TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT DÒNG VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của luận văn:
Năm 2006 là một năm đánh dấu nhiều cột mốc quan trọng của nước nhà. Việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới và đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC lần thứ 14, điều này đã kích thích dòng vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt chảy vào thị trường Việt Nam, đặc biệt là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI). Trong năm, lượng vốn FDI đổ vào nước ta đạt con số kỷ lục (10,2 tỷ USD, vượt 56,9% so với mức dự kiến ban đầu là 6,5 tỷ USD). Dòng vốn FDI đã đóng góp khá quan trọng vào sự phát triển kinh tế, vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm gia tăng xuất khẩu và do đó cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, góp phần giải quyết việc làm cho rất nhiều người lao động. Các nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc đã và đang tăng cường tìm kiếm cơ hội đầu tư vào Việt Nam.
Bên cạnh mặt tích cực của dòng vốn này, nó còn nảy sinh không ít những hạn chế (sự phát sinh mâu thuẫn do xung đột lợi ích, cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn, sự ô nhiễm môi trường và làm cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên ).
Thêm vào đó, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) cũng là một kênh bổ sung nguồn vốn quan trọng cho sự phát triển kinh tế và góp phần thúc đẩy và hoàn thiện thị trường tài chính của Việt Nam. Tuy nhiên, dòng vốn này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ gây tổn thương mang tính chất dây chuyền một khi có những cú sốc từ bên trong và bên ngoài tác động vào chúng. Sự rút vốn ồ ạt của nhà đầu tư là một trong những nguyên nhân gây khủng hoảng tài chính trầm trọng.
Xuất phát từ những mặt được và các hạn chế của dòng vốn đầu tư nước ngoài nêu trên, cũng như sự cần thiết phải có những giải pháp cơ bản để hạn chế những tác động tiêu cực và kiểm soát hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài trong bối cảnh hội nhập hiện nay mà chúng tôi chọn đề tài “TÁC ĐỘNG VÀ GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT DÒNG VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM”.
Mục đích nghiên cứu của luận văn:
- Đánh giá được những tác động của dòng vốn đầu tư nước ngoài và đưa ra các giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực và kiểm soát có hiệu quả dòng vốn này trong thời kỳ hậu WTO.
- Luận văn cũng bàn về một số lý luận cơ bản về dòng vốn đầu tư nước ngoài và vấn đề kiểm soát dòng vốn FPI.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
- Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung vào việc đánh giá các tác động của dòng vốn FDI và FPI và qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế tác động tiêu cực và kiểm soát dòng vốn nêu trên.
Phương pháp nghiên cứu:
- Sử dụng phương pháp diễn dịch, phương pháp so sánh, thống kê.
- Dựa vào công cụ Internet và phần mềm Excel để khai thác và xử lý dữ liệu.
Những đóng góp của luận văn:
- Góp thêm vào những lý luận về dòng vốn đầu tư nước ngoài và vấn đề kiểm soát chúng.
- Đánh giá được các tác động tích cực và tiêu cực của dòng vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp khắc phục mặt tiêu cực.
Nội dung và kết cấu của luận văn:
Luận văn được chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về dòng vốn đầu tư nước ngoài và kiểm soát dòng vốn.
Chương 2: Đánh giá tác động và thực trạng kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp hạn chế những tác động tiêu cực của dòng vốn FDI và biện pháp kiểm soát dòng vốn FPI.
82 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2125 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tác động và giải pháp kiểm soát dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp.
57
3.1.2 Giải pháp hạn chế sự chuyển giá của MNC.
Chuyển giá là việc thông đồng giữa các công ty con của cùng một tập đoàn
(gọi là công ty liên kết) nhằm chuyển lợi nhuận từ nước này sang nước kia để tránh
thuế. Đối với các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, chuyển giá có thể là một công cụ có
ích để tăng lợi nhuận. Hoạt động chuyển giá của các MNC là vô cùng phức tạp, khó
kiểm soát và làm thất thu thuế rất lớn. Do đó, ở các nước trên thế giới, quy định
chống chuyển giá được đặt ra từ lâu (Nhật Bản thi hành thuế chống chuyển giá từ
năm 1986). Ở Việt Nam, trong những năm gần đây có rất nhiều đề tài nghiên cứu
chi tiết về vấn đề chuyển giá của các MNC. Chính phủ cũng chú trọng đến vấn đề
kiểm soát chuyển giá, cụ thể là việc ban hành thông tư chống chuyển giá số
74/1997/TC/TCT và thay thế bằng thông tư số 89/1999/TT-BTC. Mới đây, Bộ Tài
Chính tiếp tục ban hành thông tư số 117/2005/TT-BTC, ngày 19 tháng 12 năm 2005
và có hiệu lực thi hành kể từ năm 2006. Có thể nói, thông tư lần này đã quy định
khá chi tiết về cơ sở xác định giá thị trường trong các giao dịch liên kết. Thông tư
cũng đưa ra 5 phương pháp xác định giá thị trường để nhà đầu tư chủ động lựa chọn
để chứng minh giá thị trường trong các giao dịch liên kết của mình đó là: Phương
pháp so sánh giá giao dịch độc lập; Phương pháp giá bán lại; Phương pháp giá vốn
cộng lãi; Phương pháp so sánh lợi nhuận và phương pháp tách lợi nhuận. Thông tư
cũng nêu rõ nghĩa vụ chuẩn bị các tài liệu chứng minh của doanh nghiệp: phải cung
cấp các tài liệu chứng minh trong vòng 30 ngày kể từ ngày cơ quan chức năng yêu
cầu. Nội dung của thông tư được các nhà chuyên môn đánh giá là phù hợp với
thông lệ quốc tế và ít có khả năng gây sốc cho nhà đầu tư, bởi vì các MNC đã quen
với vấn đề cung cấp thông tin về hoạt động định giá chuyển giao ở các nước trên thế
giới.
Do đó, trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ chia sẻ một số đề xuất sau đây:
Thứ nhất, cần tiến hành tập huấn nhiều đợt cho tất cả các cán bộ thuế và cán
bộ thuộc bộ phận tài chính - kế toán của các MNC. Mục đích là để các MNC thông
suốt nội dung thông tư, và có kế hoạch lựa chọn phương pháp xác định giá thị
58
trường cho phù hợp với hoạt động doanh nghiệp, cũng như chủ động chuẩn bị thông
tin, tài liệu chứng minh các giao dịch liên kết khi cơ quan thuế yêu cầu.
Thứ hai, khi doanh nghiệp đã hiểu rõ về thông tư và ý đồ kiểm soát hoạt động
chuyển giá của chính phủ mà vẫn vi phạm thì cơ quan thuế nên có giải pháp xử lý
thích đáng tuỳ theo mức độ vi phạm để răn đe chung. Trước mắt, cơ quan thuế có
thể tập trung thanh tra các giao dịch liên kết trọng yếu và chiếm tỷ trọng giá trị cao
(đối với giao dịch mua nguyên liệu đầu vào và bán sản phẩm đầu ra: nên tập trung
kiểm tra xác minh các giao dịch có giá trị chiếm từ 60% trở lên). Cơ quan thuế cũng
phải xử lý nghiêm các trường hợp cán bộ thuế vì lợi ích bản thân mà bao che cho
hoạt động chuyển giá của công ty. Bên cạnh đó, phải có hình thức khen thưởng
bằng vật chất cho những công ty tuân thủ nghiêm túc nghĩa vụ thuế, đồng thời khen
thưởng dựa trên tỷ lệ số thuế bị che giấu mà cán bộ thuế phát hiện được cho chính
cá nhân đó, để họ có động lực phát hiện sai phạm và ngăn ngừa hành vi bao che vi
phạm cho doanh nghiệp.
Thứ ba, cần có sự kết nối và chia sẻ thông tin qua hệ thống thông tin điện tử
giữa Cơ quan Thuế, Cơ quan Hải quan, ngân hàng, Tổng cục Thống kê và Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, các tổ chức giám định, các công ty kiểm toán… trong việc quản lý
và thanh tra tình hình chuyển giá ở các MNC. Mặt khác, tăng cường hợp tác với các
tổ chức kiểm toán độc lập và phải có biện pháp chế tài xử lý các công ty kiểm toán
cố tình bỏ qua hoạt động chuyển giá của doanh nghiệp mình kiểm toán.
