THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TIỂU THUYẾT CỦA VI HỒNG
CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ : 60. 22. 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
1. Lí do chọn đề tài.
1.1. Vi Hồng là một cái tên được nhiều người biết đến trong đội ngũ nhà
văn là người dân tộc thiểu số Việt Nam. Trong hành trình lao động nghệ thuật gần
40 năm, ông có số lượng sáng tác khá đồ sộ: 15 cuốn tiểu thuyết, 8 truyện ngắn, 6
tập sưu tầm truyện cổ Tày, Nùng và các công trình nghiên cứu về Sli lượn, khảm
hải, dân ca nghi lễ . trong đó, có nhiều tác phẩm dành được nhiều giải thưởng có
giá trị. Ông trở thành một trong những cây bút tiêu biểu của nền văn xuôi các dân
tộc thiểu số Việt Nam hiện đại, để lại dấu ấn sâu sắc và một tình cảm nồng thắm
nơi trái tim người đọc.
1.2. Vi Hồng sáng tạo trên nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu
thuyết, truyện viết cho thiếu nhi, các công trình nghiên cứu Sli lượn, Khảm hải .
Ở thể loại nào nhà văn cũng thể hiện tài năng và một phong cách riêng rất rõ rệt.
Tuy nhiên, thể loại tiểu thuyết là nơi mà ông tập trung nhiều tâm huyết và tinh lực
nhất. Nhiều nhà nghiên cứu đã có những nhận xét khẳng định sự thành công của
ông ở thể loại này. Yếu tố quan trọng làm nên sự thành công ấy chính là thế giới
nghệ thuật. Vì vậy, tìm hiểu thế giới nghệ thuật là một việc làm không thể thiếu
khi nghiên cứu sáng tác của Vi Hồng ở thể loại tiểu thuyết.
1.3. Là một sinh viên đã được nhà giáo Vi Hồng giảng dạy trong những
năm học ở trường Đại học Sư phạm Việt Bắc, người viết ước vọng qua những
trang nghiên cứu này giúp người đọc hiểu hơn về con người, về cuộc đời, đặc biệt
là tài năng của Thầy - một nhà văn dân tộc thiểu số tiêu biểu. Qua đó, góp phần
khẳng định vị trí của nhà văn trong nền văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại.
Từ những lí do trên chúng tôi chọn đề tài: Thế giới nghệ thuật trong tiểu
thuyết của Vi Hồng
MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Giới thuyết về thế giới nghệ thuật 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
5. Mục đích nghiên cứu 9
6. Phương pháp nghiên cứu 9
7. Cấu trúc luận văn 10
NỘI DUNG
Chương 1: Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu 11
thuyết của Vi Hồng
1.1. Khái niệm cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật. 11
1.2. Cảm hứng nghệ thuật gắn với thế giới nhân vật trong tiểu thuyết 13
của Vi Hồng
1.2.1. Cảm hứng ngợi ca gắn với những con người đẹp đẽ
14
1.2.1.1. Ca ngợi những con người có vẻ đẹp lí tưởng về hình thể. 14
1.2.1.2. Ca ngợi những con người bình thường có tấm lòng nhân 17
hậu, vị tha.
1.2.1.3. Ca ngợi những người trí thức có trí tuệ toả sáng 21
1.2.2. Cảm hứng cảm thương gắn với những con người bất hạnh
26
1.2.2.1. Cảm thương cho con người bị những hủ tục phong kiến xưa 26
vùi dập, đoạ đầy
1.2.2.2. Cảm thương cho những con người bất hạnh trước tội ác dã 32
man tàn bạo của bọn thống trị miền núi
1.2.3. Cảm hứng châm biếm, mỉa mai những con người vô học tối tăm 35
và lên án phê phán, những con người xảo trá, tàn bạo
1.2.3.1. Cảm hứng châm biếm mỉa mai những con người vô học tối tăm 35
1.2.3.2. Cảm hứng phê phán, lên án những người có chức, có quyền 39
bất tài, tráo trở, độc ác, vô nhân tính
Chương 2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 46
2.1. Khái niệm không gian nghệ thuật. 46
2.2. Không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng 48
2.2.1. Không gian bối cảnh.
48
2.2.1.1. Bối cảnh thiên nhiên. 48
2.2.1.2. Bối cảnh xã hội. 61
2.2.2. Không gian sự kiện. 76
2.2.3. Không gian tâm lí. 80
Chương 3. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 85
3.1. Khái niệm thời gian nghệ thuật. 85
3.2. Thời gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. 86
3.2.1. Thời gian sự kiện.
86
3.2.1.1. Thời gian sự kiện lịch sử. 86
3.2.1.2. Thời gian sự kiện đời tư. 91
3.2.2. Thời gian tâm lí.
99
3.2.2.1. Thời gian hiện tại. 100
3.2.2.2. Thời gian quá khứ. 103
3.2.2.3. Thời gian tương lai. 107
3.2.2.4. Thời gian đồng hiện. 110
3.2.3. Mối quan hệ giữa thời gian và không gian nghệ thuật.
111
KẾT LUẬN 115
TÀI LIỆU THAM KHẢO 120
124 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2079 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iễm nguy hiểm
khiến bao nhiêu năm Hánh phải ở trong nhà xác”.
Từ vị trí viện trưởng viện Lục Khê, tác giả lại quay trở về kể lại thời gian
cuối năm thứ sáu – năm học cuối cùng của Ba, “thấy mình chưa có công lớn với
Hoàng nên việc ông ta định giữ mình lại làm cán bộ giảng dạy chưa có gì chắc
chắn. Ba quyết định làm một việc để lập công với Hoàng”. Việc làm mà Ba định
lập công với Hoàng là: “ẩy con gái Hoàng đổ nhào xuống vực” song lại nhanh
chóng “cứu được con gái Hoàng lên”. Từ chiến công đó Ba nghiễm nhiên ngồi
lên ghế lãnh đạo mặc dù những bác sĩ giỏi khác đã nói thẳng: “chuyên môn anh
kém, lãnh đạo làm sao được”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tiếp đó là chuyến Ba trở về thăm gia đình vợ con. Đối lập với căn nhà rách
nát, “Ba ăn diện từ trên xe bước xuống như một hoàng tử”. Rời gia đình trở về
bệnh viện, “Ba say sưa với chức vụ mới”, không những thế Ba còn được ông
Hoàng cử đi nghiên cứu sinh ở nước ngoài. Trong suốt thời gian đó, Ba đã dùng
cuốn sổ tay ghi chép những cây thuốc nam bằng cả tiếng Kinh và tiếng Tày để
làm đề tài nghiên cứu cho mình. Cuốn sổ tay đó Ba có được là do “một thời gian
anh là thành viên chính thức trong bọn cướp”. Nhờ có cuốn sổ đó mà Ba bảo vệ
thành công luận án phó tiến sĩ, thậm chí hội đồng khoa học còn đề nghị: “ở lại ba
năm nữa để nâng cao thành luận án tiến sĩ” nhưng Ba từ chối, vì: “cái chức phó
hiệu trưởng đang treo lơ lửng ở nhà”.
Gần bốn mươi tuổi, “Ba càng đẹp trai, thân thể thật đầy đặn, cân đối” Ba
trở thành niềm say mê của rất nhiều bác sĩ, y tá. Hắn thoả sức vẫy vùng mà không
hề bị phát giác. Cũng trong thời gian này, Ba lại leo lên chức hiệu trưởng trường
Đại Học Y, hắn càng thoả sức quan hệ mà không có ai dám lên tiếng, duy chỉ có
vợ Ba. Để thoả mãn dục vọng của mình, Ba ra tay giết vợ một cách khéo léo đến
nỗi không ai nghi ngờ. Với cái mác anh nuôi, Ba dùng mọi cách giúp đỡ Slam.
Khi Slam học đến năm thứ tư Đại học Y thì “Ba thúc phải cưới thì mới có điều
kiện chính thức để giúp nhau”. Không còn cách nào khác Slam đành phải đồng ý
làm vợ Ba.
Cuối cùng là cảnh Li – người mà Ba đã bỏ rơi hơn hai mươi năm về trước,
đến thăm con gái. Sự thật mới được sáng tỏ. Lời nói của Li như một lời kết tội
đanh thép “Ba – Slam! Slam , Ba, thằng Ba, mày đã ăn sống nuốt tươi bao đàn bà
con gái, mày đã lấy chính con gái của mày! Slam là con đẻ của mày. Mày đã lấy
con mày”.
Cũng là thời gian dãn cách, Lăng Thị Thu Lả trong Lòng dạ đàn bà, Đàng
trong tiểu thuyết Vãi Đàng cũng được tác giả kể theo thời gian như thế. Cách kể
đó vừa tạo được sự hấp dẫn cho câu chuyện, vừa thể hiện sự sáng tạo trong tiểu
thuyết của Vi Hồng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cùng với thời gian sự kiện lịch sử, thời gian sự kiện đời tư được tác giả
thể hiện trong một số tiểu thuyết, Vi Hồng đã giúp người đọc có cái nhìn tương
đối đầy đủ về hoàn cảnh xã hội, về con người trong những giai đoạn lịch sử cụ
thể đồng thời tạo được điểm nhấn, tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn và mang tính
hiện đại.
