Luận văn Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt nam

Hoạt động ngân hàng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. ở Việt Nam có khoảng 86 tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại tạo ra một thị trường cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ở Việt Nam. Tuy nhiên trong cạnh tranh, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó có VP Bank, phải lỗ lực nhiều hơn do đó đã trưởng thành hơn, mở ra một khả năng lớn trong việc cải tiến chất lượng hoạt động kinh doanh về mọi mặt của hệ thống ngân hàng, đem lại cho xã hội một dịch vụ ngân hàng với chất lượng tốt với chi phí thấp. Những năm đầu mới đi vào hoạt động, do mắc phải một số sai lầm và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ trong khu vực đã dẫn VP Bank đến chỗ có những thời đoạn vô cùng khó khăn. Nhờ sự cố gắng và đoàn kết của cán bộ nhân viên VP Bank và sự giúp đỡ của bạn bè đã đưa VP Bank dần ra khỏi tình trạng khủnh hoảng, hoạt động ngày càng hiệu quả, lấy lại lòng tin của bạn hàng và khách hàng, trở thành một ngân hàng có uy tín.

doc96 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n theo dõi sát sao hoạt động và tình hình tài chính của doanh nghiệp để có thể hỗ trợ kịp thời cho các kế hoạnh kinh doanh của doanh nghiệp đó. Đã có nhiều doanh nghiệp sẵn sàng bỏ qua những ngân hàng khác, dù những ngân hàng đó có đề ra những lãi suất rất hấp dẫn, chỉ để tiếp tục hợp tác với ngân hàng “ruột “ của mình là VP Bank. Những khách hàng gắn bó lâu dài với VP Bank có thể kể tới công ty TNHH nhựa Thành Đạt, công ty cáp thép Hà Nội, công ty TNHH Châu Giang…Đây là những tổ chức có quan hệ vay vốn lâu dài với VP Bank. Thứ sáu, Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác thẩm định, trong thời gian qua các cấp lãnh đạo rất quan tâm, chỉ đạo sát sao đối với công tác thẩm định dự án, thời gian thẩm định dự án phải nhanh chóng để khách hàng không bị lỡ dịp đầu tư mà vẫn đảm bảo chất lượng công tác thẩm định có hiệu quả. Quy định về thời gian thẩm định: Tín dụng ngắn hạn Tín dụng trung và dài hạn phục vụ sản xuất kd phục vụ sản xuất-kd 1.1.Thẩm định của cán bộ thẩm định 3 7 1.2.Thẩm định của phóng thẩm định TSĐB 2 5 2.Phản biện của C/O 0 7 (do ban tín dụng/ HĐTDchỉ định) 3.Lãnh đạo phong kiểm soát hồ sơ trong ngày 2 4.Qyuết định của BTD/HĐTD 2 7 5.Công chứng HHĐ bảo đảm tiền vay và hoàn thiện hồ sơ tín dụng 2 4 Tổng 7 ngày 27 ngày Thứ bảy, Trang thiết bị, thông tin: Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho công tác thẩm định dự án tại ngân hàng ngày càng được nâng cao. Ngân hàng đã trang bị máy tính hiện đại cho cán bộ thẩm định, một số phần mền ứng dụng cao soạn thảo, tính toán, lưu trữ đã được đưa vào sử dụng, hỗ trợ cho các hoạt động thẩm định, làm tăng đáng kể tốc độ và tính chính xác của các chỉ tiêu thẩm định tài chính. Nhận thức được rõ tầm quan trọng của thông tin, cán bộ thẩm định VP Bank đã cố gắng thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau như: Các nguồn nội bộ trong ngân hàng, trung tâm CIC, các tổ chức cung cấp thông tin, sách, báo, tạp chí, các tài liệu của các bên liên quan, các định mức kinh tế kỹ thuật do các bộ ngành, cơ quan nghiên cứu ban hành để phục vụ nhanh chóng, kịp thời cho hoạt động thẩm định tài chính. Trên đây là một số mặt tích cực trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư mà ngân hàng đã đạt được. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tồn tại một số vấn đề bất cập ảnh hưởng không tốt tới chất lương thẩm định, cần phải nhanh chóng có các biện pháp khặc phục kịp thời. b, Những vấn đề còn tồn tại: Bên cạnh những kết quả đã đạt được trên đây, công tác thẩm định tại VP Bank còn một số khó khăn, tồn tại ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định như: Thứ nhất, Một trong những khó khăn lớn nhất trong công tác thẩm định cho vay tại VP Bank đó là các thông tin thiếu khách quan. Mặc dù các cán bộ thẩm định đã cố gắng thu thập thông tin từ nhiều nguồn, song số lượng và chất lượng thông tin thu thập được vẫn chưa đảm bảo. Các thông tin dùng phân tích đánh giá dự án chủ yếu từ hồ sơ xin vay vốn và luận chứng kinh tế kỹ thuật do khách hàng cung cấp. Trong nhiều trường hợp khách hàng cố tình khai sai để được đồng ý cấp giấy phép đầu tư và cho vay vốn. Hệ thống cung cấp thông tin ở nước ta còn thiếu, hoạt động chưa hiệu quả, nhiều dự án trong nhiều lĩnh vực cán bộ thẩm định muốn thu thập về những vấn đề liên quan đến dự án còn rất thiếu, chưa có một trung tâm cung cấp thông tin cụ thể, các thông tin nếu có thường thiếu đồng bộ và không được cập nhật nên dẫn tới đánh giá nhận xét không chính xác về dự án. Vì vậy, đòi hỏi khi phân tích đánh giá dự án, cán bộ thẩm định phải đi vào thực tế dự án, đến tận nơi dự án xây dựng, thực hiện nếu có thể, đồng thời quan hệ với các tổ chức khác để có thông tin chính xác về dự án, như vậy kết quả thẩm định sẽ có độ chính xác cao hơn, đánh giá dự án chính xác, từ đó có những quyết định đúng đắn, tránh rủi ro cho những khoản tiền cho vay. Thứ hai, Mặc dù VP Bank đã ban hành quy chế nghiệp vụ tín dụng riêng, áp dụng trong toàn hệ thống, hướng dẫn cụ thể quy trình thẩm định, nội dung thẩm định dự án, tuy nhiên các chỉ tiêu thẩm định vẫn còn đơn giản, chưa đánh giá chính xác hiệu quả của dự án như: * Chưa quan tâm nhiều đến yếu tố thời gian của tiền tệ: Tiền có giá trị về mặt thời gian được hiểu theo ba nghĩa: Thứ nhất, giá trị này thể hiện ở lượng của cải vật chất có thể mua được ở những thời gian khác nhau thì khác nhau do ảnh hưởng của lạm phát. Thứ hai, giá trị thời gian của tiền được thể hiện ở những giá trị gia tăng do sử dụng tiền vào hoạt động này mà không sử dụng vào việc khác hoặc cất giữ để giành (chi phí cơ hội). Thứ ba, giá trị thời gian của tiền thể hiện ở những giá trị gia tăng hoặc giảm đi theo thời gian do ảnh hưởng của các yếu tố ngẫu nhiên (rủi ro hoặc may mắn). Trong một số dự án, khi đánh giá, phân tích mọi khoản thu chi của dự án đã được đưa về một mặt bằng thời gian mà không có sự quy đổi nào, như vậy đã bỏ qua yếu tố thời gian của tiền tệ (đặc biệt là lạm phát). Đây cũng là một sai số trong kết quả thẩm định mắc phải. Chỉ quan tâm đến khả năng thu hồi vốn đầu tư, thời gian thu hồi vốn mà không quan tâm đến nhiều các yếu tố khác. Công tác thẩm định mới chỉ phân tích đến thời gian thu hồi vốn đầu tư mà không chú ý đến phần tích luỹ do doanh nghiệp đem lại sau khi thu hồi đủ vốn đầu tư. Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng phản ánh phần thực tế doanh nghiệp thu được do thực hiện dự án cũng như phần đóng góp của doanh nghiệp vào GDP, vào sự tăng trưởng kinh tế. Mặc dù đã phát hiện ra các sai sót trong quá trình tính toán các chỉ tiêu của dự án, nhưng trong nhiều dự án, việc xác định các chi phí quản lý, nguyên vật liệu, doanh thu…còn mang tính áng chừng. Việc tính toán doanh thu hàng năm của ngân hàng chủ yếu dựa trên phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp đơn đặt hàng, phương pháp dự báo từ những kinh nghiệm có được, từ những nhận định chủ quan mà chưa có một phương pháp toán học để xác định cung, cầu và phân tích thị trường. Với chỉ tiêu phân tích độ nhạy của dự án: trong nhiều trường hợp phân tích dự án mới chỉ dừng lại ở trạng thái tĩnh, chưa đi sâu phân tích chắc chắn mức độ biến động của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án trong điều kiện biến động của thị trường như: sự biến động của tỷ giá, lạm phát, chi phí giá bán…Vì vây, kết quả thẩm định chưa đưa ra được các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính của dự án để có biện pháp quản lý cho phù hợp. Khi thẩm định hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án, mặc dù các vấn đề như môi trường, công ăn việc làm, thu nhập…đã được đề cập đến nhưng nó vẫn chưa được quan tâm một cách đúng mức. Thứ ba, Về trang thiết bị: Mặc dù đã cố gắng rất nhiều trong việc mua sắm trang thiết bị dành cho hoạt động của ngân hàng, nhưng do tính đặc thù của ngành ngân hàng, đòi hỏi phải có trang thiết bị hiện đại mới có thể đáp ứng được hoạt động của hệ thống. Do vậy, ngân hàng luôn có những kế hoạch mua sắm thêm, đổi mới thiết bị nhằm đáp ứng hơn nữa hoạt động của ngân hàng nói chung và công tác thẩm định nói riêng. Thứ tư, Về đội ngũ cán bộ: Công tác thẩm định là một công tác phức tạp, liên quan đến nhiều người và nhiều lĩnh vực, vì vậy đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có một trình độ chuyên môn nhất định am hiểu nhiều lĩnh vực, có kinh nghiệm. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ, nhân viên trong ngân hàng, song do ngân hàng là một doanh nghiệp trẻ, các cán bộ trẻ, năng động, sáng tạo song kinh nghiệm trong lĩnh vực thẩm định còn hạn chế. Để đáp ứng được yêu cầu cho công việc đòi hỏi ngân hàng phải có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ cho cán bộ, nhân viên. Những tồn tại, yếu kém là không thể tránh khỏi trong mỗi sự vật hiện tượng. Khi phân tích một vấn đề cần đánh giá một cách khách quan những mặt đạt được để phát huy và tìm những tồn tại, yếu kém để khắc phục. c. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong công tác thẩm định tài chính dự án tại VP Bank: Thứ nhất, Nguyên nhân chủ quan: Phương pháp thẩm định dự án đầu tư mà ngân hàng đang thực hiện chưa được tiêu chuẩn hoá, còn nhiều bất cập, chưa rõ ràng trong việc áp dụng các chỉ tiêu thẩm định. Ngân hàng chưa có phòng dự án riêng để thống nhất công tác thẩm định dự án. Trình độ đội ngũ cán bộ thẩm định chưa đồng đều, số cán bộ thực sự có năng lực vẫn thiếu dẫn đến tình trạng những người có khả năng phải làm việc quá nhiều, số còn lại để hoàn thành tốt công việc cần đến sự giúp đỡ của nhiều người. Bên canh đó ngân hàng chưa có một chương trình đào tạo, phát triển tổng thể, cơ bản cho đội ngũ cán bộ thẩm định. Thông tin cho công tác thẩm định dự án còn thiếu hụt. VP Bank chưa xây dựng được một hệ thống cung cấp thông tin riêng, chưa xây dựng được một hệ thống cơ sở dữ liệu đa dạng, đầy đủ trên nhiều mặt phục vụ cho công tác thẩm định dự án. Việc ứng dụng tin học trong VP Bank còn rất hạn chế. Các phần mềm tin học chuyên dụng hỗ trợ cho việc dự báo, tính toán, phân tích chưa được ứng dụng. Thứ hai, Nguyên nhân khách quan: Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng nói chung và công tác thẩm định dự án đầu tư nói riêng chưa đầy đủ và đồng bộ. Chúng ta còn thiếu các văn bản hướng dẫn có tính chất pháp lý về các địn mức kỹ thuật của các bộ, ngành, địa phương có liên quan. Thiếu các chỉ tiêu được xem là chuẩn mực để làm cơ sở so sánh, chưa có các tiêu chuẩn đánh giá dự án đầu tư trong từng ngành, từng lĩnh vực riêng biệt được quy định bằng văn bản mang tính thống nhất trong cả nước. Năng lực thẩm định dự án doanh thu của các bộ ngành cơ quan còn một số hạn chế, chất lượng thẩm định dự án còn chưa cao. Công tác lập dự án đầu tư còn mới mẻ đối với các chủ đầu tư ở nước ta, nên khi lập dự án đệ trình nên ngân hàng phần lớn chưa theo quy cách, phương pháp chuẩn để lập dự án đầu tư khả thi. Vì vậy đã gây khó khăn cho công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư của VP Bank. Ngoài ra, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp không đảm bảo do chưa được kiểm toán. Trên thực tế, các doanh nghiệp khi muốn vay vốn có thể cung cấp các báo cáo tài chính không trung thực cho ngân hàng hoặc nếu có thì chưa chắc chắn đã đầy đủ. Trong khi đó ở Việt Nam hiện nay chưa có một tố chức nào có khả năng cung cấp thông tin về mức độ rủi ro trong hoạt động của các doanh nghiệp, chưa có công ty chuyên trách về định giá tài sản. Bên cạnh đó, hai trung tâm phòng ngừa rủi ro TPR và CIC của hệ thống ngân hàng Việt Nam lấy số liệu thống kê do các chi nhánh cung cấp lên thường bị chậm và chưa chuẩn xác. Vì vậy, việc thu thập các thông tin số liệu để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh cũng như quản lý vốn vay của doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, việc lấy thông tin số liệu làm căn cứ để thẩm định chưa đầy đủ, chính xác dẫn đến khó đánh giá hoặc đánh giá sai lệch về khách hàng và hiệu quả kinh tế của dự án đầu tư. Chương 3: Định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại VP Bank I, Định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại VP Bank: Muốn nâng cao được chất lượng thẩm định dự án đầu tư đáp ứng được những yêu cầu đòi hỏi của hoạt động cho vay của ngân hàng và của nền kinh tế thì đầu tiên và trước hết phải có một nhận thức đúng và định hướng đúng. Trong những năm qua, VP Bank đã liên tục đề ra những biện pháp và hướng đầu tư mới để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tạo sự phát triển bền vững. VP Bank đã hướng vào các mục tiêu cụ thể: 1, Phát triển các quan hệ mới đối với khách hàng là doanh nghiệp hoạt động lành mạnh và có hiệu quả. 2, Hoàn chỉnh các quy chế, quy trình nghiệp vụ trong các lĩnh vực hoạt động ngân hàng, đảm bảo cho hoạt động ngân hàng phát triển đúng pháp luật. 3, Tích cực thu hồi nợ, phát triển tín dụng, bảo lãnh mới trên cơ sở đảm bảo hiệu quả và chất lượng. 