Đối với Việt Nam hiện nay vấn đề lao động việc làm đang rất khó khăn cần thiết phải được giải quyết bằng các chính sách có tầm vĩ mô của Nhà nước. Thực tế cho thấy thị trường sức lao động nước ta là một thị trường tiềm năng, có nhiều thế mạnh nhưng vì việc thực hiện các giải pháp còn nhiều hạn chế nên thị trường chưa có sự bình ổn và phát triển đúng hướng.
Thời gian gần đây mọi cấp, mọi ngành đã có sự cố gắng đáng kể trong việc điều tiết thị trường. Như hạn chế các chợ lao động ngoài quy hoạch, tổ chức nhiều hơn các hội chợ việc làm, cải cách hệ thống giáo dục đào tạo, đẩy mạnh xuất khẩu lao động Nhưng do nhiều nguyên nhân nên tình hình sức lao động Việt Nam vẫn chưa có những đột phá mang tính chiến lược. Việc điều hành loại thị trường này không phải chỉ là nhiệm vụ của một cấp, một ngành mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của mọi người, mọi nhà và mọi tầng lớp nhân dân. Những kết quả mà các chính sách mang lại cũng không thể thu được ngay sau khi chính sách được thực hiện, đó phải là một quá trình chuyển đổi lâu dài và khó khăn. Cùng với sự phát triển của hệ thống giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân chắc chắn trong thời gian tới thị trường sức lao động Việt Nam sẽ có những biến chuyển tích cực hơn.
87 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1816 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thị trường sức lao động Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặt ra những yêu cầu mới cho sản xuất, tạo mọi việc làm. Chính vì sự tồn tại các cực là cần thiết nên để tạo cơ hội việc làm chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp đối với cả các cực và các vùng không thuộc cực đang tăng trưởng.
Cụ thể hơn, đối với các cực: hiện đang tồn tại sự chênh lệch thu nhập giữa bộ phận dân cư vốn sống định cư ở đó và di dân từ nơi khác đến. Nhà nước nên phân luồng thu nhập để có những chính sách hỗ trợ tích cực cho thành phần di dân mới. Một vài chính sách có thể không thể thực hiện đồng loạt với tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội cũng chính vì sự chênh lệch trong mức sống của họ là rất lớn. Các công trình phúc lợi xã hội mang tính chất cộng đồng nên được đầu tư xây dựng từ các khoản cho vay dưới hình thức công trái, tiết kiệm của nhân dân. Để phù hợp với một cơ chế kinh tế linh hoạt thì không nên sử dụng tất cả nguồn đầu tư của nhà nước mà phải kết hợp với nguồn đầu tư của các bên có liên quan trong nền kinh tế mà đặc biệt là tư nhân và các đối tác nước ngoài. Còn những vùng không thuộc cực tăng trưởng thì sao? Những vùng này đa phần đều lấy kinh tế nông nghiệp làm trọng tâm và nhờ đó mà giữ được sự cân bằng trong nền kinh tế đặc trưng riêng của mỗi vùng.
Xuất phát từ chính đặc điểm sản xuất nông nghiệp nên quyền sử dụng đất cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều hoà thị trường sức lao động hiện có của vùng. Thực trạng hiện nay sau khi chuyển quyền sử dụng đất người nông dân rơi vào tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng. Một bộ phận trong số lao động rơi dư đó chuyển sang hoạt động trong khu vực phi nông nghiệp, sản xuất thủ công, các nghề truyền thống. Bộ phận còn lại di chuyển vào các khu vực kinh tế khác cũng như tiến hành di dân đến các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Tuy nhiên quá trình này cũng mang lại nhiều kết quả tích cực. Nhờ vào số tiền được đền bù mà một số gia đình ở nông thôn có thể đầu tư cho con cái họ học tập, giáo dục dạy nghề và mở thêm một số dịch vụ nhỏ.
Theo số liệu thống kê nhận thấy khoảng 11 tháng sau khi chuyển quyền sử dụng đất thì người lao động bắt đầu tìm được một việc làm mới, ổn định cuộc sống, bắt đầu tham gia vào quá trình trao đổi mới trên thị trường sức lao động.Xu hướng trong tương lai khi cơ cấu kinh tế thay đổi tỷ trọng nông nghiệp so với công nghiệp được giữ ở mức cân bằng. Điều đó có nghĩa là chuyển giao quyền sử dụng đất là một chính sách tích cực nếu xét ở tàm vĩ mô, mang tính chiến lược lâu dài cần được thúc đẩy. Nhưng để không gây nên sự xốa trộn xã hội thì trong thời gian tới chuyển giao quyền sử dụg đất phải có một khoảng thời gian để người lao động sắp xếp và tìm kiếm một cơ hội việc làm mới. Những kế hoạch của nhà nước phải được chuẩn bị công phu và phải có thông tin đày đủ nhất đối với người lao động. Dù sau chuyển giao ngưòi lao động được đền bù một khoản tiền không nhỏ nhưng đó chưa thực sự lag cái họ càn để ổn định cuộc sống. Nhà nướgc nên có những dự án phát triển kinh tế nông thôn như xây dựng một số công trình mang tính chất cộng đồg và khả năng kinh tế. Cũng như tạo điều kiện hỗ trợ vốn cho các hộ gia đình thiết lập những mối quan hệ sản xuất mới và một số công xưởng sản xuất với quy mô nhỏ.