Trong tiểu thuyết của Vi Hồng, có thể thấy tác giả thường gắn thời gian sự
kiện đời tư của nhân vật với thời gian sự kiện lịch sử. Tiểu thuyết Thung lũng Đá
Rơi là một ví dụ. “Cái thủa già Đội còn là trai trẻ, nói chưa vỡ tiếng thì cái thung
lũng Đá Rơi cũng mới có được hai ba năm gì đó”.
Mười sáu tuổi, Đội lần lượt chứng kiến sự ra đi của người thân, còn lại một
mình, Đội tìm đến làm Cu li ở mỏ thiếc Bắc Kì trong thung lũng đá Rơi.
Khi chiến thắng Điện Biên Phủ, Đội đã bị đem đi giết cùng bốn mươi Cu li
nữa. May mắn thay Đội thoát chết.
Năm 1954 sau chiến thắng điện Biên Phủ, mỏ thiếc lại trở lại hoạt động
nhưng do Lót - con nuôi của Già Đội làm giám đốc. Ông trở về mỏ thiếc và gắn
bó đến cuối đời.
Như vậy sự kiện lịch sử đã có tác động tới từng số phận con người. Trước
cách mạng, Đội là một cu li đội đá đến trọc đầu, bị đánh đập, bị đối xử tàn nhẫn
thì giờ đây sau cách mạng, Đội trở thành một công nhân, hăng hái tham gia lao
động làm giầu cho đất nước.
Thời gian sự kiện đời tư của nhân vật Phàn trong tiểu thuyết Tháng năm
biết nói gắn liền với thời gian lịch sử. Năm 18 tuổi, đang học lớp bốn nhưng ông
đã “hoạt động cách mạng rất tích cực... Ông Phàn đứng lên tổ chức cả lớp, cả
trường phản đối dưới hình thức biểu tình". Trước sự việc đó, bọn mật thám vô
cùng tức giận. Chúng bắt ông giải về bản. Đến thác Chín Thoong, “ông nhẩy ầm
xuống thác như một tảng đá rơi”. Tất cả mọi người tưởng ông đã chết, “gia đình
làm mả cho ông theo tục lệ bấy nay khá to”. Ông Phàn đã thoát khỏi tay bọn mật
thám, tiếp tục hoạt động bí mật.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cách mạng tháng Tám thành công, đến tháng 9 năm 1945, sau khi hoạt
động bí mật, ông trở về trong niềm sung sướng của tất cả mọi người: “ông
Phàn đánh thắng Nhật tây trở về anh em ơi!... Họ đón bác bằng những tiếng
cười như thác Chín Thoong reo, họ khóc nắm lấy tay, lấy áo bác Phàn vì sung
sướng, vì kính phục”, bởi ông “là một con người có tài năng, con người tốt đẹp
đến mẫu mực”.
Sau Cách mạng tháng Tám, cụ thể “năm 1947 ông làm Trung đoàn trưởng,
chỉ huy quân đội cả một tỉnh. Tháng 9 năm 1947, Tây nhảy dù xuống thị xã, ông
chỉ huy đánh giặc quyết liệt nhưng vì lệnh cấp trên ông cho quân rút lui an toàn”.
Ấy thế mà khi trở về ông lại có đơn tố cáo “nửa đêm mò vào dưới buồng vợ cháu
thằng Thìm”. Vì nhiệm vụ cách mạng mà ông không một lời thanh minh. ông chỉ
“buồn vô hạn và làm đơn xin nghỉ công tác về quê Chín thoong làm công dân
bình thường”.
Mỗi một cuộc đời nhân vật lại ứng với một chuỗi các sự kiện khác nhau.
Đối với những nhân vật chính diện như Tú, Hoàng, Đàng, Lả, Già Đội... thì
những chuỗi sự kiện ấy phải chăng là sự thử thách khả năng chịu đựng, đồng thời
khẳng định bản chất tốt đẹp của con người. Còn đối với những nhân vật phản diện
như Ba, thì chuỗi sự kiện ấy đã khẳng định bản chất dâm ô, tàn bạo và những thủ
đoạn độc ác của chúng. Nhân vật của Vi Hồng đã được xây dựng theo đúng mô
típ của văn học dân gian. Những người lương thiện, nhân hậu vị tha thì sẽ tìm lại
được hạnh phúc của mình như một sự đền bù xứng đáng. Còn những nhân vật
phản diện thì “ác giả, ác báo”. Tất cả đều có một kết cục hết sức bi thảm.
3.2.2. Thời gian tâm lí.
Thời gian tâm lí là thời gian qua sự cảm nhận của nhân vật theo hoàn cảnh.
Đây là loại thời gian được nếm trải theo tâm hồn nhân vật. Thời gian tâm lí có ý
nghĩa trong việc thể hiện diễn biến tâm lí nhân vật. Thời gian tâm lí trong tiểu
thuyết của Vi hồng được thể hiện qua các bình diện sau: thời gian hiện tại, thời
gian quá khứ, thời gian tương lai.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2.2.1. Thời gian hiện tại.
Thời gian hiện tại là thời gian “đang diễn ra” của các sự kiện hoặc những
suy nghĩ, hành động đang xảy ra của nhân vật.
Thời gian hiện tại là thời gian của sự sống nhân vật, thời gian được cảm
nhận với hiện tại của phát ngôn, hiện tại của người đọc. Ta có thể thấy rất rõ thời
gian hiện tại trong các tiểu thuyết của Vi Hồng thông qua nhân vật khi họ xuất
hiện suy nghĩ và hành động.
Trong tiểu thuyết Đoạ đầy, Ki Nọi và La Bội Hoan là hai nhân vật được
tác giả kể lại qua một cuộc tình duyên hết sức éo le. Từ một người con của Chẩu
mường, Ki Nọi trở thành một “tua khỏi” (nô lệ) còn La Bội Hoan từ một “tua
khỏi” trở thành con gái của Chẩu mường quyền quý. Mặc dù bị cấm đoán nhưng
La Bội Hoan vẫn đi theo Ki Nọi. Thời gian hiện tại của họ là những buổi trò
chuyện, thề nguyền. Thế rồi Bội Hoan bị nhốt vào phòng và bị ép gả cho một
người “nhiều tuổi và xấu xí”. Buồn đau, Ki Nọi bỏ nhà ra đi, La Bội Hoan cũng
trốn theo. Lúc này thời gian hiện tại của họ gắn với cuộc sống đầy khó khăn, vất
vả nơi rừng sâu, núi tận. Nhờ có tình yêu và sự thông minh trong cách tính toán
làm ăn, họ trở nên giàu có. Thời gian hiện tại của họ còn được đánh dấu bằng sự
ra đời của một cô con gái xinh xắn. Nhưng loài Tó Hống đã ăn thịt cô bé khi cả
Ki Nọi và Bội Hoan không có nhà. “Nàng rú lên một tiếng kinh hoàng rồi nàng
ngất cạnh chồng”. Cuối cùng họ đã vượt lên nỗi đau ấy để xây dựng cuộc sống và
“trở thành người giàu có vào bậc nhất mường Nặm Khao”.
Như vậy thời gian hiện tại của Ki Nọi và La Bội Hoan đã cho thấy tình yêu
và nghị lực phi thường của họ. Họ đã vượt qua tất cả để tự xây dựng cho mình
một cuộc sống giàu có, hạnh phúc.
Thời gian hiện tại của Hà Thế Quản trong Gã ngược đời luôn luôn gắn liền
với niềm say mê nghiên cứu khoa học. Ngay trong cuộc họp phê bình mình mà
anh cũng vẫn nghiên cứu để rối thốt lên: “rõ ràng là một sự thối nát, thối tha,
không phải là lên men” khiến mọi người hiểu lầm và rồi anh trở thành “người ở
ngoài dòng đời”. Anh luôn khát khao tìm đến chân lí của khoa học đến nỗi quên
cả tình yêu. Những cô gái đến với anh rồi lại tự ra đi vì: “anh yêu khoa học hơn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
em”. Cuối cùng với niềm say mê mãnh liệt và một ý chí quyết tâm vượt mọi gian
khổ, Quản đã nghiên cứu thành công trại giống trên đỉnh núi Khau Moóc và trở
về đúng vị trí xứng đáng của mình- hiệu trưởng trường Đại học Nông nghiệp.
Khi xây dựng thời gian hiện tại của các nhân vật, Vi Hồng luôn chú ý đến
tâm lí đời thường và hoàn cảnh sống để có cách thể hiện phù hợp nhất. Ví dụ
trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói, thời gian hiện tại của Hoàng gắn với nỗi
khổ và khát khao được đi học. Khổ vì bị ép lấy vợ từ khi mới mười hai tuổi, khổ
vì từ đó trở đi Hoàng lại có thêm một người đàn bà nữa chửi rủa, đay nghiến.