Thứ tư, tăng cường đào tạo về chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, trình độ tin
học cho cán bộ thuế và cần thiết thuê chuyên gia nước ngoài giàu kinh nghiệm để
tập huấn cho cán bộ làm công tác chống chuyển giá của Việt Nam.
Thứ năm, cần hợp tác với các cơ quan chống chuyển giá ở các nước khu vực
Asean và các nước phát triển để học tập kinh nghiệm kiểm soát chuyển giá cũng
như trao đổi thông tin về hoạt động chuyển giá của các MNC.
59
3.1.3 Giải pháp giảm thiểu mâu thuẫn giữa chủ đầu tư và người lao động.
Sự mâu thuẫn nảy sinh giữa chủ đầu tư và người lao động, giữa các đối tác
trong liên doanh bắt nguồn từ nguyên nhân sâu xa đó là sự xung đột về lợi ích. Vì
vậy, chỉ có những giải pháp nào làm dung hòa được lợi ích của hai bên thì mới giải
quyết được sự xung đột này. Dựa trên phần phân tích thực trạng mâu thuẫn ở
chương 2, chúng tôi đề xuất một số giải pháp cơ bản như sau:
Thứ nhất, về phía chính phủ khi ban hành hay có sự thay đổi luật liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động thì phải rõ ràng,
cụ thể tránh gây hiểu lầm hoặc lạm dụng kẽ hở của luật pháp để chèn ép công nhân
từ chủ đầu tư. Mặt khác, các văn bản điều chỉnh luật phải được sở Lao động –
Thương binh và Xã hội ở địa phương truyền đạt kịp thời đến từng doanh nghiệp.
Ngoài ra, còn phải tổ chức tập huấn đầy đủ về chế độ tiền lương, tiền thưởng, bảo
hiểm xã hội…cho những nhân viên liên quan đến việc giải quyết quyền lợi cho
người lao động của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, họ sẽ cập nhật những thay đổi về
chính sách, chế độ của nhà nước để thông báo lại cấp lãnh đạo doanh nghiệp triển
khai thực hiện kịp thời và đầy đủ. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện luật đình công và
phổ biến cho người lao động biết để họ tiến hành đình công một cách hợp pháp, trật
tự để đòi quyền lợi chính đáng của mình mà không gây ra sự xáo trộn lớn.
Thứ hai, cần kiên quyết xử phạt thật nặng những doanh nghiệp cố tình vi phạm
luật lao động, xử lý nghiêm các trường hợp đối xử thô bạo của các chuyên gia nước
ngoài đối với người lao động. Trừng phạt nghiêm minh những trường hợp lợi dụng
danh nghĩa đình công để trục lợi, trả thù cá nhân và lôi kéo công nhân đình công
không hợp pháp, làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội và gây tâm lý lo sợ,
khủng hoảng đến chủ đầu tư. Bên cạnh đó, phải có hình thức khen thưởng cả vật
chất lẫn tinh thần đối với những đơn vị, cá nhân tuân thủ tốt luật lao động.
Thứ ba, tăng cường sự phối hợp hoạt động và chia sẻ thông tin giữa công đoàn
doanh nghiệp, liên đoàn lao động và sở Lao động Thương Binh –Xã hội tỉnh trong
việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của nhà nước đến với doanh nghiệp. Liên
đoàn lao động cần thiết phải tiến hành thu thập thông tin về những bức xúc của
60
người lao động thông qua các cuộc chọn mẫu điều tra ngay tại nhà người lao động.
Trên cơ sở đó, liên đoàn lao động sẽ phối hợp với doanh nghiệp để có phương án
điều chỉnh kịp thời, tránh tình trạng “tức nước vỡ bờ” và các cuộc đình công nổ ra
sau đó. Khi đình công nổ ra, liên đoàn lao động phải nhanh chóng có mặt kịp thời
tại doanh nghiệp để cùng doanh nghiệp và người lao động bàn bạc giải quyết dứt
điểm những xung đột đang xảy ra. Gần đây các cuộc đình công nổ ra nhiều nơi và
phần lớn các cuộc đình công đều liên quan đến tiền lương, tiền công. Vì vậy, cần
thiết phải nghiên cứu xây dựng thang lương, bảng lương có tính đến yếu tố trượt
giá, nhằm đảo bảo cho người lao động có khả năng ổn định cuộc sống để an tâm
làm việc lâu dài cho doanh nghiệp.
Thứ tư, về phía chủ doanh nghiệp nên có chiến lược xây dựng văn hóa doanh
nghiệp, tạo môi trường làm việc thân thiện, nâng cao tinh thần làm việc tập thể và
đoàn kết, giúp đỡ giữa các thành viên để cùng hoàn thành nhiệm vụ. Công ty cũng
nên trích một phần lợi nhuận để gây quỹ phúc lợi nhằm phục vụ tốt hơn về mặt tinh
thần cho người lao động.
Thứ năm, nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của công đoàn tại công ty.
Liên đoàn lao động nên tổ chức các buổi tập huấn cho các cán bộ làm công tác công
đoàn ở doanh nghiệp để họ đảm đương vai trò là cầu nối giữa người lao động và
chủ doanh nghiệp trong việc giải quyết, dung hoà giữa lợi ích và nghĩa vụ của hai
bên. Liên đoàn Lao động nên có những buổi trao đổi kinh nghiệm với cán bộ làm
công tác công đoàn về văn hoá ứng xử và quản lý, điều hành kinh doanh của từng
nước để họ truyền đạt lại cho công nhân, trên cơ sở đó công nhân sẽ có hành vi ứng
xử phù hợp với người nước ngoài trong quá trình làm việc chung trong công ty.
Mục đích của giải pháp này là giảm sự xung đột do có sự khác biệt về văn hoá ứng
xử và quản lý, điều hành kinh doanh giữa chủ đầu tư và người lao động.
Thứ sáu, bản thân người lao động phải tự nâng cao trình độ ngoại ngữ để có
thể hiểu và làm theo sự hướng dẫn, chỉ đạo của các chuyên gia nước ngoài. Doanh
nghiệp nên tổ chức các lớp dạy ngoại ngữ ngắn hạn cho các công nhân và nhân viên
61
chủ chốt để họ làm cầu nối trong việc trao đổi thông tin giữa người sử dụng lao
động và công nhân của doanh nghiệp.
3.1.4 Giải pháp bổ trợ khác
Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp trong nước.
Theo cam kết với WTO của Việt Nam, không bao lâu nữa Việt Nam sẽ phải
mở cửa hoàn toàn kể cả lĩnh vực bảo hiểm, bưu chính viễn thông, ngân hàng cho
nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư. Chưa bao giờ doanh nghiệp Việt Nam phải đối
mặt với áp lực cạnh tranh gay gắt và khốc liệt như hiện nay. Doanh nghiệp muốn
đứng vững cùng tồn tại và phát triển thì chỉ còn cách duy nhất là đổi mới toàn diện
chính mình. Vì vậy, chúng tôi đề xuất một số giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh
của doanh nghiệp trong nước như sau:
Thứ nhất, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Cần nâng cao nhận
thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo,
quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi
phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Khơi dậy khả
năng sáng tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm cách tối thiểu
hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp...
Ngoài ra, từng thành viên trong doanh nghiệp, đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý và
đội ngũ lao động trực tiếp làm ra sản phẩm cần tự trau dồi, nâng cao trình độ
chuyên môn, trình độ tay nghề. Với hiện trạng công nghệ và thiết bị sản xuất lạc
hậu như hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam đã dẫn tới tình trạng định mức
tiêu hao về chi phí nguyên vật liệu lớn và phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa
chữa, bảo dưỡng. Do đó, trước mắt cần đẩy mạnh đầu tư và thay thế một số loại
thiết bị, máy móc sản xuất đã quá lạc hậu, cho năng suất thấp và tiêu hao nhiều
năng lượng. Tuy nhiên, trong điều kiện nhiều doanh nghiệp còn thiếu vốn, tiềm lực
tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng bộ công nghệ và thiết bị thì các doanh
nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết và hợp tác kinh doanh với nhau. Sự hợp
tác liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ giúp các doanh
62
nghiệp giảm thiểu những khó khăn về tài chính, công nghệ, vốn, thị trường... và đẩy
mạnh nội lực phát triển cho doanh nghiệp.
