Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ CẠNH TRANHCÁC TIÊU CHÍ ĐO LƯỜNG NĂNG LỰC CẠNH TRANHCỦA NHTM TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Chương 2: PHÂN TÍCH NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNGTHƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐỌAN HỘI NHẬP
Chương 3: CÁC ĐỀ XUẤT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
Tài liệu 83 trang. Down về để xem chi tiết
83 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tăng cường năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập Quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gây chậm
trễ trong quá trình ra quyết định của các NHTM QD, làm giảm tính năng động và
khả năng thích nghi của các ngân hàng này trong một môi trường cạnh tranh biến
động không ngừng.
So với các NHTM QD, các NHTM CP tự chủ hơn và có định hướng đầu tư rõ ràng
hơn, khả năng thích nghi với thị trường cao hơn, chất lượng tài sản và chất lượng
danh mục đầu tư tốt hơn. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại có quá nhiều ngân hàng
cổ phần với mức vốn giới hạn cùng tồn tại và hoạt động trong một quy mô thị
trường nhỏ bé, làm giảm tính cạnh tranh do phải chia xẻ một thị phần khiêm tốn,
không khai thác được lợi thế theo quy mô và chia xẻ được chi phí đầu tư hạ tầng kỹ
thuật.
Trong cơ cấu phân chia thị trường cũng có nhiều vấn đề cần bàn luận. Các NHTM
QD thường nhận được những ‘ưu ái” đặc biệt chỉ định tham gia vào các dự án lớn
của Chính phủ mà không chịu bất kỳ sự cạnh tranh nào từ nhóm các NHTM CP
hoặc ngân hàng nước ngoài, được miễn các quy định về giới hạn cho vay tối đa khi
tham gia vào các dự án này. Tính cạnh tranh lành mạnh và cơ cấu cân bằng của thị
trường vốn bị phá vỡ khi một nhóm các nhà kinh doanh nắm giữ hơn 70% thị phần
(các NHTM QD) lại được đối xử và kinh doanh theo cơ chế bán thị trường.
Thị trường cầu tín dụng Việt Nam đang tách ra thành hai nhóm chính: các doanh
nghiệp lớn (khoảng vài trăm doanh nghiệp, trong đó chiếm đa số là các DNNN);
các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh) với số lượng
tăng lên hàng ngày. Các NHTM QD, với ưu thế về nguồn vốn và mối quan hệ lâu
53
đời cùng chủ sở hữu nên chỉ tập trung phục vụ chủ yếu cho nhóm các doanh nghiệp
lớn. Các NHTM CP quy mô vốn nhỏ hơn phục vụ cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ, nhưng do những giới hạn về năng lực hệ thống nên chỉ lựa chọn những doanh
nghiệp tốt nhất trong nhóm để tham gia đầu tư. Một cơ cấu thị trường phân chia như
vậy rõ ràng chưa đáp ứng được những yêu cầu về phân tán độ rủi ro cũng như cản
trở nghiêm trọng các cơ hội cho vay và sinh lãi của ngân hàng.
2.2.2.2.3 Năng lực tài chính
Điểm yếu về năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam thể hiện ở quy
mô vốn và tài sản thấp (tổng vốn điều lệ cũng như tổng tài sản của các ngân hàng
thương mại Việt Nam chỉ bằng một ngân hàng có quy mô trung bình ở khu vực
Châu Á), tỷ lệ nợ xấu cao và khả năng sinh lời kém (các NHTM QD). Các ngân
hàng Việt Nam sẽ gặp khó khăn khi áp dụng các chuẩn mực quốc tế trong tình trạng
vốn thấp (khó đạt được hệ số an toàn vốn tối thiểu 8%), khả năng tích lũy nội bộ và
bổ sung vốn (cả từ nguồn ngân sách lẫn cổ phần hoá) đang gặp khó khăn trong khi
tốc độ tăng trưởng tín dụng lại khá nhanh ( bình quân khoảng 25% trong giai đoạn
2000 – 2006) ; khó khăn trong việc gia tăng đầu tư hạ tầng kỹ thuật hiện đại làm
giảm sức mạnh cạnh tranh so với nhóm ngân hàng nước ngoài.
Mặc dù bị giới hạn về khả năng tài chính, các ngân hàng Việt Nam hiện lại đang ráo
riết trong cuộc đua lãi suất và mở rộng mạng lưới để giành thị phần. Với việc cắt
giảm biên độ chênh lệch lãi suất đầu ra và đầu vào thấp hơn mức an toàn, mở rộng
mạng lưới theo kiểu “đón đầu”, cuộc đua này có thể dẫn đến rủi ro tất cả cùng suy
yếu khi các ngân hàng nước ngoài, với tiềm lực tài chính mạnh hơn và chiến lược
marketing hiệu quả được tháo bỏ những giới hạn quản lý kỹ thuật cùng tham gia.
2.2.2.2.4 Hạ tầng kỹ thuật
Hệ thống quản lý rủi ro và thanh toán nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt
Nam chưa thực sự mạnh, hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ chưa hiệu quả, hệ
thống thông tin quản lý tập trung và hệ thống kế toán, quản lý tài chính đang ở giai
đoạn đầu điều chỉnh theo các thông lệ quốc tế.
Các ngân hàng Việt Nam mới bắt đầu làm quen với cơ cấu quản trị ngân hàng hiện
54
đại trong khoảng 5 năm gần đây; các khái niệm quản trị rủi ro, quản lý danh mục
đầu tư, quản lý tài sản nợ - tài sản có,… vẫn là những khái niệm mới mẻ, đòi hỏi
phải có thêm thời gian, nhân lực đủ trình độ tiếp nhận và đưa vào vận hành.
Hệ thống phát triển sản phẩm cũng chưa đủ mạnh, các ngân hàng vẫn chủ yếu cung
cấp các sản phẩm tín dụng cơ bản và truyền thống, các sản phẩm ngân hàng phái
sinh như bao thanh toán, hoán đổi, kỳ hạn,… mới chỉ được triển khai ở một số ít
ngân hàng.
Về hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin: hầu hết các ngân hàng đều đã xây dựng
được hệ thống LAN, WAN kết nối theo chiều dọc. Tuy nhiên, về các phần mềm
quản lý hệ thống, mới chỉ có một số ngân hàng mạnh, có tiềm lực tài chính có khả
năng đầu tư theo kịp sự phát triển hệ thống như SBS, TCBS, CLMS.
2.2.2.3 Cơ hội
2.2.2.3.1 Một sân chơi mới với phạm vi mở rộng và luật lệ minh bạch, công bằng
Cũng như các ngành nghề kinh doanh khác, trong xu thế toàn cầu hoá và tự do hoá
thương mại, tham gia vào các hiệp định thương mại khu vực và quốc tế, các ngân
hàng Việt Nam sẽ có cơ hội gia nhập vào một thị trường mở rộng lớn hơn, mà trong
đó các quy luật, nguyên tắc thị trường được áp dụng triệt để hơn.
Tự do hoá thương mại thông qua việc gia nhập vào WTO, các hiệp định thương mại
với các nước và khu vực sẽ tạo điều kiện phát triển xuất khẩu, thu hút dòng vốn
FDI; kinh tế phát triển làm tăng nhu cầu và cơ hội cho vay cũng như huy động vốn
của ngân hàng. Các doanh nghiệp có nhiều cơ hội làm ăn hiệu quả hơn cũng đồng
nghĩa với nhu cầu vốn tín dụng nhiều hơn, khả năng trả nợ tốt hơn hay chất lượng
danh mục đầu tư của ngân hàng sẽ tốt hơn, khả năng sinh lời cao hơn; từ đó tạo điều
kiện để ngân hàng tiếp cận thị trường vốn, tăng vốn chủ sở hữu, mở rộng mạng
lưới,…
Cùng với việc thực thi Hiệp định thương mại Việt Mỹ (BTA) và gia nhập Tổ chức
thương mại quốc tế (WTO) là việc đưa ra một khung thời gian để các doanh nghiệp
chuẩn bị cho việc cạnh tranh bình đẳng theo quy luật thị trường, minh bạch hoá quy
định luật lệ. Khi tính minh bạch được đề cao, chi phí thẩm định và chi phí rủi ro
55
trong các quyết định đầu tư tín dụng sẽ thấp hơn, đây là một khoản lợi không nhỏ
cho cả “bên bán” (các ngân hàng) và “bên mua” (các doanh nghiệp vay vốn).