Niềm an ủi duy nhất với Hoàng là việc học. Học khiến anh quên đi tất cả. Thời
gian cứ thế trôi đi. Trong những năm tháng ấy khát khao duy nhất là thoát khỏi
người vợ mà anh vô cùng ghê sợ. Anh đã làm đơn li dị, nhưng không được. Hôm
nay anh lại được cầm tờ giấy mới của toà án, nhưng anh bỗng nhận ra chánh án
vẫn là Ngô Thế Bùng – người đã xử li hôn cho anh hai năm về trước. “Hoàng
cảm thấy mình đang ngạt thở trong dòng thác số phận”. Không hề có sự thay đổi,
tất cả dường như vẫn nguyên vẹn và cuộc đời anh vẫn không thể sang trang. Đau
đớn và thất vọng, khiến “Hoàng như muốn bước chân vào con thác, hoà mình vào
dòng nước trắng, nước xanh”. Nhưng tiếng gọi của Ngọc, của Băng trong tâm
tưởng, đặc biệt là mảnh hồn của người cha rơi vãi nơi góc trời nào đó níu kéo
Hoàng trở lại với cuộc sống để rồi Hoàng gặp lại Băng- người mà anh yêu quý.
Họ tìm đến với nhau trong niềm hạnh phúc tràn ngập. Lần đầu tiên anh biết đến
tình yêu và hạnh phúc. “Lần đầu tiên Hoàng thấy một vẻ đẹp kì diệu của tạo
hoá... tất cả mọi đường nét của núi rừng, mọi sắc màu của mùa xuân, mọi hương
thơm ngào ngạt của hoa, của nụ... tất cả đề hội tụ trên tác phẩm kì diệu mà Băng
đã hiến dâng cho anh, mãi mãi là của anh”. Như vậy thời gian hiện tại đã thể
hiện rõ cuộc đời đau khổ của Hoàng và cũng cảm nhận nghị lực phi thường của
chàng trai dân tộc Tày thông minh, nhân hậu.
Thời gian hiện tại của già Đội trong Thung lũng Đá Rơi là thời gian mà
già đang chìm trong giấc ngủ với cơn mơ dữ dội: “già thấy mình như một phoi
bông gạo, cứ nổ, nổi... từ từ nổi lên rồi nhẹ nhàng ngồi xuống” những tiếng kêu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
không thoát ra được, “chỉ nghe thấy tiếng ực ực như nghẹt thở” bởi giấc mơ lặn
quá sâu trong tiềm thức xa xăm. Thức dậy với cảnh tượng: “cô gái đang gần như
trần truồng ôm lấy mình, khiến già ngơ ngác: Tôi đang nằm mơ hay là thật?”.
Sau cơn mơ, tỉnh dậy vì bị bắt quả tang đang “hủ hóa” với cô Nà mới
ngoài hai mươi tuổi, khiến già vô cùng đau khổ. “Già Đội vẫn ngồi như thế không
nói, không cử động”. Nỗi đau dường như không thể chịu đựng nổi, già nghĩ: “Tôi
ngồi như thế này cho máu trong người cạn dần, ta sẽ chôn những gì thuộc về đời
ta trong dòng máu khô”. Già Đội cứ ngồi như thế đến chết nếu không có sự xuất
hiện của Tản Kuông cùng các bác sĩ đến khám và chứng nhận: “cụ Nguyễn Văn
Đội chín tám tuổi đã bị hoạn (tức bị thiến) từ hồi còn trẻ”.
Thời gian hiện tại của già Đội như một minh chứng cho nỗi đau mà già
không thể nói ra, đồng thời nó cũng là một lời thanh minh cho sự trong sạch mà
suốt đời già gìn giữ. Đó cũng là lời kết tội cho những kẻ tham lam, vô độ đến mất
hết cả nhân cách như cô Nà.
Đứng ở thời hiện tại, nhìn lại quá khứ đắng cay của mình, nhân vật Tú
trong tiểu thuyết Người trong ống đã không khỏi đau đớn xót xa. Thời gian hiện
tại của Tú được tác giả miêu tả khi mở đầu tác phẩm là thời gian Tú làm giám đốc
bệnh viện Lục Khê. Thời gian này Tú đã có một ngoại hình thay đổi bởi những
vết tích của chiến tranh: “người ông đen thui, mặt sẹo dài, méo xệch... mắt hơi
xếch, lại mắt to mắt nhỏ vì bị ảnh hưởng của vết thương. Cái miệng cũng hơi
méo. Mới nhìn thì hơi sợ nhưng nhìn lâu hình như ông có lòng thương người và
nhân hậu”. Những năm tháng chiến tranh có thể làm cho ngoại hình của anh thay
đổi, nhưng tấm lòng nhân hậu thì dường như vẫn còn nguyên vẹn trong anh. Thời
gian này anh gặp lại người một thời đã đầy đoạ anh, nay có con bị lâm bệnh nặng.
Tú không những không trả thù mà còn hết lòng chạy chữa cứu được bệnh nhân
qua cơn nguy kịch. Bằng tình yêu thương và trách nhiệm, Tú còn cứu Hánh thoát
khỏi nhà xác đã giam hãm anh hàng mấy năm trời, trả lại cuộc sống tự do và đôi
chân cho Hánh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Cũng vào thời gian này anh đã kịp đến thăm thầy Phiêu – người mà anh
kính phục và cứu thầy thoát chết trước đòn đánh hiểm độc của bọn cướp. Từ lời
kể của thày Phiêu, Tú còn giúp công an bắt được bọn cướp ở bến Long Vương.
Rồi nhờ ghi âm được lời khai của tên trùm cướp Tư Lộn. Tú đã vạch rõ bộ mặt
thật của hiệu trưởng Ba mà từ lâu hắn đã khôn khéo che đậy. Không có Tú, có lẽ
Ba còn làm hại biết bao nhiêu người lương thiện khác. Thời gian hiện tại của Tú
không chỉ khẳng định tài năng y thuật mà còn khẳng định tài năng võ nghệ, đặc
biệt là tấm lòng nhân hậu vị tha đáng cảm phục ở con người Tú.
Như vậy thời gian hiện tại của nhân vật góp phần khẳng định những phẩm
chất tốt đẹp, nhân cách cao cả đồng thời khắc hoạ rõ nét hơn cuộc đời và số phận
của từng nhân vật.
3.2.2.2. Thời gian quá khứ.
Thời gian quá khứ là thời gian “đã xẩy ra”, so với hiện tại của nhân vật,
thường được biểu hiện qua dòng hồi ức hồi tưởng của nhân vật. Hồi tưởng quá
khứ chính là sự biểu hiện đời sống nội tâm. Tâm lí nhân vật khi vui cũng như khi
buồn con người thường hướng về quá khứ. Có quá khứ tươi đẹp khiến nhân vật
tiếc nuối, có quá khứ đau buồn khiến cho nhân vật xót xa, hiểu thêm thực tại. Quá
khứ thường đối lập với thực tại. Nhờ có thời gian của quá khứ, qua sự hồi tưởng
mà nhân vật trở thành những con người đang vận động, có chiều sâu tâm hồn như
một con người đang tồn tại trong đời sống thực.
Thời gian quá khứ trong tác phẩm thường xuất hiện khi nhân vật trải qua
những biến động nào đó trong cuộc đời hay bỗng nhiên bắt gặp điều kiện ngoại
cảnh làm cho họ sống lại với những cái đã qua trong tiềm thức. Lấy thời gian quá
khứ để tổ chức kết cấu thế giới nghệ thuật trong một số tác phẩm, Vi Hồng đã đạt
được hiệu quả thẩm mĩ như mong muốn khi xây dựng các hình tượng nhân vật.
Trong tiểu thuyết Vãi Đàng, khi tết đến đặc biệt là khi cây mận già đã
“bừng nở trắng nõn che lấp kín hết cành nhánh”, trong bữa cơm cuối năm đầm
ấm, Đàng và La cùng ôn lại quá khứ, “không ai nói với ai, hai người đều chảy dài
vào những tháng năm xa xưa. Có ai bây giờ còn nhớ Vãi Mèo là cô La, vãi Đàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
là cô Đàng ngày trước – những người con gái xinh đẹp của bản mường đã trải
qua bao gian truân mới tới được hôm nay”. Quá khứ của họ là quá khứ đắng cay,
nó cứ dần dần hiện về trong dòng suy nghĩ của mỗi người. Quá khứ của Đàng là
cảnh gia đình nghèo khó, cảnh bố nghiện ngập, cảnh Đàng phải đi hái lá toong
mản để kiếm sống. Trong những ngày này cô đã gặp được Hinh. Mặc dù chưa
phải là người yêu nhưng Đàng biết đó là người mà cô có thể gắn bó cuộc đời
mình. Quá khứ của con người bao giờ cũng có cả niềm vui và nỗi buồn. Cô vui vì
được gặp Hinh, nhưng niềm vui ấy quá nhỏ bé, nó không đủ sức để kéo Đàng
thoát ra khỏi nỗi đau mà cô đang phải chịu. Đó là cái án ma gà, có lẽ nó sẽ theo
suốt cuộc đời cô nếu không có The, Hinh và cách mạng cứu giúp . Quá khứ ấy đã
giúp Đàng có thêm nghị lực để sống và chia vui với con cháu hôm nay.
