Luận văn Tầm quan trọng của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước ASEAN và quá trình thực hiện AIA của các nước này

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH ĐẦU TƯ TRONG KHUÔN KHỔ ASEAN 3 1. Khái quát về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 3 1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) 3 1.2. Các hình thức của FDI 4 2. Vai trò của FDI đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là đối với các nước ASEAN 5 3. Cơ sở thực hiện của khu vực đầu tư ASEAN 9 3.1. Sự cần thiết của việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước ASEAN sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998 9 3.2. Quá trình hợp tác đầu tư ASEAN và sự hình thành AIA 16 CHƯƠNG II 20 NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CỦA HIỆP ĐỊNH KHUNG VỀ KHU VỰC ĐẦU TƯ ASEAN VÀ LỘ TRÌNH THỰC HIỆN HIỆP ĐỊNH 20 1. Những nội dung chính của Hiệp định 20 2. Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN 25 3. Lộ trình thực hiện Hiệp định 26 3.1. Quá trình thực hiện Hiệp định 26 3.2. Một số điều chỉnh trong biện pháp chính sách của các nước ASEAN trong lộ trình thực hiện Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN 31 CHƯƠNG III 33 MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP 33 NƯỚC NGOÀI TẠI CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 33 1. Việc hình thành hoạt động đầu tư tại CHDCND Lào 33 1.1. Việc thành lập cơ quan quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Lào 33 1.1.1. Việc thành lập chi nhánh công ty đầu tư nước ngoài 33 1.1.2. Việc thành lập văn phòng đại diện 34 1.2. Đơn xin đầu tư 35 1.3. Các bước xem xét cho phép dự án đầu tư 35 1.3.1. Việc xem xét, cho phép dự án đầu tư trong biên lai khuyến khích đầu tư nước ngoài gồm các bước như sau 35 1.3.2. Việc xem xét đánh giá đơn xin phép đầu tư trong biên lai mở nhưng phải có điều kiện 36 1.4. Vốn đăng ký và việc góp vốn 38 1.5. Việc thay đổi các cơ sở khác của doanh nghiệp 38 2. Quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào 40 2.1. Việc phân cấp quản lý đầu tư 40 2.2. Việc ngừng hoặc chấm dứt dự án đầu tư nước ngoài 40 3. Quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư 41 3.1. Các quyền và lợi ích của nhà đầu tư 41 3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài 43 4. Giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào 43 4.1. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với nhau 43 4.2. Việc giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với CHDCND Lào 44 KẾT LUẬN 45 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 47 DANH MỤC SÁCH - TÀI LIỆU THAM KHẢO 49

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1740 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tầm quan trọng của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với các nước ASEAN và quá trình thực hiện AIA của các nước này, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p định, các Quốc gia thành viên sẽ đảm bảo rằng các biện pháp và các chương trình được thực hiện trên cơ sở công bằng và cùng có lợi; thực hiện các biện pháp tích cực để bảo đảm tính rõ ràng và nhất quán trong việc áp dụng và giải thích các luật, qui định và thủ tục hành chính liên quan đến đầu tư của nước mình nhằm tạo ra và duy trì một chế độ đầu tư có thể dự đoán trước được trong ASEAN, bắt đầu quá trình hỗ trợ, xúc tiến và tự do hoá để có thể đóng góp một cách liên tục và đáng kể vào việc thực hiện mục tiêu thiết lập môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn;thực hiện các biện pháp thích hợp nhằm tăng cường tính hấp dẫn của môi trường đầu tư của các Quốc gia thành viên đối với các dòng đầu tư trực tiếp; và thực hiện các biện pháp hợp lý trong khả năng cho phép để bảo đảm việc tuân thủ các điều khoản của Hiệp định này của chính quyền khu vực, địa phương và các cơ quan có thẩm quyền trong khu vực lãnh thổ của mình. Nguyên tắc, biện pháp, thực hiện AIA: Mở cửa tất cả các ngành nghề và dành chế độ đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư ASEAN. Theo qui định tại điều 7, ngoài các biện pháp hoặc lĩnh vực được liệt kê trong danh mục loại trừ tạm thời (TEL) và danh mục nhạy cảm (SL) của nước mình, các nước thành viên ASEAN sẽ mở cửa cho tất cả các ngành nghề và dành chế độ đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư ASEAN ngay sau khi Hiệp định khung về AIA có hiệu lực vào năm 2010 với 6 nước thành viên cũ, vào năm 2013 đối với Việt Nam và năm 2015 với Lào và Myanma. Danh mục nhạy cảm gồm các lĩnh vực hoặc các biện pháp chưa thể mở cửa hoặc dành chế độ đối xử quốc gia ngay và chưa thể xác định thời hạn loại bỏ. Các danh mục loại trừ tạm thời và danh mục nhạy cảm do các nước thành viên tự đưa ra phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế, xã hội của nước mình. Tuy nhiên, để khắc phục tình trạng các nước có thể đưa ra quá nhiều biện pháp cho loại trừ, Hiệp định áp dụng nguyên tắc “có đi, có lại”, qui định nếu có một nước thành viên chưa sẵn sang dành chế độ đối xử quốc gia đối với một số biện pháp nào đó hoặc chưa mở cửa ngành nghề cho các nước thành viên khác thì nước đó cũng không được hưởng các ưu đãi liên quan đến biện pháp hoặc ngành nghề đó trên lãnh thổ các nước thành viên (với Việt Nam, Lào là sau 3 năm, Myanmar sau 5 năm). Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) Mỗi nước thành viên ASEAN sẽ dành ngay lập tức và vô điều kiện cho các nhà đầu tư của các nước thành viên sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các nhà đầu tư của bất kỷ nước thứ ba nào với tất cả các biện pháp có tác động đến đầu tư bao gồm việc tiếp nhận, thành lập, nắm giữ, mở rộng, quản lý, vận hành và định đoạt đầu tư. Trên cơ sở nguyên tắc này, mọi đối xử ưu đãi theo các Hiệp định hoặc theo các thoả thuận hiện tại mà một quốc gia thành viên là một bên đều sẽ được dành cho tất cả các thành viên khác trên cơ sở đối xử tối huệ quốc. Hiệp định cũng đưa ra điều khoản về quyền khước từ đối xử tối huệ quốc. Theo đó một quốc gia thành viên tạm thời chưa sẵn sàng đưa ra các nhượng bộ trong khi các thành viên khác đã có những nhượng bộ thì thành viên nêu trên phải từ bỏ quyền được hưởng các nhượng bộ đó (với Việt Nam, Lào, sau 3 năm, Myanmar sau 5 năm). Nguyên tắc đảm bảo tính rõ ràng, trong sáng: Điều 11 của Hiệp định qui định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải cung cấp thông tin, đảm bảo tính rõ ràng, trong sáng của pháp luật và các chính sách đầu tư của nước mình, ngoại trừ các thông tin làm ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật, trái với lợi ích công cộng hoặc làm thiệt hại tới quyền lợi thương mại hợp pháp của các doanh nghiệp. Mỗi nước thành viên phải nhanh chóng và ít nhất mỗi năm một lần thông báo cho Hội đồng AIA các thay đổi về pháp luật và chính sách ảnh hưởng tới đầu tư hoặc các cam