Thị trường vốn, trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hóa thương mại, được kỳ vọng
sẽ phát triển nhanh chóng, chia xẻ bớt gánh nặng huy động vốn trung dài hạn cho hệ
thống ngân hàng. Khi đó, các ngân hàng sẽ có thể tập trung vào mảng tín dụng ngắn
hạn, tín dụng tiêu dùng và dịch vụ tài chính, những mảng hoạt động ít rủi ro hơn mà
khả năng sinh lời cũng cao hơn.
2.2.2.3.2 Gia tăng sức mạnh cạnh tranh cùng với sự tham gia cuả nhóm các ngân
hàng nước ngoài
Sự tham gia của nhóm các ngân hàng nước ngoài vào thị trường tài chính – tiền tệ
Việt Nam, về mặt tích cực có thể thấy sẽ mang lại những “luồng gió mới” trong
hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
- Sự tham gia của nhóm các ngân hàng nước ngoài tạo “kích lực” buộc các ngân
hàng Việt Nam phải đổi mới hoạt động điều hành, nâng cao chất lượng dịch vụ nếu
muốn có cơ hội tiếp tục tồn tại và phát triển trong một môi trường cạnh tranh bình
đẳng không còn sự “bảo bọc” của Chính phủ. Có thể dễ dàng nhận ra những biến
chuyển của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ những năm 2003 trở về đây, nhất là
trong nhóm các NHTM CP, khi đẩy mạnh đầu tư cho công nghệ, tiếp thị, nghiên
cứu và ứng dụng sản phẩm mới, phát triển mạng lưới. Kết quả của quá trình này là
các ngân hàng trở lên mạnh hơn, cạnh tranh hơn và khách hàng của họ có cơ hội
được chọn lựa nhiều sản phẩm, dịch vụ với chất lượng cao hơn.
- Khi các hạn chế về sở hữu nước ngoài trong các ngân hàng Việt Nam được dỡ bỏ
theo các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và cam kết khi gia nhập
WTO, các ngân hàng nước ngoài sẽ coi đây là một cơ hội đầu tư, mua cổ phần và
tham gia vào hoạt động điều hành của các NHTM Việt Nam. Đây vừa là cơ hội cho
các ngân hàng Việt Nam huy động thêm vốn mở rộng mạng lưới, vừa là con đường
ngắn nhất giúp các ngân hàng Việt Nam tiếp cận và học hỏi trực tiếp các phương
thức quản trị rủi ro chuyên nghiệp, các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Ngoài
ra, việc cổ phần được nắm giữ bởi các ngân hàng quốc tế cũng sẽ cải thiện đáng kể
56
uy tín và hình ảnh các ngân hàng Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư và công
chúng.
2.2.2.3.3 Gia tăng nhu cầu
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo cơ hội cho nền kinh tế tăng trưởng
và phát triển. Nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội kinh
doanh hơn, người dân sẽ có thu nhập cao hơn, dẫn đến nhu cầu về tín dụng sản xuất,
tín dụng tiêu dùng và đặc biệt là nhu cầu về các dịch vụ tài chính – ngân hàng sẽ
cao hơn và đa dạng hơn. Cầu mở rộng, là cơ hội cho các ngân hàng cạnh tranh và
phát triển nếu biết tìm cho mình một chiến lược và thị trường riêng.
Được xem là một nền kinh tế phát triển năng động nhất trong khu vực, với mục tiêu
của Chính Phủ là duy trì tăng trưởng GDP ở mức 7,5% - 8% trong giai đoạn 2006 –
2000, tham gia vào nền kinh tế toàn cầu thông qua việc gia nhập WTO (11/2006),
dự báo tăng trưởng tín dụng sẽ gấp đôi tăng trưởng GDP, nhu cầu dịch vụ tín dụng
ngân hàng sẽ còn tiếp tục tăng cao không chỉ ở các sản phẩm truyền thống (cho vay,
huy động tiền gửi) mà còn mở rộng sang các dịch vụ ngân hàng hiện đại như thanh
toán, sản phẩm phái sinh,…
Xem xét các điều kiện cầu về dịch vụ ngân hàng sẽ thấy được những yếu tố tác
động làm tăng cầu dịch vụ ngân hàng:
- Biến đổi về cơ cấu dân cư (dân số trẻ hoá với hơn 70% ở độ tuổi dưới 30, tập
trung chủ yếu ở tầng lớp có thu nhập từ trung bình trở lên), quá trình đô thị hoá
mạnh mẽ và sự chuyển dịch, di dân từ nông thôn ra thành thị, sự gia tăng các khu
công nghiệp/khu chế xuất,… dẫn đến gia tăng số lượng doanh nghiệp và cá nhân có
nhu cầu dịch vụ ngân hàng.
- Sự gia tăng của số người Việt Nam sống/làm việc ở nước ngoài, chủ trương
khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài (Việt Kiều) về Việt Nam sinh
sống, làm việc, đầu tư,… làm gia tăng nhu cầu chuyển ngoại tệ và các dịch vụ thanh
toán ngân hàng.
- Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam gia tăng, dẫn đến gia tăng nhu cầu
tiêu dùng làm tăng cầu tín dụng cho cả khu vực sản xuất, thương mại phục vụ và tín
57
dụng dân cư tiêu dùng cũng như các dịch vụ ngân hàng khác.
- Hoạt động thương mại nội địa và quốc tế phát triển mạnh mẽ, số lượng doanh
nghiệp gia tăng làm tăng cầu tín dụng và dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ
tiền tệ, ngoại hối và thanh toán quốc tế.
- Cơ sở hạ tầng phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ thông tin, tạo điều kiện
phát triển các dịch vụ, tiện ích hiện đại của ngân hàng.
2.2.2.4 Thách thức
2.2.2.4.1 Tác động ngoại sinh từ thị trường tài chính khu vực và quốc tế
Mở cửa thị trường tài chính nội địa, tự do hoá dòng vốn ra và vào, cùng với sự tham
gia của các tổ chức tài chính nước ngoài có thể làm gia tăng những rủi ro ngoại sinh
cho hệ thống: rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất và chu chuyển vốn. Cuộc khủng hoảng tài
chính Đông Á năm 1997 là một cảnh báo điển hình. Khi các dòng vốn nước ngoài
đổ vào, với một mức đô la hoá cao (mức đô la hoá hiện nay của Việt Nam ở khoảng
31% và đang tăng lên), những tác động rất nhỏ của thị trường thế giới cũng có thể
tác động dẫn đến những gãy đổ dây chuyền của hệ thống ngân hàng Việt Nam với
tiềm lực tài chính hạn chế. Đồng thời, khả năng tận dụng lợi thế về chênh lệch lãi
suất, tỷ giá giữa thị trường trong nước và quốc tế cũng bị xoá dần.
2.2.2.4.2 Về phiá cầu
Hiện nay, xu hướng phân hoá cầu của ngành tài chính – ngân hàng ngày một trở lên
rõ nét: một bên là nhóm khách hàng các doanh nghiệp dẫn đầu về quy mô, hiệu quả,
tầng lớp dân cư có thu nhập cao và ổn định; một bên là các khách hàng còn lại.
Đối với các doanh nghiệp dẫn đầu và các cá nhân có thu nhập cao: là nhóm khách
hàng sinh lợi cao, độ rủi ro thấp nhưng yêu cầu rất cao về tính phức tạp và chất
lượng của dịch vụ; đây cũng là nhóm khách hàng mục tiêu của các ngân hàng nuớc
ngoài. Cạnh tranh để có được nhóm khách hàng vay chất lượng cao này, các ngân
hàng Việt Nam sẽ phải đưa ra các điều kiện tín dụng ưu đãi, các sản phẩm nhiều
tính năng, dịch vụ có tính chuyên nghiệp cao, phí thấp,... (những điểm này đang là
thế mạnh của các ngân hàng nước ngoài).