Không giống với Đàng và La, già Đội lại nhớ về quá khứ khi nỗi đau lên
đến tột cùng - bị buộc tội “hủ hoá” (trong khi đã bị hoạn) khiến quá khứ cứ ào ạt
hiện về – một quá khứ đắng cay và tủi nhục. Vì nghèo đói, gia đình Đội trở nên
tan tác. Đau xót vô cùng, vượt lên nỗi đau ấy, Đội đến làm cu li cho mỏ Thin Tốc.
Có lẽ đắng cay nhất trong quá khứ của Đội là thời gian này. Ở đây, Đội không chỉ
bị đầy đoạ về thể xác mà còn phải mang một nỗi đau tinh thần quá lớn. Đội phải
từ biệt người yêu trong khi Đội khao khát yêu thương đến cháy bỏng, Đội sẽ chết
mà không thể có được một gia đình hạnh phúc dù chỉ là hạnh phúc bình thường
mà ai cũng có thể có. Quá khứ đau đớn ấy khiến già “cứ ngồi như người mất
hồn”, thế rồi già muốn tìm đến cái chết chôn vùi đi quá khứ ấy mà không cần một
lời thanh minh.
Trong tác phẩm Tháng năm biết nói, Hoàng sống trong thực tại nhưng
thỉnh thoảng quá khứ lại hiện về. Đó là khi anh nhớ về người con gái anh đã gặp
khi đi xem mặt vợ: “cái hình ảnh tươi như hoa buổi sớm, thắm như cánh bướm
nhiều mầu sắc của Ngọc thỉnh thoảng lại hiện lên trong kí ức của Hoàng”. Hoàng
nhớ lại hôm đi xem mặt vợ: “Hôm ấy đã lâu lắm nhưng với Hoàng bao giờ vẫn là
hôm qua... hôm ấy đêm tháng mười, trăng mờ ảo... con mèo hoang kêu ngao
ngao... con cá chết trương ngửa bụng trắng phau, mắc vào gốc cây vối” như báo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hiệu một điều chẳng lành cho cuộc đời Hoàng. Anh cảm thấy như có “đám mây
chì nặng nề ập phủ cuộc đời non nớt, bé nhỏ” của mình.
Đó là khi Hoàng nhớ về Băng trong buổi tiễn Hoàng đi thi. Cái hình ảnh
tạm biệt ngày ấy, Hoàng nhớ suốt đời: “Bàn tay người con gái vẫy nhanh như
cánh bướm, như muốn níu Hoàng lại”. Hình ảnh ấy đã khắc sâu trong tim Hoàng,
nó như một sức mạnh vô hình kéo anh trở về quê hương để li dị người đàn bà mà
anh kinh sợ.
Phiên toà xử li hôn cho anh cách đây tám năm cứ trở đi trở lại như một nỗi
ám ảnh bởi nó không hề thay đổi: “Các quan toà vẫn y nguyên... tiếng gà kêu,
tiếng vịt quác, tiếng dao thớt giòn giã... Chánh án Ngô Thế Bùng lên tiếng dõng
dạc: nhân danh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà...”. Hoàng “ngao ngán thực sự.
Nỗi buồn nó chạy ra bốn chân, bốn tay nặng như đeo bốn cục đá”.
Thoát khỏi nỗi buồn ghê gớm ấy, Hoàng trở lại thực tại, anh “quyết tâm
khám phá những điều bí hiểm của hai cái chết hay mất tích của ông mình, bố
mình”. May mắn thay Hoàng được thằng Thìm chỉ cho chỗ chôn hài cốt và kể lại
toàn bộ sự việc đã xẩy ra trong quá khứ: “Hôm ấy là buổi sáng sau những ngày
hội tuần lễ vàng, bố mày đeo ba lô đi tắt qua đèo Kéo Sưa để về huyện, theo sau
bố mày là Châu Đoàn Pàng... Châu Đoàn Pàng kéo xác bố mày lên hang, lấp
đá”. Hồi tưởng lại quá khứ, Thìm đã kể cho Hoàng nghe rất nhiều việc làm độc ác
của hắn. Thìm khẳng định: “Tao còn biết nó giết nhiều người nữa. Châu đoàn
Pàng là thằng ác như con hổ, con gấu đang nuôi con”. Sau đó Thìm kể lại
chuyện Châu đoàn Pàng giết ông Hoàng như thế nào: “sau chừng đó hai năm vì
tao nhớ người ta đã hai lần ăn tết. Một hôm trời đã được nửa đêm tao thấy ông
mày cùng Châu Đoàn Pàng từ đâu trở về nhà Châu đoàn Pàng. Châu đoàn Pàng
rủ ông mày đi thăm hang giấu của, nhưng sau đó ông mày mãi mãi cũng không
thấy trở về”. Nhờ sự hồi tưởng về quá khứ của Thìm mà Hoàng không chỉ tìm
được hài cốt của ông mình, bố mình, mà còn tố cáo tội ác của Châu Đoàn Pàng,
tiêu diệt cái ác góp phần làm trong sạch bản mường.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngoài những nhân vật trên, trong tiểu thuyết của Vi Hồng, ta còn thấy rất
nhiều những nhân vật khác, họ sống trong hiện tại nhưng quá khứ thỉnh thoảng lại
hiện về như Tập Tạng trong tiểu thuyết Vào hang, Bà Hà trong tiểu thuyết Gã
ngược đời, Lăng thị Thu Lả trong Lòng dạ đàn bà, bà Xiêm trong Dòng sông
nước mắt...
Khi có được con dâu là Thu Khoan, lại sắp sửa có cháu, bà Xiêm vui mừng
kể lại cuộc đời đau khổ của bà cũng như tại sao chiếc thuyền độc mộc lại phải neo
đậu giữa dòng. Quá khứ ấy đã trôi qua gần 25 năm nhưng nó vẫn hằn in trong trái
tim bà mà không thể nguôi ngoai. Đó là mối tình với chàng Cắm Hỉ – bố của Kim
Công bây giờ. Bà đã đem lòng yêu anh Cắm Hỉ từ lần gặp đầu tiên. Khi tình yêu
của họ thắm thiết thì cũng là lúc bà bị ép gả cho nhà quan Chánh Khao. Tuyệt
vọng bà đã tìm đến vực Vằng Nám để gửi mình cho thuồng luồng mào đỏ. May
mắn thay những con ca nặm của Cắm Hỉ đã cứu bà thoát chết. Từ đó bà gắn bó
với chiếc thuyền độc mộc cùng Cắm Hỉ, không bao giờ bước chân lên bờ nữa.
Quá khứ đau buồn ấy khiến bà sống mà như chết, bởi bà “không muốn ai nhìn
thấy mặt mẹ còn tồn tại với cỏ cây, sông nước quê hương”.
Với Tập Tạng (Vào hang) kí ức là kỉ niệm về thời gian khi ông mới mười
hai, mười ba tuổi theo bố đi bắt gấu, bắt hổ. Tưởng con gấu đã chết, bố Tập Tạng
chủ quan, cuối cùng đã bị gấu xé xác, Tập Tạng may mắn thoát chết. Cũng từ đó
Tập Tạng làm nghề bắt gấu bằng tay không để trả thù cho cha.
Còn Lăng thị Thu Lả (Lòng dạ đàn bà) mặc dù là một con người có lòng
nhân hậu vị tha nhưng kí ức đau buồn vẫn thỉnh thoảng hiện về làm tim cô đau
đớn. Đó là cảnh nghít phản bội cô, quan hệ như vợ chồng với người con gái khác.
Cảnh “Nghít và An làm tình hằn lên trong lòng Lả như một khối u ung thư đến kì
sắp vỡ mủ”.
Để nhân vật sống trong quá khứ, suy tưởng về quá khứ là một hiện tượng
mang tính nghệ thuật của thi pháp học hiện đại. Khi nhân vật sống với quá khứ,
nhà văn đặt nhân vật của mình trong mối liên hệ với hiện tại và tương lại để rồi từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đó nội tâm nhân vật được bộc lộ có chiều sâu, tính cách nhân vật được bộc lộ một
cách chân thực nhất.
3.2.2.3. Thời gian tương lai
Thời gian tương lai là thời gian thể hiện qua dự kiến, ước mơ của nhân vật
về điều “chưa xẩy ra”. Thời gian tương lai còn được thể hiện qua những hình ảnh
hướng về tương lai. Nó thường là những dự cảm về những điều sắp xảy ra hoặc
những giấc mơ, những ước mơ, những dự định của nhân vật về thời gian trong
tương lai. Vì thế thời gian thường gắn với những biến đổi tâm lí của nhân vật
trong những tình huống, hoàn cảnh cụ thể.