Thứ hai, tăng cường hoạt động marketing hỗn hợp, chủ động áp dụng thương
mại điện tử trong kinh doanh. Doanh nghiệp cần tăng cường công tác nghiên cứu
thị trường, chú ý chiến lược nâng cao chất lượng sản phẩm, nghiên cứu sản phẩm
mới, hoàn thiện hệ thống phân phối và xây dựng thương hiệu, chủ động áp dụng
thương mại điện tử trong kinh doanh.
Thứ ba, đổi mới cơ cấu tổ chức quản lý, hoàn thiện kỹ năng quản lý hiện đại
của đội ngũ lãnh đạo, quản trị trong các doanh nghiệp. Các giải pháp cần thực hiện
như: (i) xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống tổ chức
kinh doanh của doanh nghiệp, cần có sự phân biệt tương đối về tính chất, công việc
của các bộ phận, tránh sự chồng chéo, tạo điều kiện cho cán bộ quản lý tập trung
đầu tư chuyên sâu và đảm bảo sự hoạt động của các bộ phận trong doanh nghiệp
một cách nhịp nhàng. (ii) Kiện toàn hệ thống thông tin trong nội bộ doanh nghiệp:
Các kênh thông tin phải được hiểu biết cụ thể. Thông tin tương ứng phải được phổ
biến rộng rãi cho tất cả mọi người, mọi cấp trong tổ chức được biết rõ ràng. Các
tuyến thông tin cần trực tiếp và ngắn gọn. Tuyến thông tin càng ngắn thì khả năng
truyền đạt thông tin càng nhanh, việc giải quyết các tình huống bất ngờ sẽ được
thực hiện kịp thời, không bị chậm trễ.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp. Doanh
nghiệp nên thực hiện các giải pháp như: tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán
bộ quản lý và lao động hiện có, phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những
công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường; Tạo sự gắn bó
về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính
sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động
kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến
khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh
nghiệp; Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao
động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp.
63
3.2 CÁC GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT DÒNG VỐN FPI Ở VIỆT NAM
3.2.1 Sự cần thiết và các quan điểm kiểm soát dòng vốn FPI ở Việt Nam
hiện nay
Thật vậy, theo các chuyên gia kinh tế, nền kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu
tăng trưởng nóng và một trong những nguyên nhân của sự tăng trưởng nóng này là
sự gia tăng mạnh của dòng vốn đầu tư nước ngoài, trong đó có vốn FPI. Bốn dấu
hiệu chính để nhận biết một nền kinh tế tăng trưởng nóng đã xuất hiện ở nước ta đó
là: lạm phát và giá chứng khoán tăng nhanh, đầu tư trong nước và nhập khẩu hàng
tiêu dùng gia tăng mạnh.
Về lạm phát, giai đoạn 2002-2005, lạm phát trung bình của Việt Nam là
6,6%/năm cao hơn so với của các nước đang phát triển (chỉ 4,5%/năm). Chênh lệch
về lạm phát trung bình giữa 2 thời kỳ 1999-2001 và 2002-2004 ở các nước đang
phát triển là âm 5,6% (lạm phát giảm). Ngược lại, mức chênh lệch này ở Việt Nam
là 6,4%.
Về giá chứng khoán, trong khoảng vài tháng trở lại đây, hàng loạt những bài
viết bình luận về sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán Việt Nam của
các chuyên gia và tổ chức trong nước lẫn nước ngoài. Thật vậy, chỉ số VN-index từ
mốc 100 điểm lúc mới thành lập năm 2000 đã tăng lên 751,8 điểm cuối năm 2006
và đã vượt qua ngưỡng 1050 điểm ở quý I năm 2007. Tốc độ tăng của chỉ số VN-
index đạt mức kỷ lục, thậm chí vượt qua cả Trung Quốc (xem bảng 3.1).
Bảng 3.1 Tốc độ tăng chỉ số chứng khoán ở một số thị trường
Nước/Chỉ số Cuối năm 2006 % thay đổi năm 2006
% thay đổi
năm 2005
Việt Nam - VNI 751,8 144,5 28,5
Trung Quốc - Thượng Hải 2.675,5 130,4 -8,3
Indonesia – JKSE 1.805,5 55,3 16,2
Ấn Độ - Sensex 13.786,9 46,7 42,3
Phillippines – PSI 2.982,5 42,3 15,0
Hong Kong – HSI 19.964,7 34,2 4,5
Singapore – STI 2.985,8 27,2 13,6
Malaysia – KLSE 1.096,2 21,8 -0,8
Đài Loan – Taiex 7.823,7 18,5 6,7
Japan – Nikkei 225 17.225,8 6,9 40,2
Thái Lan– SETI 679,8 -4,8 -6,8
Nguồn: Business Monitor International, 15/1/2007. Khai thác từ bài viết “Làm nguội thị
trường chứng khoán: không dễ!” của TS. Phan Minh Ngọc, báo Thanh niên điện tử [9].
64
Tỷ suất giá/thu nhập (P/E) của Việt Nam cũng rất cao ở vào khoảng 30-40
(theo các con số công bố chính thức của Việt Nam và xem thêm ở bảng 3.2). Trong
khi đó, con số này của phần lớn các TTCK ở châu Á, theo ước tính của tạp chí
Emerging Market Monitor, là từ 18-20. Ngay ở thị trường đang sốt như Thượng
Hải, mức P/E trung bình cho cổ phiếu (CP) loại "A" (loại CP dành cho các nhà đầu
tư nội địa trên TTCK Thượng Hải và Thẩm Quyến) cũng chỉ đạt đến 34. Xét cá biệt
thì một số loại CP của Việt Nam có mức P/E bỏ xa mức 70, là mức của Google vốn
đang phát triển rất nhanh [9].
Bảng 3.2 P/E của một số công ty niêm yết hàng đầu
M
ST
VNM
F
AC
SSI
REE
IT
VSH
SAM
BMI
G
SJ
KDC
BC
Ngu
c
ã Tên công ty P/E
B Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Thương Tín 56,2
Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam 36,6
PT Công ty Cổ phần Phát triển Đầu tư Công nghệ FPT 53,8
B Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu 34,6
Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn 25,2
Công ty Cổ phần Cơ điện lạnh 27,6
A Công ty Cổ phần Khu Công nghiệp Tân Tạo 40,8
Công ty Cổ phần Thủy điện Vĩnh Sơn – Sông Hinh 29,5
Công ty Cổ phần Cáp và Vật liệu viễn thông 33,1
Bảo hiểm Bảo Minh 72,2
MD Công ty Cổ phần Đại lý Liên hiệp Vận chuyển 37,4
S Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Đô thị Khu Công nghiệp Sông Đà 45,2
Công ty Cổ phần Kinh Đô 32,3
C Xi măng Bỉm Sơn 42,7
ồn: Báo cáo của ngân hàng HSBC công bố ngày 14/05/2007. Trích lại từ bài viết "Báo
áo của HSBC bị sai do dữ liệu nguồn" của Song Linh, Tin Nhanh Việt Nam [ 7 ]
Đứng trước sự phát triển quá nóng của TTCK Việt Nam hiện nay, cộng thêm
những ích lợi và nguy cơ tiềm ẩn rủi ro của dòng vốn FPI mà đã có những quan
điểm về thu hút và kiểm soát dòng vốn FPI như dưới đây:
Về quan điểm của chính phủ là cần phải kiểm soát dòng vốn ngoại, thể hiện ở
thông báo số 20/TB-VPCP của chính phủ: “Giám sát các hoạt động của các quỹ đầu
tư chứng khoán, đặc biệt đối với các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài phải bảo
đảm hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật về tỷ lệ cổ phiếu, công bố
65
thông tin và các quy định hiện hành khác; đồng thời, phát hiện, xử lý kịp thời và
nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm; chỉ cho phép thành lập các quỹ đầu tư chứng
khoán đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; phối hợp với Ngân hàng Nhà nước
xây dựng cơ chế kiểm soát luồng tiền để giám sát hoạt động đầu tư chứng khoán
của các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Thực hiện đăng ký lại ngay các văn
phòng đại diện của các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo quy định của Luật
Chứng khoán” [22].