Trong quá trình tự do hóa thương mại, cắt giảm bảo hộ sản xuất trong nước, một số
58
ngành, đơn vị sẽ được hưởng lợi nhưng cũng có một số ngành sản xuất thay thế
nhập khẩu bị ảnh hưởng mạnh, gián tiếp làm ảnh hưởng đến các ngân hàng tham
gia đầu tư tín dụng (chủ yếu là các NHTM QD). Khả năng quản lý và chịu đựng rủi
ro cũng như khả năng tái cơ cấu lại danh mục đầu tư trở thành một thách thức lớn
đối với các ngân hàng này nói riêng cũng như tòan bộ hệ thống ngân hàng Việt
Nam nói chung.
Gia tăng tỷ lệ thu nhập dịch vụ phi tín dụng trong tổng thu nhập cũng là một vấn đề
lớn đối với các ngân hàng Việt Nam. Đây là một xu hướng của tất cả các ngân hàng
hiện đại do tính an tòan cũng như ổn định của nguồn thu này. Tuy nhiên, doanh thu
từ dịch vụ không thể tăng nhanh như doanh thu từ tín dụng, trong khi chi phí đầu tư
công nghệ ban đầu khá cao, thời gian hoàn vốn dài nên các ngân hàng nhỏ sẽ bị hạn
chế khả năng tham gia vào lĩnh vực này, trừ khi đi thuê lại cơ sở hạ tầng của các
ngân hàng lớn. Hệ thống điều tiết và quản lý cũng phải được đầu tư phát triển song
song với tốc độ phát triển dịch vụ nhằm theo dõi và giảm tính rủi ro hệ thống khi
ngày càng có nhiều ngân hàng tham gia vào lĩnh vực này.
2.2.2.4.3 Về phiá cung
Cạnh tranh đối với các ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn sắp tới, không chỉ khắc
nghiệt hơn mà còn từ nhiều nguồn hơn. Tham gia vào thị trường tài chính – tiền tệ
không chỉ có các ngân hàng mà còn có các định chế tài chính phi ngân hàng như các
công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư,... cùng hoạt động huy động tiền gửi và cho vay
dài hạn. Điều này làm gia tăng chi phí huy động vốn, cho vay; buộc các ngân hàng
phải linh họat hơn trong việc tìm các nguồn đầu vào, đầu ra với các công cụ, sản
phẩm mới.
Trong nội bộ ngành, cạnh tranh trực tiếp với các ngân hàng nước ngòai sẽ khác
nhau trên từng phân khúc thị trường, từng lọai sản phẩm. Họat động của các ngân
hàng nước ngòai có thể không giới hạn trong phân khúc khách hàng vay cao cấp,
các công ty, tập đòan lớn với các giao dịch liên quan với vốn đầu tư nước ngòai, tập
trung ở khu vực đô thị mà cũng có thể mở rộng sang các phân khúc khác; không chỉ
sử dụng nguồn vốn huy động từ thị trường nước ngòai để đầu tư tại Việt Nam mà
59
cũng có thể huy động từ chính thị trường Việt Nam. Khả năng xây dựng và chiếm
được sự tin cậy từ thị trường huy động, cho vay nội địa của các ngân hàng nước
ngoài là rất cao do ảnh hưởng của bề dày thương hiệu và kinh nghiệm họat động.
2.2.2.4.4 Hiện đại hoá ngân hàng
Do công nghệ ngân hàng thay đổi rất nhanh, hiện đại hóa ngân hàng trở thành yêu
cầu cấp bách và thường xuyên nhằm đảm bảo tính cạnh tranh.
Đa số các ngân hàng Việt Nam, trong đó đặc biệt là các NHTM QD, công nghệ còn
lạc hậu trong khi số lượng khách hàng và khối lượng số liệu lại rất lớn, nên việc
chuyển đổi dữ liệu khi nâng cấp các phần mềm quản lý là một trở ngại lớn; nhưng
nếu chậm nâng cấp và cập nhật các công nghệ quản lý mới thì càng bất lợi. Việc
đầu tư công nghệ mới của các ngân hàng Việt Nam vẫn đang bị bó buộc vào khả
năng tài chính cũng như khả năng tiếp nhận của nguồn nhân lực.
Tại thời điểm hiện tại, đối với “công nghệ cứng” đầu tư hệ thống công nghệ thông
tin bảo mật thông tin của khách hàng, các giải pháp chống lấy cắp tài khoản và thẻ
ngân hàng đang là vấn đề nan giải của các ngân hàng Việt Nam. Về “công nghệ
mềm”, đó là công nghệ quản lý và quản trị điều hành ngân hàng hiện đại: quản lý
rủi ro và phê duyệt tín dụng tập trung, quản lý danh mục đầu tư, mô hình bán hàng
trực tiếp,…Các ngân hàng thương mại cổ phần tỏ ra khá nhanh nhạy trong lĩnh vực
này, trong khi các ngân hàng quốc doanh vẫn “loay hoay” do những ràng buộc khó
phân định giữa quyền sở hữu, quản lý và các quy chế hoạt động.
2.2.2.4.5 Cổ phần hoá ngân hàng
Cổ phần hoá được xem là đáp áp của bài toán nâng cao hiệu quả hoạt động của các
NHTM QD, nhưng hiện cũng đang là một thách thức lớn của hệ thống ngân hàng
Việt Nam. Để có thể tiến hành được quá trình cổ phần hoá, công việc trước tiên của
các NHTM QD là phải “dọn dẹp” xong các khoản nợ xấu, sau đó xây dựng mục
tiêu, chiến lược và một lộ trình cổ phần hoá khả thi.
Với mục tiêu được xác định là tăng cường hiệu quả hoạt động, khả năng sinh lời,
quản trị, tăng vốn và hoạt động theo cơ chế thị trường vì mục tiêu lợi nhuận, quá
trình cổ phần hoá phải “đương đầu” với các vấn đề như định giá doanh nghiệp, xác
60
định tỷ lệ nắm giữ vốn chủ sở hữu của nhà nước, lựa chọn cổ đông chiến lược và
xác định lịch trình thực hiện và thời điểm IPO.
Tóm lại, ngành ngân hàng Việt Nam đã trải qua một quá trình tái cơ cấu và đổi mới
sâu sắc, hoạt động kinh doanh, dịch vụ của các NHTM Việt Nam nói riêng đã có
những bước tiến đáng kể. Những bước tiến này được thể hiện trong việc cải thiện
môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng mà những thành tựu và thay đổi quan
trọng đạt được trong những năm qua đã phần nào phản ánh.
Tuy nhiên, khi so sánh với các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới, mặc dù các
tổ chức tín dụng trong nước đã có nhiều nỗ lực trước nhu cầu cấp thiết của hội nhập
quốc tế, sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng VN vẫn còn yếu, hệ thống vẫn còn
đang ở trong giai đoạn phôi thai và cách xa so với các ngân hàng trong khu vực:
- Quy mô ngân hàng còn quá nhỏ bé.
- Trình độ quản lý và giám sát của các ngân hàng còn yếu. Năng lực đánh giá dự án,
giám sát tín dụng và việc áp dụng các công nghệ ngân hàng hiện đại còn yếu.
- Các dịch vụ ngân hàng tiên tiến, các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại chưa được phát
triển, hoặc phát triển chưa đồng bộ. Các điều kiện cần thiết để thực hiện các dịch vụ
ngân hàng còn thiếu.
- Chưa có sự gắn kết và phối hợp giữa các Ngân hàng thương mại nên hiệu quả khai
thác còn thấp và tăng chi phí hoạt động.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của các ngân hàng và nền kinh tế chưa được thống nhất và
đồng bộ. Điều này đã kìm hãm và gây nhiều trở ngại cho sự phát triển hoạt động
dịch vụ ngân hàng, giảm sức cạnh tranh của ngân hàng. Vẫn còn những sự can thiệp
của Nhà nước làm giảm môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD.