Vậy mô hình tăng trưởng kinh tế mà chúng ta có thể lựa chọn là gì ?
Nền kinh tế nước ta vốn bắt đầu từ một nền sản xuất hàng hoá với quy mô nhỏ với những nghành nghề truyền thống đầy tiềm năng. Nhưng hiện nay dưới tác động của cơ chế thị trường nhiều ngành truyền thống đã bị xem nhẹ , hao mòn dần thậm chí mất hẳn . Những nghệ nhân không còn nhiều cũng như những người lao động trẻ trong lĩnh vực này là rất ít. Mỗi địa phương có một đặc thù riêng, đặc thù đó thường gắn với những ngành nghề truyền thống nhất định. Nước ta cũng vậy , Việt Nam khác với những nước khác ở chỗ chúng ta có những sản phẩm đặc biệt được tạo ra từ bàn tay khéo léo của người lao động . Tại sao chúng ta không phát huy tiềm năng , thế manh của mình ? Cần phải nói thêm rằng lực lượng lao động phải rất lớn mới có thể đảm bảo cho sản xuất những ngành nghề truyền thống đó. Nhà nước có thể đầu tư hơn để khôi phục và phát triển khu vực sản xuất này Từ đó chắc chắn sẽ tạo hơn được nhiều việc làm hơn nữa, tạo điều kiện cho sự chuyển dicvhj cơ cấu lao động trên thị trường sức lao động ngày nay. Những chính sách đặc thù có thể áp dụng được để khuyến khích khu vực này phát triển như nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng bằng cách thốa gỡ dần các hàng rào thuế quan , giản thuế đối với những cá nhân tham gai đầu tư phát triển rộng ngành nghề , có những chính sách đào tạo nghề và chính sách điều tiết thị trường sức lao động.
Bên cạnh phát triển khu vực truyền thống Việt Nam còn phải chú trọng phát triển một nền sản xuất hiện đại dựa vào những tiềm năng về dầu mỏ , khoáng chất và các tài nguyên rừng, tài nguyên thuỷ hải sản khác.
Bằng cách kết hợp giữa sản xuất truyền thống và sản xuất hiện đại chúng ta sẽ kiến tạo được một môi trường kinh tế bền vững , linh hoạt. Nhờ vậy mà nâng cao được khả năng điều tiết , di chuyển cơ cấu lao động trong tổng thể chung của nền kinh tế . Thực hiện được điều đó thì tăng trưởng kinh tế sẽ gắn với tưng trưởng việc làm góp phần giải quyết được vấn đề lao động đang cấp bách.
b) Các giải pháp phát triển kinh tế nhiều thành phần
Phát triển kinh tế nhiều thành phần là một yêu cầu khách quan để phù hợp với một cơ chế thị trường đang trong tiến trình mở cửa và hội nhập. Các thành phần kinh tế tư nhân cần được khuyến khích phát triển vì nó đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết thị trường. Giá cả sức lao động trong khu vực kinh tế này cũng có nhiều biến động đáng quan tâm và nó luôn có những biến động của nó rát khó lường. Không nên duy trì những quan niệm lỗi thời đối với khu vực phi chính quy. Nhà nước phai đưa ra những chính sách để cải thiện các mối quan hệ xã hội giữa các khu vực và thốa gỡ những rào cản đối với sự phát triển tự do theo định hướng của kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế này nếuđược hỗ trự hoạt động và có sự phối hợp của kinh tế nhà nước thì sẽ tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa các khu vực kinh tế tạo cơ hội việc làm cho người laođộng.
Kinh nghiệm các nước cho thấy việc áp dụng các chương trình trợ giúp cho những người lao động tự tạo công ăn việc làm cho mình hoặc tự thành lập các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ luôn mang lại những tiện ích căn bản . Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa hội nhập , xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần , đa dạng hoá các phương pháp sản xuất kinh doanhcó thể học tập kinh nghiệm của những nứơc đã đi trước để áp dụng vào thực tế khách quan trong nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cũng là một kiếu mở rộng hình thức sở hữu vì vậy cần tỉnh tốa để giữ vững định hướng phát triển kinh tế ổn định chế độ xã hội. Khi tiến hành những giải pháp phải thận trọng tránh những thành phần cơ hội , lợi dụng kinh tế tư nhân với ý đồ nhen nhóm tư tưởng tư bản hốa vào nội bộ quần chúng. Để người lao động có điều kiện tự lập doanh nghiệp và đứng ra quản lý mọi quá trình sản xuất kinh doanh cần thiết phải có những chính sách hỗ trợ của nhà nước mở rộng và nới lỏng các quy định về thành lập doanh nghiệp.