4, Kiện toàn bộ máy tổ chức và nhân sự. 5,Tăng cường liên kết với các ngân hàng bạn. 6, Tăng vốn điều lệ bằng cách phát hành cổ phiếu. 7, Mở thêm một số nghiệp vụ, dịch vụ mới: Cho vay nợ, bảo lãnh dự thầu, đại lý phát hành thẻ tín dụng, giao dịch mua bán chứng khoán… Năm 2000 đánh dấu một chuyển biến quan trọng trong quá trình phát triển của VP Bank, đó là việc Hội đồng quản trị quyết định lựa chọn mục tiêu chiến lược của VP Bank trong vòng mười năm tới là “xây dựng VP Bank trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu của Việt Nam và trong khu vực”. VP Bank thiết kế lại toàn bộ sản phẩm của mình và xắp xếp chấn chỉnh lại toàn bộ bộ máy tổ chức để phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng, tư tưởng chủ đạo của VP Bank là: Sự thịnh vượng của khách hàng là thành công của VP Bank. Để thực hiện được chiến lược đặt ra, VP Bank xác định vấn đề nguồn nhân lực là yếu tố chủ chốt quyết định sự thành công. Trong năm 2000 một ban đề án triển khai cải tổ đã được thành lập, với nhiệm vụ trọng yếu là chuẩn bị các điều kiện cần thiết về tổ chức, nhân công, công nghệ thông tin, trang thiết bị, quy trình nghiệp vụ mới… Trong những năm tới, VP Bank tiếp tục kiên trì con đường cải tổ đã định ra, phấn đấu đạt được các chỉ tiêu hoạt động đã định và lợi nhuận lớn hơn năm trước, từng bước giải quyết nợ xấu còn tồn đọng, nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo tín dụng lành mạnh. Để thực hiện được những mục tiêu này đòi hỏi chất lượng thẩm định phải được nâng cao, công tác thẩm định phải được quan tâm đặc biệt. Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại ngân hàng các doanh nghiệp ngoài quốc doanh cần theo một định hướng sau: 1, Cán bộ thẩm định phải nắm vững quy trình nghiệp vụ có kỹ năng phân tích, tích cực tìm hiểu các quy định liên quan để đảm bảo kết quả thẩm định tốt nhất. 2, Các cán bộ thẩm định phải nghiên cứu hồ sơ do khách hàng cung cấp, tham khảo thêm các thông tin từ các phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống thông tin rủi ro của ngân hàng nhà nước (CIC), thông tin từ đồng nghiệp và các nguồn khác để đảm bảo kết quả thẩm định có độ tin cậy cao. 3, Đánh giá độ tin cậy của các chứng cứ số liệu trong dự án, phương án kinh doanh, đầu tư trong báo cáo tài chính. Đánh giá tính khả thi của dự án phương án sản xuất kinh doanh, đầu tư trong môi trường nền kinh tế chung. 4, Công tác thẩm định dự án đầu tư phải được phổ cập hoá trong toàn hệ thống, tới tất cả các cán bộ làm nhiệm vụ ở các bộ phận khác nhau với những yêu cầu đòi hỏi khác nhau. Trong đó phải có bộ phận chủ lực làm nòng cốt tại các chi nhánh cũng như hội sở, nghĩa là vừa phải toàn diện vừa phải có trọng tâm. 5, Công tác thẩm định đòi hỏi tính chủ động, năng lực sáng tạo, khả năng tập hợp, phân tích, đánh giá của cán bộ thẩm định. 6, Công tác thẩm định phải đứng trên giác độ của người cho vay, người bỏ vốn để xem xét thẩm định. Phải đánh giá độ rủi ro của dự án, phương án sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nói chung và trong ngành kinh doanh nói riêng. II, Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tại VP Bank: Thẩm định dự án đầu tư là một nghiệp vụ phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn xem xét và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Đối với các ngân hàng, luôn quan tâm tới chất lượng tín dụng, đảm bảo các khoản vay được sử dụng có hiệu quả, có khả năng sinh lời cao, từ đó đảm bảo khả năng trả nợ của dự án. Do vậy chất lượng thẩm định luôn được quan tâm hàng đầu, chất lượng thẩm định tốt, quyết định cho vay sẽ chính xác. Xuất phát từ tính cáp bách và cần thiết của việc thẩm định dự án đầu tư, từ thực tiễn thẩm định tại Ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam, chúng ta thấy một số vấn đề cần phải hoàn thiện để nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Đây là một vấn đề có tính tổng hợp và quyết định hiệu quả thẩm định dự án đầu tư cho vay vốn của ngân hàng. Em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư như sau: 1. Về phương pháp thẩm định: Phương pháp thẩm định chính là cách thức tiến hành công việc thẩm định, do đó phương pháp thẩm định tốt sẽ cho những kết luận đúng, đồng thời giúp cán bộ thẩm định rút ngắn dược thời gian thẩm định. Để nâng cao hiệu quả về công tác thẩm định dự án thì Ngân hàng phải phổ cập và tăng cường áp dụng các phương pháp, chỉ tiêu thẩm định hiện đại, trên cơ sở tham khảo, học hỏi các ngân hàng lớn, có uy tín trong nước và trên thế giới, áp dụng một cách sáng tạo vào tình hình thực tế của nước ta. Đây là vấn đề thiết thực trong việc nâng cao chất lương thẩm định dự án. Tuỳ thuộc vào từng dự án mà áp dụng phương pháp thẩm định khác nhau, có những dự án đòi hỏi phải sử dụng kết hợp các phương pháp hoặc tất cả các phương pháp. Ngân hàng cần kiểm tra, rà soát lại các chỉ tiêu tài chính đang áp dụng trong thẩm định tài chính dự án đầu tư để phát hiện ra các hạn chế và chuẩn hoá lại phương pháp thẩm định tài chính của dự án. Đây là vấn đề cơ bản mà ngân hàng có thể, có khả năng thực hiện và có ý nghĩa rất thiết thực trong việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại ngân hàng. Thứ nhất, Khi phân tích về mặt tài chính VP Bank cần phải quan tâm, làm rõ hơn nữa các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án, không chỉ tính toán các chỉ tiêu phản ánh mức sinh lời và nguồn trả nợ của dự án mà phải quan tâm đặc biệt, đánh giá mức độ an toàn của dự án. Không chỉ đơn thuần sử dụng các chỉ tiêu phân tích giản đơn mà phải tính đến các yếu tố như giá trị thời gian của tiền, lạm phát, rủi ro…Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cơ bản cần được sử dụng để thẩm định tất cả các dự án là: NPV, IRR, RR, điểm hào vốn, thời gian hoà vốn, phân tích độ nhạy của dự án…Khi thẩm định tài chính của bất kỳ dự án vay vốn trung hạn và dài hạn nào cần phải tính toán đầy đủ, chính xác các chỉ tiêu trên mới đánh gía được chính xác về tính khả thi, hiệu quả của dự án. Phân tích độ nhạy là phương pháp xem xét mức độ ảnh hưởng của các yếu tố khách quan, các chỉ tiêu đến các chỉ tiêu hiệu quả của dự án. Giả thiết các trường hợp rủi ro có thể xảy ra, phân tích mức độ ảnh hưởng của nó tới các chỉ tiêu hiệu quả tài chính cơ bản như NPV, IRR. Một dự án được coi là hiệu quả khi ngay cả trong các trường hợp có rủi ro xảy ra, dự án đó vẫn tỏ ra hiệu quả. Như trong dự án sản xuất bữa ăn trên máy bay, khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997-1998 đã ảnh hưởng rất lớn tới ngành hàng không, số lượng các chuyến bay giảm mạnh kéo theo số lượng bữa ăn cũng