- Các dịch vụ ngân hàng truyền thống còn chứa đựng nhiều rủi ro ở cả nguồn vốn
và hoạt động cho vay, chất lượng tín dụng chưa cao, nợ quá hạn còn chiếm tỷ lệ
cao.
- Các dịch vụ ngân hàng tiên tiến như quản lý tài sản, tư vấn tài chính, ngân hàng
điện tử, môi giới tiền tệ, trung gian và hỗ trợ tài chính, mua bán các công cụ tài
61
chính, cung cấp và chuyển giao thông tin tài chính chưa phát triển.
- Nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao vẫn tiếp tục thiếu hụt do tốc độ phát
triển, mở rộng nhanh mạng lưới cũng như do lực hút cạnh tranh nhân lực của nhóm
các ngân hàng nước ngoài khi tham gia vào thị trường Việt Nam và các lĩnh vực tài
chính liên quan khác đang tăng trưởng nóng (chứng khoán, bảo hiểm, quỹ đầu tư,
công ty tài chính,…).
Trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay, thế mạnh cạnh tranh của các NHTM
Việt Nam chủ yếu chỉ dựa vào mạng lưới phân phối sâu và rộng khắp; khả năng am
hiểu văn hoá địa phương, am hiểu khách hàng, đặc biệt là nhóm khách hàng doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng như khách hàng cá nhân, hộ gia đình. Tuy nhiên, những ưu
thế này chỉ có giá trị trong giới hạn thị trường bán lẻ; và cũng khó duy trì khi các
ngân hàng nước ngoài được dỡ bỏ hoàn toàn các giới hạn trong hoạt động, lại được
sự hỗ trợ mạnh mẽ của công nghệ thông tin và tiềm lực tài chính.
Như vậy, từ những phân tích trên có thể thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đang
còn phải đối mặt với những thách thức và khó khăn lớn trong giai đoạn hội nhập
quốc tế hiện nay.
62
Chương 3
CÁC ĐỀ XUẤT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ
3.1 Hội nhập quốc tế và các tác động của hội nhập quốc tế đến khả năng cạnh
tranh của hệ thống NHTM Việt Nam
Tự do hoá tài chính và quốc tế hoá các hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng là
một xu hướng tất yếu và ngày càng phát triển mạnh mẽ, tác động trực tiếp đến năng
lực cạnh tranh của các ngân hàng. Việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO) đã đẩy nhanh tiến trình hội nhập này.
Tự do hoá và quốc tế hoá đang đem đến cho hệ thống ngân hàng Việt Nam cơ hội
hoạt động trong một sân chơi rộng lớn hơn, công bằng hơn mà trong đó mọi hoạt
động đều được điều tiết theo cơ chế thị trường, chính sách và thể chế minh bạch;
cầu đa dạng và gia tăng mạnh; cơ hội tiếp công với công nghệ hiện đại và những
nguồn vốn lớn; tạo động cơ đổi mới để cạnh tranh,…
Tuy nhiên, quá trình này cũng đang và sẽ mang lại một số tác động tiêu cực có thể
kể đến như:
- Những tác động mang tính dây chuyền từ thị trường bên ngoài : giá cả, tỷ giá, lãi
suất, chu chuyển vốn,… có thể ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống khi dòng vốn lưu
thông ra vào tự do.
- Sự thôn tính của các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng nội địa: tại thị
trường Việt Nam các ngân hàng nước ngoài đang theo đuổi chiến lược tăng trưởng
dựa vào nội lực và đầu tư chiến lược vào các ngân hàng trong nước. Chiến lược thứ
nhất sẽ đảm bảo tăng trưởng một cách vững chắc trong khi chiến lược thứ hai giúp
các ngân hàng nước ngoài tận dụng được hệ thống phân phối của các ngân hàng nội
điạ, làm quen với văn hoá tín dụng của địa phương. Tại thời điểm hiện tại, khi rào
cản kỹ thuật về tỷ lệ nắm giữ cổ phần của đối tác nước ngoài tại các ngân hàng nội
địa đang được giới hạn, nguy cơ bị thôn tính vẫn nằm trong tầm kiểm soát của
63
Chính phủ. Tuy nhiên, khi các rào cản được dỡ bỏ, khả năng các ngân hàng nước
ngoài biến các ngân hàng nội địa thanh một mắt xích trong hệ thống phân phối của
họ là một đều hoàn toàn có thể xảy ra.
- Chuyển dịch thị phần: chuyển dịch thị phần huy động, tín dụng, dịch vụ từ các
ngân hàng Việt Nam sang các ngân hàng nước ngoài là đang diễn ra trên từng phân
khúc thị trường, đặc biệt là phân khúc các doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp có
vốn nước ngoài và tầng lớp dân cư thu nhập cao. Tốc độ chuyển dịch thị phần sẽ có
xu hướng gia tăng khi các ngân hàng nước ngoài được phép thực hiện đầy đủ các
hoạt động dịch vụ như ngân hàng Việt Nam. Với ưu thế về thương hiệu, kinh
nghiệm, chất lượng dịch vụ, tiềm lực tài chính, các ngân hàng nước ngoài sẽ “làm
chủ” thị trường bán sỉ và sản phẩm tín dụng cá nhân cao cấp.
3.2 Các đề xuất nhằm gia tăng năng lực cạnh tranh cho hệ thống NHTM Việt
Nam trong quá trình hội nhập quốc tế
3.2.1 Các đề xuất về môi trường pháp lý và chính sách
Môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường pháp luật và chính sách hướng tới sự
tự do hoá trong lĩnh vực hoạt động ngân hàng và thị trường tiền tệ, là một trong
những yếu tố tác động mạnh đến khả năng cạnh tranh của các ngân hàng. Hoàn
thiện khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của hệ thống ngân hàng nhằm tạo lập
hành lang pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế và hoàn cảnh thực tiễn của Việt
Nam sẽ thiết thực phục vụ cho lộ trình hội nhập quốc tế và tạo lập các quy định thận
trọng để đảm bảo hoạt động an toàn và hiệu quả, từ đó tăng cường khả năng cạnh
tranh cho cả hệ thống.
3.2.1.1 Rà soát các văn bản pháp luật và xây dựng hệ thống khung pháp luật bảo vệ
pháp lý và tăng cường tính tự chủ trong kinh doanh cho các NHTM
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nên hợp tác cùng Bộ Tài chính và các bộ liên quan
tiến hành rà soát toàn bộ các quy định và văn bản luật hiện hành; tính tương thích
của các quy định và văn bản luật này với các cam kết và yêu cầu của các hiệp định
quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng và dịch vụ tài chính nhằm xác định các lỗ hổng về
mặt pháp lý, các trở ngại, các khác biệt và mâu thuẫn giữa hệ thống các quy định
64
pháp lý. Trên cơ sở đó, Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần có
ngay các sửa đổi và cập nhật đối với hệ thống pháp lý hiện hành nhằm đảm bảo hệ
thống ngân hàng hoạt động trong một môi trường nhất quán và ổn định. Những sửa
đổi đó phải tính đến sự tương tác và phù hợp với các luật khác cũng như các thông
lệ quốc tế ví dụ như quy định về tỷ lệ an toàn vốn, phòng ngừa và giải quyết rủi ro,
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, v.v.
Việc xây dựng các quy định, chính sách và cơ chế mới phải phù hợp với lộ trình
thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ và ngân hàng; điều chỉnh và tiến
tới loại bỏ các can thiệp có tính chất hành chính trong quá trình quản lý của NHNN
đối với các NHTM. Quản lý của NHNN chỉ nên tiến hành theo cơ chế giám sát từ
xa nhằm cân đối tính an toàn cũng như tự chủ trong kinh doanh trong cơ chế thị
trường của các NHTM.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần được thúc đẩy hơn nữa và thể chế hóa
việc áp dụng các chuẩn mực và thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng
(CAMELs, BASEL) vào trong thực tiễn quản trị và hoạt động của tất cả các ngân
hàng tại Việt Nam.