kết theo Hiệp định này. Các ngoại lệ chung: Hiệp định qui định nguyên tắc không cấm các nước thành viên thực hiện các biện pháp được coi là các ngoại lệ chung, bao gồm: các biện pháp cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia hoặc đạo đức xã hội, bảo vệ con người, động vật và thực vật, bảo đảm sự tuân thủ pháp luật đối với hoạt động đầu tư và nhà đầu tư của các nước thành viên. Tuy nhiên, để đảm bảo công bằng giữa các quốc gia, các biện pháp thực thi phải đảm bảo không tạo ra sự phân biệt đối xử hoặc bất hợp lý. Các biện pháp tự vệ khẩn cấp: Hiệp định cũng cho phép các thành viên, nếu bị thiệt hại nghiêm trọng, hoặc có nguy cơ dẫn đến tình trạng trên do thực hiện chương trình tự do hoá, được áp dụng các biện pháp khẩn cấp trong chừng mực và thời gian cần thiết để khắc phục nhưng phải được tiến hành một cách không phân biệt đối xử và thông báo cho Hội đồng AIA trong vòng 14 ngày kể từ ngày tiến hành các biện pháp đó. Ngoài những biện pháp trên, Hiệp định cũng cho phép thực hiện các biện pháp tiến hành hạn chế đối với đầu tư mà nước đó đã cam kết kể cả việc chuyển tiền trong trường hợp cán cân thanh toán lâm vào tình trạng nguy hiểm. Tuy nhiên, biện pháp này không vượt quá mức cần thiết và có tính chất tạm thời, phù hợp với qui định của Quĩ tiền tệ (IMF). Để thực hiện nội dung của Hiệp định AIA, ASEAN đã đề ra 3 chương trình cụ thể: Chương trình I: Chương trình hợp tác và tạo thuận lợi: Đối với chưong trình này, các quốc gia thành viên sẽ thực hiện: Sáng kiến riêng để tăng cường tính rõ ràng, trong sáng của các qui tắc, qui định, chính sách và thủ tục đầu tư của quốc gia thành viên thông qua việc xuất bản các thông tin đó có thể tiếp cận một cách rộng rãi, đơn giản hoá và làm nhanh chóng các thủ tục xin và phê duyệt các dự án đầu tư ở mọi cấp, và mở rộng số lượng các Hiệp định song phương về tránh đánh thuế hai lần giữa các quốc gia thành viên ASEAN. Sáng kiến tập thể để thiết lập cơ sở dữ liệu về các ngành công nghiệp hỗ trợ của ASEAN và về các nhà cung cấp công nghệ ASEAN, đồng thời thúc đẩy quan hệ giữa khu vực nhà nước và tư nhân thông qua đối thoại thường xuyên với cộng đồng doanh nghiệp ASEAN và các tổ chức quốc tế khác để xác định các trở ngại đầu tư trong và ngoại ASEAN và kiến nghị các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư ASEAN. Xác định các lĩnh vực trọng tâm để hợp tác kỹ thuật, như phát triển nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng, các ngành công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ thông tin, công nghệ công nghiệp, nghiên cứu và phát triển, và phối hợp các nỗ lực trong ASEAN và với các tổ chức quốc tế khác tham gia hợp tác kỹ thuật. Xem xét lại và bổ sung Hiệp định ASEAN về khuyến khích và bảo hộ đầu tư, nếu có thể, và xem khả năng ký kết Hiệp định ASEAN về tránh đánh thuế hai lần. Chương trình II: Chương trình xúc tiến và tăng cường hiểu biết Các Quốc gia thành viên sẽ: tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư chung như hội thảo, lớp đào tạo, các chuyến khảo sát làm quen cho các nhà đầu tư các nước xuất vốn, cùng xúc tiến các dự án cụ thể với sự tham gia tích cực của khu vực tư nhân, tham vấn thường xuyên giữa các cơ quan đầu tư ASEAN về các vấn đề xúc tiến đầu tư, đồng thời tổ chức các chương trình đào tạo liên quan đến đầu tư cho các quan chức của các cơ quan đầu tư ASEAN, tiến hành trao đổi các danh mục các ngành lĩnh vực khuyến khích mà các Quốc gia thành viên có thể khuyến khích đầu tư từ các Quốc gia thành viên khác và đề xuất các hoạt động xúc tiến đầu tư, và xem xét các giải pháp mà các cơ quan đầu tư của các Quốc gia thành viên có thể hỗ trợ hoạt động xúc tiến của các Quốc gia thành viên khác. Chương trình III: Chương trình tự do hóa Các Quốc gia thành viên sẽ: + Đơn phương giảm bớt và loại bỏ những biện pháp hạn chế đầu tư và thường xuyên xem xét lại chế độ đầu tư theo hướng tự do hoá hơn. Về vấn đề này, các Quốc gia thành viên có thể thực hiện các biện pháp để tự do hoá trong đó có: - Các qui tắc, qui định và chính sách liên quan đến đầu tư - Các qui tắc về điều kiện cấp giấy phép - Các qui tắc liên quan đến việc tiếp cận nguồn vốn trong nước - Các qui tắc để tạo thuận lợi cho việc thanh toán, tiếp nhận và chuyển lợi nhuận của các nhà đầu tư ra nước ngoài + Thực hiện các kế hoạch hành động của từng nước để mở cửa tất cả các ngành nghề cho đầu tư của các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020 phù hợp với các điều khoản của Hiệp định này và dành đối xử quốc gia cho tất cả các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020 phù hợp với các điều khoản của Hiệp định này. + Thúc đẩy dòng lưu chuyển tự do hơn về vốn, lao động lành nghề và chuyên gia, và công nghệ giữa các Quốc gia thành viên ASEAN. Mỗi nước ASEAN sẽ tự vạch ra chương trình hành động của mình để cụ thể hoá các chương trình nói trên. Cứ 2 năm 1 lần, các kế hoạch của từng Quốc gia sẽ được ra soát lại để đảm bảo tiến độ thực hiện AIA. 2. Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN Tại Hội nghị Hội đồng Khu vực Đầu tư lần thứ 14 (AIA 14) diễn ra ngày 14/10/2001 tại Hà Nội, trước tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của khu vực đang gặp phải những thách thức lớn cả từ bên trong lẫn bên ngoài, khả năng tăng trưởng kinh tế chậm lại làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư toàn cầu, sự xuất hiện của nhiều khu vực kinh tế và quốc gia cạnh tranh đáng kể với các nước ASEAN về thu hút đầu tư trực tiếp, đại diện của các Quốc gia ASEAN đã cùng xem xét, đưa ra quyết định quan trọng nhằm cải thiện tình hình đầu tư của khu vực, thúc đẩy thực hiện AIA và các chương trình về đầu tư trong kế hoạch hành động Hà Nội. Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN đã được các nước ký kết, nhằm mở rộng phạm vi điều chỉnh của Hiệp định, và đẩy nhanh tiến độ xây dựng khu vực đầu tư ASEAN, trong đó đẩy nhanh thời hạn thực hiện loại bỏ danh mục loại TEL cho khu vực sản xuất chế tạo từ 2010 xuống 2003 đối với nhóm nước ASEAN 6 và từ 2013/2015 xuống 2010 đối với các nước thành viên mới của ASEAN. Nghị định thư cũng mở rộng phạm vi của Hiệp định khung để bao gồm cả các khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng, cũng như các dịch vụ gắn với các khu vực thuộc phạm vi Hiệp định. Tại AIA-14, các nước đã quyết định rút ngắn thời gian thực hiện đối xử quốc gia và mở cửa thị trường các ngành sản xuất chế tạo, nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng cho tất cả các nhà đầu tư từ 2020 theo Hiệp định xuống 2010 đối với nhóm nước ASEAN 6 và 2015 đối với các thành viên mới. 3. Lộ trình thực hiện Hiệp định 3.1. Quá trình thực hiện Hiệp định Sự suy giảm nhanh chóng của tốc độ tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu, đặc biệt là đầu tư từ đầu năm 1996, đến giữa năm 1997 thì cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ nổ ra, đã đẩy các nước ASEAN lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn về kinh tế. Điều này đã khiến cho một số nước có xu hướng thay đổi chiến lược, chuyển trọng tâm từ hợp tác kinh tế khu vực sang tập trung ổn định tình hình, củng cố kinh tế trong nước, kết hợp từng bước thực hiện chương trình hợp tác có trọng điểm, phù hợp với tình hình thực tế đã thay đổi. Trước tình hình đó, các bước tiến hành và triển khai sự hình thành khu vực đầu tư ASEAN vẫn được các thành viên tiếp tục thực hiện nhằm thúc đẩy dòng FDI, hạn chế tác động trong lĩnh vực đầu tư. Bên cạnh việc đẩy nhanh việc áp dụng chế độ đối xứ quốc gia đẩy đủ cho các nhà đầu tư ASEAN, các nước cũng chủ trương đẩy nhanh việc áp dụng này cho các nhà đầu tư ngoài ASEAN. Chính vì vậy từ Hội nghị Thượng đỉnh tại Hà Nội tháng 12/1998, các thành viên ASEAN đã đề ra các biện pháp ngắn hạn và trung hạn nhằm cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư trong khu vực, đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư với EU, Mỹ, Nhật Bản. Một thống nhất khác hướng tới việc thực hiện Hiệp định là các nước thống nhất nguyên tắc giữ nguyên hiện trạng. Theo nguyên tắc này, khi lập danh mục, các nước không nên đưa thêm các biện pháp, các loại trừ làm xấu hơn tình hình hiện tại và các biện pháp nếu có phải đáp ứng được xu hướng phát triển trong tương lai. Phạm vi bao quát của khu vực đầu tư ASEAN bao gồm các ngành: Chế tác, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, và khai khoáng. Kể từ khi Hiệp định AIA được ký kết tháng 10/1998, Hội đồng AIA đã tiến hành thêm 6 phiên họp nữa: Phiên họp thứ hai tại Singapore tháng 9/1999 Phiên họp thứ ba tại Thái Lan tháng 10/2000 Phiên họp thứ tư tại Việt Nam tháng 10/2001 Phiên họp thứ năm tại Brunei tháng 9/2002 Phiên họp thứ sáu tại Campuchia tháng 9/2003 Phiên họp thứ bẩy tại Lào tháng 9/2005 Trong phiên họp thứ ba, các nước hài lòng về sự tiến triển quan trọng trong việc thực hiện chương trình đầu tư và những hoạt động có liên quan khác, trong tiến trình AIA, để tăng cường FDI trong khu vực. Các nước đã hoàn thành việc thúc đẩy các cuộc hội thảo ở Nhật Bản vào tháng 2 và nhiệm vụ xúc tiến đầu tư với Mỹ và Châu Âu vào tháng 5/2000. Đồng thời hoàn thành xuất bản các sách có liên quan đến đầu tư, nhằm tăng cường tính minh bạch của chế độ đầu tư của các Quốc gia thành viên và tăng sự nhận thức của các nhà đầu tư về cơ hội đầu tư, ưu tiên đầu tư, chính sách đầu tư cũng như sự thuận lợi trong đầu tư ở ASEAN. Các nước thành viên cũng hoàn thành việc đưa ra những danh mục tạm thời của mình về lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, và khai khoáng; và hoàn thành kế hoạch hành động riêng của mỗi nước để thực hiện các chương trình đơn giản hoá, xúc tiến và tự do hoá của Hiệp định AIA. Sang đến năm 2001, trong phiên họp thứ tư Hội đồng AIA đồng ý thúc đẩy việc thực thi AIA cho các nhà đầu tư ngoài ASEAN trong ngành chế biến sản xuất, nông, lâm, ngư nghiệp và khai thác mỏ. Hội đồng cũng đã đồng ý về sự cần thiết phải tiến hành nghiên cứu toàn diện về tính cạnh tranh của Đông Nam Á. Nghiên cứu giúp xác định tính cạnh tranh và lợi thế so sánh của các ngành công nghiệp so với các khu vực khác, đưa ra chính sách, đề nghị, tạo khả năng cho ASEAN phát triển nền công nghiệp có tính cạnh tranh đang được hội nhập ở cấp độ khu vực, để nâng cao khả năng của ASEAN trong việc thu hút FDI. Hội đồng đồng ý rằng các quốc gia thành viên sẽ đóng góp ngân sách cho việc nghiên cứu và phải được hoàn thành vào thời điểm AIA họp vào quý 2 năm 2002 tại Kuala Lumper. Đồng thời, diễn đàn Hội đồng AIA và doanh nghiệp đầu tiên được tiến hành vào 13/9/2001, với mục đích nghiên cứu củng cố liên kết Nhà nước-nhân dân rộng rãi hơn và để can thiệp chủ động hơn vào các khu vực tư nhân của tiến trình AIA. Cũng trong năm 2001 này, Nghị định thư thúc đẩy Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN đã được ký kết. Nội dung của Nghị định này nhằm rút ngắn thời gian chấm dứt danh mục loại trừ tạm thời của khu vực sản xuất đến 2003 thay vì 2010 cho sáu quốc gia thành viên cũ, các nước CMLV sẽ chấm dứt không trễ hơn 2010, đồng thời mở rộng phạm vi Hiệp định AIA bao gồm nông, lâm, ngư nghiệp, khai thác mỏ và dịch vụ liên quan đến ngành sản xuất và các ngành trên. Để hỗ trợ quá trình soạn thảo các danh mục này, CCI nhất trí một số điểm sau: - Các quốc gia cần trao đổi kinh nghiệm trong soạn thảo các danh mục TEL và SL thông qua việc trao đổi các danh mục minh hoạ của nước mình về những ngành dịch vụ nói trên. - Do phạm vi điều chỉnh của các ngành dịch vụ nêu trên là khá rộng, các quốc gia thành viên có thể bắt đầu xây dựng các danh mục về lĩnh vực sản xuất trước rồi sau đó đến mới làm các lĩnh vực dịch vụ khác. Về việc đẩy nhanh thời hạn mở cửa và dành đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư, theo qui định của Hiệp định AIA, trừ các ngoại lệ được qui định, các nước thành viên ASEAN phải mở cửa các ngành nghề và dành đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư ASEAN vào năm 2010 và cho tất cả các nhà đầu tư vào năm 2020. Tuy nhiên, trên thực tế, các nước đã tiến hành những bước tự do hoá đáng kể môi trường đầu tư của mình, sớm hơn cả khung thời hạn qui định trong Hiệp định AIA. Hầu hết các nước ASEAN, phù hợp với pháp luật, đã đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, thời hạn mở cửa và dành đối xử quốc gia cho các nhà đầu tư ngoài ASEAN đã được CCI (Uỷ ban điều phối đầu tư ASEAN) đẩy nhanh lên, sớm hơn ít nhất là 5 năm. Theo như Hiệp định AIA, các nước thành viên được yêu cầu thực hiện các biện pháp thúc đẩy, đơn giản hóa và tự do hoá cụ thể. Năm 2002-2003, nhiều biện pháp đã được thực hiện và những sáng kiến đầu tư mới được đưa ra nhằm tăng cường tính hấp dẫn của khu vực đối với FDI. Những hoạt động như thúc đẩy và đơn giản hoá đầu tư đã được thực hiện thành công. Vào tháng 1/2003, năm nước thành viên ASEAN (Bruney, Indonesia, Myanma, Philippin và Thái Lan) đã thực hiện từng bước các Danh mục loại trừ tạm thời của mình theo như Hiệp định AIA và mở cửa nhiều hơn các khu vực cho đầu tư nước ngoài mà được hưởng quyền đối xử quốc gia. Điều này có nghĩa là, với kết quả này, từ tháng 1/2003, bất kể nhà đầu tư ASEAN nào cũng có thể đầu tư vào bất cứ quốc gia ASEAN nào và đều được hưởng đối xử quốc gia trong khu vực sản xuất bao gồm cả những khu vực mà trước đó đã bị loại trừ. Bên cạnh đó, ASEAN đã ký kết Hiệp định và riêng rẽ, đó là Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện, nhằm tăng cường quan hệ và thắt chặt quan hệ đối tác kinh tế với Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ. Theo như những Hiệp định này thì ASEAN sẽ thành lập một khu vực tự do thương mại với Trung Quốc vào năm 2010, với Ấn Độ vào năm 2011, và với Nhật Bản vào năm 2012. Nội