PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Trong giai đoạn 1930 - 1945, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến sâu sắc. Sự gặp gỡ của văn minh Phương Tây sự tiếp thu mạnh mẽ và rộng rãi những tinh hoa văn hoá thế giới đã thúc đẩy văn học Việt Nam bứt ra khỏi hệ hình trung đại trì trệ, để tiến hành công cuộc hiện đại hoá với sự tăng tốc đặc biệt. Văn học Việt Nam thay đổi từ diện mạo tới nội dung, hàng loạt những thể tài, thể loại mới hình thành và phát triển, một đội ngũ đông đảo các nhà văn sung sức tung hoành trên khắp mọi lĩnh vực văn chương. Một trong những đại diện xuất sắc của đội ngũ này là Thế Lữ.
Thế Lữ thuộc số ít những nghệ sĩ đa tài của nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Là "khởi điểm của những khởi điểm", ông không chỉ là người mở đầu cho phong trào Thơ mới, mà còn là người khai phá nền kịch nói Việt Nam, là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuôi nghệ thuật như tiểu thuyết trinh thám, truyện đường rừng, truyện kinh dị, truyện khoa học, . ở những lĩnh vực văn chương này ông luôn bộc lộ đầy đủ cốt cách của người đi "tiên phong" với những thể nghiệm mới mẻ trên cả bình diện nội dung lẫn hình thức.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình, bài viết về sự nghiệp văn chương của Thế Lữ, chúng tôi vẫn mong muốn tìm hướng tiếp cận mới đối với sáng tác của ông ngõ hầu nhìn nhận rõ hơn những điểm sáng mới trong thế giới nghệ thuật phong phú của nhà văn tài ba này. Đặt sáng tác của ông trong sự phát triển nhanh chóng của văn học Việt Nam ba thập niên đầu thế kỷ XX, trong sự phát triển đa dạng của thể loại và thể tài văn học, trong sự tìm kiếm nghệ thuật rốt ráo, so sánh với các sáng tác của các nhà văn, cách tân cùng thời, chúng tôi muốn tìm hiểu sâu sắc hơn những thành tựu nghệ thuật của ông, từ đó nhằm khẳng định vị trí, vai trò đóng góp của ông trong công cuộc hiện đại hoá văn học dân tộc.
Mặt khác, hiện sáng tác của Thế Lữ, trong đó có mảng thơ của ông, đã được đưa trở lại giảng dạy trong nhà trường ở cả cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông. Nên việc đi sâu nghiên cứu văn tài của ông là hết sức cần thiết. Đối với người viết luận văn, việc thực hiện đề tài là quá trình học hỏi, trang bị cho bản thân vốn kiến thức đầy đủ về một tác gia lớn nhằm đáp ứng tốt hơn cho công tác giảng dạy trong nhà trường.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Là sứ giả tiên phong của trào lưu văn học lãng mạn, sáng tác của Thế Lữ được các nhà biên khảo lịch sử, các nhà nghiên cứu văn học hết sức quan tâm tiến hành khảo sát và nghiên cứu. Tuy vậy, mức độ đánh giá về văn nghiệp của Thế Lữ ở mỗi thể loại văn học, mỗi giai đoạn lịch sử có khác nhau.
2.1. Về thơ
2.1.1. Trước cách mạng
Ngay từ khi mới ra đời thơ Thế Lữ đã được hoan nghênh nhiệt liệt. Vào những năm 1933, 1934, 1935, 1936 các cây bút viết văn, viết phê bình trong và ngoài nhóm Tự lực văn đoàn như: Nhất Linh, Nguyễn Tường Bách, Nguyễn Nhược Pháp, Lê Tràng Kiều . đã đăng bài nhiệt liệt ủng hộ, cổ vũ ca ngợi Thế Lữ.
Nhất Linh là người đầu tiên có công phát hiện, có bài giới thiệu Thế Lữ trên báo Phong hoá (số 54 - 1933) Nhất Linh khẳng định Thế Lữ là "một nhân vật mới trong làng thơ mới". Trên báo Phong hoá (số 97, 11/5/1937) Nguyễn Tường Bách nhiệt tình tán dương Thơ mới, lấy thơ Thế Lữ làm mẫu rồi nhận định "Những bài thơ của ông Thế Lữ đã tỏ ra rằng Thơ mới đã vượt ra những khuôn sáo chật hẹp của thi văn cũ mà đi vào một con đường khá rộng rãi tốt đẹp hơn nhiều". Khi phân tích một số bài thơ Nguyễn Nhược Pháp cho rằng: "Đối với sự miêu tả những tình cảm nhẹ nhàng, ông Thế Lữ đã thực sự chứng tỏ một tài năng lớn". Trên Hà Nội báo (số 14 ngày 8/4/1936) Lê Tràng Kiều cho rằng hồn thơ, cảm hứng của Thế Lữ "dồi dào" "ông Nguyễn Thế Lữ có thể ngồi chung chiếu với ông Nguyễn Khắc Hiếu mà không
ngượng ngùng". Đến bài thơ mới Thế Lữ đăng ở Hà Nội báo (số 24 ngày
7/6/1936) khi so sánh bài Tiếng sáo Thiên thai của Thế Lữ với đoạn Nguyễn Du tả tiếng đàn của nàng Kiều, Lê Tràng Kiều nhận xét "Các tài nghệ của Thế Lữ về phương diện này quả không kém Nguyễn Du là mấy".
Không phải ngẫu nhiên khi tuyển chọn 46 thi sĩ để đưa vào tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân đã trân trọng đặt Thế Lữ ở vị trí đầu tiên. Và trong tiểu luận Một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh đã tôn vinh Thế Lữ là "đệ nhất thi sĩ" và ngợi ca "Độ ấy thơ mới vừa ra đời - Thế Lữ như vầng sao đột hiện ánh sáng chói khắp cả trời thơ Việt Nam ( .) Thế Lữ đã dựng thành nền Thơ mới ở xứ này ( .) Thế Lữ chỉ lặng lẽ, chỉ điềm nhiên bước những bước vững vàng mà trong khoảnh khắc cả hàng ngũ thơ xưa phải tan vỡ".
Năm 1942 trong cuốn Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan đã dành những trang viết về Thế Lữ. "Ông là thi sĩ có công đầu trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho người ta chú ý đến Thơ mới mà thôi, còn Thế Lữ mới chính là người cho ta tin cậy ở tương lai của Thơ mới [69 - 309]".
Ngoài những ý kiến đánh giá (với những ý nghĩa bênh vực, cổ vũ cho Thơ mới trong giai đoạn phôi thai) của các nhà phê bình nghiên cứu, các bạn đồng nghiệp dành cho Thế Lữ chúng ta còn thấy xuất hiện trong công trình nghiên cứu Việt Nam văn học sử của Dương Quảng Hàm. Trong công trình nghiên cứu này, tác giả đã đặt Thế Lữ vào hàng những người cải cách, đề cao Thế Lữ, cho rằng đó là nhà thơ có ngôn từ mới lạ, diễn tả trung thực ý tưởng và hình ảnh trong thơ.
Là "một ngôi sao sáng khắp trời thơ Việt Nam" nhưng danh vọng chói lọi đã bị mờ đi nhanh chóng. Sau đó tác giả Thi nhân Việt Nam cũng phải than thở về sự lạnh nhạt của công chúng đối với Thế Lữ "Tôi thấy xung quanh tôi
người ta lạnh lùng quá. Thế Lữ cơ hồ đã đi theo phần đông trong Văn đàn bảo gián [14 - 51]. Bởi vì chỉ mấy năm sau, thơ Thế Lữ không còn đáp ứng thị hiếu, tâm lý của lớp công chúng mới. Có thể nói khi Thế Lữ viết lời tựa giới thiệu "Thơ thơ" của Xuân Diệu thì chính ông đã viết "chiếu nhường ngôi" cho nhà thơ trẻ mới nhất trong các nhà thơ mới đó.
Thơ mới lãng mạn nói chung và thơ Thế Lữ nói riêng ngay từ khi mới ra đời đã gây được luồng dư luận xôn xao một thời. Người khen thì khen hết sức mà người chê cũng không tiếc lời, đặc biệt là những cây bút đứng trên lập trường quan điểm cách mạng phê phán như Hải Triều, Hồ Xanh . Họ đã chế giễu nhiều nhà Thơ mới trong đó có Thế Lữ. Nhưng rồi cũng như quy luật tất yếu của lịch sử, phong trào Thơ mới được đông đảo công chúng văn học nhất là lớp độc giả thanh niên đón nhận.
2.2.2. Sau cách mạng
Sau Cách mạng tháng Tám ở miền Bắc đứng trên quan điểm cách mạng, phong trào Thơ mới được nhìn nhận và đánh giá khác trước. Từ năm 1945 -
1975 Thơ mới cũng như văn học lãng mạn nói chung đều bị coi là tiêu cực. Trong tập Nói chuyện thơ kháng chiến năm 1951 Hoài Thanh cho rằng: "Những vần thơ buồn tủi và bơ vơ ấy là những vần thơ có tội. Nó xui con người ta buông tay cúi đầu do đó làm yếu sức ta và làm lợi dụng cho giặc. Sự thật khách quan là thế" [103 - 25].
Không chỉ tác giả Thi nhân Việt Nam mà nhiều nhà thơ trong phong trào Thơ mới như Thế Lữ - Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Xuân Diệu . đều nhìn lại một cách nghiêm khắc. Trong bài Những sợi dây trói buộc tôi
trên con đường phấn đấu đăng trên tạp chí Văn nghệ (số 47 năm 1953) - Thế
Lữ phủ định hầu như tất cả mọi đóng góp của mình vào nền văn học.
Khoảng năm 1956 - 1957, Thơ mới tuy vẫn bị phê phán nhưng đã được nhìn lại với con mắt rộng hơn và Thế Lữ vẫn được coi là trường hợp có nhiều yếu tố tích cực hơn cả. Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 (Tập 5 tủ sách ĐHSP - Nxb GD 1962), Nguyễn Trác cũng dành một chương viết về Thế Lữ và tập Mấy vần thơ.
Tháng 3 - 1963, trong một lần nói chuyện, nhà thơ Tố Hữu tâm sự "Tôi cũng thích nhạc điệu và hơi thở của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận . trong tâm hồn các anh lúc đó tôi tìm thấy những nỗi băn khoăn đau buồn của những người cùng thế hệ, đòi hỏi tự do, ước mơ hạnh phúc, tuy các anh chưa tìm thấy lối ra và nhiều khi rơi vào chán nản [39].
Năm 1966, Phan Cự Đê cho ra đời một chuyên luận công phu và toàn diện về Phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ông đã phê phán khuynh hướng thoát ly tiêu cực, đồng thời ghi nhận tấm lòng yêu nước, yêu dân tộc, yêu cuộc sống của các nhà Thơ mới. Đặc biệt, ông đề cao Thế Lữ với tinh thần dân tộc tinh thần yêu nước khá rõ nét qua bài thơ Nhớ rừng.
Trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam 1930 - 1945 của Nguyễn Hoành Khung (Nxb GD 1973), ông đã dành cả một mục trong chương 3 - Phong trào Thơ mới để nhìn nhận Thế Lữ như là người tiêu biểu đầy đủ của cái "tôi" Thơ mới. Ông đánh giá cao những yếu tố tiến bộ và ngòi bút tài hoa dồi dào của Thế Lữ.