Quan điểm của các chuyên gia: Phần lớn các chuyên gia kinh tế đều cho rằng
kiểm soát vốn là cần thiết để tránh nguy cơ khủng hoảng và sụp đổ thị trường chứng
khoán. Đại diện tiêu biểu của quan điểm này chính là nhà kinh tế học từng đoạt giải
Nobel Joseph Stiglitz, trong bài trả lời phỏng vấn của báo chí mới đây, khi được hỏi
về những nguy cơ rủi ro tại thị trường chứng khoán Châu Á, Stiglitz nói rằng kiểm
soát vốn hiện đang phổ biến tại những thị trường mới nổi, và trong nhiều trường
hợp thì nó lại là một điều tốt. Ông còn nói: “Cả Trung Quốc và Ấn Độ đều không
cho phép vốn chảy ra ngoài mà hoàn toàn không có sự can thiệp của chính phủ. Ảnh
hưởng của việc này sẽ ngăn mọi người đổ tiền vào rồi lại rút ra trong một sớm một
chiều. Những biện pháp như vậy nhằm hạn chế đầu tư ngắn hạn và rút vốn khỏi
Việt Nam. Việc này sẽ giúp ổn định lại dòng vốn”.
Tóm lại, sự kiểm soát dòng vốn FPI ở Việt Nam hiện nay là cần thiết. Việc
lựa chọn phương pháp kiểm soát và cách áp dụng như thế nào để vừa thu hút, lợi
dụng mặt tích cực của dòng vốn này, vừa hạn chế tối đa có thể những mặt trái của
nó đó mới là điều quan trọng.
3.2.2 Các giải pháp kiểm soát vốn FPI
Những đề xuất của tác giả dưới đây dựa trên quan điểm chủ đạo là điều tiết
nhưng không làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng thu hút dòng vốn FPI. Bởi lẽ, vốn
đầu tư cho giai đoạn 2006 – 2010 rất khổng lồ (khoảng 140 tỷ đô la Mỹ), trong khi
đó, vốn huy động từ các kênh khác chắc chắn không thể đáp ứng nổi và thường phát
66
sinh chi phí giao dịch cao. Do đó, vốn FPI là rất cần thiết cho Việt Nam trong thời
gian sắp tới.
3.2.2.1 Giải pháp thu hẹp và quản lý thị trường OTC.
Thị trường OTC trên thế giới đó là nơi các giao dịch của các chứng khoán
được thực hiện thông qua điện thoại, hệ thống nối mạng máy tính mà không thông
qua sàn giao dịch. Cổ phiếu OTC là cổ phiếu của các công ty nhỏ, chưa đủ điều
kiện niêm yết. Các quy định về mua bán trên thị trường OTC thường được soạn
thảo và bắt phải tuân thủ bởi NASD (National Association of Securities Dealers). Ở
Việt Nam, theo một số chuyên gia ở Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và công ty
chứng khoán, thì thị trường OTC mà lâu nay chúng ta vẫn gọi, thực chất là thị
trường xám (grey market) hay thị trường tự do - nơi mua bán cổ phiếu trao tay
(trong phạm vi luận văn này, chúng tôi tạm gọi thị trường tự do nêu trên của Việt
Nam hiện tại là thị trường OTC). Như đã phân tích ở chương 2, thị trường OTC
hiện nay đang tiềm ẩn nhiều rủi ro và hoàn toàn không được kiểm soát bởi bất cứ cơ
quan nhà nước nào. Do đó, chúng tôi đề xuất một số giải pháp và lộ trình để thu
hẹp, quản lý thị trường OTC như sau:
Giai đoạn 2007 – 2008: Mục tiêu là hoàn thành cơ bản việc đăng ký lại thành công
ty đại chúng của tất cả công ty cổ phần đủ điều kiện trở thành công ty đại chúng,
thu hẹp dần thị trường OTC, quy định về công bố thông tin của tất cả công ty cổ
phần.
Theo Luật Chứng khoán (có hiệu lực từ 1-1-2007), các công ty cổ phần sẽ trở
thành các công ty đại chúng (CTĐC) khi đáp ứng một trong ba điều kiện: chào bán
cổ phiếu ra công chúng, cổ phiếu được niêm yết trên sàn giao dịch chính thức, hoặc
có số vốn điều lệ 10 tỉ đồng trở lên với ít nhất 100 nhà đầu tư tham gia góp vốn.
Luật Chứng khoán cũng qui định các công ty cổ phần phải nộp hồ sơ đăng ký lại
thành CTĐC trong vòng 90 ngày kể từ ngày có số lượng cổ đông từ 100 người trở
lên. Tuy nhiên, trên thực tế các công ty cổ phần đã đủ điều kiện trở thành CTĐC
nhưng vẫn không muốn đăng ký lại, một số công ty đã là CTĐC rồi nhưng có ý
định xin ra khỏi diện CTĐC. Nguyên nhân này là do doanh nghiệp lo sợ bị phân
67
chia quyền lực, báo cáo tài chính phải được kiểm toán và công bố thông tin tình
hình doanh nghiệp một cách đầy đủ, sự dòm ngó, giám sát của các cơ quan…Trong
khi đó, các công ty cổ phần khác (công ty chưa đủ điều kiện trở thành CTĐC)
không phải thực hiện điều này. Chính vì vậy, để hoàn thành mục tiêu đề ra như trên,
tác giả có một số đề xuất như sau:
Thứ nhất, UBCKNN, Bộ Tài Chính nên có chế tài buộc tất cả các công ty cổ
phần, kể cả những công ty cổ phần chưa đủ điều kiện trở thành CTĐC phải công bố
thông tin kịp thời và thường xuyên (Thông tư số 38 mới đây của Bộ Tài Chính thì
chỉ các tổ chức niêm yết và CTĐC mới phải công bố thông tin) về tình hình tài
chính, hoạt động sản xuất, kinh doanh…trên các trang web của công ty và TTCK
như: Trung tâm Giao dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh và Hà Nội. Những công
ty nào cố tình chậm trễ trong việc công bố thông tin hoặc công bố thông tin không
trung thực sẽ bị xử lý nghiêm minh. Giải pháp này nhằm mục đích thúc đẩy các
công ty cổ phần trở thành CTĐC để từng bước thu hẹp sự giao dịch mua, bán cổ
phiếu trao tay như hiện nay.
Thứ hai, nhanh chóng hoàn thiện luật điều chỉnh về hoạt động mua lại, sáp
nhập doanh nghiệp và cụ thể hoá luật này để áp dụng vào thực tế. Vì trong tương
lai, có thể bùng nổ hoạt động sáp nhập và mua lại các công ty cổ phần nhỏ để trở
thành các CTĐC.
Thứ ba, UBCKNN nên tổ chức tập huấn về nội dung công bố thông tin cho các
CTĐC theo quy định của Luật Chứng khoán. Biện pháp này nhằm giúp CTĐC dễ
dàng tiếp cận và tuân thủ các yêu cầu công bố thông tin của UBCKNN.
Thứ tư, UBCKNN cần sớm đưa ra các giải pháp trình Chính phủ ban hành về
việc phát hành cổ phiếu riêng lẻ và giao dịch tự do, trong đó đề nghị Bộ Kế hoạch-
Đầu tư phối hợp với Bộ Tài chính ban hành thông tư hướng dẫn Luật Doanh
nghiệp: khi phát hành riêng lẻ phải báo cáo, đưa lên trang web về tình hình tài chính
của công ty.
Giai đoạn 2008 – 2009: Tổ chức và hoàn thiện hoạt động của thị trường OTC:
68
Để kiểm soát được hoạt động giao dịch của thị trường OTC, cần thực hiện các
giải pháp như sau:
Thứ nhất, UBCKNN và Bộ Tài Chính cần nghiên cứu thành lập cơ quan
chuyên quản lý và điều chỉnh giao dịch của thị trường OTC, tất cả các công ty chưa
đủ điều kiện niêm yết nhưng có hoạt động giao dịch mua bán cổ phiếu, buộc phải
đăng ký tại cơ quan này. Mọi giao dịch mua, bán cổ phiếu được điều chỉnh bởi
những nguyên tắc và chế tài của cơ quan trên.