3.2.1.2 Quy định về công bố và minh bạch tài chính, thông tin
Công bố và minh bạch tài chính, thông tin cần phải được trở thành một quy định bắt
buộc và một thông lệ trong hoạt động của cộng đồng các doanh nghiệp, mà trong đó
các NHTM cũng là một bộ phận.
Chính Phủ, Bộ Tài Chính và Tổng cục Thuế cần mở rộng quy định về việc áp dụng
các quy định kế toán theo chuẩn mực thế giới, các đối tượng yêu cầu phải thực hiện
kiểm toán hàng năm, nhằm tăng tính minh bạch của Báo cáo tài chính doanh
nghiệp, rút dần khoảng cách giữa số liệu báo cáo và tình hình họat động thực tế.
Điều này sẽ tạo ra một thị trường đầu ra lành mạnh cho các NHTM, giảm chi phí và
rủi ro do thiếu hụt thông tin trong hoạt động tín dụng, cởi bỏ tâm lý thận trọng trong
việc cung vốn cho khu vực kinh tế này, gia tăng tốc độ mở rộng tín dụng và tài sản
cho các NHTM.
Đối với các NHTM, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính (Ủy ban Chứng khoán
65
Nhà nước) cần sớm xây dựng các cơ chế và chính sách về minh bạch hóa và công
khai các thông tin của các tổ chức tín dụng theo hướng tạo điều kiện cho các ngân
hàng tham gia vào thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán chính là kênh
tạo vốn quan trọng cho các ngân hàng tăng cường khả năng tài chính, đồng thời các
ngân hàng được niêm yết cũng sẽ phải hoạt động minh bạch hơn và có hiệu quả
hơn.
3.2.2 Xây dựng các quy định và phát triển các công cụ tài chính mới
Ở thời điểm hiện tại, sự đơn điệu về cơ cấu sản phẩm là một điểm yếu của các
NHTM Việt Nam. Gia tăng tính cạnh tranh đòi hỏi phải đa dạng hoá sản phẩm, đưa
vào danh mục hoạt động những danh mục sản phẩm dịch vụ mới hiện đại thay thế
sản phẩm cho vay truyền thống. Để thực hiện được điều này, ngoài khả năng nội tại
của các NHTM (chọn lựa chiến lược phát triển sản phẩm phù hợp, khả năng tài
chính và công nghệ, nhân lực, …), cần có sự hỗ trợ của NHNN trong việc xây dựng
những quy định giải quyết các vấn đề mới nảy sinh của thị trường và nhu cầu tiêu
dùng như: quy định về hoạt động và đảm bảo an toàn của các hoạt động ngân hàng
điện tử, quy định về hướng dẫn và quản lý các dịch vụ phái sinh (Futures Contract,
Option và SWAP) và các quy định liên quan đến các phương thức cung cấp dịch vụ
ngân hàng qua biên giới, tiêu dùng ở nước ngoài và hiện diện thể nhân.
3.2.3 Đề xuất về việc chọn lựa chiến lược phát triển của các NHTM Việt Nam
Chọn lựa chiến lược phát triển phù hợp với nội lực và thị trường có ý nghĩa hết sức
quan trọng đến việc tăng trưởng và gia tăng năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống.
Xuất phát từ những đặc điểm của bản thân hệ thống (hạn chế về khả năng tài chính
cũng như nguồn nhân lực, công nghệ) và thị trường (tiềm năng phát triển mạnh của
thị trường bán lẻ bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ và hộ gia đình cá nhân), các
NHTM Việt Nam nên tập trung khai thác các ngách, các phân khúc thị trường bán
lẻ có biên lời cao cũng như khả năng phân tán rủi ro.
Chiến lược hoạt động của các NHTM phải được xây dựng dựa trên các cơ sở:
- Tăng trưởng cao bằng cách tạo nên sự khác biệt trên cơ sở hiểu biết nhu cầu
khách hàng và hướng tới khách hàng;
66
- Xây dựng hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, hiệu quả và chuyên nghiệp để đảm
bảo cho sự tăng trưởng được bền vững;
- Duy trì tình trạng tài chính ở mức độ an toàn cao, tối ưu hóa việc sử dụng vốn
nhằm xây dựng một định chế tài chính vững mạnh, có khả năng vượt qua mọi
thách thức trong môi trường kinh doanh còn chưa hoàn hảo của ngành ngân
hàng Việt Nam;
- Có chiến lược chuẩn bị nguồn nhân lực và đào tạo lực lượng nhân viên chuyên
nghiệp nhằm đảm bảo quá trình vận hành của hệ thống liên tục, thông suốt và
hiệu quả
Có thể kết hợp giữa Chiến lược tăng trưởng theo chiều ngang và Chiến lược đa
dạng hoá.
3.2.3.1 Chiến lược tăng trưởng theo chiều ngang:
- Tăng trưởng thông qua mở rộng hoạt động: tích cực phát triển mạng lưới kênh
phân phối tại thị trường mục tiêu, khu vực thành thị Việt Nam, đồng thời nghiên
cứu và phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng mới để cung cấp cho thị
trường đang có và thị trường mới trong tình hình yêu cầu của khách hàng ngày
càng tinh tế và phức tạp. Ngoài ra, khi điều kiện cho phép, sẽ mở văn phòng đại
diện tại một số thị trường nước ngoài.
- Tăng trưởng thông qua hợp tác, liên minh với các đối tác chiến lược: xây dựng
mối quan hệ với các định chế tài chính (các tổ chức thẻ quốc tế, các công ty bảo
hiểm, chuyển tiền, các ngân hàng bạn, các đại lý chấp nhận thẻ, đại lý chi trả
kiều hối, v.v…). Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng, cần đẩy mạnh quan hệ hợp
tác với các định chế tài chính và doanh nghiệp khác để cùng nghiên cứu phát
triển các sản phẩm tài chính mới và ưu việt cho khách hàng mục tiêu, mở rộng
hệ thống kênh phân phối đa dạng. Các NHTM Việt Nam nên chọn đối tác chiến
lược là các ngân hàng nổi tiếng về các sản phẩm của ngân hàng bán lẻ để có thể
tham khảo kinh nghiệm, kỹ năng chuyên môn cũng như công nghệ của các đối
tác để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình cho quá trình hội nhập.
- Tăng trưởng thông qua hợp nhất và sáp nhập: xây dựng năng lực tiếp nhận đối
67
với loại tăng trưởng cơ học này và thực hiện chiến lược hợp nhất và sáp nhập
khi điều kiện cho phép.
3.2.3.2 Chiến lược đa dạng hóa
Đa dạng hóa là một chiến lược tăng trưởng khác mà các NHTM cần quan tâm thực
hiện để từng bước trở thành nhà cung cấp dịch vụ tài chính toàn diện thông qua một
số các hoạt động như:
- Cung cấp và tăng cường quan hệ hợp tác với các công ty bảo hiểm để phối hợp
cung cấp các giải pháp tài chính cho khách hàng.
- Nghiên cứu thành lập công ty kinh doanh trực thuộc như Công ty thẻ, Công ty
thuê mua tài chính, Công ty bất động sản,…
- Thực hiện hoạt động dịch vụ ngân hàng đầu tư
Các sản phẩm này (thuê, bảo hiểm và đầu tư) có biên lãi cao và được coi là các sản
phẩm chiến lược đối với tăng trưởng của ngân hàng trong tương lai.
