Bảo đảm các quyền tự do dân chủ của công dân theo hướng ngày càng mở rộng trở thành một chế định cơ bản của các Hiến pháp được thực hiện ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội phù hợp với sự phát triển đi lên của xã hội .
+ Các Hiến pháp đều khẳng định việc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước theo nguyên tắc tập quyền mà không có sự phân chia quyền lực theo học thuyết tam quyền phân lập. Quyền lực Nhà nước thống nhất vào Quốc hội, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tổ chức bộ máy Nhà nước từ Hiến pháp đầu tiên đến lần lượt ba Hiến pháp sau thể hiện định hướng nhất quán trong việc xác lập một mô hình tổ chức quyền lực nhân dân. ấn định một bộ máy Nhà nước phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ, tình hình của từng giai đoạn phát triển luôn luôn nhất quán với nguyên tắc đã được xác định trong lời nói đầu của Hiến pháp 1946: ''Thực hiện chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân''.
+ Việc tổ chức và thực hiện quyền lực Nhà nước luôn luôn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, được tổ chức dựa trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Xác định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân.
+ Khẳng định Nhà nước Việt Nam là Nhà nước thống nhất, bình đẳng của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam .
Nghiên cứu chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946 có thể tìm ra lời giải đáp cho hàng loạt các vấn đề lí luận của việc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay. Trên cơ sở khai thác những giá trị về chính thể Nhà nước Hiến pháp 1946, chúng tôi nhận thấy việc hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam hiện nay cần phải giải quyết một số vấn đề mang tính cơ sở lý luận như sau:
+ Tư duy độc lập trong việc hình thành các luận cứ khoa học của việc hoàn thiện mô hình tổ chức Nhà nước .
+ Xác định chính thể Việt Nam hiện nay là cộng hoà Quốc hội, hay cộng hoà dân chủ nhân dân.
+ Nhận thức đúng đắn nguyên tắc tất cả các quyền lực thuộc về nhân dân, quyền lực Nhà nước là thống nhất. Tất cả các quyền lực trong nước thuộc về nhân dân, nhân dân uỷ thác quyền lực của mình cho Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của quyền lực nhân dân, và là cơ quan thống nhất quyền lực Nhà nước .
+ Hoàn thiện tổ chức và cơ chế phân công, phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện quyền lập, hành pháp, tư pháp.
+ Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất; tăng cường năng lực thực hiện quyền lập pháp, quyền quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, quyền giám sát tối cao; tăng cường năng lực của đại biểu Quốc hội; đổi mới hoạt động của Quốc hội, chuyển từ một Quốc hội tham luận sang một Quốc hội tranh luận, hướng hoạt động kỳ họp sang hoạt động chuyên trách của Quốc hội
+ Xây dựng một Chính phủ mạnh theo hướng xác định cơ chế trách nhiệm của Chính phủ trước Quốc hội, tăng cường quyền hạn cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; tập trung và tăng cường chức năng, thẩm quyền thực thị quyền hành pháp của Chính phủ vào cơ cấu tổ chức của Chính phủ .
+ Tổ chức toà án theo nguyên tắc hai cấp xét xử, thành lập toà án khu vực; phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán.
Những nội dung, tinh thần của chính thể Việt Nam Hiến pháp 1946 thật sự đem lại những kinh nghiệm quý báu cho việc hoàn thiện cơ sở hiến định của mô hình tổ chức Nhà nước Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Danh mục tài liệu tham khảo
[1]. Hồ Văn Thông. Hệ thống chính trị các nước tư bản phát triển hiện nay. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1998.
[2]. Nguyễn Đăng Dung. Luật Hiến pháp đối chiếu. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 2001.
[3]. Vũ Hồng Anh. Tổ chức và hoạt động của nghị viện một số nước trên thế giới. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002.
[4]. Phạm Khắc Hoè. So sánh hiến pháp tư bản chủ nghĩa và hiến pháp xã hôị chủ nghĩa. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1987.
[5]. Văn phòng Quốc hội. Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các Hiến pháp Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1998.
[6]. Montesquieu. Tinh thần pháp luật. Nxb Giáo dục, Hà nội 1995.