Trong tiểu thuyết Đi tìm giầu sang, Ké Háo là kẻ nghiện ngập đến nỗi:
“Ông mới 36... mà trông già đến 50. Nước mắt, nước mũi chảy ròng ròng kéo
thành dây thành sợi, nước da xám ngoét như người sắp chết, con mắt mờ đục, ướt
nhèm”. Đã nhiều lần Ké Háo định cai thuốc phiện nhưng không được: “Không
được đâu con ạ! Bố sắp chết rồi”. Đó là lời nói tuyệt vọng của một kẻ đã đi quá
sâu vào con đường nghiện ngập. Ké Háo sẽ không thoát ra khỏi tình trạng tuyệt
vọng nếu không có nàng Nọi đến cứu giúp. Nọi xuất hiện trong cái lều rách nát
của ké Háo như một nàng tiên. Những cử chỉ nhẹ nhàng và lời nói êm ái của Nọi
khiến “Ké Háo càng tin người con gái là tiên từ trên trời xuống cứu giúp”. Giấc
mơ có được người đẹp như nàng tiên trong nhà cùng với lời hứa: “Anh cai được
thuốc phiện, anh chăm làm, anh trở thành người tốt em sẽ yêu anh... làm vợ anh”
khiến Ké Háo quyết tâm cai nghiện. Anh gồng mình lên để chống chọi với cơn
nghiện. Suốt một tuần lễ, “Ké Háo như ngất, sau vài giây lại vùng lên như kẻ phát
rồ... Mỗi lần như thế Ké háo lại thấy ông trời vàng như nghệ , thấy mọi vật xung
quanh xanh như mắt meo”. Để giúp Ké Háo vượt qua cơn vật ấy, cô gái xinh đẹp
lại dùng những lời dịu dàng ngọt ngào “làm đượm cả tâm hồn của một kẻ lâu nay
vốn đã u mê”. Và cứ thế “Ké Háo răm rắp nghe theo lời người con gái”. Với hi
vọng “được hưởng tình yêu trong cõi thần tiên mà anh đang đắm chìm bấy nay”
đã kéo Ké háo từ một kẻ nghiện ngập thành một con người bình thường chăm chỉ
làm ăn và khao khát làm giàu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Quá khứ đau khổ triền miên của Hoàng trong Tháng năm biết nói khiến
anh có những giấc mơ khủng khiếp. Mười hai tuổi, Hoàng còn quá bé so với công
việc mà anh phải làm. Tự nuôi mình và nuôi mẹ già. Những việc đó, Hoàng có
thể vượt qua nhưng chuyện lấy vợ và chuyện số mệnh là quá sức đối với một đứa
trẻ như Hoàng. Hoàng đi hỏi tất cả mọi người, nhưng không ai giải thích cho
Hoàng hiểu hết về chuyện số mệnh. Để rồi nỗi niềm trăn trở ấy đã theo Hoàng đi
vào giấc ngủ. Trong mơ, Hoàng được gặp ông, gặp bố. Điều mong muốn nhất của
Hoàng là có được lời khuyên để “chữa cái mệnh của cháu”. Nhưng tất cả đều trả
lời: “đời bố ông cũng không cưỡng lại cái mệnh được, đời ông cũng không, đời
bố cháu cũng không, đời cháu cũng không. Cháu chống lại mệnh đời, đi ngược
lại dòng đời chỉ là chuyện nằm mơ, chuyện lấy đũa chống ông trời mà thôi”.
Trong giấc mơ anh còn thấy mình “vừa mới lấy vợ hôm nào nhưng sao lại có hai
đứa con. Một đứa đen như đít chảo nấu cám, còn đứa kia mới xinh đẹp làm sao”.
Giấc mơ đó thật khủng khiếp, nó như một lời tiên đoán, dự báo một tương lai
không tốt đẹp của Hoàng. Quả thực sau này anh đã phải lấy vợ, người vợ mà anh
vô cùng ghê sợ khiến cho cuộc sống ngày càng nặng nề hơn, ngột ngạt hơn.
Trước cuộc sống ấy, “Hoàng ước gì đừng có vợ, mọi việc Hoàng vẫn phải làm
như năm xưa thì vui biết mấy”. Nhưng ước mơ chỉ là mơ ước mà thôi. Sự thực thì
Hoàng đã có vợ. Người vợ ấy cứ ám ảnh và theo sát anh từng bước. Ngay cả
trong giấc mơ, Hoàng thấy nó hiện lên thật khủng khiếp: “Người đàn bà hiện về
trong sâu thẳm của tâm tưởng Hoàng . Nó hiển hiện, nó nói cười, nó rít những
tiếng ghê sợ, nó phun những tiếng thô tục rồi nó biến thành con diều hâu lớn.
Khắp mình con diều hâu ấy toàn những móng, những vuốt. Nó quắp, nó móc, nó
đào bới nhầu nhoẹt cả ruột gan của Hoàng”. Đó phải chăng là những ảo giác
hiện lên trong tiềm thức bởi hiện thực nghiệt ngã mà Hoàng đang phải gánh chịu.
Lả trong Lòng dạ đàn bà quan niệm: “Sống cùng với văn minh một năm
còn hơn sống trăm năm ở nơi tối tăm lạc hậu”. Từ quan niệm ấy mà Lả khát khao
đến mường Nặm Tốc Rù làm dâu, bởi ở đó “mọi người đều biết chữ, có người đi
sang Tây học đỗ những cái bằng cao mà trong nước ta không có cho học”. Rồi cô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
mơ ước: “Mình mới có cái bằng lớp bảy, nhưng con mình phải vào đại học và còn
học cao hơn đại học nữa”. Những mơ ước, khát khao của Lả cũng là ước mơ của
biết bao nhiêu người dân miền núi lúc bấy giờ. Có lẽ Lả hiểu ra rằng, mọi khổ đau
đều bắt nguồn từ sự lạc hậu, thiếu tri thức văn hoá, khoa học. Vì vậy sống trong
tối tăm, Lả muốn vươn tới ánh sáng của văn hoá, của tri thức và gửi gắm khát
khao vào thế hệ sau.
Trong tiểu thuyết Người trong ống, Tú được chứng kiến cái chết đau đớn
của mẹ bởi bàn tay của một tên lang băm ngu dốt. Hình ảnh người mẹ quằn quại
trong tuyệt vọng hằn sâu trong tim Tú để rồi khơi dậy khát khao: “Tú phải học
cho thật giỏi, mà phải học Đại học Y thì may ra mới trả được hòn máu hận đời
trong lòng mẹ dưới mồ”. Mặc dù thi vào Đại học Y với số điểm tối ưu, nhưng vì
bị quy vào thành phần chống đối hợp tác xã, nên Tú không thực hiện được mơ
ước của mình. Phương trời lí tưởng đã khép lại, buồn nhưng không nản, Tú quyết
tâm ra đi đến một nơi xa xôi không ai biết để thực hiện mơ ước của mình. Gặp Ai
Hoa xinh đẹp, trái tim Tú đã có lần rung động, nhưng ngay lúc ấy Tú lại thấy hiện
lên: “cái phương trời riêng của Tú như bảy sắc cầu vồng nơi phương trời xa
xăm”. Nó vẫy gọi, giúp Tú vượt qua những thử thách đầu đời. Mơ ước cháy bỏng
của Tú là trở thành một bác sĩ giỏi cuối cùng đã đạt được, mặc dù anh đã phải
đánh đổi bằng rất nhiều thứ: gia đình, tình yêu thậm chí cả ngoại hình của mình
nữa. Anh trở về làm giám đốc bệnh viện Lục Khê trong một hình dạng đổi khác
bởi thương tích của chiến tranh. Nhưng điều quan trọng là Tú đã thực hiện được
mơ ước của mình. Thời gian tương lai của Tú chính là thước đo nghị lực của con
người. Thông qua nhân vật này nhà văn muốn nói với chúng ta rằng, muốn đạt
được mơ ước của mình thì con người phải có ý chí, nghị lực để vượt qua những
khó khăn, trắc trở của cuộc đời.
Trong tiểu thuyết Phụ tình, quan chúa mường Nước Buồn lại mơ ước có
một đứa cháu để bế bồng từ người con gái tàn tật tên là Diu Nàng. Thật bất hạnh
từ khi sinh ra Diu Nàng đã là người “mặt dài ngoẵng, một bên vặn vỏ đỗ, một bên
cong diệp cày. Mắt lồi, trán hóp như trán con khỉ, cái thân ngắn ngủn, chân tay
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
dài ngoãng như chân tay con vượn già”. Thấy Thế Du đẹp trai như chàng hoàng
tử lại có giọng lượn thật hay nên chúa mường ép Thế Du lấy Diu Nàng. Giấc mơ
tương lai của chúa mường sẽ là “Những đứa cháu trai, cháu gái xinh đẹp, khôi
ngô mang họ của dòng họ nhà châu mường”. Nhưng đó chỉ là ước mơ không bao
giờ có được bởi những cây thuốc cai đẻ mà Thế Du đã bí mật dấu dưới dát
giường. Với tấm lòng nhân hậu, Diu Nàng đã giải thoát cho thế Du để cho Thế
Du trở lại với bầu trời tự do.