Ở miền Nam, sau Cách mạng, Thơ mới cũng là đối tượng được các nhà phê bình nghiên cứu quan tâm. Đã có nhiều bài tiểu luận về tác giả, tác phẩm về phong trào Thơ mới đăng tải trên các tạp chí Bách khoa nghiên cứu văn học . Đặc biệt là sự xuất hiện khá nhiều tập hồi ký chuyên khảo, chuyên luận về thi ca tiền chiến như Lược thảo về thơ của Uyên Thao (Nxb 1967), Thi ca
Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Việt, Nxb 1969. Đặc biệt là cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến (Nxb 1968 - 1969), Nguyễn Tấn Long nhận định: "Thế Lữ đặt cho Thơ mới một nền móng vững chắc, ông gây được niềm tin mãnh liệt trong lòng khách yêu thơ, những sáng tác của ông vừa xuất hiện đã khua những tiếng vang sâu rộng; tựa như tia lửa loé sáng trong màn đêm, những hồn thơ còn đang mò mẫm sợ sệt cái táo bạo của Thơ mới, bỗng nhiên bắt
được mục tiêu tiến bước .".
Từ thời kỳ đổi mới đến nay, văn học lãng mạng nói chung trong đó có Thế Lữ đã được thẩm định lại. Nhiều bài nghiên cứu chuyên luận của các tác giả Hà Minh Đức, Nguyễn Hoành Khung, Trần Đình Hượu, Phan Cự Đê, Vũ Ngọc Phan đã đánh giá lại trào lưu lãng mạn nói chung dưới ánh sáng của tư duy mới.
Những năm 1984 - 1987 liên tiếp có nhiều bài viết về Thế Lữ. Trong Từ điển văn học tập 1 Nguyễn Hoành Khung khẳng định "Ngòi bút của Thế Lữ khá dồi dào, già dặn, tạo nên được những bức tranh đẹp, thi vị ( .) Thế Lữ đã đóng góp quan trọng vào việc hiện đại hoá thơ ca Việt Nam, khẳng định biểu hiện giá trị sinh động của Thơ mới.
Năm 1987 trong cuốn Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông, Lê Bảo viết "Nếu trước đó ít lâu, Tản Đà dạo khúc nhạc đầu với "Non nước nặng một lời thề vẫn còn sáo nhị thì Thế Lữ đã đem đến cho sân khấu âm nhạc một giọng kèn đồng".
Năm 1989, Hà Minh Đức khi viết khải luận Phong trào thơ mới Việt Nam thời kỳ 30 - 45 đã nhận xét: "Thế Lữ, người mở đầu cho phong trào Thơ mới, ông hoàng của chủ nghĩa lãng mạn đã kết hợp được trong thơ tình cảm chân thực và mở rộng với chất lãng mạn, thanh cao".
Vào dịp kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ mới đã có rất nhiều bài nghiên cứu về văn nghiệp của Thế Lữ. Đáng chú ý phải kể đến cuốn sách Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca của Hà Minh Đức (năm 1993) đã chọn hai bài thơ Nhớ rừng và Cây đàn muôn điệu của Thế Lữ xếp đầu danh sách.
Năm 1997 có bài Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong của Phan Trọng Thưởng (Tạp chí Văn học số tháng 7) và các bài của Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Xuân Sanh (báo Văn nghệ) nhân kỷ niệm lần thứ 80 ngày sinh Thế Lữ.
Năm 2000 Nxb KHXH đã công bố tập 25 trong hệ thống trọn bộ 42 tập của Tổng tập văn học Việt Nam. Cuốn sách được in nhiều nhà thơ trong đó tập Mấy vần thơ tập mới của Thế Lữ được in lại toàn bộ. Năm 2002 có tiểu luận Thế Lữ - người mở đầu một trào lưu thơ ca của Hà Minh Đức. Tác giả đã có cái nhìn bao quát sâu sắc làm nổi bật hồn thơ Thế Lữ.
Năm 2005, Phạm Đình Ân cho ra đời cuốn Thế Lữ - tác gia tác phẩm. Cuốn sách đã có cái nhìn tổng quát về toàn bộ văn nghệ và những bài viết về Thế Lữ.
Ngoài những bài nghiên cứu nói trên đã có rất nhiều những luận văn thạc sĩ nghiên cứu về thơ Thế Lữ, song những luận văn này chỉ mới đề cập thơ Thế Lữ ở những khía cạnh nhất định, chưa nghiên cứu sâu về những đóng góp của Thế Lữ trong công cuộc hiện đại hoá văn học. Ở luận văn này, chúng tôi sẽ làm rõ vị trí của Thế Lữ trong tiến trình văn học giai đoạn 1930 - 1945.
2.2. Về văn xuôi
2.2.1. Như trên đã nói, Thế Lữ thuộc vào số ít những nghệ sĩ đa tài của nền văn học nghệ thuật trước cách mạng. Ông không chỉ là người mở đầu cho phong trào Thơ mới mà còn là cây bút đầu tiên của một vài thể loại văn xuôi nghệ thuật như truyện kinh dị, truyện trinh thám, truyện đường rừng . song hoạt động nghiên cứu về sự nghiệp văn xuôi của Thế Lữ vẫn chưa được sự chú ý của nhiều bạn đọc.
Người đầu tiên nghiên cứu văn xuôi của Thế Lữ là Vũ Ngọc Phan. Trong cuốn Nhà văn hiện đại Vũ Ngọc Phan viết "về thơ, người ta thấy rõ các thi cốt, các chân tài của Thế Lữ. Về tiểu thuyết, tuy loại truyện trinh thám ông chưa thành công, nhưng về những truyện ghê sợ, ông đã chứng tỏ là một tiểu thuyết gia có biệt tài". Cũng trong cuốn sách này ông cho rằng: "Vàng và Máu của Thế Lữ là một tiểu thuyết mà tác giả tỏ ra một văn gia có biệt tài. Nghệ thuật viết tiểu thuyết của Thế Lữ ở đây đã lên tới trình độ cao" [26 - 27 - 28].
Tác giả Phạm Thế Ngũ trong cuốn Việt Nam Văn học giản ước tân biên đã dành 11 trang nói về những truyện kinh dị lãng mạn và truyện trinh thám của Thế Lữ. Theo Phạm Thế Ngũ, bên cạnh một Thế Lữ mở đường cho Thơ mới còn có một Thế Lữ văn xuôi đặc sắc.
2.2.2. Từ giữa những năm 1980 đến nay, trong không khí đổi mới mạnh mẽ của xã hội, nhiều tiểu thuyết của Tự lực văn đoàn, nhiều tập thơ lãng mạn được xuất bản với số lượng lớn. Song văn xuôi của Thế Lữ nói chung cũng như các truyện kinh dị, truyện trinh thám của Thế Lữ vẫn được đánh giá rất cao.
Báo văn nghệ số 23 ra ngày 3/6/89 đăng bài Thương tiếc nhà thơ Thế Lữ, tác giả Tế Hanh viết: "Ở nơi anh cái chất mở đường đi tiên phong thật rõ ràng, trong thơ, trong truyện, trong báo chí, trong sân khấu" [26 - 383].
Nguyễn Hoành Khung trong Lời giới thiệu bộ sách 8 tập Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 viết: "Ngôi sao rực rỡ nhất của phong trào Thơ mới thời kỳ đầu, cũng là cây bút văn xuôi đặc sắc, dồi dào, đề tài và bút phát khá đa dạng. Ông được biết trước hết là ở loại truyện kinh dị ( .) rồi loại truyện tình lãng mạn đường rừng ( .) và nhất là truyện trinh thám, ông là một trong những người dẫn đầu về thể loại tiểu thuyết ở nước ta .".[37-423]
Năm 1991, trong cuốn Thế Lữ - cuộc đời trong nghệ thuật tác giả Hoài
Việt có bài: Thế Lữ như tôi viết trong bài viết của mình ông đánh giá rất cao những truyện quái dị của Thế Lữ so với các nhà văn cùng thời. Ông khẳng định: "Thế Lữ là một nhà thơ, nhà văn giàu tưởng tượng, giàu mộng mơ nhưng ông lại rất tỉnh táo trong phương pháp suy luận khoa học” [26-412; 413].
Tiếp đến trên tạp chí Văn học số 7 năm 1997, Phan Trọng Thưởng có bài Thế Lữ nghệ sĩ hai lần tiên phong. Tác giả đã khẳng định: "Với loại truyện li kỳ rùng rợn Thế Lữ đã đạt đỉnh cao của loại truyện này" chỉ sau khi tập Mấy vần thơ ra đời được ít lâu Thế Lữ dần chuyển sang lĩnh vực văn xuôi với hai sở trường là tiểu thuyết ly kỳ rùng rợn và tiểu thuyết trinh thám như Vàng và Máu (Đời nay-1937), Bên đường thiên lôi (1936); Mai Hương và Lê Phong (1937) . Với Vàng và Máu, ông có thể được coi là tác giả đạt đỉnh cao nghệ thuật của loại truyện này [76-13]. Cũng trong bài viết này Phan Trọng Thưởng đã khẳng định công lao to lớn của Thế Lữ trong việc mở ra khuynh hướng mới cho văn chương nhóm Tự lực văn đoàn: "Cùng với Lan Khai và một vài tác giả khác chuyên viết về loại truyện đường rừng, bí hiểm văn xuôi Thế Lữ mở ra một khuynh hướng mới của văn chương Tự lực văn đoàn [76-13].
Năm 2003 trên Tạp chí Văn học số 8, Phạm Đình Ân có bài viết Thế Lữ trong Tự lực văn đoàn. Trong bài viết này bên cạnh việc khẳng định vị trí, vai trò và đóng góp của Thế Lữ với nhóm Tự lực văn đoàn tác giả còn khẳng định "Văn xuôi nghệ thuật của Thế Lữ cũng có một vẻ đẹp riêng, hấp dẫn cho thấy một khía cạnh đáng lưu ý ở tài năng Thế Lữ [2-68].
Nhìn chung, nhiều năm qua văn xuôi của Thế Lữ được học tập và nghiên cứu rất đơn giản và dè dặt. Trong phạm vi nhà trường, học sinh không
được tiếp cận với các tác phẩm văn xuôi, ít được biết đến Thế Lữ ở phương diện nhà phê bình văn học, nhà dịch thuật, nhà nghệ sĩ đa tài, nhà đạo diễn sân khấu. Song ở luận văn này, chúng tôi muốn nghiên cứu một khía cạnh nhỏ trong mảng văn xuôi của Thế Lữ đặc biệt là trong truyện trinh thám và truyện kinh dị để khẳng định Thế Lữ - tác giả tiên phong của thể loại truyện này.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài trên, luận văn sẽ nghiên cứu một cách cụ thể những sáng tác của Thế Lữ giai đoạn 1930 -1945 ở hai lĩnh vực Thơ và Văn xuôi (không khảo sát nghiên cứu hoạt động sân khấu, báo chí, lý luận, phê bình văn học). Đặc biệt, luận văn này sẽ làm rõ hơn vị trí tiên phong của Thế Lữ đối với một số thể loại văn học trong chặng đường văn học 1930 - 1945 nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đúng như nhận định của PGS. TS Phan Trọng Thưởng: Thế Lữ - Nghệ sĩ hai lần tiên phong và đánh giá của Lê Đình Kỵ trong lời giới thiệu Tuyển tập Thế Lữ: "Cho đến nay trong lịch sử văn học Việt Nam không có một tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ trong hai loại sáng tác khá độc đáo này" [2b - 55, 56].
4. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
Từ các thành tựu nghệ thuật tiêu biểu trên các lĩnh vực Thơ và văn xuôi, luận văn này nghiên cứu đánh giá vị trí của Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam thời kỳ 30 - 45 một cách có hệ thống theo quan điểm nghiên cứu mới nhất.
5. PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, trong quá trình thực hiện đề tài chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp lịch sử: Nhằm nghiên cứu tác giả, tác phẩm dưới góc nhìn của lịch sử văn học để làm nổi bật vị trí, vai trò của Thế Lữ trong tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
- Phương pháp phân tích tổng hợp: Trong quá trình triển khai luận văn chúng tôi sử dụng phương pháp thẩm mĩ truyền thống và phương pháp thống kê khi tiếp cận tác phẩm.