[7]. Các Mác- Ph Ănghen.Toàn tập, Tập I. Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà nội 1995.
[8]. Các Mác- Ph Ănghen. Tuyển tập II. Nxb Sự thật, Hà nội 1981.
[9]. Các Mác- Ph Ănghen Tuuyển tập VI. Nxb Sự thật, Hà nội 1983.
[10]. V.I. Lênin. Toàn tập, tập 33. Nxb tiến bộ Mátxcơva, Mátxcơva 1976.
[11]. Nguyễn Văn Bông. Luật Hiến pháp và chính trị học - Tủ sách Đại học Sài Gòn, Sài Gòn 1967.
[12]. Lê Đình Chân. Luật Hiến pháp và các chế độ chính trị. Tủ sách Đại học Sài Gòn, Sài Gòn 1947.
[13]. Nguyễn Đăng Dung. Luật Hiến pháp nước ngoài. Nxb Đồng Nai, Đồng Nai 1996.
[14]. Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980 và 1992). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002.
[15]. Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2002.
[16]. Văn phòng Quốc hội. Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946 - 1960). Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1994.
[17]. Văn kiện Đại Hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà nội 2001.
[18]. Nguyễn Đăng Dung. Một số vấn đề về Hiến pháp và bộ máy nhà nước. Nxb Giao thông tận tải, Hà nội 2001.
[19]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 2. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000.
[20]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 3. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1995.
[21]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000.
[22]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000.
[23]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 8. Nxb Sự thật, Hà nội 1981.
[24]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000.
[25]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 10. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000.
[26]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 11. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2000.
[27]. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ tư pháp. Một số bài nói và viết của lãnh đạo Đảng và Nhà nước về ngành tư pháp. Thông tin khoa học pháp lý.
[28]. Viện nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp. Kỷ yếu hội thảo "Các nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới, Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân", Hà nội 1997.
[29]. Khoa Luật - Đại học KHXH và NV - ĐH QG Hà nội. Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật. Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội 1998.
[30]. Trường Đại học Luật Hà nội. Giáo trình Luật Hiến pháp nước ngoài. Nxb Công an Nhân dân, Hà nội 1999.
[31]. Khoa Luật - Đại học KHXH và NV - ĐHQG Hà Nội. Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội 1999.
[32]. Lịch sử Việt Nam, tập 2. Nxb Khoa học xã hội, Hà nội 1999.
[33]. Trần Dân Tiên. Những mẫu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch. Nxb Sự thật, Hà nội 1976.
[34]. Nguyễn Ngọc Hiến (chủ biên). Các giải pháp thúc đẩy cải cách hành chính ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 2001.
[35]. Vũ Đình Hoè. Pháp quyền nhân nghĩa Hồ Chí Minh. Nxb Văn hoá thông tin, Hà nội 2000.
[36]. Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật. Bình luận khoa học Hiến pháp của nước CHXHCNVN năm 1992. Nxb Khoa học xã hội, Hà nội 1996.
[37]. Viện Luật học. Sơ thảo lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ sau cách mạng tháng tám đến nay). Nxb khoa học xã hội, Hà nội 1983.
[38]. Vũ Thị Phụng. Lịch sử Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Nxb Đại học Quốc gia Hà nội, Hà nội 1993.
[39]. Vũ Quốc Thông. Pháp chế sử Việt Nam. Tủ sách Đại học Sài Gòn, Sài Gòn 1971.
[40]. Thái Vĩnh Thắng. Lịch sử lập hiến Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1997.
[41]. Nguyễn Văn Huyên (chủ biên). Triết lý phát triển C.Mác, Ph. Ănghen, V.I. Lênin, Hồ Chí Minh. Nxb Khoa học xã hội, Hà nội 2000.
[42]. Ban nghiên cứu lịch sử Đảng. Văn kiện Đảng (từ 25/01/1939 đến 02/09/1945). Nxb Sự thật, Hà nội 1963.
[43]. Đại tướng Võ Nguyên Giáp (chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà nội 1998.
[44]. Bộ Giáo dục và Đào tạo. Triết học Mác - Lênin, tập 1. Nxb Giáo dục, Hà nội 1998.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29373.doc