Tập Tạng trong tiểu thuyết Vào hang lại sẵn sàng làm tất cả thậm chí cả
cái chết của bản thân mình để tố cáo con người độc ác với một khát khao duy
nhất: “cái ác cần được trừng trị, cái thiện cần được sống yên lành”. Thời gian
tương lai và cũng là niềm mơ ước của Tập Tạng là sau này bản làng không còn
những con người độc ác, chỉ còn những người nhân hậu, biết yêu thương, đùm
bọc lẫn nhau, cùng nhau xây dựng bản làng giàu đẹp.
Qua khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng ta nhận thấy nhà văn luôn
đặt nhân vật trong mối quan hệ giữa hiện tại, quá khứ và tương lai. Nhờ có mơ
ước về tương lai mà nhân vật thoát li được hiện thực tăm tối, vươn tới ánh sáng
của tri thức, của văn hoá, làm chủ cuộc đời mình và sống có ý nghĩa hơn.
3.2.2.4. Thời gian đồng hiện.
Bên cạnh thời gian quá khứ – hiện tại – tương lai chúng tôi nhận thấy, khi
khắc hoạ nhân vật, Vi Hồng còn sử dụng thời gian đồng hiện. Tuy nhiên, chúng
tôi không đi sâu nghiên cứu kiểu thời gian này, bởi vì: một mặt, thời gian đồng
hiện không nhiều, mặt khác xét đến cùng, thời gian đồng hiện chính là sự hoà trộn
hợp lí của thời gian quá khứ, thời gian hiện tại và thời gian tương lai điều này đã
được chúng tôi đề cập đến trong phần “không gian tâm lí” (trang 72).
Chúng tôi nhận thấy: giữa thời gian đồng hiện và không gian tâm lí có một
mối quan hệ gắn bó nội tại. Thời gian đồng hiện xuất hiện trong tâm lí nhân vật ở
những thời điểm và tình huống có tính chất gợi nhớ, gợi nghĩ từ thời gian hiện tại
của nhân vật. Nó góp phần quan trọng biểu hiện đời sống nội tâm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3.2.3. Mối quan hệ giữa thời gian nghệ thuật và không gian nghệ thuật.
Nếu thế giới thực tại chỉ tồn tại trong không gian và thời gian thì thế giới
nghệ thuật cũng chỉ tồn tại trong mối quan hệ giữa không gian và thời gian nghệ
thuật. Mối quan hệ giữa không gian và thời gian nghệ thuật là mối quan hệ không
thể tách rời. Theo giáo Sư Trần Đình Sử, khi nhà văn dừng lại khắc họa không
gian thì thời gian bị hãm chậm hay bị triệt tiêu. Người ta có thể không gian hoá
thời gian bằng cách miêu tả trật tự liên tưởng, cái này bên cạnh cái kia. Vì vậy,
việc phân chia các không gian, thời gian để khảo sát là do yêu cầu của các thao
tác khoa học. Kì thực, các yếu tố không gian, thời gian không thể tách rời nhau
mà hài hoà với nhau trong thể thống nhất là tác phẩm ngôn từ.
Ta có thể nhận thấy sự gắn bó giữa không gian và thời gian nghệ thuật
trong tiểu thuyết Vãi Đàng. Cuộc đời cũng như quãng thời gian hoạt động cách
mạng của Đàng gắn liền với hình ảnh cây mận. Khi Đàng bị ép làm vợ lẽ Tổng
Nhự cũng là lúc Đàng phải rời xa căn nhà, rời xa cây mận mà hàng ngày cô vẫn
chăm sóc. Ở nhà Tổng Nhự, Đàng đã có được những tin tức của bọn thực dân
Pháp, cô bí mật ghi lại và đem chôn dưới gốc cây mận. Khi ấy “cây mận non mới
cao bằng đầu cô gái”. Và đó là thời gian Đàng mới chập chững bước vào con
đường hoạt động cách mạng. Như đếm nhịp thời gian, tác giả viết: “một mùa
xuân nữa lại sắp đi qua cây mận trước nền nhà cũ”. Thời gian qua đi, cây mận
cũng lớn lên trưởng thành như cuộc đời con người. Cùng với sự lớn lên của cây
mận, Đàng đã đóng góp được rất nhiều cho cách mạng.
Thời gian cứ lần lượt trôi theo dòng chảy của nó. Và “mỗi năm hết, Vãi
Đàng lại thấy mùa xuân đến trọ ở gốc cây mận, ngay sát cuối dàn nhà”. Đến khi
Đàng tìm lại được hạnh phúc, xum vầy bên con cháu thì “người trong bản gọi cây
mận của vãi là cây mận già”.
Mùa xuân lại đến, khi Đàng đã ngoài 60 tuổi, “cây mận già cuối dàn nhà
vãi cành nhánh rườm rà, chằng chịt, vấn vít như một chiếc chổi xể khổng lồ”.
Thời gian trôi qua nhưng không hề làm mất đi sức sống mãnh liệt của nó, ngược
lại cây mận già vẫn đang tuôn trào để rồi “bừng nở những bông hoa trắng nõn”,
dâng hương sắc, làm đẹp cho đời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Thực tế trong tiểu thuyết của Vi Hồng, không gian và thời gian không có
sự ngăn cách. Trong những bức tranh miêu tả không gian, dấu ấn thời gian in đậm
không thể tách biệt. Không gian mùa xuân ở bản Chín Thoong thật đẹp: “Hoa đào
bắt đầu xoè cánh, hoa mận trắng tinh bung nụ, hoa mạ rực rỡ đốt cháy vách đá...
Mưa xuân rây bột khắp bầu trời Chín Thoong” [37, 282]. Có thể nói sự hoà
quyện giữa không gian và thời gian trong bức tranh xuân đã tạo nên một hiệu quả
bất ngờ. Không khí dường như đang ấm lên đủ sức cho những loài hoa bung nở
để rồi khắc tạo nên một bức tranh tràn ngập mầu sắc và căng tràn sức sống. Vi
Hồng cảm nhận về mùa xuân không chỉ ở sự thay đổi của đất trời mà còn ở nhịp
sống quê hương: “Mùa xuân đến tưng bừng rộn rã trên cây mận. Những người
mặc áo chàm mới, đội nón mới, vai gánh đôi đẫy, vắt tay hoặc tay sách túi... đi
qua dưới gốc mận mỗi lúc một đông, rộn rã hơn. Vãi Đàng sực nhớ hôm nay
ngày chợ Nặm Cáp” [27, 8].
Mùa hè ở miền núi được Vi Hồng cảm nhận rất đặc biệt không chỉ qua
ngọn gió lồng lộng mà còn có cả mùi vị của núi rừng: “Mùa hè gió đèo lồng lộng,
mát như ngọn gí vung vãi từ chiếc quạt tiên, quạt thánh từ phương nam thổi tới.
Những ngọn gió của rừng núi mới trong lành làm sao, vị ngọt của lá mang theo
qua ngàn trùng núi non” [35, 103].
Khi cái nắng không còn gay gắt nữa, thu đến mang theo không khí se
lạnh làm cho không gian dường như cũng thay đổi: “hàng chục cây ăn quả
trong vườn thu đều trụi lá, những búp non tơ mang trên mình mầu nhung tuyết
đã nhu nhú, he hé, sắp bật trồi lên lộc. Những đàn chim lửa, con chỉ to hơn hạt
mít với những bộ lông cánh trăm mầu bắt đầu cất bản đồng ca trăm giọng của
giống loài” [34, 110].
Mùa đông ở miền núi vốn đã khắc nghiệt, ở mường Nước Hang Rơi lại
càng khắc nghiệt hơn: “cái lạnh làm cho đá cũng nhăn nhúm. Lá vàng bay tan tác
theo gío lạnh lên trời từng đàn như vô vàn những con bướm ma lạc đàn. Những
con trâu già lưng vồng cong sống núi, gầy như một gắp gianh. Dưới lòng suối,
lòng sông cá không còn bơi lội! Trên rừng chim chóc ngừng bay, ngừng hót. Mầu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
xanh lặn hết vào lá. Những mầm non tụt vào thân cây. Muông thú tụt vào những
hang sâu. Con người tụt vào những đống chăn” [34, 75]. Bức tranh thiên nhiên
vào mùa đông ở vùng rừng núi qua nét vẽ của Vi Hồng thật là khủng khiếp. Cái
rét như cắt da cắt thịt làm đảo lộn tất cả, thiên nhiên thay đổi và cuộc sống sinh
hoạt của con người cũng đổi thay.
Sự hoà quyện giữa không gian và thời gian nghệ thuật đã tạo nên một bức
tranh tuyệt tác có một không hai trong tiểu thuyết Tháng năm biết nói. “Lúa
tháng tám hai bên bờ sông đã gặt, lúa mùa bắt đầu nhuốm mầu trứng cá. Bầu trời
Chín Thoong thơm ngọt ngào hương lúa – hương của hạnh phúc ấm no. Nắng rờ
rỡ trăm con sóng bắt lấy ánh nắng làm nghìn chiếc gương nhoang nhoáng chạy
xuống thác ào ạt”. Và một lần nữa ta lại được chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt mĩ của
mùa xuân ở bản Chín Thoong: “Những làn gió xuân khẽ nâng những vầng nắng
tháng giêng như tơ, ngọt như mật ong lăn mình qua những đám cỏ gianh... Tiếng
ngàn chim đua hót trào dâng khắp các thung lũng, đầy ắp mọi cánh rừng... Mừng
mùa xuân dào dạt hương hoa, ngan ngát hương sắc. Từng cây, từng vạt rừng
rừng đào đang trổ hồng như khoác lên những cánh rừng... Những cây mận, rừng
mận cũng đổ hết mầu trắng, trắng nõn nà, trắng loá cả ánh nắng ngày xuân”.