giảm, ảmh hưởng đến doanh thu của những năm đó. Năm nay được xác định là năm du lịch của Việt Nam và Việt Nam đăng cai Sea Game 22, theo dự kiến số lượng khách du lịch tới Việt Nam là rất lớn, nhưng do ảnh hưởng của bệnh SARS, các nhà dự báo đã cảnh báo rằng nếu tình hình không sáng sủa hơn thì lượng khách du lịch đến Việt Nam trong thời gian tới sẽ giảm đánh kể, khi đó số lượng các chuyến bay và các hoạt động dịch vụ khác sẽ giảm. Những yếu tố rủi ro có thể xảy ra đối với dự án phải được xem xét kỹ trong quá trình tính toán, phân tích, đánh giá mức độ ảnh hưởng tối đa, có như vậy mới đánh giá được chính xác độ an toàn của dự án. Thứ hai, Về cách tính dòng tiền, cán bộ thẩm định dự án cần phải tính cho cả đời dự án chứ không phải chỉ tính trong thời gian dự án vay vốn ngân hàng. Vì có dự án trong thời gian trả nợ dự án có hiệu quả nhưng đến những năm sau dự án hoạt động không có hiêụ quả thì khả năng trả nợ sẽ không chắc chắn. Đối với một số dự án có thời gian thu hồi vốn lâu do vốn đầu tư lớn hoặc do tính đặc thù của dự án, trong thời gian trả nợ có thể dự án vẫn chưa thu hồi đủ vốn, nhưng trong thời gian sau dự án thu hồi đủ vốn và có lãi. Mặt khác đối với những dự án vay vốn trung và dài hạn cần phải tính đến yếu tố lạm phát, trượt giá trong tỷ suất chiết khấu nhằm xác định tỷ suất thích hợp cho việc phân tích các chỉ tiêu tài chính nhằm đảm bảo đánh giá chính xác tính hiệu quả của dự án. Thực tế là đối với nhiều nền kinh tế lạm phát là tất nhiên, tuỳ từng sự vững mạnh của mỗi nền kinh tế mà tỉ lệ lạm phát cao hay thấp ở mỗi quốc gia là khác nhau, lạm phát làm giảm giá trị thực của tiền. Chẳng hạn năm 1991 để mua một tạ xi măng cần phải chi 54.000 đồng. Năm 1993 với giá 54.000 đồng chỉ có thể mua được 83 kg xi măng (vì giá xi măng năm 1993 là 65.000 đồng/1 tạ). Như vậy cùng một lượng tiền nhưng do ảnh hưởng của lạm phát đã làm cho giá trị thực tế của tiền giảm. Do đó trong quá trình thẩm định phải tính toán đến các yếu tố lạm phát, nhất là các dự án có thời gian hoạt động dài. Có nhiều dự án khi không tính đến yếu tố lạm phát thì có hiệu quả, NPV>0 nhưng khi xem xét cả yếu tố lạm phát thì lại không hiệu quả, không có lãi. Trong dự án sản xuất bữa ăn trên máy bay cũng chưa tính đên yếu tố lạm phát. Công thức tính tỷ lệ chiết khấu : r = (1+rlf )( 1 +rcơ hội) – 1 Thứ ba, Năng động, linh hoạt trong quá trình thẩm định. Trong quá trình thẩm định phải thấy được mối liên hệ mật thiết giữa phân tích tài chính với kinh tế xã hội của dự án. Bởi vì thông tin thu được sau mỗi giai đoạn đầu tư có thể rất cần thiết để hoàn tất một khía cạnh khai thác của dự án. Tuy nhiên, cách đánh giá nhận xét một dự án có tính khả thi, có tính hiệu quả còn tuỳ thuộc vào loại dự án (độc lập hay phụ thuộc), vào chủ thể đầu tư, chẳng hạn chủ dự án thường chú trọng đến chỉ tiêu sinh lời của dự án nhưng đối với ngân hàng đôi khi có thể xem nhẹ mặt này, ưu tiên được dành cho chỉ tiêu thời gian có thể trả nợ hoặc kết quả tài chính của doanh nghiệp . Chỉ tiêu hiệu quả đánh giá dự án khác nhau ở những ngành lĩnh vực khác nhau. Tuỳ từng ngành, từng lĩnh vực khác nhau mà có sự đầu tư khác nhau về khối lượng vốn cần thiết, trình độ kỹ thuật, công nghệ, khả năng tổ chức quản lý…Do đó ở các ngành khác nhau sẽ có chỉ tiêu hiệu quả chuẩn cũng khác nhau. Ngân hàng cần quan tâm hơn đến việc thẩm định dự án theo chỉ tiêu NPV, IRR, B/C. Bởi đây là những công cụ hữu hiệu giúp ngân hàng có khả năng đánh giá chính xác hơn về tính khả thi của dự án. Ngân hàng phải coi đây là những chỉ tiêu chủ yếu và phải tính toán bắt buộc cho 100% các dự án xin vay tại ngân hàng, sử dụng các chỉ tiêu này làm các chỉ tiêu chuẩn mực trong việc đánh giá, lựa chọn dự án. Các chỉ tiêu này rất quan trọng và có ý nghĩa, cần phải được áp dụng đồng thời để bổ sung hỗ trợ lẫn nhau và phản ánh chính xác hiệu quả tài chính của dự án. Chỉ tiêu hiệu quả chuẩn là cái mốc để so sánh với chỉ tiêu hiệu quả tính toán từ dự án, sau đó đi đến quyết định có đầu tư hay không. Đây là một vấn đề khó khăn đối với Ngân hàng vì hiện nay chưa có cơ quan nào ban hành các tiêu chuẩn cho phép. Trước đây chỉ tiêu hiệu quả chuẩn được sử dụng trong thẩm định dự án đầu tư là các chỉ tiêu: Suất vốn đầu tư định mức, thời hạn thu hồi vốn đầu tư định mức…Các chỉ tiêu này có một ưu điểm lớn là định rõ được mức sinh lời mong muốn từ công cuộc đầu tư để phấn đấu đạt tới. Nếu không đạt được mức hiệu quả đó thì dự án sẽ bị bác bỏ. Tuy nhiên ưu điểm này chỉ phát huy tác dụng khi các tiêu chuẩn hiệu quả luôn thay đổi cho phù hợp với các biến động trong nước cũng như nước ngoài. Nếu không các chỉ tiêu này sẽ phản ánh không chính xác, ở nước ta đã lâm vào tình trạng đó. Nó không được thay đổi kịp thời để phù hợp với những tiến bộ vượt bậc về công nghệ, kỹ thuật, về cơ chế quản lý, tổ chức điều hành trên thế giới. Trước tình trạng đó các ngân hàng thực hiện so sánh các chỉ tiêu hiệu quả của dự án sắp đầu tư với các chỉ tiêu hiệu quả của dự án tương tự đã thực hiện. Nhưng ở nước ta hiện nay có những dự án, công trình đang hoạt động trong tình trạng kém hiệu quả. Do đó, nếu so sánh như trên thì mức hiệu quả cũng không chắc chắn được đảm bảo như mong muốn của người đầu tư. Như vậy với tình hình đó thì việc năng động, linh hoạt trong khi sử dụng các chỉ tiêu hiệu quả chuẩn làm căn cứ cho việc lựa chọn phương án tối ưu trong thẩm định hiệu quả kinh tế của dự án là một giải pháp tốt nhất. Sau đây là một vài tiêu chuẩn chung: - Các chỉ tiêu không chiết khấu: các chỉ tiêu này tuỳ thuộc từng ngành, ngề bao gồm: + Tỷ suất sinh lời của vốn đầu tư + Tỷ suất sinh lời của doanh thu + Vòng quay vốn lưu động + Thời gian hoàn vốn (pp) Đối với các dự án thương mại dịch vụ, đầu tư chiều sâu, tiểu thủ công nghiệp ngắn ngày: pp<5 năm Đối với công nghiệp nhẹ PP<7 năm Đối với dự án công nghiệp nặng, công nghiệp nhẹ dài ngày pp<10 năm Đối với dự án công trình hạ tầng pp<15 năm + Các chỉ tiêu có chiết khấu + Thời gian hoàn vốn có chiết khấu: Chỉ tiêu này phụ thuộc từng ngành nghề và phù hợp với tiêu chuẩn thời gian hoàn vốn không chiết khấu. + Hiện giá thu nhập thuần: Càng lớn càng tốt. + IRR càng lớn càng tốt, IRR >= r (thường IRR > 15% là tốt) + B/C >1, càng lớn càng tốt + Tỷ lệ vốn vay/ vốn đầu tư, không nên vượt quá 1/2. - Độ an toàn thanh toán: + Tỷ suất thanh toán của vốn lưu động = Tổng vốn bằng tiền/Tổng số tài sản lưu động. Chỉ tiêu này khoảng 0,1 đến 0,5 là tốt và còn phụ thuộc vào từng lĩnh vực xem xét + Tỷ suất thanh toán tức thời = Tổng vốn bằng tiền/ Tổng nợ ngắn hạn. Chỉ tiêu này xấp xỉ 0,5 là tốt và còn tuỳ thuộc lĩnh vực xem xét + Tỷ suất thanh toán ngắn hạn = TSLĐ/Tổng nợ nhắn hạn Chỉ tiêu này xấp xỉ 1 là tốt. - Độ rủi ro: + Điểm hoà vốn trả nợ: Sản lượng ở điểm hoà vốn trả nợ đạt từ 30% đến 40% công suất của dự án là tốt. + Điểm hoà vốn lãi lỗ: Sản lượng hoà vốn đạt từ 50% đến 60% công suất của dự án là tốt. + Phân tích độ nhạy. 2. Về thông tin: Chúng ta ai cũng rõ tầm quan trọng của thông tin đối với cuộc sống ngày nay. Chiến thắng sẽ thuộc về người nắm được nhiều thông tin và biết được thông tin nhanh nhất. Trong hoạt động thẩm định thông tin đóng vai trò quan trọng, quyết định đến chất lượng thẩm định. Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng của các ngân hàng rất đa dạng và phức tạp từ các doanh nghiệp nhà nước đến doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ gia đình. Mức độ hiểu biết về khách hàng cũng như về dự án vay vốn phụ thuộc lượng thông tin thu thập được. Có thể nói thông tin là cơ sở để cán bộ thẩm định tiến hành các bước phân tích và đánh giá thẩm định dự án vay vốn. Thông tin đầy đủ nhiều chiều với độ tin cậy cao có ảnh hưởng lớn đến kết quả thẩm định. Các thông tin này có thể thu thập từ nhiều nguồn khác nhau như từ khách hàng, báo chí, các trung tâm cung cấp thông tin, Internet, từ các trung tâm tư vấn và các cơ quan chuyên cung cấp thông tin. - Thông tin về quy hoạch, kế hoạch, định hướng phát triển do các bộ ngành xây dựng và công bố… - Các thông tin về các lĩnh vực, ngành ngề, cung cầu sản phẩm trên thị trường, hướng phát triển trong tương lai. - Các thông tin về dự báo thị trường trong nước và quốc tế. - Các thông tin khác. Ngân hàng cần thành lập bộ phận chuyên trách chuyên thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt động của ngân hàng nói chung và công tác thẩm định nói riêng. Thông tin thu được rất quan trọng, các thông tin này đòi hỏi phải chính xác. Nâng cao chất lượng hoạt động nói chung và công tác thẩm định nói riêng không thể tách rời với câng cao chất lượng thông tin. Để đảm bảo chất lượng thông tin thu được đòi hỏi cán bộ thẩm định phải thu thập các nguồn thông tin đa dạng, có như vậy số liệu mới mang tính khách quan, không bị bóp méo vì mục đích riêng của người vay vốn. Có thể chính xác hoá các thông tin bằng cách cử cán bộ thẩm định thực tế dự án, trong quá trình đi thực tế sẽ nắm chắc tình hình tài chính, tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các thông tin khác. Tuy nhiên việc làm này cũng rất phức tạp. Thông tin chính xác hơn khi nó được khai thác từ nhiều nguồn, do đó trước mắt tránh khai thác thông tin một chiều, tức là ngoài những thông tin do khách hàng xin vay vốn cung cấp, cán bộ thẩm định phải sử dụng triệt để những nguồn thông tin từ bên ngoài như thông tin do mối quan hệ khách hàng lâu dài, thông tin từ các tổ chức khác, các chuyên gia trong các lĩnh vực, các văn bản, tài liệu, các tổ chức kiểm toán ... Cán bộ thẩm định phải thường xuyên cập nhật những quy định của nhà nước có liên quan đến lĩnh vực đầu tư. Đây là những quy định có tính nghiêm ngặt và chặt chẽ để đảm bảo lợi ích của nhà nước, của chủ đầu tư và của cả cộng đồng. Tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về đầu tư còn giúp các ngân hàng có thể bảo vệ được lợi ích của mình trong một số lĩnh vực mà ngân hàng không đủ khả năng chuyên môn để thẩm định (chẳng hạn như lĩnh vực kỹ thuật, xây dựng, môi trường). Đứng ở góc độ Ngân hàng cán bộ thẩm định cần nắm được các quy định: - Quy định về dự toán vốn đầu tư xây dựng: Theo quy định của điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng đối với các dự án có sử dụng nguồn vốn của nhà nước hoặc được nhà nước bảo lãnh phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền duyệt dự toán. - Quy định về đấu thầu. - Quy định về bảo vệ môi trường: Phải tuân thủ các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường thuộc danh mục do Bộ khoa học công nghệ và môi trường quy định. - Quy hoạch, kiến trúc, xây dựng: Phải nắm được các quy định về quy hoach, kiến trúc và xây dựng của nhà nước. - Quy định về chế độ tài chính đối với từng loại hình doanh nghiệp để đảm bảo các khoản mục chi phí của doanh nghiệp khi đi vào vận hành sản xuất kinh doanh, chế độ kiểm toán. - Các quy định về chế độ khấu hao tài sản cố định, chế độ tiền lương, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội. - Các quy định về các loại thuế: Thuế xuất nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập doanh nghiệp. - Các quy định về tiền thuê đất, tiền sử dụng đất do ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố ban hành dựa theo khung giá do nhà nước quy định. - Những quy định về miễn giảm, ưu đãi, hỗ trợ và khuyến khích đầu tư. Ngoài ra, Ngân hàng có thể thuê các công ty kiểm toán để đánh giá tính trung thực của các báo cáo tài chính của những doanh nghiệp có dự án xin vay vốn trung hạn và dài hạn với số lượng vốn vay lớn. Đồng thời trong những trường hợp đặc biệt, ngân hàng có thể tiến hành mua thông tin cần thiết có chất lượng cao từ các tổ chức chuyên cung cấp thông tin hoặc có thể thuê các chuyên gia, các công ty tư vấn trong và ngoài nước góp ý kiến, tham gia phân tích thẩm định dự án hay thực hiện các nghiên cứu chuyên sâu có liên quan. Sự đa dạng hoá thông tin là điều kiện tiên quyết để loại bỏ sự sai lệch và ngân hàng có sự đánh giá chính xác về đơn vị vay vốn. 3. Về nhân tố con người: Trong hoạt động thẩm định con người là trung tâm chi phối ảnh hưởng và quyết định chất lượng của công tác thẩm định. Nhân tố con người là vô cùng quan trọng, tất cả các công việc liên quan đến quá trình thẩm định đều được thực hiện bởi con người. Cán bộ tín dụng làm công tác thẩm định là những người thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, đề nghị ngân hàng cho doanh nghiệp vay vốn, ban lãnh đạo ngân hàng căn cứ vào đề nghị đó để quyết định cho vay hay không. Nếu như cán bộ tín dụng làm công tác thẩm định không có đủ trình độ để thẩm định dự án vay vốn, hoặc vó tư cách đậo đức không tốt có thể móc ngoặc với khách hàng để rút vốn của ngân hàng, điều này xảy ra sẽ gây ra những hậu quả xấu đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Cho nên nâng cao hiệu quả thẩm định của dự án đầu tư thì đầu tiên và quan trọng nhất là quan tâm đến con người. Con người ở đây chính là đội ngũ cán bộ nhân viên điều hành hoặc trực tiếp thực hiện các công việc thẩm định dự án. Trình độ cán bộ thẩm định đóng vai trò hàng đầu trong việc đảm bảo hiệu quả các khoản cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cần