- Phương pháp so sánh: Với quan điểm lịch sử trên đây luận văn sẽ cố gắng so sánh Thế Lữ trên cả bình diện lịch đại và đồng đại để góp phần làm sáng tỏ vai trò "mở đường", "tiên phong" của Thế Lữ đối với văn học Việt Nam giai đoạn 30 - 45 ở một số thể loại.
6. CẤU TRÖC LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Sự xuất hiện của Thế Lữ trong bối cảnh văn học Việt Nam thời kỳ 30 - 45
Chương 2: Những phẩm chất cách tân trong thơ Thế Lữ
Chương 3: Thế Lữ với những đóng góp về văn xuôi nghệ thuật
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài . 1
2. Lịch sử vấn đề . 2
2.1. Về thơ . 2
2.1.1. Trước cách mạng . 2
2.2.2. Sau cách mạng . 4
2.2. Về văn xuôi 7
3. Phạm vi nghiên cứu . 10
4. Đóng góp mới của Luận văn . 10
5. Phương pháp nghiên cứu . 10
6. Cấu trúc luận văn 11
Chương 1. SỰ XUẤT HIỆN CỦA THẾ LỮ TRONG BỐI CẢNH VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ 30 - 45 12
1.1. Bối cảnh văn hoá, xã hội Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945 12
1.1.1. Vài nét về tình hình chính trị - văn hoá - xã hội . 12
1.1.2. Sự nở rộ và phát triển các khuynh hướng, nhóm phái văn học 15
1.1.3.Sự xuất hiện một thế hệ nhà văn, nhà thơ tài năng và sự hoàn thiện về thể loại . 17
1.2. Vị trí vai trò của Thế Lữ trong sự hình thành và phát triển của một số thể loại văn học mới 20
1.2.1.Cuộc đấu tranh giữa thơ mới và thơ cũ . 22
1.2.2.Sự xuất hiện của Thế Lữ 25
Chương 2. NHỮNG PHẨM CHẤT CÁCH TÂN TRONG THƠ THẾ LỮ .30
2.1. Quan điểm nghệ thuật của Thế Lữ - Một bước tiến so với quan điểm nghệ thuật của văn học trung đại . 30
2.1.1. Khái quát quan điểm nghệ thuật văn học trung đại 30
2.1.2. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ 33
2.2. Những cách tân về hình thức và nội dung nghệ thuật 39
2.2.1. Thế Lữ - Một sự đổi mới về cảm hứng sáng tạo . 39
2.2.1.1. Thiên nhiên . 39
2.2.1.2. Tình yêu . 45
2.2.1.3. Cõi tiên . 50
2.2.2. Cách tân về hình thức (hình thức biểu hiện) . 59
2.2.2.1. Đổi mới cấu trúc câu thơ 60
2.2.2.2. Phong phú về thể thơ 67
2.2.2.3. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh bằng chất liệu hội hoạ . 70
2.2.2.4. Tài hoa trong nghệ thuật diễn tả âm thanh . 74
2.2.2.5. Nhạc điệu trong thơ Thế Lữ . 76
2.3. Tiểu kết . 79
Chương 3. THẾ LỮ VỚI NHỮNG ĐÓNG GÓP VỀ VĂN XUÔI
NGHỆ THUẬT 81
3.1. Thế Lữ với thể loại văn xuôi mới 81
3.2. Truyện trinh thám . 84
3.2.1. Nguồn gốc truyện trinh thám 84
3.2.2. Thế Lữ với thể loại truyện trinh thám ở Việt Nam . 85
3.2.2.1. Cốt truyện . 85
3.2.2.2. Nhân vật . 90
2.2.2.3. Cách giải mã độc đáo trong truyện trinh thám của Thế Lữ . 93
3.3. Truyện kinh dị . 100
3.3.1. Truyện kinh dị tiếp nối dòng truyện truyền kỳ . 100
3.3.2. Sự khác biệt giữa truyện kinh dị của Thế Lữ và truyện truyền kỳ .101
3.3.2.1. Nghệ thuật kể chuyện . 104
3.3.2.2. Nghệ thuật tả 108
3.3.2.3. Cách giải thích khoa học trong truyện kinh dị của Thế Lữ . 116
PHẦN KẾT LUẬN . 130
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 133 .
141 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2072 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thế Lữ với tiến trình văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được cảm nhận từ thính
giác của nhân vật tôi "Một giải suối róc rách ở gần, tiếng sóng như thuỷ tinh
reo vào trong một thứ giọng rù rù tối tăm của những côn trùng dưới cỏ. Sau
lều thì khu rừng cây yên lặng như ngủ kỹ, nhưng ở trong đưa ra những tiếng
bí mật... xa xa rõ thực ra, giọng thác ào ào, để ý thì mỗi lúc thấy một thêm gần
rồi lại xa dần, rồi lại như biến đi mất..." [38 - 43]. Trong Lưỡi Tầm sét lại là
âm thanh "Tiếng kêu xột xoạt như có tay ai xoa lên" trên mái nhà "Tiếng vụt
qua khe cửa nghe rít lên từng hồi giận dữ và thê thảm" [38- 188].
Qua trí tưởng tượng phong phú, sự kết hợp hài hoà nhiều giác quan
trong quá trình miêu tả cảnh vật, kèm với một cây bút hoạ cảnh tài tình. Thế
Lữ đã miêu tả thành công những cảnh vật thiên nhiên trong truyện "kinh dị"
của mình. Cảnh được miêu tả hiện lên trong các tác phẩm này thường là cảnh
thiên nhiên hoang vắng ghê rợn. Cảnh vật đó góp phần quan trọng trong việc
làm nổi bật thế giới "kinh dị" của Thế Lữ.
Bên cạnh việc mô tả thành công bức tranh thiên nhiên tác giả còn thành
công trong việc mô tả cái rùng rợn từ thế giới con người. Cái rùng rợn từ thế
giới con người có thể là sự xuất hiện bất ngờ lạ lùng, bí ẩn của những người
phụ nữ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
111
Người phụ nữ trong Truyện kinh dị của Thế Lữ có một vẻ đẹp khác
thường. Trong một đêm trăng cô gái xuất hiện vào đêm khuya thanh vắng
ở trong rừng. Vẻ đẹp lạ thường của cô gái khiến nhân vật tôi phải thốt lên:
"Trời ơi! Con gái Thổ mà có người nhan sắc đến thế này ư? Tôi tỉnh hay
mơ" [38- 11].
Cô gái trong Lưỡi tầm sét lại vào nhà anh Kỳ trong một hoàn cảnh đặc
biệt vào một đêm khuya mưa to, gió lớn: "Một người đàn bà, một người con
gái thì đúng hơn - mình mấy trần truồng, chỉ còn mấy mảnh quần áo rách
bươm không đủ che thân, đáng đứng vừa run vừa nhìn chúng tôi một cách
kinh hoàng. Mặt xanh xám nhưng trông vẫn thấy đẹp" [38-193] Không chỉ có
vậy, người này còn có cử chỉ hành động lạnh lùng "ôm choàng ngay lấy kỳ
không chịu bỏ ra nữa..." [38-193] có hỏi thì cô gái chỉ lắc đầu không thưa, sau
đó bỏ đi khiến hai người kinh ngạc. Để giải toả sự ngờ vực họ mở cửa ra
ngoài xem cô gái đi đâu nhưng họ không thấy cô gái đi đâu cả.
Ở truyện Trại Bồ Tùng Linh người đàn bà xuất hiện vào ban đêm nơi
trại Bồ hoang vắng, u tịch. Tác giả dành khá nhiều đoạn để miêu tả vẻ đẹp của
người đàn bà này. Đó là người đàn bà đẹp đến kỳ dị: "Giữa khung cửa sổ một
khuôn mặt lặng lẽ, trắng một cách lạ, một khuôn mặt đàn bà rất trẻ đẹp, một
vẻ đẹp tuyệt mỹ, đẹp đến lạnh mình" [38-298] không chỉ có vẻ đẹp lạ thường,
người đàn bà còn có những hành động bí ẩn xuất hiện như đã có ở đó từ bao
giờ và thoáng biến ngay như không bao giờ có khiến Tuấn kinh ngạc dị
thường. Sự xuất hiện đấy bí ẩn của người đàn bà trong truyện Trại Bồ Tùng
Linh đã đưa người đọc vào một không khí huyền bí của những mẩu chuyện kỳ
dị lạ lùng trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Truyện kinh dị của Thế Lữ bên cạnh những trang miêu tả cái chết ghê
rợn, tác giả còn khắc hoạ diễn biến tâm lý thầm kín trong đáy sâu tâm hồn
nhân vật khi những nhân vật đó phải đối mặt với những điều bất thường. Còn
diễn biến tâm lý của nhân vật được miêu tả trong truyện thần kỳ chủ yếu được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
112
miêu tả bằng phương pháp "vẽ rồng chấm mắt". Ví dụ trong Liêu trai chí dị
chỉ cần một vài chi tiết đơn giản người viết đã nêu lên được cái thần của vấn
đề diễn biến tâm lý nhân vật trong truyện kinh dị của Thế Lữ được miêu tả
công phu, tỉ mỉ, chi tiết.
Đó là tâm trạng ghê sợ của hai người đàn ông Thổ thuộc Châu Kao
Lâm khi đến hang văn Dú trong truyện Vàng và máu: "Hai người Thổ cùng
nín tiếng, hai mắt mở lớn, người thì đưa nhìn tả, người thì liếc hữu, rồi lại
trông vào cái lỗ hang đen tối âm thầm" [38-38]. Khi nhìn thấy một người chết
treo dưới cây bàng trụi lá ở gần cửa hang thì hai người Thổ "Hai bác Thổ nắm
chặt lấy tay nhau, không dám tiến, không dàm lùi, quanh mình chỗ nào cũng
thấy toàn sự chết" [38-40], tâm trạng của ông Châu và những người bộ hành
khi nhìn thấy cảnh tượng quái gở kinh hoàng: "ông cũng sửng sốt như họ,
đứng lặng không nói được gì.." [38-77].
Truyện Cái đầu lâu là tâm trạng hồi hộp lo sợ của mọi người, đặc biệt
là anh Chung khi nghe thấy âm thanh lạ phát ra từ cái đầu lâu mà anh Thao
mang về vào đêm khuya: "Chúng tôi cũng hết sức lắng tai tiếng đồng hồ đeo
tay anh Lịch nghe rõ mồn một. Tôi đếm tiếng tích tắc để biết thời gian, nhưng
mãi cũng sinh chán. Tay Chung vẫn sắm chặt lấy cánh tay tôi, nhưng hơi run
run. Còn tôi thì cứ muốn quát to lên, quát rất lớn để phá tan cái yên lặng ghê
gớm lúc đó" [38-184].
Truyện Trại Bồ Tùng Linh, tác giả đã miêu tả nhiều trạng thái cảm xúc
của nhân vật Tuấn. Đó là tâm trạng kinh ngạc, ghê sợ của Tuấn khi thấy
người đàn bà xuất hiện rồi biến mất trong đêm: "Thốt nhiên một cảm tưởng là
lạ ám đến, anh trờn trợn như mình có người chú ý, ngửng đầu lên trong khung
cửa sổ, một người rất đẹp đang nhìn anh, lẳng lặng và miệng như mỉn cười.
Tuấn chưa hết kinh ngạc thì người ấy đã lui ngay, nhẹ nhàng như lẩn biến vào
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
113
bóng tối..." [38-299;300] và tâm trạng khi chờ đợi người đàn bà xuất hiện:
"Tuấn nắm tay lại, nhìn phắt lên: ngoài cửa sổ vẫn không có gì khác. Hơi
Tuấn thở vội, hỗn loại với nhịp trống, Tuấn sững sờ và thấy mình ngộ nghĩnh
đáng nực cười..." [38-305].
Có thể nói ngòi bút tài hoa của Thế Lữ đã thành công khi lách vào
những ngõ ngách thầm kín, lắt léo nhất trong tận đáy sâu tâm hồn nhân vật
Tuấn để tìm hiểu, để mổ xẻ và khám phá.