Cũng là bầu trời Chín Thoong nhưng ở mỗi mùa, mỗi thời điểm lại có một
không gian tương ứng: “Mùa thu nắng vàng xuộm trải khắp bầu trời Chín
Thoong”, mùa xuân không gian như bừng sáng bởi hoa đào, hoa mận thì đến mùa
đông ở bản chín Thoong, (khác với mùa đông ở mường Nặm Tốc Rủ trong tiểu
thuyết Lòng dạ đàn bà): “đêm tháng mười trăng thượng tuần đã to bằng cái liềm
cắt cỏ ngựa nhưng mây dầy quá thỉnh thoảng trăng ló một mảnh lông mày vàng
mập ra khỏi mây rồi lại vội vành đi vào mây... Hai cánh đồng hai bên dòng Chín
thoong đã gặt xong. Từng tốp rơm dạ lù lù nổi lên rải rác khắp hai cánh đồng
như những nấm mồ bồng bềnh giữa bãi hoang mạc. Sương buông lạnh ngắt. Mầu
gốc dạ vàng vọt đẫm sương đêm”.
Ở các bức tranh xã hội trong tiểu thuyết của Vi Hồng, ta có thể thấy rất rõ
yếu tố không gian và thời gian nghệ thuật luôn luôn đi liền với nhau tạo nên một
thể thống nhất không tách rời.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Khi thực dân Pháp xâm lược, chúng không những cướp ruộng đất lập đồn,
lập bốt mà chúng còn thành lập công ty thiếc Bắc Kì để khai thác tài nguyên thiên
nhiên. Không còn không gian tĩnh lặng vốn có của núi rừng ngày xưa nữa, mà
bây giờ Thin Tốc trở thành thị trấn “đông đúc, chen chúc đủ mọi hạng người”
[34, 19]. Cao lâu, sòng bạc mọc lên khắp nơi. Từ những mái nhà tranh đen kịt
khói bếp giờ đã bắt đầu mọc lên những ngôi nhà hai tầng hiện đại. Không gian
thay đổi kéo cuộc sống của con người cũng thay đổi, ngột ngạt, tăm tối.
Cách mạng thành công, Thực dân Pháp rút chạy, thung lũng Đá Rơi lại trở
về với vẻ hoang sơ của nó:“Đường xá và cái thị trấn nhỏ bỏ hoang nhiều năm đã
thành rừng, quê của khỉ, vượn, gấu và hổ. Đất bỏ hoang, hai bên lòng suối ẩm
ướt, là miếng đất mầu mỡ cho lau lách mở hội múa với gió thung quanh năm...
rêu trẻ rêu già kết tầng, xếp lớp trên những sườn núi đá” [29, 25].
Năm 1954, giải phóng miền Bắc, người dân lại bắt tay vào xây dựng lại mỏ
thiếc Thin Tốc. Không gian và con người như được hồi sinh. Ngoài chỗ làm việc
là một dãy khu nhà tập thể với hơn hai trăm công nhân. Tiếng nói, tiếng cười âm
vang cả một khu rừng xưa kia vốn tĩnh lặng. Bên ngoài “những đàn bò đen, bò
khoang, bò vàng nhởn nhơ gặm cỏ”. Những tiếng ú ò của chúng còn rền hơn cả
tiếng còi tầm của nhà máy. Trong không khí tưng bừng đón khách của ngày đầu
năm mới, “cả khu mỏ trong thung lũng bừng bừng không khí hát ca. Công nhân
ăn mặc đẹp đứng hai bên đường dẫn đến hội trường”. Cuộc sống mới hoà bình,
hạnh phúc và no đủ đang dần dần đến với người dân miền núi. Trong không khí
vui tươi náo nhiệt của cuộc sống mới ta thấy rất rõ bước đi hối hả của thời gian.
Như vậy qua việc tìm hiểu các yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật ta
thấy chúng thường xuyên đi liền với nhau. Mỗi thời gian nghệ thuật lại có không
gian tồn tại riêng và ngược lại ở mỗi thời gian cụ thể lại có không gian tương ứng.
Việc xây dựng mối quan hệ không tách rời giữa không gian và thời gian nghệ
thuật làm cho tiểu thuyết của Vi Hồng có sức hấp dẫn đặc biệt đối với độc giả,
đồng thời khẳng định tài năng nghệ thuật của nhà văn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
KẾT LUẬN
1. Sinh ra và trưởng thành trong khó khăn, cơ cực nhưng Vi Hồng đã tự
vươn lên xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương khá đồ sộ. Những sáng
tác của ông đã chứng minh cho sự giầu có, dồi dào của một khả năng văn chương
ở một nhà văn tâm huyết. Sự nỗ lực phấn đấu trong gần bốn mươi năm lao động
nghệ thuật nghiêm túc đã đưa Vi Hồng đến với những thành công nhất định, góp
phần khẳng định vị trí của ông trong nền văn học thiểu số nói riêng và văn học
Việt Nam hiện đại nói chung. Vi Hồng góp vào văn văn xuôi các dân tộc thiểu số
Việt Nam hiện đại một phong cách nghệ thuật độc đáo và nhiều tác phẩm có giá
trị, góp phần gieo những hạt mầm đầu tiên cho người đời sau ươm giống.
2. Tiểu thuyết là một mảng sáng tác mà Vi Hồng dành nhiều tâm huyết
nhất và đã thu được nhiều thành công nhất định, góp phần làm phong phú nền tiểu
thuyết Việt Nam hiện đại.
3. Ngòi bút của Vi Hồng thể hiện nhiều cảm hứng khác nhau. Mỗi cảm
hứng gắn với những kiểu loại nhân vật nhất định để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng
người đọc.
Đó là cảm hứng ngợi ca hướng tới những con người có vẻ đẹp hình thể và
vẻ đẹp tâm hồn cao quý. Vi Hồng đã dành nhiều những ngôn từ đẹp đẽ để ca ngợi
những con người có vẻ đẹp hình thể đến mức hoàn hảo. Đặc biệt nhà văn chú ý
đến vẻ đẹp tâm hồn, đến tấm lòng nhân hậu vị tha của những con người bình
thường và trí tuệ toả sáng, say mê khoa học của những người trí thức.
Đó là cảm hứng cảm thương gắn với những con người bất hạnh. Nhà văn
thể hiện niềm xót thương cho những con người hiền lành, chất phác bị những
phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu vùi dập. Không những thế họ còn bị đoạ đầy
bởi những tội ác dã man của bọn thống trị miền núi, những thế lực đen tối ấy
khiến cho cuộc sống của nhân dân miền núi vô cùng khổ cực. Thông qua nhưng
số phận bất hạnh, nhà văn muốn thể hiện một khát vọng cao đẹp : xoá bỏ những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hủ tục lạc hậu, tiêu diệt những cái xấu, cái ác, xây dựng một cuộc sống tốt đẹp
hơn.
Đó là cảm hứng châm biếm mỉa mai những con người vô học tối tăm. Ngòi
bút của nhà văn thật xót xa khi hướng tới những đối tượng như thế bởi họ là
những con người „„làm bẩn cả bản mường‟‟. Vi Hồng như muốn dồn tất cả nỗi
căm uất lên đầu ngọn bút để phê phán, lên án những kẻ có chức, có quyền bất tài,
tráo trở, độc ác, vô nhân tính. Viết về những con người này phải chăng Vi Hồng
muốn gửi tới bạn đọc mọi thế hệ khát khao diệt trừ cái ác, bảo vệ cái thiện, xây
dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn.
4. Về phương diện không gian nghệ thuật, Vi Hồng đã tạo được những
không gian thiên nhiên nhiều mầu vẻ, nhằm góp phần chuyển tải tư tưởng của tác
phẩm đến người đọc. Đó là bức tranh thiên nhiên hoang sơ dữ dội và ức tranh
thiên nhiên tươi sáng đẹp đẽ, tràn đầy chất thơ.
Vi Hồng tỏ ra nhạy bén và sâu sắc khi miêu tả bối cảnh xã hội với những
mảng sáng, tối khác nhau. Người đọc có thể say mê với những phong tục tập quán
đẹp của người dân tộc miền núi Việt Bắc và cuộc sống xã hội chủ nghĩa đang đổi
thay từng ngày, nhưng cũng cảm nhận được rõ nét không gian ngột ngạt tăm tối
của xã hội miền núi bởi ách áp bức của bọn thống trị thực dân phong kiến, bởi
những hủ tục lạc hậu và bởi sự lộng hành của những kẻ có chức, có quyền.