Thứ hai, trước mắt, yêu cầu các CTĐC chưa niêm yết, phải lưu ký cổ phiếu tại
Trung tâm Lưu ký chứng khoán; giao dịch mua bán các cổ phiếu này sẽ được thực
hiện tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội; yêu cầu nhà đầu tư phải mở tài
khoản và ký quỹ tại các công ty chứng khoán (nhà đầu tư có thể sử dụng chung tài
khoản giao dịch chứng khoán niêm yết).
Tóm lại, với những đề xuất trên, chúng ta có thể kiểm soát được dòng vốn FPI
trên thị trường này. Bởi vì, nhà đầu tư nước ngoài khó có thể làm giá và lũng đoạn
thị trường do sự không minh bạch của thị trường. Hơn nữa, nhà nước cũng có thể
nắm được mức độ giao dịch, sự biến động của dòng vốn FPI…Trên cơ sở đó, nhà
nước sẽ can thiệp và ngăn ngừa kịp thời nguy cơ làm giá, lũng đoạn thị trường của
nhà đầu tư nước ngoài cũng như nhà đầu tư trong nước.
3.2.2.2 Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá, thị trường vốn quốc tế ngày càng trở nên thống
nhất, một chế độ tỷ giá linh hoạt sẽ giúp cho các nước quản lý tốt hơn sự di chuyển
của dòng vốn quốc tế bằng cách buộc các nhà đầu tư phải tính đến yếu tố rủi ro tỷ
giá. Việc duy trì một chế độ tỷ giá hối đoái cố định sẽ không đảm bảo được sự ổn
định của tỷ giá vì tồn tại “bộ ba không thể”(1).
(1): Theo Lawrence Summer, bộ ba không thể đó là tính độc lập của chính sách tiền tệ; là
chế độ tỷ giá hối đoái cố định và tự do di chuyển vốn. Một nước muốn có được tính độc
lập của chính sách tiền tệ và duy trì tỷ giá hối đoái cố định thì phải hạn chế tự do di
chuyển vốn. Ngược lại, một nước muốn hội nhập hoàn toàn với thị trường vốn quốc tế và
duy trì tỷ giá cố định thì phải chấp nhận một chính sách tiền tệ phụ thuộc. Ngoài ra, một
nước muốn có được tính độc lập của chính sách tiền tệ và hội nhập hoàn toàn với thị
trường vốn quốc tế thì phải từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái cố định.
69
Ở Việt Nam, việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có quản lý là thích hợp
với hoàn cảnh hiện tại. Bởi lẽ, hệ thống tài chính, ngân hàng của chúng ta còn yếu
và đang trong quá trình hoàn thiện, thị trường ngoại hối còn nhỏ, lẻ, dễ bị chao đảo
ngay cả khi gặp phải những cú sốc nhỏ.
Một thay đổi đáng kể gần đây của NHNN là chính thức xóa bỏ các rào cản trên
tỷ giá kỳ hạn. Tỷ giá kỳ hạn giờ đây vận động theo quan hệ cung - cầu trên thị
trường và các ngân hàng thương mại phải tự xác định dựa trên chênh lệch lãi suất
trong nước và quốc tế.
Chính vì vậy, nó sẽ thôi thúc các doanh nghiệp, định chế tài chính sử dụng các
công cụ phái sinh để phòng ngừa rủi ro tỷ giá và điều này sẽ kích thích sự phát triển,
hoàn thiện các công cụ phái sinh cho thị trường tài chính Việt Nam. Thị trường các
công cụ tài chính phái sinh đã hình thành ở Việt Nam, tuy nhiên còn rất nhỏ bé và
chưa phổ biến, cơ sở pháp lý các nghiệp vụ phái sinh còn mang tính thí điểm và đơn
lẻ, ngoại trừ giao dịch hoán đổi lãi suất đã có qui chế của NHNN (Quyết định số
1133/2003/QĐ - NHNN, ngày 30/9/2003 ban hành kèm theo qui chế). Các sản
phẩm phái sinh được NHNN cho phép các ngân hàng thương mại triển khai chủ yếu
là: nghiệp vụ hoán đổi lãi suất, quyền chọn mua, bán vàng và ngoại tệ. Đối tượng
tham gia sử dụng các sản phẩm phái sinh để phòng ngừa rủi ro chưa nhiều. Nghiệp
vụ quyền chọn chứng khoán vẫn chưa được triển khai áp dụng.
3.2.2.3 Điều tiết và giám sát thận trọng đối với các thể chế tài chính
Điều tiết và giám sát thận trọng các thể chế tài chính đó là tập hợp những
nguyên tắc và biện pháp giám sát công khai hoạt động của các thể chế tài chính
cũng như của các thị trường tài chính. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc đảm
bảo sự vững mạnh của hệ thống tài chính. Trong bối cảnh hội nhập tài chính quốc
tế, các biện pháp điều tiết được điều chỉnh từ kiểm soát trực tiếp sang gián tiếp
nhằm thúc đẩy hoạt động của thị trường tài chính và đảm bảo cân bằng giữa ổn định
và linh hoạt. Một hệ thống điều tiết và giám sát thận trọng được thiết kế và thực
hiện tốt là hệ thống giúp tăng cường lòng tin của các nhà đầu tư và giảm thiểu được
rủi ro. Những nguyên tắc của hệ thống điều tiết này bao gồm: quy định về vốn tối
70
thiểu, dự trữ; quy định về cấp phép chi nhánh; quy định về công khai hóa thông tin;
hệ thống cảnh báo sớm, giám sát và kiểm tra; những quy định về cưỡng chế và
trừng phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm những quy định điều tiết.
Ngoài ra, những nguyên tắc bổ sung còn được áp dụng đối với các công ty
phát hành chứng khoán, các thể chế tài chính phi ngân hàng đang hoạt động kinh
doanh chứng khoán như: công ty chứng khoán, công ty môi giới, các ngân hàng đầu
tư, các quỹ đầu tư. Những nguyên tắc này thường bao gồm: quy định về đăng ký và
vốn tối thiểu đối với tổ chức phát hành chứng khoán; quy định về đăng ký với Ủy
ban Chứng khoán Nhà nước về việc phát hành và chào bán cổ phiếu ra công chúng
đối với các công ty sẽ được niêm yết trên thị trường chứng khoán…
Ở nước ta hiện nay, cần coi trọng việc xây dựng và vận hành tốt các cơ chế
quản lý, giám sát bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và sự an toàn của TTTC. Đặc biệt,
cần làm rõ các quy định của pháp luật về chế độ, quy trình, trách nhiệm và chất
lượng thông tin công bố đối với các cơ quan nhà nước, cũng như đối với doanh
nghiệp phát hành chứng khoán; nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin liên quan
đến chứng khoán và đầu tư gián tiếp cấp quốc gia và địa phương; thống nhất và
giám sát thực hiện nghiêm túc các quy định về chế độ kế toán, kiểm toán; khuyến
khích phát triển và có biện pháp bảo đảm chất lượng, trách nhiệm hoạt động của các
tổ chức định giá hệ số tín nhiệm doanh nghiệp và chứng khoán, nhằm tạo thuận lợi
và bảo đảm chất lượng thông tin cho các nhà đầu tư chứng khoán trong nước và
nước ngoài trong quá trình tham khảo thông tin, hình thành và thông qua các quyết
định đầu tư của mình. Phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm khắc tất cả các hành vi vi
phạm quy định về an toàn thông tin và kinh doanh lành mạnh chứng khoán trên
TTCK của bất kỳ tổ chức và cá nhân nào. Thắt chặt hơn nữa về những quy định và
điều kiện về tài chính - kế toán đối với các công ty đăng ký chuẩn bị niêm yết, đảm
bảo sàng lọc được những doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và có tiềm năng phát
triển tốt để cung cấp nguồn hàng tốt nhất cho thị trường chứng khoán.
Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương
mại, thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá, tăng vốn điều lệ, hoàn thiện cơ chế quản trị rủi
71
ro ngân hàng; nâng cao trình độ quản lý cũng như tiến hành áp dụng công nghệ
ngân hàng tiên tiến trên thế giới. Ngân hàng nhà nước phải có cơ chế giám sát tình
hình vay nợ ngắn hạn nước ngoài của các ngân hàng thương mại và tổ chức kinh tế.