Nhưng đặc biệt hơn cả, ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc qua
những truyện kinh dị của Thế Lữ là những cảnh mang không khí rùng rợn ly
kỳ. Đây là nét độc đáo, đồng thời cũng là nét khác căn bản thể hiện rõ ý đồ
nghệ thuật, cá tính sáng tạo của Thế Lữ so với những truyện truyền kỳ.
Như chúng ta đã biết, truyện truyền kỳ viết về yêu ma, hồ, quỷ mà
"Không hề gây ấn tượng rùng rợn" trái lại còn "có phần gần gũi, thân thiết",
"bình dị thấm đượm tình người". Ví như trong gần 900 trang Liêu trai rất
khó tìm ra những đoạn miêu tả cảnh tượng khủng khiếp khiến người đọc
phải đứng im, dựng tóc gáy. Nếu có cũng chỉ là vài hình ảnh lướt qua, chiếu
lệ, không để lại cảm xúc gì sâu đậm. Đây cũng chính là dụng ý của tác giả
bởi Bồ Tùng Linh chỉ muốn mượn ma, hồ để nói về con người, về cuộc sống
con người.
Khác với Bồ Tùng Linh, mục đích chính của Thế Lữ khi viết về những
chuyện “kinh dị” là để tìm đến "những cảm giác mới lạ và mãnh liệt" nhằm
thoả mãn trí tưởng tượng của mình. Bởi vậy trong những trang truyện kinh dị
của Thế Lữ ta thấy in đậm những yếu tố ly kỳ rùng rợn.
Truyện Vàng và máu là một trong những truyện xuất sắc mà Thế Lữ tỏ
ra một văn gia có biệt tài, tài tình về cách xây dựng cốt truyện, tình huống
đồng thời xây dựng nhiều yếu tố ly kỳ rùng rợn, khiến người đọc phải rùng
mình. Dưới một cây bàng trụi lá gần hang... "Một người chết treo dưới 1 cây
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
114
bàng trụi lá mọc trên bức tường đổ nát mà mốc rêu. Người chết hình vóc to
lớn, đầu có bím vắt ra sau lưng, chiếc dây chão thõng xuống thắt nút ở sau
gáy và lẳn vào cổ, làm cho cái mặt phị, xám hơn bộ quần áo chàm ướt, cúi
gằm xuống mà nhìn người ta bằng hai con mắt có tròng đen..." [38-40]. Cái
xác co quắp của Nùng Khai ở ngoài cửa hang: "Nùng Khai nằm hơi nghiêng
đầu trở về phía hang cánh tay trái đè dưới mình, cánh tay phải khuỳnh vào
đưa lên trên không, cứng như que củi gãy, ngón tay và ngón chân đều rút
quặp lại, chân trễn dũa thẳng, chân dưới hơi cong lên..." [38-78].
Ấn tượng hãi hùng từ những xác chết không dừng lại ở đó, tác giả còn
dấy lên đỉnh điểm của sự rùng rợn với những xác chết ngổn ngang mà ông
Châu và bọn bộ hạ khi vào trong hang thần bắt gặp: "Một bọn năm, sáu
người đàn ông nằm ngồi hỗn độn bên những tảng đá cuội cực to, gần sát
chân vách đá... Bằng ấy các xác cứng đơ như tượng gỗ" [38,85,88]. Kết thúc
tác phẩm dường như tác giả vẫn chưa thoả mãn, ông còn để xác của người
Thổ Kao Lâm chết treo trên cây ổi nhà ông Châu. Có thể nói Vàng và Máu
tác giả đã bày ra một loạt xác chết, qua đó tạo nên một ấn tượng ghê rợn, hãi
hùng về câu chuyện vào hang lấy vàng của người Thổ. Tác giả đã dựng lại
cả một không khí ảm đạm, chết chóc bao quanh núi Văn Dú. Phải là một nhà
văn có trí tưởng tượng phong phú, Thế Lữ mới tạo nên được một không khí
ly kỳ đến như vậy.
Truyện Cái đầu lâu có nhiều tình tiết ly kỳ khiến người đọc rợn tóc
gáy. Đó là những tiếng "nghiến răng ken két" phát ra từ ban đêm, từ phía cái
đầu lâu để trên bàn giấy mà anh Thao lấy ở nhà thương mang về. Kỳ lạ thay
là tiếng nghiến răng cứ trẻ nhỏ sau to dần, có tiếng người thì lại ngưng bặt.
Không chỉ như vậy, cái đầu lâu còn "nghoảnh mặt về phía giường nhân vật tôi
nằm" rồi còn "lắc lư như thằng phổng nhựa của trẻ con chơi". Đến lúc này
tâm trạng kinh sợ mà những điều kinh dị trên gây ra có lẽ không còn là của
các nhân vật trong tác phẩm nữa mà trở thành tâm trạng của người đọc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
115
Đọc truyện Ông Phán nghiện, người đọc phải rùng mình ghê sợ trước
cảnh tượng kỳ quái "một con rắn cặp nong lớn, mình lấp lánh như chiếc khăn
quàng bằng lụa bóng đang yên lặng nằm vắt qua cổ ông Phán" [38-1947]. Rồi
cái chết bi đát: "Ông Phán nằm chết cóng trên bàn đèn tắt, mà con rắn thì
cuốn chặt lấy cổ ông, đầu nó đang cố rúc vào mũi ông ta, như muốn tìm cái
hơi thuốc phiện ở trong ấy" [38-151].
Truyện Hai lần chết cũng là một truyện khá ly kỳ hấp dẫn. Theo dõi
diễn biến câu chuyện người đọc không khỏi rùng mình khi đọc đến cảnh
tượng Tâm bật nắp quan tài tỉnh dậy, thấy Mão ngồi bên cạnh quan tài chăm
chú tờ di chúc. Thấy Tâm tỉnh lại, Mão đã tìm cách giết anh dìm nắp quan tài
xuống lấy thuốc định tiêm cho Tâm. Điên dại vì sự hiểm độc của Mão Tâm đã
vùng dậy bóp cổ Mão chết rồi bỏ vào quan tài. Ra toà Tâm được trắng án vì
chính Mão là người định giết hại Tâm. Ít lâu sau Tâm chết gục đầu bên tờ di
chúc thư để lại của cải cho Viện tế bần.
Tóm lại, với trí tưởng tượng phong phú, kết hợp giữa ảo và thực, Thế
Lữ đã thành công trong việc tạo dựng không khí rờn rợn, ly kỳ cho các truyện
kinh dị của ông. Kết quả giữa ảo và thực, giữa có và không, giữa những điều
tưởng tượng và những điều nhìn thấy đã mờ đi trong giác quan người đọc. Cái
duy nhất còn lại là một thế giới ngôn từ phong phú, một ngòi bút miêu tả điêu
luyện và một hiệu quả đặc sắc đến không ngờ. Đúng như nhận định của tác
giả Lê Đình Kỵ trong Lời giới thiệu tuyển tập Thế Lữ: "Loại sáng tác này cho
thấy một Thế Lữ có tài quan sát, có óc phân tích sắc bén, có trí tưởng tượng
dồi dào, cho nên dù ít đề cập vấn đề gì quan trọng về xã hội, nhân sinh, nó
vẫn được đón nhận và tìm đọc một cách thích thú... Cho đến nay trong lịch sử
văn học Việt Nam không thấy có tên tuổi nào đáng được xếp bên cạnh Thế Lữ
trong loại sáng tác 2khá độc đáo này" [26-54].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
116
3.3.2.3. Cách giải thích khoa học trong truyện kinh dị của Thế Lữ
Khi nghiên cứu Truyện kinh dị của Thế Lữ một số nhà nghiên cứu đã
khẳng định Thế Lữ có ảnh hưởng rất sâu sắc truyện ngắn của Edgarpoe và Bồ
Tùng Linh. Trong bài Thế Lữ như tôi biết, tác giả Hoài Việt khẳng định: "Bên
cạnh những cuốn tiểu thuyết trinh thám của Thế Lữ tôi còn rất mê loại truyện
quái dị của ông... Hẳn Thế Lữ muốn du nhập vào nền văn chương quốc nội
một loại truyện mới cho nó phong phú, đa dạng hơn. Cũng phải ghi công cho
ông về mặt này dù ta biết rất rõ ông chịu ảnh hưởng của Edgarpoe hay Bồ
Tùng Linh" [26-412]. Cùng chung với ý kiến và quan điểm trên tác giả Hoài
Anh trong cuốn Chân dung văn học có bài viết về Thế Lữ đã khẳng định: "Cả
về truyện trinh thám, Thế Lữ tuy có chịu ảnh hưởng của EdgarPoe,
ConanDoyle nhưng truyện của ông vẫn có tính chất dân tộc... [1-975].
Trong một số truyện quái dị của EdgarPoe và của Bồ Tùng Linh, ta
thấy kết thúc truyện luôn dừng ở sự thần bí, hoang đường, khó hiểu.
Truyện Sự thật về trường hợp của Ovaldima - EdgarPoe kể chuyện về
nhân vật tôi đang chú ý làm những cuộc thí nghiệm về thôi miên để tìm hiểu
khi thôi miên thì sự đe doạ của cái chết có thể ngăn chặn đến mức nào, thời
gian bao lâu. Ông Ovaldima - một người ốm nặng sắp chết đồng ý cho nhân
vật tôi làm thí nghiệm trên người ông ta ngay tại bệnh viện. Nhân vật tôi bắt
đầu tiến hành những thủ thuật như xoa lên chán ông, xoa dọc nhìn người sắp
chết... chân tay ông Ovaldima dần lạnh giá. Đến nửa đêm mọi người công
nhận ông đang ở trong tình trạng bị thôi miên hoàn toàn. Người cứng đờ,
nhưng không có biểu hiện của một người chết. Nhân vật tôi cầm tay ông đưa
đi đưa lại rồi hỏi thì "cả người ông như hơi rung lên, hai mí mắt từ từ hé ra
như để bày ra một đường trắng của nhãn cầu, đôi môi hấp máy lờ đờ và để
thoát ra mấy tiếng thì thào quá yếu gần như không nghe được... - vâng bây giờ
tôi đang ngủ. Đừng đánh thức tôi dậy!... Hãy cứ để tôi chết như vậy" [4-20]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
117
Đến khi trong người ông Ovaldima không còn một chút triệu chứng
nào của sự sống nữa và kết luận ông đã chết, thì lưỡi ông lại có chấn động
mạnh rồi phát ra một tiếng nói: "- Vâng, không tôi đã ngủ và bây giờ, bây
giờ thì tôi đã chết" [4-22]. Sự kỳ lạ này khiến mọi người sợ hãi. Gần bảy
tháng sau, người ông Ovaldima vẫn giữ nguyên trạng thái như trước, y tế
vẫn trực bên ông. Cuối cùng nhân vật tôi lại dùng kiểu đưa tay xoa lên người
ông để kéo ông ra khỏi trạng thái hôn mê vì thôi miên. Lúc đó xuất hiện một
hiện tượng kỳ lạ, khi trông mắt ông hạ xuống thì xuất hiện một dòng nước
mắt màu vàng nhạt chảy kéo theo ở dưới mi mắt. Khi nhân vật tôi đặt câu
hỏi cho ông ta thì "Mấy điểm nhô trên gò má lại xuất hiện ngay, lưỡi rung
hay đúng hơn hơn là cuốn lên rất mạnh trong miệng (mặc dầu hà và môi vẫn
y nguyên bất động) rồi dần dần cái thứ tiếng rùng rợn mà tôi đã mô tả bỗng
bật ra: - Lạy chúa! Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh lên! - Tôi đã nói với anh là
tôi chết rồi" [4-25].