Miêu tả không gian tâm lí nhân vật, Vi Hồng đã tạo nên một không gian
tâm cảnh đặc sắc nhờ sự kết hợp tài tình giữa yếu tố thiên nhiên, xã hội và tâm lí
con người góp phần bộc lộ rõ nét tâm trạng, tính cách và nhân cách của nhân vật
trong những cảnh ngộ và tình huống cụ thể.
4. Trong tiểu thuyết của Vi Hồng yếu tố thời gian nghệ thuật cũng được tác
giả chú trọng và thể hiện một cách đa dạng, phong phú, mang dấu ấn riêng biệt.
Đó là thời gian sự kiện lịch sử với những biến cố trọng đại của đất nước : Thực
dân Pháp xâm lược nước ta, Cách mạng tháng Tám thành công, cuộc xâm lược
của thực dân pháp lần thứ hai (1946), cải cách ruộng đất, hợp tác hoá nông
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
nghiệp, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước... Tất cả những sự kiện ấy đã
tác động đến cuộc sống và từng số phận con người.
Cùng với cách thể hiện riêng biệt, độc đáo, Vi Hồng đã đưa người đọc đến
với nhiều số phận tiêu biểu, đặt họ trong những sự kiện, biến cố đời tư có tính
chất quyết định để thử thách tính cách và phẩm chất nhân vật.
Nhờ vậy, nhân vật, tạo ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Đặc biệt khi miêu tả thời gian tâm lí, Vi Hồng tỏ ra rất nhạy cảm và tinh tế.
Thời gian tâm lí được thể hiện qua các bình diện : thời gian hiện tại, thời gian quá
khứ, thời gian tương lai và thời gian đồng hiện. Qua việc miêu tả những bình diện
thời gian này, đời sống nội tâm nhân vật được biểu hiện một cách chân thực, cụ
thể, rõ nét và có chiều sâu.
Các yếu tố thời gian và không gian nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi
Hồng không có sự ngăn cách, mà nó gắn bó, hoà quyện với nhau tạo nên một thể
thống nhất không tách rời. Yếu tố này bổ sung hoàn thiện yếu tố kia. Thời gian để
lại dấu ấn trên không gian và ngược lại. Mỗi không gian nghệ thuật lại có một
thời gian nghệ thuật tồn tại riêng, phù hợp và tương ứng. Điều đó thể hiện tài
năng của Vi Hồng, đặc biệt trong thể loại tiểu thuyết.
Khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Vi Hồng, ta nhận thấy ông đã tạo ra một
thế giới nghệ thuật riêng, một cảm hứng thẩm mĩ mang đậm dấu ấn cá nhân và
thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả về con người và cuộc đời.
5. Do điều kiện có hạn chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu một số phương diện cơ
bản nhất của thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vi Hồng. Qua đó khẳng
định những đóng góp và vị trí của ông trong nền văn học thiểu số nói riêng và nền
văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Nhưng để tương xứng với vị trí của ông,
nghiên cứu về sự nghiệp sáng tác của Vi Hồng có lẽ cần đến những công trình dài
hơi hơn nữa, và nghiên cứu trên nhiều lĩnh vực khác nữa.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. BakhTin (1992), “Lý luận và thi pháp tiểu thuyết”, (Phạm Cư tuyển chọn và dịch)
2. BakhTin (1999), “Tiểu thuyết giáo dục và ý nghĩa của nó trong lịch sử chủ
nghĩa hiện thực”, tạp chí văn học số 4.
3. Dương Thuấn (2006), “Nhìn lại văn học Tày”, tạp chí nghiên cứu văn học số 5
4. Đỗ Thuỳ Liên (2007), “Bản sắc dân gian trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, luận
văn tốt nghiệp Đại học.
5. Hoàng Văn Huyên (2003), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết của Vi Hồng”,
luận văn Thạc sĩ khoa học.
6. Hoàng Trung Thông, “Nhà văn trên dòng sông Tô Lịch”, báo văn nghệ số 5.
7. Lâm Tiến ( 1995), “Văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại”, Nxb Văn
hóa Dân tộc.
8. Lâm Tiến (2002), „„Văn học và miền núi", Nxb Văn hóa dân tộc.
9. Lâm Tiến (2007), "Cách viết tiểu thuyết của nhà văn Vi Hồng", báo VNTN số 13 – 14
10. Ma Thị Ngọc Bích (2004), „„Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng‟‟, luận
văn Thạc sĩ.
11. Nông Thị Quỳnh Châm (2004), “Tính dân tộc trong tiểu thuyết “Tháng năm
biết nói”, “Chồng thật vợ giả”, “Núi cỏ yêu thương” của Vi Hồng”, luận
văn tốt nghiệp Đại học.
12. Nguyễn Thái Hòa (2000), “Những vấn đề thi pháp của truyện” Nxb giáo dục.
13. Nguyễn thị Thu Hương (2008), “Đặc điểm ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Vi
Hồng” – Luận văn tốt nghiệp Đại học.
14. Nhiều tác giả (2006), “Kỉ yếu hội thảo Nhà Văn Vi Hồng”, Hội VHNT Thái
Nguyên – Khoa Ngữ văn ĐHSP Thái Nguyên.
15. Nhiều tác giả (1988), “Nhà văn các dân tộc thiểu số việt Nam hiện đại”, Nxb
Văn hoá Dân tộc
16. Nhiều tác giả (1992), “Từ điển thuật ngữ Văn Học”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Bản sắc văn hóa dân tộc trong những tác phẩm Vi
Hồng”, báo VN Thái nguyên.
18. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Tìm hiểu sự nghiệp, sáng tác của nhà văn Vi
Hồng”, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ.
19. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Vi Hồng và con đường đến với văn chương”, báo
văn nghệ Thái Nguyên.
20. Phạm Mạnh Hùng (2006), “Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Vi Hồng”,
tạp chí nghiên cứu văn học số 2.
21. Phạm Duy Nghĩa (2008), „„Cốt truyện trong văn xuôi các dân tộc miền núi‟‟,
Tạp chí nghiên cứu văn học số 8.
22. Phong Lê (1998), “Nhà Văn các dân tộc thiểu số Văn Học hiện đại”, Nxb Văn
Hóa Dân Tộc.
23. Trần Đình Sử (1993), “Một số vấn đề thi pháp học hiện đại”, Bộ GD&ĐT.
24. Trần Đình Sử (1996), “Lý luận & phê bình văn học”, Nxb Hội nhà văn.
25. Trần Đình Sử (1998), “Dẫn luận thi pháp học”, Nxb giáo dục.
26. Vi Hồng (1994), “Ngả văn chương”, tạp chí văn học số 9.
27. Vi Hồng (1980), “Đất bằng”, Nxb Tác phẩm mới HN.
28. Vi Hồng (1984), “Núi cỏ yêu thương”, Nxb Thanh niên HN.
29. Vi Hồng (1985), “Thung lũng đá rơi”, Nxb Văn hóa HN.
30. Vi Hồng (1990), “Gã ngược đời”, Nxb Văn học dân tộc HN.
31. Vi Hồng (1990), “Người trong ống”, Nxb Lao động HN.
32. Vi Hồng (1990), “Vào hang”, Nxb Văn hoá Hà Nội
33. Vi Hồng (1991), “Người dân tộc thiểu số viết văn”, tạp chí văn học số 2.
34. Vi Hồng (1992), “Lòng dạ đàn bà”, Nxb Thanh niên HN.
35. Vi Hồng (1992), “Ái tình và kẻ hành khất”, Nxb Văn hoá Hà Nội.
36. Vi Hồng (1993), “Dòng sông nước mắt”, Nxb Hội VH nghệ thuật Bắc Thái.
37. Vi Hồng (1993), “Tháng năm biết nói”, Nxb Văn hóa dân tộc.
38. Vi Hồng (1994), “Chồng thật vợ giả”, Nxb Thanh niên HN.
39. Vi Hồng (1994), “Phụ tình”, Nxb Văn hóa dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
40. Vi Hồng (19940), “Ngả văn chương”, tạp chí văn học số 9 – 1994.
41. Vi Hồng (1995), “Đi tìm giầu sang”, Nxb Văn hóa dân tộc.
42 Vi Hồng (1997) “Đọa đầy”, Nxb VH Dân tộc HN.
43. Vi Hồng (chủ biên), Tuấn Dũng (1997), “Gương mặt các văn nghệ sĩ dân tộc
thiểu số”, Nxb Văn hoá dân tộc Hà Nội.
44. Vi Hồng (2006), “Mùa hoa Bióoc Loỏng”, Nxb Lao động HN.
45. Vũ Anh Tuấn (2001), “Vi Hồng với mùa xuân Nặm Cáp”, in trong “Khoa Ngữ
văn – 35 năm xây dựng và trưởng thành”, Nxb Thanh niên Hà Nội.
46. Vũ minh Tú (2009), “Chất thơ trong tiểu thuyết của Vi Hồng”, đề tài nghiên
cứu của sinh viên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- doc340.pdf