3.2.2.4 Xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản của thị trường tài chính
Cơ sở hạ tầng cơ bản cho thị trường tài chính bao gồm: hệ thống thanh toán và
giao nhận chứng khoán, các cơ quan đánh giá hệ số tín dụng quốc gia, hệ thống thu
thập dữ liệu…Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết sự di chuyển của
dòng vốn FPI. Sự kém phát triển của hệ thống thanh toán và giao nhận chứng khoán
sẽ khiến cho chi phí và rủi ro giao dịch gia tăng. Ngược lại, một hệ thống thanh toán
và giao nhận chứng khoán tin cậy, hiệu quả sẽ làm tăng lòng tin của các nhà đầu tư,
giúp ổn định thị trường tài chính.
Cơ quan đánh giá hệ số tín dụng quốc gia sẽ theo dõi tình hình chứng khoán
trong nước thông qua việc phân loại các công ty dựa trên những tiêu chí đã được
chuẩn mực hóa và qua đó gián tiếp đánh giá triển vọng phát triển của công ty. Các
cơ quan này còn cung cấp khách quan về chất lượng của trái phiếu, giảm thiểu sự
bất cân xứng thông tin, giám sát người phát hành và giúp duy trì lòng tin của nhà
đầu tư.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần chú trọng đẩy mạnh hoạt động phân hạn tín nhiệm
doanh nghiệp bằng cách thành lập doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích các loại
hình doanh nghiệp cổ phần và kêu gọi đầu tư nước ngoài vào hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực xếp hạn tín nhiệm doanh nghiệp. Đây là giải pháp nhằm nâng cao
tính chuyên nghiệp, trung thực và khách quan của hoạt động xếp hạn tín nhiệm
doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn trong phát hành trái
phiếu công ty để thu hút dòng vốn FPI cũng như nhà đầu tư sẻ an tâm hơn trong các
quyết định chọn lựa doanh nghiệp tiềm năng để đầu tư lâu dài. Trên thế giới, thẩm
định tín nhiệm doanh nghiệp đã có từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Lúc đó thị
trường chứng khóan ở Mỹ phát triển, các doanh nghiệp huy động một lượng vốn
khổng lồ thông qua trái phiếu, cần có một tổ chức đứng ra đánh giá khách quan về
mức độ khả tín của doanh nghiệp và năm 1909 công ty Moody's lần đầu tiên đã
72
đánh giá hệ số tín nhiệm 1.500 trái phiếu của 250 công ty đường sắt của Mỹ. Còn ở
Việt Nam, cho đến nay mới chỉ hình thành 3 tổ chức phân hạn tín nhiệm (Công ty
thông tin tín nhiệm doanh nghiệp (C& R), Trung tâm thông tin tín dụng nhà nước
(CIC) và Trung tâm đánh giá tín nhiệm Vietnamnet (CRV)) nhưng hoạt động
chuyên biệt, nhỏ lẻ và chỉ chú trọng đánh giá lịch sử vay vốn chứ chưa phân tích
chuyên sâu khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngoài ra, hệ thống thu thập dữ liệu phải được nâng cấp. Các thông tin về sự di
chuyển của dòng vốn FPI phải được thu thập thường xuyên, hàng ngày thậm chí
hàng giờ để phát hiện và cảnh báo sớm các luồng vốn nóng, bất ổn định theo kiểu
“sáng vào, chiều ra” để có giải pháp điều tiết kịp thời. Phát triển hệ thống cảnh báo
sớm và chủ động xây dựng phương án đối phó thích hợp nhằm giám sát và phòng
ngừa hiệu quả các nguy cơ biến động TTTC tiêu cực do đầu cơ, tội phạm, độc
quyền, lũng đoạn và sự mù quáng thị trường; phát triển các dịch vụ tư vấn, dịch vụ
bổ trợ tư pháp trực tiếp hỗ trợ đầu tư gián tiếp.
Để nâng cao khả năng thu thập dữ liệu, cần thiết phải có sự hợp tác của các cơ
quan tiền tệ (Bộ tài chính, NHNN), các thể chế điều tiết và các cơ quan quản lý thị
trường chứng khoán. Bên cạnh đó, cần tăng cường sự hợp tác và trao đổi thông tin
giữa các nước trong cùng khu vực (như hợp tác tài chính - tiền tệ khu vực ASEAN
+ 3, APEC, ASEM) và các tổ chức tiền tệ quốc tế (IMF, WB).
3.2.2.5 Những giải pháp áp dụng trong trường hợp có biến động lớn đối
với sự di chuyển của dòng vốn FPI.
Giải pháp hạn chế dòng vốn vào quá mức:
Để hạn chế sự gia tăng ồ ạt của dòng vốn vào ngắn hạn, các nước thường sử
dụng các giải pháp như: can thiệp vô hiệu, chính sách tài chính thắt chặt, yêu cầu dự
trữ không lĩnh lãi (URR), đánh thuế trực tiếp lên các dòng vốn vào ngắn hạn, đầu tư
trở lại nước ngoài.
Nội dung của giải pháp can thiệp vô hiệu đó là mua và bán các tài sản ngoại tệ
và nội tệ với giá trị như nhau nhưng theo hướng đối ngược nhau, nhằm vô hiệu hóa
tác động của can thiệp đến mức cung tiền trong nước. Giải pháp can thiệp vô hiệu
73
có tác dụng ổn định giá trị đồng tiền nội địa và lạm phát, cũng như làm tăng dự trữ
ngoại tệ của ngân hàng trung ương. Tuy nhiên, giải pháp này chỉ áp dụng được
trong thời gian ngắn chứ không thể kéo dài. Bởi lẽ, can thiệp vô hiệu sẽ làm gia
tăng chi phí cho ngân hàng trung ương do chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất
ngoại tệ. Thị trường nội địa sẽ khó có thể hấp thụ hết lượng trái phiếu đã phát hành
và ngân hàng trung ương sẽ phải trả lãi cao hơn cho những trái phiếu, do nhà đầu tư
yêu cầu lãi suất cao hơn. Mặt khác, do mức cung tiền trong nước không tăng nên lãi
suất trong nước sẽ luôn ở mức cao hơn so với lãi suất thế giới và sẽ tiếp tục khuyến
khích dòng vốn nước ngoài chảy vào trong nước và do đó làm phá sản tác dụng của
giải pháp can thiệp vô hiệu.
Áp dụng chính sách tài chính thắt chặt cũng có thể đối phó với sự di chuyển
mạnh mẽ của dòng vốn vào. Chính sách tài chính thắt chặt sẽ hạn chế được sự gia
tăng của tổng cầu và lạm phát; hạn chế được sự tăng giá của đồng tiền trong nước
và cải thiện được cán cân tài khoản vãng lai. Do đó, chính phủ cần thực hành tiết
kiệm, chống lãng phí, kiểm soát chi tiêu công.
Giải pháp để hạn chế khả năng đảo ngược dòng vốn FPI
Trên thế giới, để hạn chế sự đảo ngược của dòng vốn, các nước thường áp
dụng cả biện pháp can thiệp trực tiếp và biện pháp can thiệp gián tiếp. Theo chúng
tôi, ở Việt Nam hiện nay cần phải thận trọng khi tiến hành can thiệp và nên sử dụng
biện pháp can thiệp gián tiếp nhiều hơn. Chính phủ có thể nghiên cứu và ứng dụng
hệ thống thuế rút vốn mà Malaixia đã từng áp dụng và thành công. Hệ thống thuế
rút vốn này sẽ đánh thuế giảm dần, tương ứng với thời gian rút vốn càng dài của nhà
đầu tư. Việc áp dụng hệ thống thuế rút vốn này phải thận trọng và chỉ nên áp dụng
trong ngắn hạn khi dòng vốn FPI đảo ngược quá lớn. Bởi vì, giải pháp này có thể
tác động tiêu cực và làm giảm dòng vốn vào trong tương lai.
Điều cần lưu ý là các giải pháp kiểm soát vốn (cả trực tiếp và gián tiếp) cần
phải được áp dụng linh hoạt, nhất quán và phải dựa trên nền tảng cơ bản của nền
kinh tế vững mạnh và ổn định. Khi tiến hành các giải pháp điều tiết nên kết hợp
đồng bộ các giải pháp. Đồng thời, phải thận trọng, tuyên truyền cho nhà đầu tư
74
được biết về mục đích của từng chính sách, nhằm tránh gây sốc và dẫn đến hiện
tượng rút vốn ồ ạt.