Cuối cùng khi nhân vật tôi đang xoa nhanh trên người Ovaldima theo
kiểu thôi miên, qua những tiếng kêu "chết, chết" phát ra từ đầu lưỡi người
bệnh thì ngay lập tức chỉ trong vòng một phút, toàn thân ông nát vụn ra từng
mảnh nhỏ hoàn toàn thối rữa. Ở truyện ngắn này, sự kỳ lạ như: cử chỉ, lời nói
đầy bí ẩn của ông Ovaldima khi ông đã chết không được nhà văn giải thích
cho người đọc rõ vì sao có hiện tượng kì lạ như vậy. Tất cả vẫn là một sự
huyền bí đối với người đọc.
Ở truyện Trái tim thú tội có một chi tiết kỳ lạ: Lão già đã bị chặt làm
nhiều khúc từ đêm nhưng đến sáng hôm sau tim lão vẫn còn đập, không chỉ
có vậy còn phát ra những âm thanh. Âm thanh ngày một lớn dần, nhưng vì
sao lại như vậy nhà văn không lý giải nổi. Tuy nhiên, qua truyện ngắn này tác
giả muốn gửi gắm một điều với người đọc rằng. Người ta nếu có tấm lòng
lương thiện, vị tha trước sau cũng sẽ nhận ra và hối hận trước những việc làm
không tốt của mình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
118
Trong Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, các truyện ngắn đều là những
truyện ma quái, huyễn hồ nhưng kết cục chỉ dừng lại ở sự thần bí. Truyện Bộ
da vẽ có nhiều chi tiết kì lạ như quỷ biến thành người con gái đẹp. Trần Thị
nôn ra một quả tim, người chết mất tim đã lâu nhờ một quả tim khác sống lại,
chỗ bị xé rách ở bụng Vương hôm qua thì đóng vẩy to bằng đồng tiền vì sao
lại có sự kỳ lạ, lạ lùng như vậy thì Bồ Tùng Linh không làm rõ.
Ở truyện Bức hoạ trên tường có những chi tiết ly kỳ mang màu sắc
hoang đường kỳ quái như: Chàng Chu bay lên tường gặp cô gái trong bức vẽ,
hai người giao hoan, rồi lại bay xuống mà Mạnh Long Đàm đứng đó không
nhìn thấy gì. Vì sao có sự kỳ lạ đó vẫn là câu hỏi tác giả bỏ ngỏ cho người
đọc tự suy ngẫm.
Ở Việt Nam cùng thời gian đó có một số nhà văn khác có những tác
phẩm đề cập đến sự kinh dị ma quái như Tchya Đái Đức Tuấn, Nguyễn Tuân,
Phạm Cao Củng, Thanh Tịnh, Lan Khai,... Mặc dù viết về sự ly kỳ rùng rợn
nhưng trong sáng tác của các nhà văn này kết cục không có sự lý giải khoa
học mà thường dừng ở sự huyền bí. Truyện của các nhà văn này vẫn chưa
thoát khỏi dáng dấp của những truyện truyền kỳ ở Việt Nam cũng như Liêu
trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Truyện Ai hát giữa rừng khuya của Tchya Đái Đức Tuấn, tác giả kể lại
một lần về Nam Định xuống ga Gôi thăm một một người bạn cũ. Hôm ây trời
đang nắng chang chang bỗng đổ mưa, khí đất bốc ngùn ngụt đầy huyền bí,
người bạn dẫn tác giả đến chân đồi chứng kiến một cảnh lạ lùng: hai âm hồn
hiển hiện, hai con ma cụt đầu múa võ. Chuyện này kích thích trí tò mò của tác
giả quyết đi ngao du để tìm hiểu thêm.
Tác giả đến Đồng Giao, một hạt hẻo lánh, hoang vu thăm bạn cũ là
Trần Văn Thuỷ. Vùng này chứa đựng biết bao chuyện khủng khiếp: cướp bóc,
giết người và mãnh thú ăn thịt người. Đêm khuya tĩnh mịch, tác giả bỗng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
119
nghe có tiếng đàn hát văng vẳng, như xa như gần. Thuỷ kể lại cho bạn nghe,
mùa xuân cách đây chừng 60 năm, Nguyên Quan tri phủ Nho quan làm lễ ăn
mừng. Trong hạt Bàn Thạch phủ thọ Xuân có ba anh em (Văn Quản, Huyền
Cơ, Oanh Cơ) mồ côi cha mẹ, nổi tiếng hát hay, đàn giỏi muốn tới dự lễ để
kiếm giải hát và nối lại tình xưa. Trên đường đến nhà Quan tri phủ Nho quan,
họ bị lạc đường, gặp tráng sĩ Lê Trọng Việt, họ tìm chỗ ngủ trên cây để tránh
thú dữ. Oanh Cơ và tráng sĩ lên trước rồi kéo Văn Quản và Huyền Cơ lên,
nhưng không kịp hai người dã bị hổ ăn thịt. Tráng sĩ phi tiêu hổ đã bỏ chạy,
tráng sĩ đưa hai cái xác lên cây, được tráng sĩ giúp đỡ, sau khi làm ma cho anh
chị xong, Oanh Cơ quyết định không đi Nho Quan mà ở lại cùng với cháu
Nguyễn Tiêu ở Đồng Giao. Sau đó trong hạt Đồng Giao xôn xao câu chuyện
đêm ở thung lũng cách Đồng Giao gần năm dặm người ta nghe thấy tiếng hát
não nùng. Oanh Cơ biết đó là oan hồn của anh chị mình.
Tác giả đã vén màn bí mật về sự xuất hiện của hai cái oan hồn cụt đầu
trên núi gôi và âm thanh đờn ca từ sừng Đồng Giao vọng lại. Nhân vật tôi
được cụ Trần Công Chất kể lại cho nghe: Theo lời cụ hai chuyện này có một
sự liên lạc với nhau, do một gốc mà ra. Đó là chuyện về một vị quan binh
đứng đầu cai đội quản binh trong thành Bắc Ninh là Lê Vũ Khúc. Mùa xuân
năm 1884, thành Bắc Ninh thất thủ về tay Pháp, khi thành có xung đột, ông
lên thành chỉ huy thì bị thương, rồi bỏ chạy về đất phong ấp của ông, đến đó
thì chết. Sau khi thành Bắc Ninh bị ha, ba năm, mẹ con Lê phu nhân đã bỏ đất
phong ấp ở Bắc Ninh về núi Gôi sống. Về đó hai anh em Việt, Khôi chỉ thích
luyện võ và sau cả hai đều trở nên hùng dũng. Lê phu nhân lúc này bị liệt, hai
anh em phải ở nhà lo trông mẹ và thay nhau đi săn bắn. Một hôm đi săn ở
mạn Đồng Giao về, Việt dẫn theo Oanh Cơ và đứa cháu Khôi đi săn luôn, cứ
về là hai anh em lại lên núi múa võ trên đồi. Sau đó, hai anh em Việt, Khôi bị
tình nghi cộng tác với Nguyễn Quán - một tướng cướp đang bị quân nhà nước
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
120
lùng bắt - Hai anh em bị bắt lên huyện và tự tử ở chân đồi Gôi - nơi hai người
thường thí võ. Khi về khám nhà Khôi, Việt, tay thư ký thông ngôn say đắm
sắc đẹp của Oanh Cơ nên đã giúp đỡ cô cháu Oanh Cơ. Sau khi đoạn tang,
Oanh Cơ quyết định lấy thày thông ngôn. Thày thông ngôn sau được nhận
chức Tri Châu ở Phong Thổ. Oanh Cơ cùng con gái, người hầu trên đường từ
Sa Pa về Phong Thổ đã nghỉ chân ở đèo Ô Quý Hồ. Ở đó nàng bị hổ bắt tha
đi, theo nghiệp số, Oanh Cơ phải theo anh chị chết dưới vuốt loài mãnh thú
nên hổ đã tìm mọi cơ hội để bắt nàng. Từ ngày bị hổ tha vào bụi, những đêm
mưa dầm gió bấc, không trăng, qua đèo Ô Quý Hồ lại vắng có tiếng giọng
đờn ca, ai bạo qua vào trong rừng vắng thì thấy ba bóng ma đàn hát cho một
con hổ ngồi nghe.
Như vậy trong truyện ngắn này, chuyện lạ kỳ dị bí mật về sự xuất hiện
hai tráng sĩ cụt đầu ở núi Gôi và âm thanh tiếng hát ở Đông Giao là có nguồn
gốc từ những câu chuyện cụ thể. Tác giả đã vén màn bí mật này để cho người
đọc rõ. Tuy nhiên tác giả vẫn chưa giải thích rõ vì sao hai tráng sĩ đã chết mà
hình ảnh của họ lại hiện ra múa võ trên đồi sau khi mưa tạnh và anh em Oanh
Cơ đã chết mà, tiếng hát của họ vẫn cất lên trong rừng.
Truyện Khoa thi cuối cùng của Nguyễn Tuân kể về sự long đong lận
đận trên con đường thi cử của hai anh em ông Đầu sứ vùng Nam Sơn Hạ bắt
nguồn từ "một việc thất đức" mà ông cụ thân sinh họ phải "mang lấy trách
nhiệm tinh thần". Thời trai trẻ ông Đầu Sứ anh đi thi, khi làm bài thi hình ảnh
oan hồn hiện lên khiến ông phải bỏ dở kỳ thi, rồi đến ông đầu sứ em khi đi thi
bị đau bụng cũng phải bỏ dở.
Việc xuất hiện oan hồn cản trở chuyện thi cử của hai anh em ông Đầu
Sứ là một câu chuyện kỳ dị. Truyện kỳ dị này được nhà văn dừng lại ở sự ma
quái - sự báo oán của oan hồn người chết - Tác giả không giải thích rõ cho
người đọc hiểu vì sao xuất hiện oan hồn đó khi con người đã chết.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
121
Đến truyện Loạn âm lại là sự xuất hiện kỳ lạ của vị Quan Ôn cùng với
quan quân triều đình lên dương gian bắt phu mở đường. Vì là bạn cùng học
với ông Kinh lịch, lại là học trò của cha ông nên Quan Ôn mới đến nhà ông
Kinh thăm ông, tặng lễ vật và bảo ông Kinh xem có ai là ân nhân, người họ
gần xa, tu nhân tích đức thì bảo Quan Ôn để Quan Ôn châm trước cho họ
không bị phải chết. Lúc đầu ông Kinh lịch không xin cho ai sau ông đã xin
cho tên tiểu bộc của ông Kinh Lịch. Sau đó Quan Ông đến mời ông Kinh làm
quan dưới ấm phủ nhưng vẫn làm việc ở dân gian.
Trong tác phẩm này, cái chết của nhiều người sau đêm Quan Ôn nói lên
dương gian bắt phu mở đường có thể được giải thích là do họ chết vì bệnh dịch
tả. Nhưng sự xuất hiện của Quan Ôn và quan quân triều đình đi bắt lính truyện
Quan Ôn mời ông Kinh làm việc dưới âm, sự giao tiếp giữa người và ma lại là
một sự huyền bí, tác giả không lý giải cho người đọc rõ sự huyền bí đó.
Truyện Người con gái tỉnh Bắc của Phạm Cao Củng cũng có những chi
tiết kỳ dị, lạ lùng. Trong truyện Vũ đến trọ học ở nhà bà cụ Đỗ bán hàng, vì
nhà dưới chật, nóng Vũ lên gian gác xép học. Ở đó Vũ đã thấy nhiều sự lạ:
Một người con gái đẹp xuất hiện lạ kỳ, rồi một bộ xương người, người hiện
rồi bién mất... Sau khi hỏi người con gái đó thì Vũ mới được biết người con
gái đẹp và bộ xương xuất hiện là một - tên cô gái là Ngọc Bích, quê ở tỉnh
Bắc, con ông Tham Tá. Trong chiến tranh khi họ học ở nhà Phán Tâm cô đã
trú ở trên căn gác xép và bị chết đói ở đó, không được chôn cất. Ước muốn
của cô là được Vũ chôn cất cho yên đẹp nắm xương. Hôm sau, Vũ tìm thang
trèo lên gác quả nhiên có một đống xương, anh bèn nhờ người chôn cất.