dung các Hiệp định này bao gồm các điều khoản quan trọng về đầu tư như tự do hoá, đơn giản hoá, hợp tác và phát triển. Vấn đề bảo hộ đầu tư cũng được đề cập đến một cách chính xác. Trong cuôc họp lần thứ 6 tại Phômpênh của Hội đồng AIA, khu vực dịch vụ được đặc biệt nhấn mạnh, chiếm 50% tổng FDI vào khu vực năm 2000-2002. Điều này cho thấy rằng khu vực dịch vụ ngày càng có tầm quan trọng lớn đối với nền kinh tế của mỗi nước thành viên. Hơn nữa, nhận thức được làn sóng mới của các cơ hội kinh doanh và phát triển toàn cầu trong lĩnh vực dịch vụ, mục tiêu mở rộng AIA bao gồm tất cả các ngành dịch vụ đã được thực hiện. Thành tựu quan trọng nữa mà các nước ASEAN đạt được đó là việc chuyển giao khu vực và các biện pháp trong danh mục nhạy cảm (SL) sang danh mục loại trừ tạm thời (TEL). Thêm vào đó, theo như các cam kết trong Hiệp định AIA, các nước thành viên ASEAN, dựa trên nền tảng cá nhân của mình, cũng đưa ra các biện pháp thích hợp để cải thiện thể chế đầu tư của mình. Một vài dự án về thúc đẩy và đơn giản hoá đầu tư đã được thực hiện thành công. Những dự án này nhằm mục đích tăng cường khả năng xây dựng, hội nhập khu vực, cải thiện tính trong sáng và sự hài hoà, cùng với việc cải thiện chất lượng dữ liệu về FDI được thực hiện với sự hỗ trợ của các bên đối thoại và các tổ chức quốc tế như UNCTAD. Hội đồng AIA tán thành việc tổ chức các cuộc đối thoại thường kỳ với các bên đối tác của ASEAN theo cơ chế hợp lý để thúc đẩy hợp tác đầu tư và thuận tiện cho việc trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề đầu tư. Đồng thời, Hội đồng AIA đồng ý tiến hành các cuộc đối thoại tích cực hơn với các đại diện doanh nghiệp ASEAN và ngoài ASEAN. Hội đồng AIA đã hoan nghênh việc thành lập tổ chức doanh nghiệp ASEAN đầu tiên và Hội nghị cấp cao về đầu tư vào tháng 10/2003 ở Bali, đây là một sự kiện quan trọng để thế giới có thể nhìn nhận ASEAN như một điểm đến quan trọng của đầu tư khu vực. Tại cuộc họp Hội đồng AIA lần thứ 7, Tổng thư ký ASEAN đã đánh giá cao mô hình hợp tác giữa các cơ quan đầu tư nước ngoài của Việt Nam và cơ quan hợp tác phát triển kinh tế Singapore (EDB), coi đây là mô hình có thể áp dụng vào việc thực hiện các thoả thuận của Hiệp định AIA. Đây là hợp tác song phương để đẩy mạnh thu hút FDI từ nước thứ 3, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia (TNCs). Các vấn đề liên quan tới khu vực đầu tư ASEAN không chỉ được bàn thảo tại các Hội nghị của Hội đồng AIA mà còn được đề cập tới trong các cuộc họp của CCI. Trong tất cả các Hội nghị của Hội đồng AIA cũng như trong các cuộc họp của CCI, hai nội dung xuyên suốt và chủ yếu là: + Vấn đề đẩy nhanh thời hạn cuối cùng về mở cửa và dành đối xử quốc gia cho tất cả các nhà đầu tư. + Vấn đề chuẩn bị các danh mục loại trừ tạm thời (TEL) và danh mục nhạy cảm (SL) đối với các ngành dịch vụ gắn liền với sản xuất, nông, lâm, ngư nghiệp và khai khoáng. Đây là hai nội dung được bàn đến nhiều nhất và cũng đòi hỏi sự đóng góp ý kiến nhiều nhất của các quốc gia tham gia ký kết Hiệp định AIA. Những kết quả tiến bộ mà các nước ASEAN đã đạt được đều là nhờ sự cố gắng nỗ lực đàm phán và việc nghiêm túc thực hiện các qui định ghi nhận trong Hiệp định AIA của các quốc gia thành viên. Điều này góp phần thúc đẩy việc nhanh chóng hình thành đầu tư trong khu vực đầu tư AIA theo đúng lộ trình các nước đã đề ra vào năm 2010. Cùng với những nỗ lực chung trong việc thực hiện các điều khoản trong Hiệp định AIA, bản thân các quốc gia thành viên cũng có những điều chỉnh trong chiến lược phát triển kinh tế và chính sách của mình để phù hợp với tiến trình của AIA. 3.2. Một số điều chỉnh trong biện pháp chính sách của các nước ASEAN trong lộ trình thực hiện Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN Ngoài việc áp dụng các biện pháp chính sách theo những điều khoản của Hiệp định AIA, các nước ASEAN cũng đưa ra những biện pháp chính sách khác nhau để cải thiện hơn nữa toàn bộ môi trường đầu tư. Những biện pháp mang tính cá nhân này cũng được khuyến khích trong Hiệp định AIA để tăng tính cạnh tranh của khu vực trong việc thu hút FDI. Các biện pháp hành động cá nhân này bao gồm việc cải thiện toàn bộ khung chính sách đầu tư, mở cửa các khu vực dành cho đầu tư nước ngoài, giảm chi phí kinh doanh thông qua việc giảm thuế, hợp lý và đơn giản hoá quá trình đầu tư, và các biện pháp đơn giản hoá đầu tư khác. Một số nét nổi bật của việc cải thiện chính sách quốc gia của các nước ASEAN trong năm 2002-2003 như: - Brunay đã tăng cường bảng phát triển kinh tế để tăng cường thu hút FDI vào nước mình, với mục tiêu thúc đẩy các ngành công nghiệp. - Campuchia sửa đổi luật về thuế và luật về đầu tư vào tháng 3/2003 để cải thiện môi trường đầu tư trong nước. Thời gian của tiến trình đầu tư giảm từ 45 xuống 28 ngày làm việc. - Inđônesia mở cửa nhiều hơn nữa các khu vực đối với FDI, và bỏ đi một số khu vực kinh doanh dành riêng cho các ngành công nghiệp địa phương có quy mô nhỏ. Đưa ra “năm đầu tư Inđônesia 2004-2005”, với những hoạt động cụ thể để thuận tiện cho dòng FDI vào trong nước. - Singapore sử dụng các biện pháp để giúp cải thiện tính cạnh tranh của đất nước đối với FDI. Thuế hàng hoá và dịch vụ ở mức 4% được áp dụng cho việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ ở Singapore và đối với việc nhập khẩu hàng hoá vào Singapore. Với kết quả này, từ tháng 1/2004. Mức thuế hàng hoá và dịch vụ đã tăng lên đến 5%. - Malaysia tự do hoá hơn nữa hiệu quả của chính sách cổ phần, cho phép 100% sở hữu nước ngoài trong khu vực sản xuất bằng cách loại bỏ danh mục loại trừ… Những biện pháp về thuế được đưa ra như là các bước để giảm chi phí kinh doanh trong nước. - Myanma đã áp dụng các biện pháp để đưa vào dần danh mục loại trừ tạm thời của mình theo như Hiệp định AIA và việc mở cửa các ngành công nghiệp nhiều hơn để thu hút FDI. Những điều này bao gồm việc sản xuất và marketing của các nguyên liệu xây dựng cơ bản, đồ dùng, sàn gỗ. - Philippin cũng mở cửa nhiều hơn các ngành công nghiệp thu hút FDI, cung cấp những ưu tiên thêm, thủ tục đầu tư hợp lý và quá trình áp dụng. - ThaiLan đưa ra các khuyến khích mới đối với công nghiệp ô tô và các dự án nghiên cứu phát triển. Những hạn chế trong việc phân vùng phần lớn được dỡ bỏ. Nhiều chính sách mới được đưa ra để thúc đẩy đầu tư trong những ngành công nghiệp như là trang sức đá quí, nông nghiệp, trung tâm thiết kế và in ấn. - Việt Nam đã tiến hành các bước tăng cường tính trong sáng cho việc khuyến khích về trợ cấp, cung cấp các thông tin chi tiết hơn về những quy tắc về việc thực hiện luật đầu tư trực tiếp nước ngoài, nới lỏng các yêu cầu hoạt động, khuyến khích tái đầu tư cho những nhà đầu tư nước ngoài tại nước mình, đơn giản hoá các thủ tục đầu tư. - Lào đã cải thiện môi trường đầu tư trong nước, đặc biệt là tính trong sáng và khả năng dự đoán trước