Ngoài ra, NHNN cần chú ý gia tăng dự trữ ngoại hối để nhằm can thiệp vào
tình trạng dòng vốn vào, ra quá mức và gây bất ổn đến giá trị đồng nội tệ. Nếu chỉ
dùng để đánh giá khả năng thanh toán của quốc gia nhằm tài trợ cho nhu cầu nhập
khẩu thì hiện nay dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã đáp ứng được 12 tuần nhập
khẩu và đây là mức an toàn. Tuy nhiên, do dòng vốn vào FPI có thể tăng mạnh
trong những năm sắp tới nên việc chú trọng nâng cao dự trữ ngoại hối là hết sức
quan trọng. Mức độ dự trữ ngoại hối bao nhiêu là đủ, điều này tùy thuộc vào nhu
cầu của quốc gia ở từng thời điểm. Do đó phải cân nhắc, tính toán xem nên duy trì
mức dự trữ ngoại tệ bao nhiêu là hợp lý với điều kiện, hoàn cảnh, bởi mức dự trữ
liên quan đến thị trường tài chính, bao gồm cả thị trường nợ và các điều kiện kinh tế
vĩ mô liên quan khác. Nếu dự trữ quá lớn cũng là một trong những yếu tố dẫn đến
lạm phát, mặt khác, chi phí cho việc dự trữ khối lượng tiền quá lớn cũng rất tốn
kém. Ngược lại, nếu nguồn dự trữ không bảo đảm khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn cũng rất nguy hiểm, vì dự trữ ngoại tệ là phương tiện cuối cùng của nền
kinh tế quốc gia, nhằm mục đích phòng vệ khi an ninh tài chính bị đe dọa, giảm
thiểu nguy cơ khủng hoảng kinh tế có thể xảy ra.
Để giải quyết bài toán nâng cao dự trữ ngoại hối, Việt Nam có thể cải thiện
cán cân thương mại và kiểm soát cán cân vãng lai bằng cách nâng cao chất lượng
sản phẩm dịch vụ, mở rộng quan hệ thương mại với nước ngoài, nâng cao uy tín của
Việt Nam trên trường quốc tế để qua đó thúc đẩy trao đổi thương mại với các quốc
gia. Đồng thời, NHNN cần thường xuyên kiểm soát được sự biến động của cán cân
vãng lai làm cơ sở cho các quyết định dự trữ cũng như can thiệp trên thị trường.
Ngoài ra, cần thu hút ngoại tệ chảy vào NHNN. Ngoại tệ chảy vào nước ta
xuất phát từ nhiều nguồn và hoạt động khác nhau, bao gồm kiều hối, nguồn ngoại tệ
do khách du lịch nước ngoài chi trả tại Việt Nam, tiền lương của người Việt Nam
làm việc tại các doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó, kiều hối là nguồn thu ngoại tệ
quan trọng nhất. Với chính sách tự do hoá các giao dịch vãng lai, nguồn kiều hối
75
chảy về nước liên tục gia tăng qua các năm. Tuy nhiên để khai thác tối đa nguồn
ngoại tệ này, chúng ta cần tạo niềm tin cho kiều bào về sự ổn định kinh tế chính trị
xã hội trong nước để họ yên tâm chuyển tiền về nước; Cơ quan hải quan cần kiểm
soát chặt chẽ hơn nguồn kiều hối lậu chảy về; NHNN khuyến khích các NHTM
mua để tăng nguồn kiều hối thu hút vào ngân hàng và bán cho NHNN.
Bên cạnh đó, có thể dùng tiền dự trữ chưa dùng đến để đầu tư vào trái phiếu
chính phủ Mỹ - một trong những loại trái phiếu chính phủ an toàn nhất và đầu tư
vào trái phiếu của các chính phủ khác nhau để đa dạng hóa nguồn dự trữ ngoại tệ.
3.2.2.6 Giải pháp bổ trợ khác.
Tiếp tục đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, giữ vững sự ổn định chính
trị, kiên quyết chống tham nhũng, tăng cường giám sát việc sử dụng vốn từ nguồn
vốn huy động trên thị trường tài chính quốc tế thông qua phát hành trái phiếu chính
phủ, hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến điều tiết và giám sát hoạt động
TTCK.
Để quản lý và thu hút dòng vốn FPI nhiều hơn nữa, chính phủ cần thiết nghiên
cứu nới lỏng, tối đa hoá mức khống chế tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu, cổ phần, chứng
khoán của các nhà đầu tư gián tiếp nước ngoài trong các doanh nghiệp cổ phần Việt
Nam hoạt động thuộc mọi ngành nghề, kể cả lĩnh vực dịch vụ trình độ cao như ngân
hàng, bảo hiểm, viễn thông, điện lực, hàng không, công nghiệp thông tin; Tiếp tục
đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước lớn, và giảm thiểu tỷ lệ nắm giữ
cổ phần của nhà nước, cũng như của các nhà đầu tư sáng lập trong các doanh
nghiệp này... Chỉ nên áp dụng mức cổ phiếu khống chế đối với loại cổ phiếu sáng
lập, được quyền biểu quyết ở một số doanh nghiệp và lĩnh vực đặc biệt... Sớm rà
soát điều chỉnh, hoàn thiện các quy định liên quan về việc chuyển đổi thuận tiện,
nhanh chóng giữa các loại hình, phương thức đầu tư (gián tiếp - trực tiếp, công ty
TNHH - công ty cổ phần v.v...); về các quy định thủ tục mua - bán, sáp nhập doanh
nghiệp và tài sản doanh nghiệp; về việc chuyển nhượng dự án và chuyển nhượng
vốn giữa các nhà đầu tư (trong đó có sự chuyển nhượng giữa các nhà đầu tư trong
nước và nhà đầu tư nước ngoài); Cần có chính sách khuyến khích và ưu đãi (chính
76
sách thuế) để phát triển các công ty cổ phần đa sở hữu tổ chức theo quy mô tập đoàn
kinh tế, công ty mẹ - con, hoạt động xuyên quốc gia và các quỹ đầu tư, trong đó có
quỹ đầu tư mạo hiểm và các quỹ đại chúng, các quỹ đầu tư có vốn nước ngoài ...
Đảm bảo sự ngày càng liên thông và hội nhập các định chế và quy tắc, tiêu chuẩn
vận hành, chất lượng hàng hoá TTCK Việt Nam với các yêu cầu, tiêu chuẩn và xu
hướng hoạt động chung của thị trường vốn khu vực và quốc tế.
Ngoài ra, cần coi trọng việc tăng cường các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực
tài chính trong nước (cả cán bộ lãnh đạo, doanh nghiệp, và các nhà đầu tư chuyên
nghiệp và không chuyên) để tăng kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm tiếp nhận, giải
quyết và ứng xử với các tình huống có thể xảy ra trong quá trình thu hút, tham gia
và quản lý dòng vốn FPI.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Dựa trên những kết quả phân tích ở chương 2 cùng với sự tham khảo các
nghiên cứu của các chuyên gia trước đây, các bài bình luận trên các kênh thông tin,
chúng tôi đã đề xuất các giải pháp để hạn chế tác động tiêu cực cho cả hai dòng vốn
FDI và FPI. Quan điểm của các giải pháp này là hạn chế tối đa có thể những tác
động tiêu cực nhưng đồng thời không làm ảnh hưởng nhiều đến khả năng thu hút
của hai dòng vốn trên trong tương lai.
Trọng tâm của giải pháp hạn chế tiêu cực dòng vốn FDI là: giảm thiểu sự sai
lệch về định hướng phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước. Ngoài ra, tác giả còn
đưa ra các giải pháp hạn chế tình trạng chuyển giá của các MNC, khắc phục mâu
thuẫn giữa chủ đầu tư và người lao động.
Đối với dòng vốn FPI, hầu hết nhóm giải pháp đều nhấn mạnh đến việc hoàn
thiện các điều kiện cơ bản để tiến hành tự do hóa từ từ giao dịch vốn như: quản lý
và thu hẹp thị trường OTC, điều hành tỷ giá linh hoạt, điều tiết và giám sát thận
trọng đối với các thể chế tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản của thị trường tài
chính. Ngoài ra, chúng tôi cũng đề xuất một số biện pháp can thiệp để đối phó với
tình trạng di chuyển vào, ra quá mức của dòng vốn FPI.