Truyện ngắn này chứa nhiều chi tiết ly kỳ: Sự xuất hiện của cô gái, bộ
xương... sự xuất hiện này theo tác giả là oan hồn của cô gái trở về nhờ Vũ
chôn giúp nắm xương tàn của cô. Nhưng vì sao người chết lại xuất hiện và có
những hành động như thế thì tác giả không lý giải cụ thể.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
122
Khác với các nhà văn trên, truyện kinh dị của Thế Lữ đằng sau những
yếu tố ly kỳ rùng rợn được tác giả giải thích rất logic và khoa học. Điều này đã
được rất nhiều nhà nghiên cứu phê bình khẳng định. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan trong bài Thế Lữ có viết "Trong tập truyện ngắn của Thế Lữ, tôi cũng chỉ
thấy những truyện căn cứ vào sự thực là hay thôi. Đời khoa học có khác, người
ta phần nhiều bị ảnh hưởng khoa học, mới cảm được độc giả" [26-25]. Tế
Hanh thì khẳng định: "Ở Thế Lữ thơ và văn xuôi trái ngược hẳn nhau; nếu
nhà thơ Thế Lữ đắm đuối mơ màng trong những giấc mộng xa xăm thì văn
xuôi Thế Lữ rất tỉnh táo và khoa học" [26-383]. Trong cuốn Chân dung văn
học, Hoài Anh khẳng định: "Truyện trinh thám của ông có sự kết hợp giữa
kịch tính và chất thơ, giữa ly kỳ rùng rợn và lý giải khoa học, điều này cũng
khiến ông gần gũi với EdgarPoe..." [1-975].
Quả đúng như nhận định của các nhà nghiên cứu, khi đi vào tìm hiểu
cách giải thích trong truyện kinh dị của Thế Lữ chúng tôi thấy: cách giải thích
của ông rất khoa học. Đúng là tác giả đã cố tình gây nên trong truyện một
không khí rờn rợn, ly kỳ, huyền bí, chủ tâm đưa người đọc vào thế giới đầy bí
ẩn mà chẳng qua là do những mưu mô xảo kế của người đời, hay do trí tưởng
tượng bệnh hoạn hoặc bị ám ảnh tạo nên. Tóm lại, các truyện có vẻ giật gân
kia điều có nguồn gốc xã hội, nguồn gốc tâm lí.
Truyện Vàng và máu là một câu truyện Tàu để của, cái đặc sắc của
truyện này là đề cao sự tin tưởng vào khoa học, vào trí người. Ông Quan
Châu ở đây để đối phó với hang Văn Dú, để tìm vàng bạc cất dấu, không
dùng đến thầy mô cúng bái như lời dặn của người thổ Kao Lâm, không tin
vào những phép yểm của người đọc chú. Ông sử dụng óc quy nạp, thâu nhập
những tài liệu để dựng lại câu chuyện, óc suy diễn để giải thích hiện tượng, óc
quan sát và thực nghiệm để tìm ra nguyên nhân của sự giết người. Kết quả
ông đã tìm ra được kho vàng, lại khám phá ra cái bí mật đã giết chết những
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
123
người đến trước ông - những tảng đá cuội có trát thuốc độc, chẳng phải bùa
phép thần thánh gì cả: "Chung quanh tảng đá này, có một sức mạnh giết
người mau chóng hơn cả thần thánh nữa; đó là nhựa của một thứ cây độc tên
là Mây Nôm, thứ cây mà bọn mán đi săn với quân giặc ở Mỹ núi hiểm gọi là
Công đia đeng. Nhựa cây này, ngâm tên thì hoá độc: bắn, không phải cứ chỗ
hiểm, chỉ làm trầy da rớm máu cũng đủ cho kẻ bị thương chết không thể cứu
được. Nhưng nếu chế luyện theo phép của một vài giống sợ bên Trung Quốc
là giống bôi thuốc độc vào móng tay để cào cấu kẻ thù thì nhựa cây đó trở nên
rất mạnh và giết người một cách ghê gớm mau chóng hơn. Viên quan Tàu kia
hẳn biết cách chế luyện nó. Rồi ông Châu gắp đưa cho mấy người bộ hạ xem
những mảng cát bám trên tảng đá cuội. Ông bảo rằng đó là thứ cát làm bằng
mảnh sứ hoặc thuỷ tinh băm nhỏ, luyện cho keo lại với thứ thuốc độc mà ông
vừa nói. Thứ keo riêng ấy đem trát lên các hòn đá xây lắp cửa hang, là thành
một thứ quân canh gác chắc chắn không gì bằng. Cho nên những kẻ đi tìm
vàng trước ông Châu như bọn con cháu họ Hoàng, bọn cướp Khách với tên
Nùng Khai đều vi phạm đến vật nguy hiểm kia, bị thứ cát sắc cạnh phủ trên
đá đâm vào da mà bỏ mạng... " [38-105; 106]. Đúng như Khái Hưng đã viết
trong bài tựa "không có gì xảy ra mà không hợp lệ, không một kết quả nào là
không có nguyên nhân chắc chắn vững vàng". Ta nhớ khi nhóm Tự lực văn
đoàn mới ra đều có nêu một điều trong bảng tôn chỉ là: "Đêm phương pháp
khoa học Thái tây ứng dụng vào văn chương An Nam...". Đó cũng là cái chủ
trương chống phong trào tiểu thuyết thần bí, hoang đường, bài trừ óc mê tín,
luyện óc khoa học.
Đến truyện Một đêm trăng, tác giả trong một chuyến đi rừng, nghỉ đêm
tại một cái lều, bạn đồng hành kéo vào trong bản chơi, tác giả ở lại trong lều
một mình, ngắm ánh trăng, nghe tiếng thác rồi ngủ thiếp đi. Bỗng một người
con gái xinh đẹp vào lều đánh thức ông dạy rồi rủ ông đi chơi khiến ông ngạc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
124
nhiên, bất ngờ không tin vào mắt mình "Trời ơi! Con gái Thổ mà có người
nhan sắc đến thế này ư? Tôi mơ hay tỉnh?" [38-11] Cô gái ở đây là: ma rừng?
Gái quỷ? hay Hồ tinh? Cô Thổ đưa ông xuyên qua rừng đến một thác nước
nhờ ông kéo hộ cái xác một người đàn ông lâm nạn mắc vào một cành cây
mọc đâm ngang sườn núi. Khi tác giả đã đưa được cái xác lên mặt cầu, thiếu
nữ mới cho hay người này đã giết chồng chưa cưới của cô và bị cô báo thù
đâm chết, xô xác xuống thác nhưng chưa xuống tới nên phải nhờ một người
giúp sức.
Một truyện kinh dị mà cảm hứng kinh dị chỉ có lúc đầu rồi dần dần tan
đi nhường chỗ cho sự thật. Cô gái xuất hiện lúc đêm khuya và rủ tác giả đi
chơi không phải là ma quỷ hay hồ tinh mà là một gái Thổ đến nhờ tác giả kéo
hộ cái xác bị mắc trên cây. Sự thật ở đây hơi khác với Vàng và máu, còn
phảng phất một điểm huyền bí, ấy là cái tâm hồn của người con gái Thổ hiện
ra bí ẩn lạnh lùng khi đã cho tác giả biết rõ câu chuyện "Trong con mắt lóng
lánh của người con gái, cùng với cái mặt đanh thép kia, tôi tưởng như thấy cái
khí chất núi rừng, cái tâm hồn Thổ Mán hiện ra" [38-30]. Tính cách huyền bí
ấy vừa là một nét quyến rũ, một nghệ thuật của tác giả. Tuy ý nghĩa và sự thật
hiển nhiên dưới ánh sáng lý luận, song tác giả vẫn muốn giữ một ít xương mù
phủ trên câu văn, hàng chữ, một không khí huyền ảo qua bút phát để gây một
thi vị huyền ảo.
Ở truyện Hai lần chết, sau sự xuất hiện bất ngờ, lạ lùng của anh Tâm
tại nhà anh Tri khi anh đã chết, tác giả đã làm rõ đây thực chất không phải là
hồn ma của anh Đàm Văn Tâm mà thực tế là anh Tâm vẫn còn sống? Kết thúc
truyện ngắn này tác giả đã để lại cho anh Tâm kể lại lý do mình còn sống và
về đây: vì tờ di chúc anh viết hứa là sẽ để lại gia tài và sự nghiệp cho Mão -
một người bạn thân, nên Mão muốn giết Tâm để chiếm đoạt nhưng tâm chưa
chết đã vùng lên giết Mão "Lúc mở mắt ra thì thấy mình bị ép hai bên trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
125
một xó tối và khó thở, tôi định tâm vừa nghĩ vừa sờ soạng mãi mới biết là
mình nằm trong săng. Nhưng trông lên thấy mờ mờ có ảnh lửa soi vào 2 bên
nắp săng và lắng tai nghe thấy quả lắc đồng hồ tích tắc đưa với chuông điểm.
Tôi đoán rằng tôi ngất đi đã lâu lắm vì bụng thấy đói dữ, có lẽ mọi người
tưởng chết thực và đã cho mình vào săng sắp sửa đem chôn. Tôi nâng săng thì
thấy còn mở, bên yên lặng ngồi lên. Lúc ấy mới biết là hơn 12 giờ đêm. Tôi
cười để cho hắn khỏi sợ và nói: Tôi không chết đâu... sống đây mà!" [38-113].
Sau khi giết Mão, Tâm quyết định thuê xe đến gọi anh Tri kể cho anh nghe để
đến cùng anh xử lý việc này. Như vậy ở truyện này cũng như truyện Một đêm
trăng cảm tưởng kinh dị chỉ có lúc đầu rồi dần tan đi nhường chỗ cho sự thật.
Truyện Cái đầu lâu, sự kỳ dị xuất hiện từ cái đầu lâu khiến mọi người
sợ hãi và kinh ngạc. Kết cục sau một cuộc tìm xét kỹ càng nhưng rất vô ích.
Mọi người đã theo dõi, rình xét và cuối cùng thì hoá ra có một con mèo đen
đã chui vào gặm bên trong cái đầu lâu vì cái đầu lâu mới luộc nên còn hơi thịt
"Cái đầu lâu lắc lư như điên cuồng và quay cạnh đấy một vật đen ngòm đang
giẫy giụa. Mắt chúng tôi khi đã đỡ chói thì nhận ra đó là một con mèo đen,
mà gầy, lông mặc sờ sạc không đều và không mượt..." [38-185].
Như vậy, những âm thanh phát ra từ cái đầu lâu, sự lắc lư của nó chẳng
phải là ma quái gì cả mà tất cả là do con mèo gây ra. Kết thúc truyện tác giả
đã làm sáng tỏ sự băn khoăn nghi ngại về hiện tượng kỳ quái từ cái đầu lâu.
Đến truyện Ông Phán nghiện, chi tiết con rắn cạp nong nằm vắt qua cổ
ông Phán thoạt đầu nghe có vẻ kỳ quái, nhưng sự thực chẳng có sự kỳ quái
nào cả, chẳng qua con rắn này dã quen hơi thuốc phiện của ông Phán tác giả
đã để ông Phán nói rõ cho nhân vật tôi biết nguyên nhân của sự kỳ quái này:
"Tôi đem nó về, rồi ngày ngày đặt cái lồng đựng nó bên bàn hút, nói chuyện
với nó, than thở với nó, như tình tự với người thương. Tôi hút điếu nào lại hà
khói vào lồng đặng cho nó nuốt đi. Cứ vậy trong hơn 1 tháng trời, lần lần con
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
126
rắn thành quen thuốc, thành "nghiện" tôi mới thả nó đi, nhưng chỉ ít lâu nó lại
trở lại quanh quẩn bên bàn hút. Rồi cứ vậy cho tới giờ, con rắn không bao giờ
muốn rời bỏ tôi ra. Tới bữa hút là nó lại bò gần tôi..." [38-49].