xây dựng kế hoạch phát triển đội ngũ cán bộ thẩm định cả về quy mô và trình độ kiến thức. Phải tăng cường, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng thẩm định dự án cho đội ngũ cán bộ thẩm định dự án, đặc biệt cần hướng dẫn cán bộ thẩm định cách thức thu thập thông tin một cách nhanh nhất và chính xác, bồi dưỡng ở đây không chỉ đơn thuần là bồi dưỡng về trình độ kiến thức mà còn giáo dục cả về tư tưởng đạo đức cho cán bộ thẩm định. Cán bộ thẩm định phải có phẩm chất nghề nghiệp tốt, trung thực, có tinh thần trách nhiệm, kỷ luật nghề nghiệp cao. Ngoài ra, trong quá trình công tác: Hàng tháng, quý ngân hàng nên tiến hành tổ chức các buổi tổng kết hoạt động trong tháng, quý đó. ở đó cán bộ tín dụng sẽ đưa ra các vướng mắc gặp phải trong quá trình thẩm định của mình từ đó đúc rút kinh nghiệm cho các lần sau. Đây cũng là một trong các biện pháp giúp cho cán bộ thẩm định học hỏi lẫn nhau, bổ sung thêm kiến thức kinh nghiệm trong công việc cho mỗi người. Ngân hàng cần có những chính sách khuyến khích sự năng động sáng tạo, tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực của các cán bộ thẩm định trẻ. Ngân hàng cần phân công các cán bộ tín dụng giỏi, có kinh nghiệm kèm cặp những cán bộ trẻ ít kinh nghiệm, đây là cách thiết thực nhất để kết hợp giữa lý thuyết với thực tiễn của các cán bộ trẻ. Xây dựng cơ chế thưởng phạt để kịp thời khuyến khích động viên mọi nguồn lực của ngân hàng trong việc phát huy hiệu quả hoạt động ngân hàng. Khuyến khích các cán bộ nhân viên tự học, mời chuyên gia về giảng dạy theo từng chủ đề riêng tại ngân hàng, cử đi học hoặc tạo điều kiện cho các cán bộ nhân viên được tham gia các khoá đào tạo ngắn hạn hoặc dài hạn có nội dung thích hợp với công việc của ngân hàng, nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ và hiểu biết của cán bộ nhân viên, góp phần nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh. 4. Về trang thiết bị: Hiện nay, công nghệ ngân hàng và công nghệ thẩm định dự án ở các nước trong khu vực và trên thế giới đã rất phát triển. Do vậy, để ngân hàng có thể cạnh tranh, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới cũng như nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tương xứng với yêu cầu của sự phát triển công nghệ và trang thiết bị kỹ thuật phục vụ cho thẩm định phải được chú trọng đầu tư, ứng dụng và phát triển. Trong thực trạng và điều kiện phát triển của ngân hàng hiện nay thì một số giải pháp khác là phải có một hệ thống trang thiết bị, công nghệ thẩm định dự án hiện tại. Để thực hiện điều này, ngân hàng phải đầu tư mua sắm trang thiết bị hiện đại, áp dụng những kỹ thuật phân tích, tính toán hiện đại để truy nhập, xử lý được một khối lượng thông tin khổng lồ, ứng dụng các phương pháp thẩm định tài chính dự án phức tạp với khối lượng số liệu tính toán lớn. Ngân hàng cần trang bị những thiết bị hiện đại để phục vụ cho việc lưu trữ, xử lý và truyền thông tin. Ngân hàng nên tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị phục vụ cho công tác thẩm định tài chính dự án sao cho mỗi cán bộ thẩm định được trang bị ít nhất một máy vi tính, một modem truyền tin, một điện thoại di động và phương tiện đi lại. Ngân hàng cần nghiên cứu và lắp đặt một hệ thống máy tính nối mạng nội bộ giữa các bộ phận thẩm định và các bộ phận khác của ngân hàng để phục vụ cho việc truyền tin, báo cáo, khai thác thông tin. Tuỳ theo quy mô và tính chất công việc mà có sự đầu tư phù hợp để vừa không lãng phí và bảo đảm phục vụ tốt nhất cho yêu cầu công việc. Ngân hàng nên tự nghiên cứu hoặc đặt mua một số phần mềm hỗ trợ cho công tác thẩm định tài chính dự án hoặc quản lý trao đổi thông tin. 5. Về cơ cấu tổ chức điều hành: Thẩm định dự án đầu tư là tập hợp của rất nhiều hoạt động khác nhau nhưng có liên quan chặt chẽ với nhau. Mặt khác dự án đưa đến ngân hàng thường có quy mô, lĩnh vực rất đa dạng. Do vậy, việc sắp xếp, tổ chức ra sao để các bộ phận hoạt động nhịp nhàng, hỗ trợ cho nhau thành một thể thống nhất là vô cùng cần thiết. Nên phân công cho mỗi cán bộ phụ trách công tác thẩm định các dự án thuộc một lĩnh vực nhất định, đồng thời có sự hỗ trợ với nhau giữa các cán bộ trong công tác khi công việc không đồng đều. Mỗi cán bộ chuyên sâu về từng lĩnh vực, bổ xung cho nhau sẽ giúp cho chất lượng công tác thẩm định được tốt hơn. Ngân hàng nên thành lập phòng thẩm định dự án riêng, phòng này chịu trách nhiệm thẩm định các dự án vay vốn tại Ngân hàng, có như vậy mới thống nhất được công tác thẩm định, đảm bảo chuyên môn, nâng cao chất lượng công tác thẩm định. Hoàn thiện hơn nữa quy trình thẩm định, chuẩn hoá các bảng biểu, tờ trình thẩm định nhằm áp dụng một cách chặt chẽ, thống nhất trong toàn hệ thống. Hệ thống thẩm định của ngân hàng cần được hoàn thiện theo hướng tăng cường sự phối hợp giữa các phòng, đảm bảo cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định. Bên cạnh đó ngân hàng cần hình thành một mối quan hệ về thẩm định với ngân hàng ngoại thương, Bộ Kế hoạch- Đầu tư, bộ phận thẩm định ở các ngân hàng thương mại quốc doanh lớn như ngân hàng đầu tư phát triển, ngân hàng công thương, ngân hàng Nông nhhiệp phát triển nông thôn để kế thừa, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau trong hoạt động thẩm định dự án. Hàng năm, ngân hàng cần tiến hành xây dựng một chương trình kế hoạch, nhiệm vụ cho công tác thẩm định trên cơ sở kế hoạch chung. Đồng thời ngân hàng cũng nên phát động phong trào nghiên cứ khoa hoc, qua đó tập trung các đề xuất, sáng kiến, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến và áp dụng trong toàn hệ thống. III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại VP BANK: Thẩm định dự án đầu tư là hoạt động phức tạp có phạm vi xem xét rộng, liên quan đến nhiều đối tượng khác nhau. Chất lượng công tác thẩm định đầu tư ngoài việc phụ thuộc vào bản thân ngân hàng còn phụ thuộc vào môi trường pháp lý, kinh tế bên ngoài. Xuất phát từ những giải pháp trên, em xin đề xuất một số kiến nghị sau: 1. Với Chính phủ, Bộ, Ngành và chính quyền địa phương: Thứ nhất, Các Bộ, Ngành cần phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định và phê duyệt dự án đầu tư, nâng cao trình độ chất lượng thẩm định, làm cơ sở cho công tác thẩm định của ngân hàng. Việc tạo hành lang pháp lý cho các ngân hàng và các doanh nghiệp theo đó mà thực hiện là rất cần thiết, việc hoàn thiện, tạo lập môi trường pháp lý cho công tác thẩm định là điều cấp bách. Nhà nước cần ban hành một số luật, các văn bản dưới luật có liên quan đến hoạt động tín dụng của ngân hàng. Bên cạnh đó cũng cần sửa đổi bổ sung, hoàn thiện một số điều, nội dung trong các văn bản pháp luật đã ban hành. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành, trình tự lập và thẩm định dự án đầu tư, tránh tình trạng nhiều chủ đầu tư và ngay cả ngân hàng không biết trình tự thẩm định dự án đầu tư. Chính phủ cần có sự chỉ đạo kịp thời, cụ thể hơn các văn bản quy định việc phối hợp và trách nhiệm của các bên: Ngân hàng nhà nước, Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ tài chính hoặc cơ quan chủ quản, doanh nghiệp…trong việc thực hiện dự án, cần tạo ra cơ chế gắn kết hoạt động của dự án với những ý kiến thẩm định. Mặt khác, Chính phủ cần đẩy mạnh hơn nữa việc cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng theo hướng điều tiết mềm dẻo và trao quyền tự chủ hơn nữa cho khu vực này. Chính phủ, các Bộ, Ngành và chính quyền địa phương xây dựng các quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế cho cả nước cũng như từng ngành đảm bảo tính hợp lý và ổn định, tránh sự trùng lặp, sự phi hiệu quả hay sự thay đổi thường xuyên. Đặc biệt là các quy hoạch cụ thể phát triển kinh tế của từng ngành là những cơ sở tham khảo tốt cho cán bộ thẩm định khi thẩm định những dự án trong vùng và ngành tương ứng, nhất là các dự án sử dụng hoàn toàn vốn ngân hàng. Nhà nước cần chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện chế độ thống kê, kế toán và các thông tin báo cáo theo đúng quy định của nhà nước. Bên cạnh đó ban hành quy chế bắt buộc kiểm toán và công khai quyết toán của doanh nghiệp, tạo điều kiện giúp hệ thống ngân hàng trong việc phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng như trong việc thẩm định dự án đầu tư. Chính phủ cần có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước. Những doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ kéo dài, làm ăn không hiệu quả, nhà nước có thể giải quyết cho phá sản hoặc cổ phần hoá, chỉ để lại những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thực sự cần thiết cho dân sinh, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng. Đặc biệt, tăng cường trách nhiệm trong việc cấp giấy phép thành lập các công ty tư nhân, công ty TNHH tránh thành lập tràn lan gây hậu quả xấu trong quan hệ vay vốn với ngân hàng. Nhà nước cần có những biện pháp thích hợp để phát triển các loại hình công ty kiểm toán, đồng thời đưa ra các chế tài nghiêm minh, biện pháp xử lý đối với những doanh nghiệp đưa ra các số liệu, thông tin không chính xác, sử dụng đồng thời hai loại cân đối để đảm bảo các thông tin đưa ra được chính xác, nâng cao pháp chế Xã hội chủ nghĩa. Để tránh bên vay dùng chính tài sản đã thế chấp để tiếp tục cầm cố thế chấp nhiều nơi, nhiều lần. Chính phủ nên quyết định thành lập “ cơ quan đăng ký quốc gia về giao dịch đảm bảo”. Cần khuyến khích phát triển các hình thức công ty tư vấn, ở nước ta hình thức công ty tư vấn là mới, chưa được phát triển rộng rãi, do đó nhà nước cần phải có biện pháp củng cố những cơ quan, những công ty tư vấn hiện có và khuyến khích việc phát triển các hình thức công ty tư vấn để có thể đáp ứng được nhu cầu thuê thẩm định, kiểm định một số phương diện của dự án, đồng thời cần có biện pháp nâng cao trình độ và trách nhiệm của những người làm công tác thẩm định ở các cơ quan tham mưu phê duyệt dự án và các cán bộ thẩm định tại ngân hàng. Đảm bảo cho các dự án được phê duyệt phù hợp với quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, của từng ngành, từng khu vực, địa phương và đạt hiệu quả kinh tế. 2. Đối với ngân hàng nhà nước: Ngân hàng nhà nước là cơ quan điều hành trực tiếp các ngân hàng thương mại nên cần phải có sự hỗ trợ cho công tác thẩm định của các ngân hàng thương mại về mặt thông tin và kinh nghiệm thẩm định. Ngân hàng nhà nước có thể đứng ra tổ chức hoặc tự mình mở các khoá đào tạo bắt buộc theo yêu cầu với mục đích đào tạo các cán bộ thẩm định cho các ngân hàng thương mại. Hàng năm ngân hàng nhà nước nên đứng ra chủ trì hội nghị toàn ngành về công tác thẩm định nhằm đánh giá, báo cáo kinh nghiệm, trao đổi thông tin giữa các ngân hàng thương mại và cũng đồng thời nhằm nghiên cứu việc áp dụng những phương pháp kỹ thuật thẩm định mới vào thực tiễn. Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu kỹ các biến động, hướng phát triển của tình hình kinh tế trong nước cũng như quốc tế để đưa ra mức lãi suất cho vay cơ bản phù hợp, ổn định, các ngân hàng thương mại sẽ dùng nó để tính lãi suất cho vay riêng đối với từng khách hàng theo công thức: RV = RC+ DKH +DTV+ DTG Trong đó: RV : Lãi suất cho vay đối với khách hàng riêng lẻ RC : Lãi suất cho vay cơ bản DKH : Tỷ lệ điều chỉnh rủi ro về khách hàng DTV : Tỷ lệ điều chỉnh rui ro về só tiền vay DTG : Tỷ lệ rủi ro thời hạn vay Trong công thức thẩm định của các ngân hàng việc xác định lãi suất cho vay là điều rất quan trọng. * Hoàn thiện tổ chức và hoạt động thông tin tín dụng nhằm góp phần hạn chế rủi ro trong công tác tín dụng của ngành ngân hàng nước ta (CIC). Từ khi thành lập đến nay, tổ chức thông tin tín dụng ngân hàng (CIC) đã xây dựng kho dữ liệu quốc gia về thông tin tín dụng ngày càng dồi dào, chất lượng thông tin tín dụng ngày càng đầy đủ và chính xác hơn, đã đạt 80% hồ sơ về dư nợ tín dụng với 140 ngàn hồ sơ dư nợ trên 190 ngàn tỷ đồng, hàng năm đã cung cấp hàng ngàn thông tin liên quan theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng. Các thông tin ngăn ngừa rủi ro không chỉ có ý nghĩa góp phần đảm bảo an toàn tín dụng, điều hành chính sách tiền tệ mà còn thúc đẩy nền kinh tế phát triển an toàn, do vậy phải tăng cường và nâng cao chất lượng hiệu quả nghiệp vụ thông tin tín dụng đáp ứng tốt hơn đòi hỏi phát triển chung của đất nước và của ngành. Muốn làm tốt hơn điều đó, đề nghị lãnh đạo, cán bộ trung tâm cần tập trung: 1, Hoàn thiện hành lang pháp lý về thu thập xử lý, phân tích, cảnh báo, cung cấp thông tin phù hợp phát triển nghiệp vụ ngân hàng, thu thập cơ bản đạt 100% hồ sơ khách hàng có dư nợ ngân hàng từ 50 triệu đồng trở nên, với nội dung chất lượng cao hơn . Cập nhật kịp thời, trung thực, chính xác. Trước mắt bổ sung đầy đủ thông tin về tài sản thế chấp của khách hàng, tín chấp khách hàng đối với các tổ chức tín dụng, thực hiện xếp hạng các doanh nghiệp. 2, Thường xuyên nâng cấp và hoàn thiện công nghệ để thu thập cung cấp thông tin nhanh nhất, thuận tiện nhất, xu hướng tự động hoá, khai thác trên trang Web, hình thành ngay hệ thống dự phòng kho dữ liệu, có phương án đảm bảo an toàn trong mọi tình huống . 