được. Cùng với những thay đổi trong việc điều chỉnh cơ cấu và chiến lược phát triển kinh tế, cũng như trong biện pháp chính sách của mình, các nước ASEAN đã và đang góp phần thúc đẩy việc thực hiện Hiệp định AIA một cách nhanh chóng, tạo nền tảng cho việc sớm thành lập khu vực đầu tư ASEAN vào năm 2010. CHƯƠNG III MỘT SỐ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO 1. Việc hình thành hoạt động đầu tư tại CHDCND Lào 1.1. Việc thành lập cơ quan quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Lào Chính phủ nước CHDCND Lào thành lập cơ quan quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài có tên gọi là: Uỷ ban kế hoạch và hợp tác, Uỷ ban quản lý đầu tư hợp tác với nước ngoài và đầu tư trong nước. Là tham mưu của Chính phủ dựa trên sự chỉ đạo của thủ tướng chính phủ. Là cơ quan có nhiệm vụ quản lý việc thực hiện luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài, đồng thời có nhiệm vụ bảo vệ và khuyến khích đầu tư cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Lào, cơ quan này có nhiệm vụ hợp tác với các ngành các Bộ và các địa phương có liên quan trong việc tổ chức thực hiện đầu tư cho đúng với giấy phép đầu tư, bản thoả thuận kinh tế công nghệ và pháp luật CHDCND Lào. 1.1.1. Việc thành lập chi nhánh công ty đầu tư nước ngoài Đối với việc thành lập chi nhánh công ty đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào chỉ có: Công ty bảo hiểm, công ty tư vấn quốc tế hoặc công ty hàng không nước ngoài, ngân hàng hoặc cơ quan tài chính. Ngoài các công ty nói trên, không thể thành lập chi nhánh công ty đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào, đối với việc tiến hành hoạt động quản lý điều hành phải phù hợp với từng loại hình công ty và giống như công ty gốc. Điều kiện bổ sung thêm hoạt động kinh doanh hoặc xin thành lập chi nhánh công ty phải tập hợp những tài liệu cần thiết như sau: a. Đơn xin bổ sung thêm hoạt động kinh doanh hoặc xin thành lập chi nhánh. b. Bản thoả thuận kinh tế hoặc kế hoạch hoạt động kinh doanh. c. Bản photo giấy phép đầu tư, giấy đăng ký kinh doanh và giấy đăng ký thuế. d. Nghị quyết của Hội đồng quản lý hoặc Hội nghị của các cổ đông. e. Giấy chứng nhận đưa vốn đầu tư vào CHDCND Lào. f. Ý kiến của các địa phương có liên quan (Trong trường hợp xin thành lập chi nhánh). Đối với các quy tắc bổ sung Uỷ ban quản lý đầu tư sẽ quy định trong từng giai đoạn 1.1.2. Việc thành lập văn phòng đại diện Văn phòng đại diện là văn phòng đại diện có hoạt động với tư cách là công ty gốc, việc thành lập phải thực hiện như sau: - Việc thành lập văn phòng đại diện phải thành lập dựa trên cơ sở quy định của pháp luật CHDCND Lào. - Văn phòng đại diện sẽ không có nội quy riêng của mình mà hoạt động hoàn toàn dựa trên các quy định của pháp luật. - Việc quản lý điều hành là quản lý do chủ nhiệm 1 hoặc 2 do người theo công ty gốc trao cho. - Văn phòng đại diện phải hoạt động kinh doanh như sau: + Tìm hiểu, nghiên cứu tình trạng việc có thể đầu tư cho công ty gốc. + Là chỗ liên hệ trong nước và nước ngoài để tạo thuận lợi cho công ty gốc. + Ký kết đầu tư và các ký kết khác theo quyền hạn do công ty gốc trao cho + Kiểm tra, đánh giá việc thực hiện ký kết đầu tư, việc nhận thầu hoặc dịch vụ với tư cách là công ty gốc. - Giữ gìn sổ biên lai, sổ nhật ký và các vấn đề tài chính được coi là quan trọng. Đối với thời hạn của văn phòng đại diện là một năm và có thể thêm thời hạn nhưng phải tập hợp những tài liệu như sau: Đơn xin thêm thời hạn văn phòng đại diện. Giấy chứng nhận mục tiêu của công ty gốc. Giấy được uỷ quyền đại diện (Trường hợp có sự thay đổi) Bản báo cáo hoạt động trong năm trước và kế hoạch hoạt động tiếp theo của văn phòng. 1.2. Đơn xin đầu tư Đơn xin đầu tư nước ngoài bao gồm 2 loại: Đơn xin đầu tư trong biên lai kinh doanh khuyến khích hoặc là dự án không liên quan đến việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào hoặc quyền liên quan đến tài nguyên thiên nhiên, nhưng không có ảnh hưởng đến môi trường sức khoẻ và văn hoá của đất nước. Đơn xin đầu tư trong biên lai kinh doanh mở nhưng phải có điều kiện hoặc là dự án liên quan với việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào hoặc quyền liên quan đến tài nguyên thiên nhiên nhưng không ảnh hưởng nghiêm trọng cho môi trường, sức khoẻ và văn hoá đất nước. Trong việc lập hồ sơ xin đầu tư dựa theo mục tiêu của nhà đầu tư phải bao gồm những tài liệu như sau: Đơn xin đầu tư Nội quy của công ty Hợp đồng kinh doanh (Đối với doanh nghiệp hợp doanh) Bản thoả thuận kinh tế công nghệ hoặc kế hoạch hoạt động kinh doanh. Tài liệu chứng nhận tổ chức hoặc hoàn cảnh tài chính Đơn và các tài liệu phải nộp cho Bộ khuyến khích đầu tư kiểm tra, Bộ khuyến khích đầu tư sẽ cấp giấy chứng nhận tính chính xác của các tài liệu cho nhà đầu tư trong thời hạn 3 ngày. Sau đó nhà đầu tư gửi đơn xin Bộ nghiên cứu xem xét để tiến hành trong các bước tiếp theo của hoạt động đầu tư. 1.3. Các bước xem xét cho phép dự án đầu tư 1.3.1. Việc xem xét, cho phép dự án đầu tư trong biên lai khuyến khích đầu tư nước ngoài gồm các bước như sau a. Dự án có vốn đầu tư từ 1.000.000 USD trở xuống, Ủy ban quản lý đầu tư sẽ giới thiệu thông qua Hội nghị Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác, có sự tham gia của các Bộ, các ngành có liên quan, tùy từng trường hợp để xem xét cho phép hoặc trả lời không cho phép trong thời hạn không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ xin đầu tư. b. Dự án có trong biên lai kinh doanh khuyến khích đầu tư nước ngoài có vốn đầu tư từ 1.000.000 USD đến 5.000.000 USD, Ủy ban quản lý đầu tư gửi bản sao chép hồ sơ xin ý kiến với các ngành, các Bộ có liên quan trong nước trong thời hạn 3 ngày, việc nghiên cứu góp ý kiến của các ngành các Bộ và các địa phương có liên quan dựa theo chức năng nhiệm vụ liên quan với ngành của mình và trả lời bằng văn bản cho Ủy ban quản lý đầu tư trong thời hạn không quá 20 ngày, nếu không trả lời trong vòng thời hạn này sẽ coi là các ngành các Bộ đồng ý, Ủy ban quản lý đầu tư sẽ lấy ý kiến về chuyên môn của các ngành các Bộ có liên quan việc xem xét giới thiệu thông qua Hội thảo Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác để cho phép hoặc trả lời không cho phép trong thời hạn không quá 20 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ xin đầu tư. c. Dự án trong biên lai khuyến khích đầu tư có vốn đầu tư 5.000.000 đến 10.000.000 USD, Ủy ban quản lý đầu tư gửi bản sao chép hồ sơ xin ý kiến với các ngành các Bộ có liên quan trong vòng 3 ngày, việc nghiên cứu góp ý kiến của các ngành các Bộ có liên quan là dựa theo chức năng, nhiệm vụ liên quan của các ngành các Bộ có liên quan và trả lời bằng văn bản tới Ủy ban quản lý đầu tư trong vòng 20 ngày, nếu không trả lời trong vòng thời hạn này sẽ được coi là các ngành các Bộ có liên quan đồng ý, Ủy ban quản lý