3.2.4 Lành mạnh hoá tài chính nhằm đáp ứng theo tiêu chuẩn BASEL
Lành mạnh hóa và cải thiện năng lực tài chính là giải pháp tăng cường năng lực
cạnh tranh của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tiến trình này yêu cầu phải
giải quyết hai vấn đề căn bản: xử lý nợ quá hạn của các NHTM QD và gia tăng vốn
nhằm đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo quy định Basel cho toàn hệ thống
3.2.4.1 Xử lý nợ quá hạn của các NHTM QD
Chính phủ, Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp giải quyết một cách
cơ bản vấn đề nợ quá hạn của các NHTM QD, bao gồm:
- Thực hiện phân loại chính xác các khoản nợ có vấn đề của nhóm các NHTM QD
theo đúng hệ thống các định nghĩa và tiêu chuẩn kế toán quốc tế để có thể có những
đánh giá chính xác về thực trạng nợ xấu của nhóm này, từ đó xây dựng kế hoạch xử
lý phù hợp;
- Tạo điều kiện và thúc đẩy sự phát triển của thị trường thứ cấp mua bán nợ với sự
tham gia của các công ty xử lý nợ đủ mạnh về cả tiềm lực tài chính cũng như khả
năng hoạt động. Nợ xấu phải được xử lý theo các hình thức này thay cho phương
pháp bơm vốn cho các ngân hàng quốc doanh nhằm tạo điều kiện cho các ngân
68
hàng này xóa sổ nợ xấu như Chính Phủ đã từng làm trước đây.
- Do những hạn chế về nguồn vốn của các AMC, Công ty giao dịch tài sản có và tài
sản nợ của Chính Phủ cần đóng vai trò tích cực hơn trong việc xử lý các khoản nợ
xấu của các DNNN theo cách làm việc trực tiếp với các ngân hàng, những người sở
hữu các khoản nợ (và có thể đưa ra yêu cầu đối với các tài sản liên quan) thay cho
việc nhận lấy khoản nợ từ các DNNN như hiện nay.
- Đồng thời, hạn chế việc tiếp tục gia tăng các khoản nợ xấu của các NHTM QD
thông qua việc thực hiện các thông lệ thương mại tốt nhất và hạn chế sự can thiệp từ
bên ngoài đối với các quyết định cho vay. Sự can thiệp phi thương mại thường diễn
ra ở cấp địa phương hoặc khu vực nên cần thiết phải áp dụng một cách tập trung
hóa các quy tắc và chuẩn mực cho vay chung.
3.2.4.2 Gia tăng vốn
Nâng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 theo các tiêu chuẩn quốc tế cho các NHTM Việt Nam
cần phải được tiến hành càng sớm càng tốt nhằm đảm bảo tuân thủ theo các quy
định của Basel 1 và Basel 2. Khu vực các NHTM QD cần đẩy nhanh tiến trình cổ
phần hoá và khu vực các NHTM CP là tăng khả năng huy động trên thị trường trái
phiếu và thị trường chứng khoán, kể cả OTC và sàn niêm yết chính thức.
- Chính Phủ cần kiên quyết đẩy nhanh hơn nữa kế hoạch cổ phần hoá các NHTM
QD thông qua việc tuân thủ lộ trình, tiến độ đề ra ban đầu; đơn giản hoá các quy
định về chấp nhận các đối tác được quyền mua cổ phần. Hiện tại, các nhà đầu tư
nước ngoài phải được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hoặc của
Thủ tướng Chính phủ trước khi mua lại cổ phần của các ngân hàng thương mại Việt
Nam. Nhưng cũng theo khoản 3 Điều 12 Luật các Tổ chức Tín dụng thì quyết định
cuối cùng về vấn đề mua bán cổ phần của các tổ chức tín dụng thuộc về Chính phủ.
Vì thế, nên chăng Chính phủ nên giao thẩm quyền cho Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam đưa ra các quyết định liên quan đến việc bán cổ phần của các ngân
hàng cổ phần trong khi Thủ tướng Chính phủ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về việc
bán cổ phần của các ngân hàng thương mại của nhà nước.
- Trên thị trường trái phiếu, Chính Phủ cũng cần sớm bãi bỏ quy định về giới hạn
69
trần lãi suất trái phiếu; định hướng và hỗ trợ các NHTM Việt Nam tiếp cận và tiến
hành đánh giá xếp hạng khi phát hành trái phiếu tại các tổ chức xếp hạng tài chính
quốc tế nhằm nâng cao uy tín, tăng sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trên thị
trường tài chính nội địa và quốc tế.
- Yêu cầu về việc tăng vốn để đạt mức vốn điều lệ tối thiểu đối với các NHTM CP
hiện đã được NHNN ban hành. Tuy nhiên, tiến trình tăng vốn đối với từng ngân
hàng cần phải được cân nhắc để đảm bảo khả năng tiếp nhận và sử dụng hiệu quả,
an toàn nguồn vốn gia tăng; tốc độ tăng vốn phải phù hợp với khả năng và tốc độ
tăng tổng tài sản và nguồn nhân lực.. Các NHTM CP có thể áp dụng các giải pháp
tăng vốn như: đấu giá cổ phiếu thông qua thị trường chứng khoán, tăng vốn từ
khoản thuế được phép để lại, tăng từ nguồn thu nợ đã được xử lý và tăng bằng cách
bán cổ phần ưu đãi và không ưu đãi…
- Chính Phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng cần có những chính sách thúc đẩy việc hợp
nhất, sáp nhập các NHTM CP nhằm hình thành các ngân hàng có quy mô vốn và hệ
thống hoạt động đủ lớn, đồng thời giảm bớt sự cạnh tranh không đáng có giữa các
ngân hàng nhỏ cùng thực thi những chiến lược kinh doanh tương tự nhau.
3.2.5 Các đề xuất về quản trị điều hành
3.2.5.1 Xây dựng mạng lưới và chuyên môn hoá dịch vụ
Mở rộng, xây dựng mạng lưới cần được tiến hành song song với tiến trình chuyên
môn hoá dịch vụ. Trong tiến trình này, các ngân hàng cần tăng cường năng lực thể
chế của mình thông qua việc hợp lý hóa cơ cấu tổ chức, chuyển từ cơ cấu tổ chức
phân theo chức năng và vị trí địa lý (hệ thống chi nhánh các cấp) sang cơ cấu tổ
chức theo mảng khách hàng và nhóm dịch vụ giúp cải thiện được chất lượng dịch
vụ và phục vụ khách hàng của mình tốt hơn.
Đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng nên gắn liền với việc chuyên môn hóa các dịch
vụ mà khách hàng của mình sử dụng, tránh việc đầu tư dàn trải. Ngân hàng cần xác
định được dịch vụ cốt yếu của mình và tập trung phát triển chất lượng các dịch vụ
đó. Phát triển các sản phẩm hiện đại nên được thực hiện một cách từ từ và có chọn
lọc. Các ngân hàng quy mô nhỏ chưa nên ngay lập tức cố gắng đầu tư cung cấp các
70
sản phẩm phức tạp như dịch vụ phái sinh vì nhu cầu của khách hàng về các sản
phẩm này còn ít và khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng lớn và ngân hàng nước
ngoài mà nên củng cố các dịch vụ hiện tại đang cung cấp theo hướng nâng cao chất
lượng và giảm bớt chi phí, thủ tục. Các ngân hàng lớn trong quá trình phát triển sản
phẩm mới và hiện đại hóa công nghệ ngân hàng phải lưu ý đến khả năng tích hợp
đồng bộ và hiệu quả đầu tư.
Việc thực hiện phân đoạn được thị trường mục tiêu của từng ngân hàng cần phải
được thực hiện nhằm tránh việc chạy đua cạnh tranh khách hàng một cách thiếu
định hướng; giúp các ngân hàng tập trung được nguồn lực, tiết kiệm chi phí
marketing và nâng cao chất lượng dịch vụ. Phân đoạn khách hàng có thể theo vị trí
địa lý, theo loại hình và quy mô (đối với doanh nghiệp) và theo các tiêu chí nhân
khẩu học như nghề nghiệp, thu nhập, v.v (đối với khách hàng cá nhân).