3, Đào tạo đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm chuyên môn hoá cao và có phẩm chất đạo đức hết lòng đối với công việc. 3. Với doanh nghiệp vay vốn: - Đề nghị các doanh nghiệp chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thống kê, kế toán hiện hành. Cần phải trung thực khi khai báo tình hình hoạt động của doanh nghiệp. - Khi lập và đánh giá hiệu quả của dự án, doanh nghiệp nên áp dụng các phương pháp phân tích hiện đại và phổ biến nhất nhằm đánh giá dự án một cách toàn diện và chính xác, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong công tác thẩm định. - Nắm vững các điều kiện và thủ tục vay vốn để phía ngân hàng nhanh chóng hoàn thành hồ sơ, tiết kiệm thời gian cho cả hai bên. Trong khi lập dự án phải xác định đúng nhu cầu xin vay vốn trên cơ sở nhu cầu đầu tư và năng lực hiện có của doanh nghiệp . - Doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra, đánh giá tình hình hoạt động của mình, có biện pháp quản lý dự án một cách chặt chẽ. Nếu có bất trắc xảy ra phải báo với ngân hàng kịp thời để cùng nhau giải quyết. kết luận Hoạt động ngân hàng có ý nghĩa quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. ở Việt Nam có khoảng 86 tổ chức tài chính, ngân hàng thương mại tạo ra một thị trường cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ ở Việt Nam. Tuy nhiên trong cạnh tranh, đặc biệt là các ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó có VP Bank, phải lỗ lực nhiều hơn do đó đã trưởng thành hơn, mở ra một khả năng lớn trong việc cải tiến chất lượng hoạt động kinh doanh về mọi mặt của hệ thống ngân hàng, đem lại cho xã hội một dịch vụ ngân hàng với chất lượng tốt với chi phí thấp. Những năm đầu mới đi vào hoạt động, do mắc phải một số sai lầm và ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ trong khu vực đã dẫn VP Bank đến chỗ có những thời đoạn vô cùng khó khăn. Nhờ sự cố gắng và đoàn kết của cán bộ nhân viên VP Bank và sự giúp đỡ của bạn bè đã đưa VP Bank dần ra khỏi tình trạng khủnh hoảng, hoạt động ngày càng hiệu quả, lấy lại lòng tin của bạn hàng và khách hàng, trở thành một ngân hàng có uy tín. Xác định rõ tầm quan trọng của hệ thống ngân hàng, Chính Phủ đã ban hành các quy định hoạt động tín dụng, trong đó có hoạt động thẩm định tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp. Nhận thức rõ tầm quan trọng của công tác thẩm định, VP Bank đã ban hành quy trình nghiệp vụ tín dụng riêng áp dụng trong hệ thống, trong đó hướng dẫn chi tiết công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Qua quá trình thực tập tại VP Bank em đã học hỏi được nhiều kiến thức thực tế bổ sung cho những kiến thức đã học và em đã hiểu hơn hoạt động của hệ thống, những kết quả đã đạt được cũng như những tồn tại trong công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại VP Bank, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp và ý kiến nhằm giúp cho việc nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tại ngân hàng thương mại cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam. Do kiến thức và thời gian có hạn, chắc chắn bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo và bạn đọc . Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Tiến sĩ Nguyễn Bạch Nguyệt và các thầy cô giáo ở bộ môn kinh tế đầu tư đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn các chú, các bác, các anh, chị công tác tại VP Bank đã tận tình giúp đỡ và cung cấp tài liệu cho em hoàn thành bài viết này. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình Kinh tế đầu tư Bộ môn Kinh tế đầu tư, trường ĐHKTQD 2. Giáo trình lập và quản lý dự án 3. Bài giảng thẩm định dự án đầu tư 4. Tài liệu quy trình nghiệp vụ thẩm định dự án của bộ KHĐT 5. Tài liệu nghiệp vụ tín dụng của VP Bank 6. Tạp chí Ngân hàng năm 1999-2003 7. Tạp chí đầu tư năm 1999-2003 8. Tạp chí Tài chính năm 1999-2003 9. Giáo trình hiệu quả và quản lý dự án Nhà nước . NXB Khoa học và kỹ thuật 1998 10. Thẩm định dự án đầu tư Vũ Công Tuấn, nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh. 11. Luận văn khoá 39 và 40 Mục lục Lời mở đầu……………………………………………………………………..1 Chương 1: Những vấn đề lý luận chung……………………………………………..2 I. Một số vấn đề lý luận về dự án đầu tư………………………………………..2 1. Khái niệm đầu tư và đầu tư phát triển………………...………………………...2 2. Dự án đầu tư và sự cần thiết phải đầu tư theo dự án …………………….……..5 3. Các bước của quá trình soạn thảo dự án đầu tư ………………………….……..7 4.Nội dung phân tích trong quá trình soạn thảo dự án khả thi…………….………8 II. Những vấn đề lý luận chung về thẩm định Dự án đầu tư …………………12 1. Khái niệm đầu tư và sự cần thiết phải thẩm định dự án đầu tư ……………….12 2. Mục đích, yêu cầu, ý nghĩa của thẩm định dự án đầu tư………………………13 3.Căn cứ để thẩm định …………………………………………………………...14 4. Các quan điểm đánh giá trong quá trình thẩm định dự án …………………....16 5. Phương pháp thẩm định và các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng công tác thẩm định……………………………………………………………………………….20 6. Nội dung thẩm định tài chính dự án…………………………………….……..22 ChươngII: Thực trạng công tác thẩm định tài chính các dự án đầu tư tại ngân hàng TMCP các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam……….…..36 I. Khái quát quá trình hoạt động của VP Bank thời gian qua……….……………36 II. Thực trạng công tác thẩm định dự án đầu tư tại VP Bank …………………... 41 1. Quy trình thẩm định tại VP Bank ……………………………………………. 42 2. Nội dụng thẩm định……………………………………………………………43 Dự án sản xuất bữa ăn trên máy bay………………………………………..…49 3. Đánh giá tình hình thẩm định dự án đầu tư tạI VP Bank……………………....67 Chương 3:Định hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao chất lương công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại VP Bank………………………………..76 I. Định hướng cho công tác thẩm định dự án đầu tư tại VP Bank…….………….76 II. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định tại VP Bank………………………………………………………………………………76 1. Về phương pháp thẩm định…………………………………………………....78 2. Về thông tin……………………………………………………………………82 3.Về nhân tố con người…………………………………………………………..85 4. Về trang thiết bị……………………………………………………………….86 5. Về cơ cấu tổ chức điều hành…………………………………………………..87 III. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đầu tư tại VP BANK:…………………………………………………………………….88 1. Với Chính phủ, Bộ, Ngành và chính quyền địa phương……………………….88 2. Đối với ngân hàng nhà nước…………………………………………………...90 3. Với doanh nghiệp vay vốn……………………………………………………..91 Kết luận……………………………………………………………………….92

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33908.doc
Tài liệu liên quan