sẽ lấy ý kiến về chuyên môn của các ngành các Bộ có liên quan để làm chứng trong việc xem xét báo cáo qua Hội nghị Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác cho phép hoặc trả lời không cho phép trong thời hạn không quá 60 ngày kể từ ngày nhận được bản sao chép hồ sơ xin đầu tư 1.3.2. Việc xem xét đánh giá đơn xin phép đầu tư trong biên lai mở nhưng phải có điều kiện Ủy ban quản lý đầu tư sẽ gửi bản sao chép hồ sơ xin đầu tư của nhà đầu tư tới các ngành các Bộ có liên quan để lấy ý kiến trong thời hạn 3 ngày, việc nghiên cứu đóng góp ý kiến của các ngành các Bộ có liên quan phải dựa theo chức năng nhiệm vụ của mình và trả lời bằng văn bản tới Ủy ban quản lý đầu tư trong thời hạn không quá 20 ngày, nếu không trả lời trong vòng thời hạn này sẽ coi là các ngành các Bộ có liên quan đồng ý, Ủy ban quản lý đầu tư sẽ lấy ý kiến về chuyên môn của các ngành các Bộ và địa phương có liên quan để làm chứng trong việc xem xét cho phép hoặc trả lời không cho phép trong thời hạn không quá 60 ngày kể từ ngày mình nhận được bản sao chép hồ sơ xin đầu tư. Đối với việc đầu tư có vốn đầu tư hơn 10.000.000 USD hoặc dự án liên quan với việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào ban quản lý đầu tư sẽ gửi bản sao chép xin đầu tư với các ngành các Bộ có liên quan để xin ý kiến trong vòng 3 ngày. Việc nghiên cứu góp ý kiến của các ngành các Bộ có liên quan phải dựa theo chức năng, nhiệm vụ của mình và trả lời bằng văn bản cho Ủy ban quản lý đầu tư trong thời hạn 20 ngày, nếu không trả lời trong vòng 20 ngày sẽ coi là các ngành, các Bộ có liên quan đồng ý, sau đó có ý kiến của các ngành các Bộ có liên quan Ủy ban quản lý đầu tư sẽ báo cáo qua Hội nghị Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác để xem xét cho phép trong thời hạn 10 ngày, nếu Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác đồng ý sẽ đưa lên báo cáo với chính phủ để xem xét trong thời hạn không quá 30 ngày, sau đó Ủy ban quản lý đầu tư sẽ thông báo cho nhà đầu tư biết bằng văn bản trong thời hạn 3 ngày và tổ chức thực hiện theo các bước như sau: - Dự án trong biên lai khuyến khích, Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác sẽ cấp giấy phép đầu tư theo các bước đã quy định như sau: + Bản báo cáo của thủ tướng Chính phủ hoặc bản nhật ký của Hội nghị Ủy ban quản lý và hợp tác. + Bản sao chép những tài liệu chứng kiến địa điểm của dự án (Hợp đồng thuê hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu). + Bản sao chép hồ sơ xin đầu tư: sau khi đã nhận được giấy phép đầu tư, Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác sẽ cấp giấy phép đầu tư trong thời hạn 5 ngày. - Dự án liên quan đến việc xin nhượng quyền của CHDCND Lào hoặc liên quan đến tài nguyên thiên nhiên, Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác sẽ cấp giấy cho nhà đầu tư trong nước trong thời hạn 3 ngày để vào tư vấn và chuẩn bị tài liệu ký kết, chẳng hạn: Mẫu hợp đồng hoặc nhật ký tin tưởng hiểu biết mà không cần bỏ tiền bảo lãnh, sau đó Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác báo cáo Chính phủ để cho phép ký những tài liệu hồ sơ liên quan để làm cơ sở trong việc tiến hành các bước tiếp theo. Đối với việc xem xét cho phép dự án: điện lực, mỏ khoáng sản, và việc xin thuê hoặc nhượng quyền đất đai phải thực hiện theo pháp luật có liên quan của CHDCND Lào. 1.4. Vốn đăng ký và việc góp vốn Vốn đăng ký là vốn góp trong hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm như sau: - Đối với các hình thức của doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (Trừ văn phòng đại diện) sẽ có vốn đăng ký ít nhất là 1.000.000 USD trở lên. - Việc góp vốn có thể góp bằng tiền mặt hoặc vật chất cũng tùy theo hình thức của công ty đã quy định trong luật doanh nghiệp. Việc góp vốn bằng tiền mặt phải phù hợp với luật ngân hàng tại CHDCND Lào, còn vật chất phải thực hiện theo luật doanh nghiệp. - Trong việc xem xét, đánh giá trong việc nhập khẩu vật chất. Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể áp dụng tính giá qua người kiểm tra tự do, có sự đồng ý bằng văn bản từ ngân hàng tại CHDCND Lào trên cơ sở việc sử dụng vốn của doanh nghiệp, đối với việc góp vốn doanh nghiệp nước ngoài phải góp vốn ít nhất là 30% của vốn đăng ký. 1.5. Việc thay đổi các cơ sở khác của doanh nghiệp Việc thay đổi các cơ sở khác của doanh nghiệp có thể thay đổi hình thức các công ty hoặc vấn đề khác phải thực hiện như sau: - Khi doanh nghiệp nào đó ( Trừ văn phòng đại diện), đã được đăng ký vốn theo luật doanh nghiệp, việc thay đổi một trong các yêu tố sau được coi như là thay đổi cơ sở quan trọng của doanh nghiệp. a. Tên b. Địa điểm c. Thêm hoặc giảm mục tiêu kinh doanh e. Tất cả vốn hoặc vốn đăng ký f. Người cầm giữ cổ phiếu g. % cổ phiếu mà người cầm giữ cổ phiếu đang nắm giữ h. Việc chấm dứt hoặc tham gia vào công ty khác - Việc thay đổi cơ sở nói trên phải thực hiện phù hợp với luật doanh nghiệp, Ủy ban quản lý đầu tư sẽ cấp giấy chứng nhận công nhận việc thay đổi hoặc sửa đổi nội quy trong doanh nghiệp hoặc trong một số trường hợp nếu có sự thay đổi cơ sở quan trọng và kể cả các vấn đề khác. Ủy ban quản lý đầu tư giấy phép đầu tư hoặc công nhận các nội quy đã được sửa đổi mới hoặc bổ sung thay thế giấy phép đầu tư hoặc giấy công nhận nội quy cũ, nhưng thời hạn của doanh nghiệp mới sẽ tính kể từ ngày nhận được giấy phép đầu tư gốc, sau đó lấy các tài liều đã được công nhận hoặc sửa đổi mới đi đăng ký với cơ quan đăng ký kinh doanh và cơ quan thuế để xin giấy đăng ký kinh doanh và giấy đăng ký thuế mới theo quy định của pháp luật như sau: Đối với việc cấp giấy phép đầu tư, sau khi Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác cấp giấy phép đầu tư, Ủy ban quản lý đầu tư phải thông báo bằng văn bản cho nhà đầu tư biết trong thời hạn 3 ngày, nếu đã thông báo cho nhà đầu tư biết 3 lần trong vòng 60 ngày, nhưng nhà đầu tư không đến nhận giấy phép đầu tư hoặc không có câu trả lời Ủy ban quản lý đầu tư bằng văn bản, Ủy ban quản lý đầu tư và hợp tác sẽ coi giấy phép đó vô hiệu lực, và giấy phép đầu tư đó sẽ bị huỷ bỏ. Sau khi nhà đầu tư nhận được giấy phép đầu tư, phải lấy giấy phép đầu tư đó đi đăng ký kinh doanh với Bộ thương mại, việc đăng ký kinh doanh là việc công nhận chính thức trong việc tiến hành hoạt động kinh doanh. Sau khi Bộ thương mại cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, Bộ tài chính sẽ cấp giấy đăng ký thuế, việc cấp giấy đăng ký thuế để theo dõi, giám sát hoạt động của doanh nghiệp và lấy dấu với cơ quan ngang Bộ sau đó gửi đăng ký với cơ quan có thẩm quyển đăng ký, để cho doanh nghiệp trở thành pháp nhân chính thức, giấy đăng ký không thể chuyển giao cho người khác hoặc tổ chức nào đó nếu không có sự cho phép của Ủy ban quản lý đầu tư. 2. Quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại CHDCND Lào Đối với việc