77
KẾT LUẬN
Cả hai dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn đầu tư gián tiếp nước
ngoài đều rất cần cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam cũng như góp phần thúc
đẩy sự tự do hóa tài khoản vốn của quốc gia.
Trong chương 1, chúng tôi đã cung cấp một số lý luận cơ bản về dòng vốn đầu
tư nước ngoài; sự cần thiết của dòng vốn FDI đó là sự gặp nhau và thỏa mãn nhu
cầu giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư; đặc trưng cơ bản của dòng vốn FPI là
tính thanh khoản cao, dễ bay hơi. Cả hai dòng vốn FDI và FPI đều có những tác
động tích cực và tiêu cực đến nước tiếp nhận nó, các nước đang phát triển trên thế
giới đều tiến hành kiểm soát dòng vốn FPI bằng biện pháp kiểm soát trực tiếp và
gián tiếp. Tùy từng giai đoạn và hoàn cảnh cụ thể mà các nước thiết kế các biện
pháp kiểm soát linh hoạt, nhất quán và phối hợp đồng bộ với các biện pháp khác để
mục tiêu cuối cùng là hạn chế tác hại của dòng vốn này gây ra.
Ở Việt Nam, dòng vốn FDI và FPI đã có những tác động và đóng góp tích cực
đáng kể. Những tác động tích cực của dòng vốn FDI đó là: đóng góp vào GDP của
đất nước, làm gia tăng xuất khẩu, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động,
thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bổ sung vào nguồn thu ngân sách nhà nước.
Những ưu điểm của dòng vốn FPI đó là: bổ sung nguồn vốn thiếu hụt cho doanh
nghiệp Việt Nam và làm giảm chi phí vốn; thúc đẩy sự phát triển của hệ thống tài
chính Việt Nam; thúc đẩy sự cải cách thể chế và chính sách của chính phủ; thúc đẩy
quá trình tự do hóa tài chính và mở cửa thị trường tài chính trong nước.
Bên cạnh đó, cả hai dòng vốn FDI và FPI cũng gây ra một số tác hại cho nước
ta. Những tác động tiêu cực của dòng vốn FDI đó là: Làm sai lệch định hướng phát
triển kinh tế - xã hội của nhà nước; thao túng thị phần và đặt các doanh nghiệp trong
nước dưới sự cạnh tranh không cân sức; tình trạng gian lận thuế và chuyển giá của
các MNC …Còn những hạn chế của dòng vốn FPI đó là: gây cho nền kinh tế dễ rơi
vào tình trạng phát triển quá nóng; làm cho hệ thống tài chính trong nước dễ bị tổn
thương và rơi vào khủng hoảng; làm gia tăng nguy cơ bị mua lại, sáp nhập, khống
78
chế và lũng đoạn tài chính đối với các doanh nghiệp và tổ chức phát hành chứng
khoán.
Điểm mới của luận văn là đã chỉ ra lợi và hại, nguy cơ tiềm ẩn của hai dòng
vốn FDI và FPI cũng như đề xuất một số giải pháp để hạn chế những nguy cơ này.
Việc điều tiết cả hai dòng vốn FDI và FPI là cần thiết. Tác giả đã đề xuất những giải
pháp nhằm hạn chế tiêu cực và mang lại lợi ích cho nền kinh tế của hai dòng vốn
nêu trên như:
− Hạn chế sự sai lệch về định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
− Giảm thiểu tình trạng chuyển giá của các MNC.
− Quản lý và thu hẹp thị trường OTC.
− Điều hành tỷ giá linh hoạt.
− Điều tiết và giám sát thận trọng đối với các thể chế tài chính.
− Xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản của thị trường tài chính.
− Các biện pháp can thiệp trực tiếp và gián tiếp để đối phó với tình trạng
di chuyển vào, ra quá mức của dòng vốn FPI.
Tóm lại, sự vật hiện tượng trên tồn tại trong hai mặt đối lập – lợi và hại. Luận
văn đã cố gắng đề xuất các giải pháp để phát huy mặt lợi và hạn chế tác hại của hai
dòng vốn FDI và FPI để phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.
Phụ lục 1- iv
Phụ lục 1: Những điểm tương đồng và khác biệt giữa vốn FDI và FPI
Những điểm tương đồng và liên kết
- Cả hai hình thức đầu tư đều bổ sung thêm nguồn vốn cho đầu tư, thúc đẩy
hoạt động đầu tư và kinh tế ở nước tiếp nhận.
- Trong nhiều trường hợp sẽ không có sự phân biệt rõ ràng giữa đầu tư trực
tiếp và đầu tư gián tiếp mà tồn tại sự giao thoa và liên kết giữa chúng.
Chẳng hạn, khi nhà đầu tư dùng vốn của mình để mua cổ phiếu của doanh
nghiệp, nếu tỷ lệ cổ phiếu do nhà đầu tư nắm giữ là thấp hơn mức nhất định
(10% theo tiêu chuẩn của IMF và 30% theo tiêu chuẩn của Việt Nam hiện
hành) thì là đầu tư gián tiếp, nhưng khi vượt ngưỡng này thì lại được xếp
vào đầu tư trực tiếp và lúc này, nhà đầu tư có thể dùng quyền bỏ phiếu của
mình để can thiệp trực tiếp vào thực tế quản lý, kinh doanh của doanh
nghiệp.
- FDI và FPI sẽ liên kết với nhau khi cả hai hình thức này đồng thời sử dụng.
Các nhà đầu tư trực tiếp tham gia đầu tư gián tiếp khi họ quản lý dòng tiền
của mình. Ví dụ nhà quản lý tài chính của một dây chuyền bán lẻ lớn sẽ liên
tục ra và vào thị trường tiền tệ và thị trường vốn khi anh ta quản lý tiền mặt
và các tài sản tài chính khác trong quá trình kinh doanh.
Những điểm khác biệt
FDI FPI
-Về mục đích và dự
tính đầu tư
Kiểm soát và quản lý hoạt
động sản xuất, kinh doanh để
thu được lợi nhuận trong trung
và dài hạn.
Không nhằm mục
đích kiểm soát hoạt
động sản xuất, kinh
doanh. Nhà đầu tư chỉ
quan tâm đầu tư vào đâu
với tỷ suất sinh lợi cao
nhất và với một mức rủi
ro nhất định.
Phụ lục 1- iv
FDI FPI
- Hình thức và thời
hạn đầu tư
Mang tính dài hạn, ổn định
và khó bị đảo ngược.
Mang tính ngắn hạn,
bất ổn định và dễ bị đảo
ngược.
- Yêu cầu đặt ra đối
với nước tiếp nhận
đầu tư
FDI đặt ra nhiều yêu cầu
đối với chế độ đầu tư của khu
vực kinh tế thực (cơ sở hạ tầng,
nguồn lực sản xuất…)
Đặt ra nhiều yêu cầu
đối với sự phát triển và
quản lý đối với thị
trường tài chính như: hệ
thống kế toán, kiểm toán
và tính minh bạch của
thị trường.
- Lợi ích và những
rủi ro tiềm tàng mà
hình thức này mang
lại.
FDI mang lại cho nền kinh
tế của nước tiếp nhận đầu tư
chủ yếu tâp trung thúc đẩy phát
triển nền kinh tế thực (thúc đẩy
chuyển giao khoa học công
nghệ, kỹ năng quản lý, mở rộng
thị trường xuất khẩu và đào tạo
nguồn nhân lực nội địa).
FDI còn làm cho nước tiếp
nhận mất quyền kiểm soát đối
với một số ngành công nghiệp.
Thúc đẩy sự phát
triển của thị trường tài
chính (thúc đẩy sự phát
triển sâu hơn và rộng
hơn của thị trường vốn
nội địa, tăng cường tính
thanh khoản của thị
trường vốn nội địa).
Các rủi ro tiềm tàng
của FPI đó là làm bất ổn
định thị trường tài chính
và ngoại hối, nguy cơ
tăng giá đồng nội tệ và
có rủi ro lớn hơn đối với
các cú sốc từ bên ngoài..
Nguồn: Nguyễn Hồng Sơn (2005), Điều tiết sự di chuyển của dòng vốn tư
nhân gián tiếp nước ngoài ở một số nước đang phát triển, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 467811.pdf