3.2.5.2 Xây dựng hệ thống kiểm soát và hệ thống đánh giá theo chuẩn mực quốc tế
Các ngân hàng nên đẩy mạnh việc chuẩn hóa các quy trình quản lý và vận hành. Tất
cả các quy trình trong ngân hàng cần được tích hợp trong hệ thống tự động để đảm
bảo các hoạt động được thực hiện một cách có hiệu quả và giảm bớt chi phí hành
chính.
Việc xây dựng hệ thống tích hợp và quản lý dữ liệu khách hàng, hệ thống chấm
điểm xếp lọai khách hàng phải được sớm thực hiện khi tập trung vào thị trường bán
lẻ. Hai hệ thống này sẽ tạo điều kiện cho các ngân hàng gia tăng khả năng quản lý
kể cả khâu tiếp thị lẫn tín dụng, phân loại khách hàng để cung ứng các sản phẩm,
dịch vụ phù hợp.
Trong quá trình tăng trưởng, các ngân hàng phải chú ý hơn nữa đến các hoạt động
kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro nhằm đảm bảo ngân hàng vận hành an toàn, tiến
hành xây dựng và hoàn chỉnh hệ thống quản trị thông tin nội bộ (MIS), xây dựng
các hệ thống đánh giá rủi ro tín dụng, cảnh báo và kiểm soát nợ xấu theo các chuẩn
mực quốc tế.
Các ngân hàng cũng cần phải cải thiện sự minh bạch, độ tin cậy và kịp thời của các
số liệu hoạt động kinh doanh, đặc biệt là các số liệu về cán cân thanh toán, nợ quá
71
hạn và thu nhập,... nhằm xây dựng lòng tin của khách hàng và nhà đầu tư đối với
ngân hàng.
3.2.5.3 Xây dựng hệ thống quản trị và phát triển nguồn nhân lực
Thực hiện tái cấu trúc hệ thống như là một bộ phận của chiến lược phát triển nhằm
tạo ra một cơ cấu tổ chức mới đảm bảo tính chỉ đạo xuyên suốt toàn hệ thống. Cơ
cấu tổ chức thay đổi theo định hướng kinh doanh và hỗ trợ với các khối kinh doanh
(Khối khách hàng cá nhân, Khối khách hàng doanh nghiệp, Khối ngân quỹ) và các
đơn vị hỗ trợ (Khối công nghệ thông tin, Khối giám sát điều hành, Khối phát triển
kinh doanh, Khối quản trị nguồn lực và một số phòng ban); chuyển giao hoạt động
kinh doanh của Hội sở cho các Sở Giao dịch. Tổng Giám đốc trực tiếp chỉ đạo Ban
Chiến lược, Ban kiểm tra – kiểm soát nội bộ, Ban Chính sách và quản lý rủi ro tín
dụng. Sản phẩm được quản lý theo định hướng khách hàng và được thiết kế phù
hợp với từng phân đoạn khách hàng. Quan tâm đúng mức và cân bằng giữa mục
tiêu phát triển kinh doanh và quản lý rủi ro. Các kênh phân phối tập trung phân phối
sản phẩm dịch vụ cho khách hàng mục tiêu.
Tái cơ cấu khu vực NHTM QD cần được thực hiện triệt để, không chỉ tập trung vào
tái cơ cấu tài chính mà phải chú trọng vào cơ cấu tổ chức, hệ thống quản trị và
nguồn nhân lực. Những vấn đề pháp lý nảy sinh do chưa tách biệt được giữa chức
năng quản lý và vai trò chủ sở hữu của Nhà nước trong hoạt động của các NHTM
QD làm cản trở quá trình tái cơ cấu này cần phải được giải quyết theo cách chyển
trả chức năng sở hữu vốn trong các NHTM QD của Ngân hàng Nhà nước về cho
Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước.
Thực tiễn quản trị doanh nghiệp trong các ngân hàng cần được cải thiện theo các
thông lệ quốc tế, tách biệt rõ ràng chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng
Quản trị và Ban Giám đốc; đồng thời cải thiện năng lực quản trị chiến lược của các
lãnh đạo ngân hàng.
Song song với việc các ngân hàng nước ngoài có thể tham gia vào việc điều hành
ngân hàng Việt Nam thông qua mua cổ phần, các ngân hàng Việt Nam cần xây
dựng cơ chế cho phép tuyển dụng các nhà quản lý ngân hàng chuyên nghiệp nước
72
ngoài nhằm thúc đẩy việc chuyển giao kinh nghiệm và bí quyết quản lý ngành ngân
hàng hiện đại.
Nguồn nhân lực là vấn đề cấp bách cần phải giải quyết sớm. Các ngân hàng Việt
Nam, đặc biệt là khối NHTM QD cần phải xây dựng cơ chế đãi ngộ dựa trên kết
quả công việc và các chính sách bổ nhiệm khuyến khích và giữ chân cán bộ có năng
lực. Các ngân hàng cần xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực và đào tạo cho
đến năm 2010. Đội ngũ lãnh đạo cần phải được đào tạo về nghiệp vụ và dịch vụ
ngân hàng hiện đại, quản trị, giám sát và thanh tra các hoạt động tín dụng; đội ngũ
nhân viên cần được tập huấn về quản trị rủi ro, kỹ năng kinh doanh, nghiệp vụ sản
phẩm mới, dịch vụ khách hàng và tác phong chuyên nghiệp.
3.2.6 Gia tăng đầu tư cho công nghệ
Các NHTM Việt Nam cần nhận thức được tầm quan trọng của công nghệ đối với sự
phát triển và khả năng cạnh tranh của hệ thống mình, từ đó gia tăng đầu tư cho công
nghệ ngân hàng hiện đại, không chỉ với công nghệ thông tin mà còn cả công nghệ
quản lý và thẩm định. Ưu tiên hàng đầu hiện nay nên là đầu tư cho công nghệ thông
tin để trực tuyến hóa các giao dịch ngân hàng, hệ quản trị nghiệp vụ ngân hàng bán
lẻ có cơ sở dữ liệu tập trung và xử lý giao dịch theo thời gian thực, hệ thống bảo
mật thông tin. Đầu tư nên tập trung trong từng giai đọan nhưng phải tính đến khả
năng tích hợp và kế thừa, khả năng liên kết giữa các ngân hàng với nhau để vừa
giảm chi phí đầu tư trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp, vừa gia tăng tính tiện ích
cho khách hàng.
Tóm lại, để gia tăng năng lực cạnh tranh cho các NHTM Việt Nam, ngoài việc
Chính Phủ cần tạo lập một môi trường pháp lý và những chính sách phù hợp cho
hạot động tài chính – tiền tệ, bản thân các NHTM còn phải xác định được cho mình
một chiến lược kinh doanh phù hợp với nội lực và điều kiện thị trường, lành mạnh
hoá tài chính thông qua việc đẩy nhanh và triệt để xử lý, ngăn ngừa nợ quá hạn và
gia tăng vốn. Đồng thời, cũng phải đổi mới công tác quản trị điều hành theo hướng
áp dụng mô hình quản trị điều hành hiện đại, theo các chuẩn mực phù hợp với thông
lệ quốc tế và gia tăng đầu tư cho công nghệ ngân hàng hiện đại.
73
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
- Basel Committee on Banking Supervision (1998), “Những nguyên tắc của hệ
thống nội bộ trong tổ chức tín dụng”.
- Ngân hàng Á Châu (2005), “Báo cáo thường niên 2005”.
- Ngân hàng Á Châu (2006), “Báo cáo thường niên 2006”.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2000), “Báo cáo thường niên 2000”.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2001), “Báo cáo thường niên 2001”.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2002), “Báo cáo thường niên 2002”.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2003), “Báo cáo thường niên 2003”.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2004), “Báo cáo thường niên 2004”.
- Ngân hàng nhà nước Việt Nam (2005), “Báo cáo thường niên 2005”.
- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (2005), “Báo cáo thường niên 2005”.
- Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (2006), “Báo cáo thường niên 2006”.
- Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (2005), “Báo cáo thường niên 2005”.
- Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (2006), “Báo cáo thường niên 2006”.
- Trung tâm kinh tế quốc tế, Công ty TNHH tư vấn Erskinomics, Vietbid
(2005), “Hội nhập quốc tế trong hệ thống ngân hàng”, Hà Nội.
Tiếng Anh
2. Deutsch Bank (2007), “Vietnam Banks Primer – Reforming amid rapid
growth”, Hanoi.
3. Phillips Fox (2005), “Recent banking reforms”, Hanoi.
4. UNDP (2006), “Study on competitiveness and impacts of liberalization of
banking services”, Hanoi.
5. VinaCapital (2006), “Vietnam banking sector report”, Hanoi.
6. WTO (2006), “Working Party on the Accession of Viet Nam, Schedule CLX
– Viet Nam, Part II - Schedule of Specific Commitments in Services, List of
Article II MFN Exemptions”
74
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Các cam kết quốc tế về tự do hoá dịch vụ ngân hàng theo Hiệp định
thương mại Việt – Mỹ
- Các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa kỳ được phép cung cấp dịch vụ tại Việt
Nam thông qua các hình thức pháp lý: (i) Chi nhánh ngân hàng Hoa Kỳ; (ii) Ngân
hàng liên doanh Việt Nam-Hoa Kỳ; (iii) Công ty thuê mua tài chính 100% vốn Hoa
Kỳ và (iv) Công ty thuê mua tài chính liên doanh Việt Nam-Hoa Kỳ;
- Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực5, hình thức pháp lý duy nhất
thông qua đó các nhà cung cấp dịch vụ tài chính Hoa Kỳ khác (ngoài ngân hàng và
công ty thuê- mua tài chính) có thể cung cấp các dịch vụ tài chính tại Việt Nam là
liên doanh với đối tác Việt Nam. Sau thời gian đó, hạn chế này sẽ được bãi bỏ;
- Sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép
thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam (từ tháng 12 năm 2010,
các ngân hàng con 100% vốn của Mỹ được phép hoạt động ở Việt Nam);
- Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng của Mỹ được nắm vốn sở hữu trong các
ngân hàng Việt Nam được cổ phần hóa, tương đương với mức cho phép đối với các
nhà đầu tư Việt Nam. Theo thời gian, từng bước cho phép các liên doanh tăng dần
mức nắm giữ vốn từ 30% lên 49%, thực hiện trước năm 2010;
- Từ tháng 12 năm 2004, các chi nhánh ngân hàng của Mỹ được phép: i) nhận đảm
bảo cho khoản vay bằng giá trị quyền sử dụng đất do các DN có vốn đầu tư nước
ngoài nắm giữ; (ii) tiếp nhận và sử dụng giá trị quyền sử dụng đất đảm bảo cho
khoản vay trong trường hợp không thanh toán nợ; iii) được tiếp cận các dịch vụ tái
chiết khấu, hoán đổi và hợp đồng kỳ hạn của Ngân hàng Nhà nước; và quan trọng
hơn là, iv) được hưởng đầy đủ quyền như ngân hàng trong nước;
Xuất phát từ những cam kết trong khuôn khổ BTA, Việt Nam cũng phải tuân thủ
các điều khoản trong Phụ lục của Hiệp định Chung về Thương mại Dịch vụ Tài
5 Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ có hiệu lực từ ngày 11/12/2001
75
chính (GATS), thực hiện các cam kết cụ thể sau:
- Thành lập một công ty con của một công ty cho thuê tài chính Mỹ hoặc một công
ty cho thuê tài chính liên doanh cần phải sau ba năm. Từ tháng 1 năm 2003, các tổ
chức tín dụng phi ngân hàng hoạt động ở Việt Nam được phép đặt các chi nhánh và
văn phòng đại diện ở bất kỳ đâu tại Việt Nam với điều kiện các tổ chức đó đã hoạt
động được từ hai năm trở lên và có tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn 5%;
- Việt Nam sẽ cho phép các ngân hàng Mỹ được cung cấp các dịch vụ như nhận tiền
gửi bằng đồng nội tệ, thẻ tín dụng, máy trả tiền tự động và các dịch vụ/sản phẩm
khác.
76
Phụ lục 2: Các cam kết về tự do hoá dịch vụ ngân hàng khi gia nhập WTO
- Cho phép thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài từ ngày 01 tháng 04 năm
2007;
- Cho phép thành lập các văn phòng môi giới và chi nhánh 100% vốn nước ngoài
sau thời điểm 05 năm kể từ khi gia nhập WTO6;
- Cho phép một nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ tối đa 10% vốn điều lệ ngân
hàng Việt Nam; nhóm nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ tối đa 30% vốn điều lệ và
nhà đầu tư chiến lược là 20% vốn điều lệ một ngân hàng Việt Nam;
- Dỡ bỏ theo lộ trình giới hạn về huy động tiền gửi đối với các ngân hàng nước
ngoài; cho phép các ngân hàng nước ngoài cung cấp các dịch vụ như thẻ tín dụng,
huy động vốn bằng ngoại tệ;
- Sau năm năm kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài sẽ
được hoạt động trên tất cả các lĩnh vực như các ngân hàng nội địa.
6 Việt Nam chính thức gia nhập WTO từ tháng 11/2006
77
Phụ lục 3: Tỷ trọng tín dụng/GDP của Việt Nam và một số nước
Phụ lục 3.1: Tỷ trọng tín dụng/GDP của Việt Nam
Nguồn: Vietnam Banks Primer (Deutsche Bank, 2007)
Phụ lục 3.2: Tỷ trọng tín dụng/GDP (2005) của một số nước
Nguồn: Vietnam Banks Primer (Deutsche Bank, 2007)
78
Phụ lục 4: Tỷ trọng tiền gửi/GDP của Việt Nam và một số nước
Phụ lục 4.1: Tỷ trọng tiền gửi/GDP (2005) của Việt Nam
Nguồn: Vietnam Banks Primer (Deutsche Bank, 2007)
Phụ lục 4.2: Tỷ trọng tiền gửi/GDP (2005) của một số nước
Nguồn: Vietnam Banks Primer (Deutsche Bank, 2007)
79
Phụ lục 5: Tỷ lệ tổng tài sản/GDP (2002)của một số quốc gia
Viet Nam
Philippin
South Korea
Thailand
Japan
Malaysia
0% 20% 40% 60% 80% 100% 120% 140% 160% 180%
Nguồn: Vinacapital
80
Phụ lục 6: Quy mô tổng tài sản 15 NHTM hàng đầu (2006)
Nguồn: Vietnam Banks Primer (Deutsche Bank, 2007)
81
Phụ lục 7: ROE của một số hệ thống ngân hàng trong khu vực (2006)
Singapore
Taiwan
Philippines
Malaysia
Australia
Indonesia
Thailand
HongKong
India
South Korea
China
0.00% 5.00% 10.00% 15.00% 20.00% 25.00% 30.00% 35.00%
Nguồn: UNDP
82
Phụ lục 8: Số lượng chi nhánh/điểm giao dịch của một số NHTM Việt Nam
Nguồn: thông tin từ trang web các ngân hàng
Ngân hàng Số lượng chi nhánh/điểm giao dịch
Agribank 2,202
Sacombank 194
ICB 132
MHB 131
Techcombank 113
BIDV 106
ACB 101
VP Bank 90
EAB 86
VIB 80
Southern Bank 77
Military bank 40
83
Phụ lục 9: Tỷ lệ nắm giữ của các đối tác nước ngoài trong các NHTM
CP Việt Nam (2/2007)
Ngân hàng Đối tác góp vốn nước ngoài Tỷ lệ nắm giữ
Sacombank ANZ Banking Group 10.00%
ACB Standard Chartered 8.56%
Techcombank HSBC Holdings 20.00%
VP Bank
Oversea - Chinise Banking
Corp 10.00%
EAB Citigroup 10.00%
OCB BNP Paribas 10.00%
Habubank Deutsch Bank 20.00%
Southern Bank United Overseas Bank
Nguồn: website của các ngân hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 47565.pdf