quản lý đầu tư nước ngoài, Ủy ban quản lý đầu tư các cấp có sự phân chia khu vực quản lý cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế để theo dõi, giám sát hoạt động của nhà đầu tư theo quy định của pháp luật. Việc quản lý đầu tư có sự phân chia như sau: 2.1. Việc phân cấp quản lý đầu tư - Nhà nước giao nhiệm vụ cho thẩm quyển cấp tỉnh, thành phố hoặc khu tự trị quản lý hoạt động kinh doanh có vốn đầu tư 100.000 USD đến 1.000.000 có địa điểm đầu tư trong khu vực quản lý của mình. - Nhà nước giao cho Bộ hoặc cơ quan ngang Bộ quản lý hoạt động kinh doanh có vốn nhiều hơn 1.000.000 USD trở lên và có địa điểm đầu tư trong khu vực quản lý của mình. Đối với việc dự án có thể hoạt động tại CHDCND Lào nếu dự án đã được cấp giấy phép bằng văn bản do Ủy ban quản lý đầu tư cấp và đã được đăng ký hợp pháp. Trong việc quản lý phải báo cáo hoạt động của nhà đầu tư cho cấp chính quyền trong từng giai đoạn. Việc kiểm tra và đánh giá kết quả đầu tư phải thực hiện theo nhiệm vụ của riêng mình. Việc kiểm tra phải thực hiện thường xuyên như sau: Báo cáo thường xuyên 6 tháng, 1 năm và trong vòng thời gian khác theo hợp đồng đầu tư. Việc kiểm tra, giám sát dự án đầu tư phải có sự đánh giá báo cáo cho cấp trên biết để tìm cách giải quyết cho phù hợp và kịp thời. Giải quyết các khiếu nại về đầu tư theo đúng thẩm quyền của mình, tuân theo pháp luật của CHDCND Lào và các Điều ước quốc tế có liên quan Trong trường hợp có sự cần thiết phải tiến hành kiểm tra, Ủy ban quản lý đầu tư phải thông báo cho nhà đầu tư biết trước 7 ngày. 2.2. Việc ngừng hoặc chấm dứt dự án đầu tư nước ngoài Việc ngừng hoặc chấm dứt dự án có nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc biệt là do phá sản của doanh nghiệp (Do luật doanh nghiệp điều chỉnh hoặc các ngành các Bộ có liên quan). 3. Quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư 3.1. Các quyền và lợi ích của nhà đầu tư Bao gồm: Quyền và lợi ích chung, quyền sử dụng đất, và quyền đặc biệt về thuế. a. Quyền và lợi ích chung: Ra vào CHDCND Lào - Đi lại tại CHDCND Lào, trừ khu vực cấm. - Quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt tài sản của mình theo quy định của pháp luật CHDCND Lào. - Quyền được giao nghĩa vụ, cổ phiếu và lợi ích cá nhân mình cho người khác. - Quyền chuyển giao việc chi trả, vốn, lợi nhuận, lãi phân chia thành lãi lương đầu tư của mình về đất nước của họ hoặc Quốc gia thứ 3. - Nhập khẩu tài sản và vật chất cần thiết liên quan với dự án, cán bộ và thành viên gia đình liên quan theo quy định của pháp luật. - Vận chuyển sản phẩm, hàng hoá hoặc dịch vụ khác. - Bảo vệ lợi ích của mình trước toà án hoặc cơ quan có thẩm quyển giải quyết tranh chấp. - Quyền khác đã quy định trong pháp luật và các ký kết với CHDCND Lào, chẳng hạn: thuế, ký kết đầu tư nào đó. b. Quyền sử dụng đất - Nhà đầu tư nước ngoài chỉ có quyền sử dụng đất đai với tư cách là người thuê. - Nhà đầu tư trong nước có thể tính giá trị đất đai góp thành vốn đăng ký. - Nếu doanh nghiệp bị chấm dứt khi hết thời hạn thuê đất đai thì hợp đồng cũng sẽ được chấm dứt. - Trường hợp đã trả tiền thuê rồi, nếu có sự chấm dứt người thuê có quyền đòi lại khoản tiền thuê mà mình đã trả, nhưng nếu người cho thuê góp thành vốn đăng ký của doanh nghiệp, người thuê sẽ không trả lại tiền thuê. - Doanh nghiệp, cán bộ của doanh nghiệp có thể làm chủ sở hữu nhà cao tầng, ngôi nhà và các căn hộ khác trong khu vực đất đã thuê theo thời hạn hợp đồng thuê. - Còn việc thực hiện nghĩa vụ của người cho thuê theo hợp đồng, trừ khi đã quy định tại hợp đồng riêng biệt khác. - Hợp đồng thuê phải thông qua sự công nhận và đăng ký với các ngành bộ có liên quan theo quy định của pháp luật. c. Quyền đặc biệt về thuế Việc nhập khẩu công cụ, máy móc, phương tiện sản xuất và vận chuyển cần thiết phục vụ cho việc sản xuất và xây dựng phải nộp thuế 1% phải phù hợp với tính chất điều kiện như sau: + Phương tiện: phục vụ cho việc sản xuất như: xe vận tải, xe ô tô, xe buýt và việc nhập khẩu phải phù hợp với quy mô vốn và sự cần thiết trên thực tế. Đối với ô tô nhỏ và phương tiện khác nếu có sự cần thiết Ủy ban quản lý đầu tư sẽ xem xét phù hợp và phải thực hiện theo pháp luật thuế của CHDCND Lào. + Vật chất, công cụ sử dụng trong việc xây dựng xí nghiệp và máy móc sản xuất: - Vật chất, công cụ đó không có tại Lào hoặc có nhưng không đáp ứng được đầy đủ cho việc sản xuất. - Đối với máy móc sẽ cho phép nhập khẩu trên cơ sở sự đồng ý của các ngành các Bộ có liên quan + Nguyên liệu: Là nhập khẩu để chế biến sản phẩm, đối với sản phẩm làm sẵn sẽ được xem xét trong trường hợp đặc biêt, dựa vào ý nghĩa, vai trò của việc đầu tư, ngoài ra còn phải chịu thuế kinh doanh, thuế sử dụng và trả phí theo quy định của pháp luật nước CHDCND Lào. 3.2. Nghĩa vụ của nhà đầu tư nước ngoài - Thực hiện nghĩa vụ về thuế - Mở tài khoản tại ngân hàng CHDCND Lào bằng tiền Kíp hoặc ngoại tệ - Sử dụng chế độ biên lai của CHDCND Lào, nếu chế độ biên lai Quốc tế sẽ dựa theo sự cần thiết của thành phần có liên quan - Cho ưu tiên với công dân Lào trong việc sử dụng lao động - Trước khi ký các hợp đồng nhà đầu tư nước ngoài phải có tiền bảo lãnh theo giá trị đã quy định trong nhật ký hoặc hợp đồng - Bảo vệ môi trường - Tôn trọng phong tục tập quán của nhân dân Lào - Báo cáo hoạt động kinh doanh của mình trên thực tế và theo thời hạn đã quy định - Thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định trong điều kiện của hợp đồng. 4. Giải quyết tranh chấp đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào Việc giải quyết tranh chấp đối với đầu tư nước ngoài chia làm 2 trường hợp: - Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với nhau - Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với CHDCND Lào 4.1. Giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với nhau Là giải quyết tranh chấp xảy ra giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư nước ngoài hoặc nhà đầu tư trong nước bao gồm cách thức giải quyết như sau: - Tranh chấp được giải quyết bằng hoà giải, Ủy ban quản lý đầu tư có thể góp ý kiến trong giai đoạn đầu, nhưng không có quyền quyết định hoặc không có quyền áp dụng nguyên tắc nào đó đối với các bên - Nếu việc hoà giải không thành, các đương sự có thể đưa vụ án tranh chấp lên giải quyết tại trọng tài hoặc toà án, trong trường hợp này các bên có thể thoả thuận trong hợp đồng. 4.2. Việc giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với CHDCND Lào - Tranh chấp được giải quyết bằng hoà giải, Ủy ban quản lý đầu tư có thể góp ý kiến trong giai đoạn đầu, nhưng không có quyền quyết định hoặc không có quyền áp dụng nguyên tắc nào đó đối với các bên - Nếu vụ tranh chấp không hoà giải được, các bên có thể giải quyết tại trọng tài nếu có thoả thuận. Trường hợp không có thoả thuận về thẩm quyền giải quyết thì các bên phải thực hiện như sau: Nếu vụ tranh chấp không giải quyết được trong vòng 3 tháng kể từ ngày có việc kiện tụng đầu tiên, một bên có thể đưa vụ tranh chấp lên cơ quan giải quyết tranh chấp Quốc tế hoặc sẽ được giải quyết do pháp luật của nước CHDCND Lào. Các đương sự có thể áp dụng các quy định giải quyết tranh chấp theo quy định của ICC (Toà án Quốc tế). Trong trường hợp các điều kiện khác không quy định trong hợp đồng của các đương sự phải thực hiện như sau: - Việc giải quyết tranh chấp phải được tiến hành tại Lào - Việc giải quyết vụ tranh chấp sẽ được bảo vệ do pháp luật của nước CHDCND Lào - Vụ tranh chấp phải làm thành tiếng Lào hoặc tiếng Anh. Luật bảo vệ luật đầu tư nước ngoài. Hợp đồng đầu tư nước ngoài sẽ được bảo vệ do pháp luật của CHDCND Lào, trừ các bên có thoả thuận khác liên quan đến pháp luật nước ngoài. KẾT LUẬN Trong xu thế chung của thế giới toàn cầu hoá nền kinh tế, thì không một quốc gia nào, dù phát triển hay đang phát triển có thể đứng ngoài cuộc. Bởi lẽ nền kinh tế thế giới là một thể thống nhất, có mối liên hệ chặt chẽ mà nếu quốc gia nào nằm ngoài thể thống nhất này đều sẽ có nguy cơ tụt hậu và bị tách ra khỏi sự phát triển chung của thế giới. Chính vì vậy, để phù hợp với xu thế chung của thế giới, chủ trương mở cửa, tiến hành hội nhập đa phương hoá các quan hệ quốc tế, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế, luôn là mục tiêu hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế của các quốc gia ASEAN. Các quốc gia ASEAN đã đi đến ký kết một Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN. Đề nghị này đã được đưa ra tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ V (12/1995) và chính thức được ký kết vào năm 1998 tại Phillipin, đấy cũng là một đỏi hỏi khách quan và hoàn toàn tất yếu đối với các nước ASEAN trước xu hướng chung của thế giới. Hiện nay, trước sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ của Trung Quốc và một số nước đang phát triển khác tác động mạnh mẽ tới các nước ASEAN, đặc biệt là sự chuyển hướng FDI của các nước sang Trung Quốc, các quốc gia ASEAN đã quyết định đẩy nhanh thời hạn hình thành khu vực đầu tư ASEAN, sớm hơn 5 năm so với dự kiến, đó là vào năm 2010 với các nước thành viên cũ và năm 2015 với các nước thành viên mới. Các nước ASEAN đẩy nhanh sự hình thành khu vực đầu tư ASEAN (AIA) với mong muốn là thong qua khu vực này, các nước ASEAN sẽ thúc đẩy hơn nữa tiến trình hợp nhất kinh tế các nước thành viên bằng cách đẩy mạnh đầu tư trực tiếp, tạo thuận lợi cho các luồng vốn đầu tư, công nghệ trong khu vực và đặc biệt là cạnh tranh với các nền kinh tế mới nổi khác trong việc thu hút FDI. Mục tiêu của AIA là thu hút nhiều FDI hơn từ các nước ASEAN lẫn các nước ngoài ASEAN, vì vậy ngay từ khi ký kết Hiệp định, các nước ASEAN đã nỗ lực không ngừng để từng bước thực hiện lộ trình của Hiệp định theo các quy định đã đề ra, nhằm tạo ra một môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn hơn đối với các nước đầu tư nước ngoài. Đồng thời, để hỗ trợ cho việc nhanh chóng thành lập khu vực đầu tư ASEAN, các nước ASEAN còn tăng cường mở rộng việc xúc tiến đầu tư và đẩy mạnh đối thoại với các đối tác quan trọng khác. Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) không chỉ mang lại cho các nước trong khu vực những điều kiện hấp dẫn về môi trường đầu tư và đẩy mạnh thu hút FDI, mà cùng với AFTA, nó góp phần giúp các nước này thúc đẩy nhanh sự hình thành một cộng đồng chung ASEAN vào năm 2015, với mục tiêu cuối cùng biến ASEAN thành ngôi nhà chung cho mọi công dân ASEAN, bởi ASEAN không chỉ là một cơ sở sản xuất mà còn phải là một thị trường của chính mình. Với tư cách là một nước ký kết Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN (AIA), một trong những Hiệp định quan trọng nhất của tổ chức khu vực, CHDCND Lào có nghĩa vụ tự do hoá hơn nữa môi trường đầu tư hiện tại của mình trong nỗ lực chung của tất cả các nước thành viên ASEAN, nhằm thiết lập một khu vực đầu tư ASEAN có tính cạnh tranh cao và hấp dẫn với môi trường đầu tư thông thoáng và rõ ràng hơn giữa các thành viên để có được các dòng đầu tư tự do vào khu vực ASEAN từ các nguồn trong cũng như ngoài ASEAN. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN Association of South East Asia Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á AIA ASEAN Investment Area Khu vực đầu tư ASEAN AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AEC ASEAN Economic Community Cộng đồng kinh tế ASEAN AFAS ASEAN Framework Agreement on Services Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ AICO ASEAN Industrial Cooperation Chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN AEM ASEAN Economic Ministerial Meeting Hội nghị bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN BOT Build, Operation and Transfer Xây dựng, hoạt động và chuyển giao BT Build and Transfer Xây dựng và chuyển giao BTO Build, Transfer and Operation Xây dựng, chuyển giao và hoạt động CCI Uỷ ban điều phối đầu tư ASEAN CMLV Campuchia, Myanma, Lào, Việt Nam FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài FTA Free Trade Agreement Hiệp định Thương mại tự do IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ Quốc tế IPA Investment Promotion Agency Cơ quan xúc tiến đầu tư NIEs New Industrial Economics Các nền kinh tế công nghiệp mới SL Sensitive List Danh mục nhạy cảm TEL Temporary Exclusive List Danh mục loại trừ tạm thời UNCTAD United Nations Conferrence on Trade and Development Hội nghị Thương mại và Phát triển của Liên Hợp Quốc WTO World Trade Organization Tổ chức Thương Mại Thế giới GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội CHDCND Lào Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào DANH MỤC SÁCH - TÀI LIỆU THAM KHẢO NHÓM TIẾNG VIỆT Học viện quan hệ quốc tế (2005), Giáo trình kinh tế đối ngoại Việt nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN Nghị định thư sửa đổi Hiệp định khung về Khu vực đầu tư ASEAN Phạm Đức Thành (4/2005), Đông Nam Á : Hiện trạng và vấn đề, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4 (73) 2005 Tuổi trẻ Online, “Nền kinh tế Trung Quốc thách thức đối với ASEAN”. Võ Thanh Thu (2003), Quan hệ kinh tế quốc tế, NXB Thống kê. NHÓM TIẾNG NƯỚC NGOÀI ASEAN Secretariat, ASEAN Investment Report 2003 Joint Press Statement of the Fourth Meeting of the ASEAN Investment Area Ministerial Council, Hanoi, 14 September 2001 Joint Press Statement of the Sixth Meeting of the ASEAN Investment Area Ministerial Council, Phnom Penh, Cambodia, 1 September 2003 Nguồn ASEAN FDI Database – 29/12/2006 Những nội dung cơ bản luật khuyến khích đầu tư trong nước và nước ngoài tại CHDCND Lào (dịch giáo trình luật học của Lào) Luật khuyến khích và quản lý đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào 1994. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (56).doc
Tài liệu liên quan