Như vậy, cái chết của ông Phán ở phần kết thúc truyện lúc đầu bí ẩn
nhưng thực ra là do con rắn. Con rắn cạp nong đã nghiện hơi thuốc phiện của
ông Phán nay không còn thuốc nên trở nên hung dữ. Nó đã quấn chặt lấy cổ
ông Phán khiến ông tắt thở mà chết. Cách giải thích của Thế Lữ ở đây là rất
khoa học. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã có đánh giá xác đáng như sau:
"Trong tập Bên đường thiên lôi... Truyện kỳ quái mà hay hơn cả là truyện
Ông Phán nghiện (trang 159). Những truyện ấy làm cho người đọc có nhiều
cảm giác thú vị, vì nó là những truyện căn cứ vào khoa học, vào việc đời. Một
người kỳ quái như ông Phán nghiện mà tác giả tả được nét bút tinh tế như thế
thật là tuyệt khéo. Đọc truyện Hai lần chết tôi phải nhớ đến những truyện lạ
lùng cho Edgar Poe và truyện Ông Phán nghiện, tôi phải nhớ đến những
truyện kỳ quái của Hoffman. Những truyện của hai đại văn hào này chỉ những
truyện căn cứ vào khoa học, vào sự thiết thực, mới thật hay, còn những huyễn
hoặc của hai nhà văn ấy cũng ít khi cảm được người ta. Trong tập truyện ngắn
của Thế Lữ, tôi cũng chỉ thấy những truyện căn cứ vào sự thực là hay thôi.
Đời khoa học có khác. Người ta phần nhiều bị ảnh hưởng bởi khoa học, nên
tác giả dù viết truyện kỳ quái cũng phải nương tựa vào khoa học mới cảm
được độc giả" [26-24;25].
Trại Bồ Tùng Linh cũng là một truyện hay. Tuy đây không phải là cảnh
núi rừng, song câu chuyện cũng là một thiên tình ái lãng mạn và huyền hoặc.
Có thể nói tác giả đã chú ý dựng một truyện Liêu trai tân thời, lấy khung cảnh
một cái trại bỏ hoang làm khung cả của truyện. Truyện kể về một nhà văn có
tên là Tuấn viết thư kể cho Bình - một người bạn thân nghe những truyện dị
thường xảy ra ở trại Bồ - nơi anh đến thuê trọ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
127
Trong truyện ngắn này, sự kỳ lạ là ở chỗ: sự xuất hiện, hành động đầy
bí ẩn, kỳ dị của cô gái đã gieo vào tâm trí Tuấn một sự hoài nghi không biết
cô gái đó là người hay là ma. Sự băn khoăn ghi ngờ của Tuấn cuối cùng
dường như đã được giải toả. Tác giả để nhân vật Bình giải thích một cách
thuyết phục và có lý về sự xuất hiện kỳ dị của cô gái. Cô gái xuất hiện trong
đêm rồi biến mất ở trại Bồ không phải là ma mà thực chất là người. "... Cô gái
tên là Hoàng Lan Hương (tên đó có phải tên thực hay tên mượn). Lan Hương
đến trại làn này anh thấy không phải mới lần đầu. Những lần trước không biết
cô ta tưởng mình là gì. Nhưng đột nhiên thấy một anh chàng viết lách dưới
đèn trước cửa sổ, không biết ở đâu tới, nhưng đoán chắc là một nhà văn, Lan
Hương mới nảy ra cái dàn ý xếp câu chuyện có một vẻ đẹp huyền hồ và làm
thực hiện một thiên Liêu Trai mới... Không khí huyền ảo đã thừa đã thừa có ở
nơi hoang tịch này rồi chỉ thêm sự giữ gìn chờ đợi cho khôn khéo, Lan Hương
có thể ẩn đâu mà chẳng được? Cô nàng chọn một nơi ẩn tiện nhất, những khi
cần thiết phải lẩn tránh, không kín đáo lắm nhưng lại rất chắc chắn vì không
ai ngờ... Cô nàng đã biến đi một cách giản dị nhất: là nhân trời chưa sáng, bỏ
anh ngủ đấy để lại cho anh một hoàng lan nhặt ở ngoài vườn hay đem theo
sẵn trong mình... lẳng lặng ra về dễ lắm"[38-369; 370; 371;732]. Rồi cô trở về
ngôi chùa gần đó. Hôm nay cô không còn ở đó, theo lời bà cụ già ở chùa kể
lại thì hai, ba hôm trước người nhà đưa ô tô đến đón cô đi. Ở đoạn kết tác giả
đã khéo trộn lẫn mộng với thực mà tưởng ra một cô khuê các trước ở chùa và
mới đi khỏi chùa.
Kết thúc truyện mặc dù có vẻ Tuấn không tin các lý giải của Bình về sự
xuất hiện và ra đi kỳ lạ của cô gái nơi trại Bồ, nhưng cách lý giải đó là hoan
toàn hợp lý, có cơ sở và rất khoa học. Cách lý giải của Tuấn cũng chính là
cách lý giải của chính tác giả về sự xuất hiện và ra đi kỳ dị của cô gái. Tuy
nhiên đây chỉ là một giả thuyết, tác giả muốn để lại cái màn bí mật bao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
128
trùm cho có một chút thi vị huyền bí như nhận định của Phạm Thế Ngũ
trong bài. Văn xuôi Thế Lữ "có thể nói ở đây tác giả đã theo ý khuyến
khích của Khái Hưng mà cố gắng làm một cuộc tổng hợp Edgar Poe và Bồ
Tùng Linh, một truyện huyền mà thật, dung hợp óc khoa học với tâm hồn
thi nhân" [26-319]. Đoạn kết của tác phẩm này đã chứng tỏ rằng tác giả đã
có những băn khoăn của người thế kỷ XX, của những người đã chịu ảnh
hưởng rất sâu sắc của khoa học nhưng vẫn còn trong máu và trong não
những cái rất mơ mộng, rất nên thơ.
Qua phân tích, so sánh, tìm hiểu cách giải thích về cái kì dị của Thế Lữ
trong truyện kinh dị của ông, chúng tôi có thể khẳng định: Thế Lữ viết truyện
kinh dị nhưng cách giải thích của ông rất khoa học không thần bí hoang
đường. Mới nhìn, mới nghe, mới đọc nhưng cái tên như Vàng và Máu, Cái
đầu lâu, Hai lần chết,... tư tưởng đây là những chuyện hoang đường, ma quái
nhưng cuối cùng người đọc chẳng thấy có thần linh, ma quái nào cả mà chẳng
qua là do những mưu mô xảo kế của người đời hay do trí tưởng tượng bệnh
hoạn hoặc bị ám ảnh tạo nên. Tóm lại, các truyện có vẻ giật gân kia đều có
nguồn gốc xã hội, nguồn gốc tâm lý và được giải thích bằng tư duy logic và
phương pháp luận khoa học.
Mặt khác cách giải thích khoa học của Thế Lữ ở những truyện kinh dị
cũng là một kiểu luận đề. Ông đưa ra các tình tiết ly kỳ rồi giải quyết một
cách hợp lý khoa học theo quan điểm của mình. Bản thân các tác phẩm luận
đề thường rất gò bó, khô khan và công thức vì người viết phải dùng tác phẩm
để chứng minh cho một luận đề nhất định. Tuy nhiên, cách giải quyết của Thế
Lữ ở những truyện này không hề gò bó khô khan, công thức mà rất tự nhiên.
Đọc những truyện này người đọc như được thấy những gì đang diễn ra trong
cuộc sống chứ không phải là sự hư cấu của nhà văn. Thế Lữ phải là người có
tài, có tư duy logic chặt chẽ mới làm được điều này. Chính những tố chất đó
đã đem lại thành công cho ông ở thể loại độc đáo này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
129
Tóm lại: Truyện kinh dị của Thế Lữ tuy có chịu ảnh hưởng sâu sắc từ
truyện quái dị của Edgar Poe nhưng đã có sự sáng tạo rất lớn. Chính nhờ
những cách tân đáp ứng nhu cầu tiềm tàng của con người theo nguyện vọng
khoa học này mà những tác phẩm của Thế Lữ thời kỳ này đã được công
chúng đón nhận một cách dễ dàng và nhanh chóng. Vì vậy "truyện Thế Lữ
không phải tất cả đều hay, đều sâu sắc nhưng vẫn là của ông, rất khó lẫn
lộn" [44; 26].
Với một tư duy logic,một phương pháp suy luận khoa học Thế Lữ đã
sáng tác những truyện ly kỳ huyền bí có nguồn gốc xã hội nhân sinh. Truyện
Thế Lữ vì vậy mà khác hẳn với những truyện cùng sáng tác về đề tài này ở
thời điểm văn học những năm 30. Truyện Thế Lữ mang một giá trị nghệ thuật
nhất định và được người đương thời tìm đọc một cách thích thú. Đúng như lời
nhận định của Xuân Diệu "Những truyện ngắn của Thế Lữ thường biệt lập ra
một lối riêng, sáng tạo trong cái kỳ lạ, ít ai ngờ đến [26-176]. Thế Lữ thật
xứng đáng với đánh giá của Tế Hanh "một người có nhiều tài năng và sáng
tạo, ở nơi anh chất mở đường tiên phong thật là rõ ràng, trong thơ, trong
truyện, trong báo chí, trong sân khấu".
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
130
PHẦN KẾT LUẬN
1. Phong trào Thơ mới đã đi vào lịch sử văn học dân tộc như một mốc
son trong quá trình hiện đại hóa. Nó được phát động bởi một nhà nho cấp tiến
và lập tức được lớp người trẻ của thời đại đón nhận, nhân lên, cộng hưởng
thành âm vang của một thời đại Thơ mới. Trong số những người trẻ tuổi tiên
phong ấy, nổi bật là vai trò của Thế Lữ. Người cầm ngọn cờ vinh quang cho
Thơ mới, đưa Thơ mới nhanh chóng vượt qua những non nớt, chập chững của
buổi đầu để đạt tới độ viên mãn, tròn đầy với nhiều thi sĩ tài năng kế tiếp.
Trong cuộc tranh luận giữa Thơ mới - Thơ cũ, không phô trương diễn
thuyết suông. Thế Lữ đã khẳng định vai trò tiên phong của mình bằng những
sáng tác cụ thể, nổi bật nhất là Nhớ rừng là một đòn dứt điểm khẳng định sự
thắng thế của Thơ mới đối với Thơ cũ, đưa Thế Lữ trở nên nhà thơ tiêu biểu
nhất của Thơ mới buổi đầu, đánh dấu bước ngoặt thay đổi cơ bản diện mạo thi
ca nước nhà từ thời trung đại sang thời hiện đại.
Là một trong những thành viên chủ chốt, có tư tưởng và hành động
nghệ thuật tiến bộ vào bậc nhất trong nhóm Tự lực văn đoàn. Thế Lữ đã có
quan niệm nghệ thuật mới lạ mà trước đó chưa ai từng đề xuất. Cái đẹp là
hạt nhân của quan niệm ấy. Quan niệm nghệ thuật của Thế Lữ là ý thức tự
giác của chủ thể sáng tạo về nghệ thuật, bắt rễ, sàng lọc tích cực từ quan
niệm chung về văn hoá, văn học, nghệ thuật của tầng lớp trí thức tiểu tư
sản thành thị tiến bộ được đào tạo trong trường Pháp - Việt. Chịu ảnh
hưởng của phương Tây qua Pháp, nhuần thấm cách nghĩ, cách cảm của
người Việt và phương Đông trong bối cảnh 30 năm đầu thế kỷ XX, được
Âu Hoá một cách mạnh mẽ.
Với quan niệm nghệ thuật tiến bộ và những cách tân táo bạo về hình
thức và nội dung nghệ thuật: ý mới, lời mới, phong phú về hình ảnh, âm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
131
thanh, sắc màu, nhạc điệu "mới cả từ số câu, số chữ, cách bỏ vần". Thế Lữ là
người đầu tiên đặt cho Thơ mới một nền móng vững chắc, gây được niềm tin
mãnh liệt trong lòng khách yêu thơ, mở đường cho những sáng tạo của những
thế hệ cầm bút sau này.
2. Ngoài vị trí là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ mới buổi đầu, Thế Lữ
còn là một nhà thơ xây dựng được cho mình sự nghiệp văn xuôi nghệ thuật
nổi danh. Vượt qua ngưỡng năm 1932, văn xuôi Tự lực văn đoàn ghi dấu
bước chuyển đổi sâu sắc về chất so với trước đó. Truyện của Thế Lữ là một
đóng góp rất quan trọng để tạo nên bước chuyển đổi ấy. Thế Lữ là một trong
những nhà văn đầu tiên góp phần lớn hiện đại hoá truyện truyền kỳ, mở đầu
truyện kinh dị và cũng mở đầu truyện trinh thám ở Việt Nam, có những đóng
góp đáng kể với hai loại hình văn xuôi nghệ thuật này.
Với truyện trinh thám, Thế Lữ đã tỏ ra vô cùng tài hoa trong việc sử
dụng ngôn ngữ, tạo tình huống truyện giàu kịch tính, khắc hoạ được những
diễn biến tâm lý thầm kín trong đáy sâu tâm hồn của nhân vật khi phải đối
mặt với những điều bất thường kỳ dị. Cùng với trí tưởng tượng phong phú, lỗi
kể chuyện độc đáo, truyện trinh thám của Thế Lữ đã gây được ấn tượng sâu
sắc đối với người đọc.
Tuân thủ theo tôn chỉ của Tự lực văn đoàn "Đem phương pháp khoa
học Thái Tây ứng dụng vào văn chương An Nam". Thế Lữ đã cố tình tạo ra
một không khí rờn rợn, ly kỳ, chủ tâm đưa người đọc vào một thế giới đầy bí
ẩn trong truyện kinh dị rồi giải thích một cách rất khoa học không khiên
cưỡng, gò ép. Với thể loại truyện này Thế Lữ muốn phản ánh lại những
truyện dị đoan, thần bí mà dòng truyện truyền kỳ đã đề cập và những truyện
ma quái đường rừng mà nhiều nhà văn cùng thời đã nói đến.
Với truyện trinh thám và những truyện kinh dị, Thế Lữ đã đóng góp
đáng kể cho nền văn xuôi nghệ thuật nước nhà. Xứng đáng được coi là "người
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
132
mở đường, đi tiên phong", "tiểu thuyết gia có biệt tài". Càng khám phá, càng
tìm hiểu, chúng ta càng cảm thấy những điều lý thú và mới mẻ từ những
truyện này mang lại. Nó là điểm mời gọi của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình
văn học nói chung và bạn đọc yêu mến văn xuôi Thế Lữ nói riêng."
3. Là một nghệ sĩ đa tài, đến với Thơ mới khi chưa có nền và xây dựng
một số thể tài văn xuôi khi chưa có móng. Thế Lữ là một tác gia có những
đóng góp quan trọng mở đầu và cách tân trong tiến trình hiện đại hoá văn học
nghệ thuật giai đoạn 30 - 45 nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung.
Thế Lữ xứng đáng với giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật mà
nhà nước truy tặng. Bằng sáng tác văn chương nổi bật và bằng những hoạt
động văn hoá, văn học nghệ thuật xuất sắc khác đặc biệt là nghệ thuật biểu
diễn kịch nói. Nghệ sĩ nhân dân Thế Lữ có vị trí quan trọng trong tiến trình
văn học nghệ thuật hiện đại Việt Nam.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
133
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (1989), "Thế Lữ một trong những người thợ cả dựng nền móng
văn học, nghệ thuật Việt Nam hiện đại", Tạp chí Văn học, số 5 tháng 6.
2. Hoài Anh (2001), "Thế Lữ từ máu đúc nên vàng", Sách Chân dung văn
học (cùng tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
3. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm
định, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1993), "Cuộc cải cách của phong trào Thơ mới và tiến
trình thơ ca Tiếng Việt", Tạp chí Văn học, số 1.
5. Lại Nguyên Ân (2006), Thế Lữ về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
6. Phan Canh (1999), "Thế Lữ tất cả cho Thơ mới", Sách Thi ca Việt Nam
thời tiền chiến 1932 - 1945 (cùng tác giả), Nxb Đồng Nai.
7. Huy Cận - Hà Minh Đức (1993) (chủ biên), Nhìn lại một cuộc cách mạng
trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Hoài Chân (1997), "Một ngôi sao sáng của phong trào Thơ mới", Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, số 6.
9. Hoàng Minh Châu (1993), "Truyện trinh thám của một nhà thơ", Sách Bài
học tình yêu (cùng tác giả), Nxb Văn học, Hà Nội.
10. Nam Chi (1991), "Thế Lữ, cuộc đời và tác phẩm", Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội.
11. Nam Chi (1991), "Những đóng góp của Thế Lữ vào thơ mới", Sách Thế
Lữ, cuộc đời trong nghệ thuật (nhiều tác giả), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
12. Nguyễn Huệ Chi (2001), Truyện truyền kì Việt Nam, quyển 3 (tập V, tập
VI), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Nguyễn Văn Dân (2002), "Huyễn tưởng văn học và truyện kinh dị", Tạp
chí Văn nghệ Quân đội, Số 4.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
134
14. Nguyễn Dữ - Truyền kỳ mạn lục (Trúc Khê, Ngô Văn Triện dịch), Nxb
Văn học Hà Nội.
15. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Hà Minh Đức (2001), Văn chương tài năng và phong cách, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
17. Hà Minh Đức (2002), Một thời đại trong thi ca, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
18. Phan Cự Đệ (2000), Văn học lãng mạn Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Phan Cự Đệ (2000), "Cơ sở tư tưởng và phương pháp luận để đánh giá
phong trào Thơ mới và văn học lãng mạn 1932 - 1945", Sách Tuyển tập
Phan Cự Đệ, Nxb Văn học Việt Nam.
20. Lê Bá Hán (Chủ biên), Lê Quang Hưng, Chu Văn Sơn (2001), Tinh hoa
Thơ mới, thẩm định và suy ngẫm, Nxb Giáo dục Hà Nội.
21. Khái Hưng (1934), "Vàng và Máu của Thế Lữ", Lời tựa cuốn Vàng và
Máu, Nxb Đời nay, Hà Nội.
22. Nguyễn Hoành Khung (1983), "Mấy vần thơ", Sách Từ điển văn học
(nhiều tác giả), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Nguyễn Hoành Khung (1994), "Một mùa thơ nở rộ", Sách Thơ Việt Nam
(1930 - 1945), Nxb Văn học Hà Nội.
24. Lê Đình Kỵ (1993), Thơ mới những bước thăng trầm, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh.
25. Lê Đình Kỵ, Lê Huy Nguyên (1995), Tuyển tập Thế Lữ (Sưu tầm và
tuyển chọn), Nxb Văn học Hà Nội.
26. Huỳnh Thị Hoa Kỳ (1996), "Tiểu thuyết trinh thám", Tạp chí Kiến thức
ngày nay, số 203.
27. Lê Tràng Kiều (1936), "Thơ mới Thế Lữ", Hà Nội báo, số 24 ngày 17/6.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
135
28. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục
Hà Nội.
29. Bồ Tùng Linh (Thế kỷ XVII) (1999), Liêu trai chí dị, Nxb Văn học Hà Nội.
30. Thế Lữ truyện chọn lọc (1987), Nxb Văn hoá, Hà Nội.
31. Nguyễn Tấn Long (1968), "Thế Lữ", Sách Việt Nam thi ca tiền chiến, Nxb
Sống mới, Sài Gòn.
32. Phạm Vĩnh Lộc (1974), "Đi tìm thân thế và tác phẩm của Thế Lữ", Tạp chí
Văn học Sài Gòn, tháng 10.
33. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), "Kế thừa truyền thống dân tộc trong đổi mới thơ
ca qua kinh nghiệm phong trào Thơ mới", Tạp chí Văn học, số 11.
34. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), "Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX", Tạp chí Văn học, số 5.
35. Anh Ngọc (1999), "Các thuở ban đầu lưu luyến ấy", Báo Văn học, số 34 ngày
21 tháng 8.
36. Phạm Thế Ngũ (1965), "Thế Lữ", Sách Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên, tập 3, Nxb Sài Gòn.
37. Phạm Thế Ngũ, Văn xuôi Thế Lữ in trong Việt Nam văn học sứ giản ước
(tập 3), Văn học Việt Nam hiện đại (1982 - 1945), Nxb Đồng Tháp.
38. Nhiều tác giả (1998), Thơ mới (1932 - 1945), tác giả và tác phẩm, Nxb Hội
nhà văn, Hà Nội.
39. Nhiều tác giả (2000), Thế lữ, Cây đàn muôn điệu, Nxb Văn hóa thông tin,
Hà Nội.
40. Poe.E.A (Thế kỷ XIX), Truyện kinh dị, Nxb Lao động, Hà Nội, 1989.
41. Vũ Ngọc Phan (1942), "Thế Lữ", Sách nhà văn hiện đại tập 2, Nxb Văn học
Hà Nội, 1994.
42. Nguyễn Nhược Pháp (1997), "Mấy vần thơ", Sách Tuyển tập phê bình văn
học Việt Nam (1900 - 1945), tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
136
43. Vũ Văn Sĩ (2003), Vấn đề cảm xúc của Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 5.
44. Trần Đình Sử (1993), "Thơ mới và sự đổi mới thi pháp thơ trữ tình Việt Nam",
Sách Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca (Huy Cận - Hà Minh Đức
chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45. Vũ Văn Sĩ (2003), Vấn đề cảm xúc của Thơ mới, Tạp chí Văn học, số 5.
46. Hoài Thanh - Hoài Chân (1942), Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn học.
47. Vũ Thanh (1994), "Những biến đổi của yếu tố kỳ và thực trạng truyện
truyền kỳ Việt Nam", Tạp chí Văn học, số 6.
48. Vũ Thanh (2001), "Dư ba của truyện truyền kì, chí dị trong văn học Việt
Nam hiện đại", Sách những vấn đề lý luận và lịch sử văn học (Hà Minh
Đức chủ biên), Nxb Khoa học xã hội.
49. Phan Trọng Thưởng (1997), Thế Lữ, nghệ sĩ hai lần tiên phong, Tạp chí
Văn học, số 7.
50. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả, tác phẩm, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
51. Nguyễn Đình Thi (1987), Mừng anh Thế Lữ 80 tuổi, Báo Văn nghệ số gộp
24, 25 ngày 10/6.
52. Nguyễn Đình Thi (1997), "Nhớ anh Thế Lữ", Báo Quân đội nhân dân,
ngày 14/6.
53. Đỗ Lai Thuý (1992), "Thế Lữ, người bộ hành phiêu lãng", Sách Con mắt
(cùng tác giả), Nxb Lao động, Hà Nội.
54. Nguyễn Vỹ (1994), "Thế Lữ", Sách Văn sĩ tiền chiến (cùng tác giả), Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
55. Trần Vương (1962), Một giờ với Thế Lữ, Báo Văn học, số 19.
56. Hoài Việt, Thế Lữ như tôi biết
57. Lê Huy Oanh (1974), Nghệ thuật kể chuyện của Thế Lữ trong "Vàng và
Máu", Tạp chí Văn học, (SG tháng 10).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_NTVA.pdf