Nhà nước là cơ quan quản lý cao nhất đối với mọi hoạt động của đời sống chính trị xã hội. Bởi vậy những can thiệp của nhà nước sẽ góp phần đáng kể vào quá trình điều tiết thị trường . Ví dụ xú tiến thành lập các trung tâm hỗ trợ kinh doanh để thực hiện các hoạt động đào tạo , tư vấn , truyền đạt kinh nghiệm , đảm bảo và cập nhật thông tin. Hoặc tạo dựng một môi trường kinh doanh có cơ chế cạnh tranh thực sự hoàn hảo trong đó những ưu đãi đối với các khu vực , các thành phần kinh tế được giữ ở mức cân bằng. Những ách tắc trong thủ tục , pháp lý gây nên những khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên được hạn chế và dần huỷ bỏ . Việc đảm bảo thực hiện đúng , đủ các nội dung cơ bản của luật doanh nghiệp sẽ là những bước đi thiết thực nhất thúc đẩy phát triển nhanh , mạnh khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Tiến hành cải cách các doanh nghiệp nhà nước để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm phát triển và thu hút việc làm.
Đứng trước những thực tế như vậy buộc chung ta phải có những cách nhìn đúng đắn hơn về tình hình lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 Đảng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế quốc doanh, khu vực này vẫn là then chốt, quyết định giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Tương lai sẽ hình thành mối quan hệ biện chứng giữa các khu vực kinh tế cơ bản . Nếu chiến lược việc làm dựa vào sự phát triển của khu vực tư nhân thì tăng trưởng kinh tế phải dựa vào nhà nước. Hai khu vực kinh tế này không tồn tại mâu thuẫn. Để giải quyết tốt mối quan hệ này phải thực hiện một số giải pháp như sau :
*Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước , giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Một biện pháp để kích thích khả năng hoạt động của người lao động rất hiệu quả đã được thực hiện đó là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ nguồn vốn 100 % thuộc về nhà nước sau cổ phần người lao động đã có sự đóng góp đáng kể vào vốn hoạt động với khoảng 40-50 % tổng số vốn. Vai trò chủ thể của người lao động được khẳng định, họ ý thức hơn về vai trò của mình trong tổng thể cơ cấu nói chung. Mỗi công nhân trở thành một mắt xích trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp , giảm dần các bảo hộ và ưu đãi đối với khu vực này để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. Các chính sách về tuyển dụng , biên chế , tiền lương phải cụ thể hơn tạo điều kiện tự chủ cho người sử dụng lao động có điều kiện sử dụng những lao động tốt nhất. Chế độ khoán sản phẩm đến nay vẫn được duy trì nhưng nên đặt ra những điểm khoán đúng với khả năng hiện có của doanh nghiệp. Có thể tăng mức khoán để kích thích doanh nghiệp sản xúat kinh doanh.
* Giảm biên chế trong các doanh nghiệp nhà nước , mở rộng quy mô sản xuất, di chuyển một bộ phận lao động dôi dư sang các khu vực kinh tế khác. Bên cạnh đó cũng nên có những chế độ khen thưởng đối với người lao động giỏi, lao động có tay nghề cao. Thực hiện những chế độ ưu đãi đặc biệt đối với những người lao động này sẽ chống lại hiện tượng chảy máu chất xám giữa các khu vực kinh tế.
c) Phát triển kinh tế phi nông nghiệp và chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp nông thôn
Công nghiệp hoá đất nước không thể thành công nếu không tạo được sự chuyển đổi mạnh trong khu vực nông nghiệp nông thôn. Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn mới không chỉ đơn thuần là tạo việc làm mà phải gắn giải quyết việc làm với chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Muốn vậy phải có những quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp và các giải pháp đồng bộ để tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực. Tuy nhiên giải quyết vấn đề này phải đảm bảo được tính ổn định , thường xuyên, hiệu quả và chất lượng việc làm.
Lao động nông thôn có thể tìm thấy cơ hội việc làm tại đia phương mình và phát triển khả năng một cách phù hợp. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động phải tuân theo phương châm : “ly nông bất ly hương ”. Nghĩa là người lao động di chuyển sang khu vực kinh tế mới với những với những hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như : tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chứ không phải là di chuyển từ vùng này sang vùng khác, từ nông thôn ra thành thị. Trong chiến lược páht triển kinh tế cơ cấu lao động trong nông nghiệp sẽ giảm từ 62 % đến 50 % vào năm 2010. Để thực hiện điều này cần thực hiện một số giải pháp sau :
Bổ sung và tăng cường mức độ đầu tư của nhà nước để nhanh chóng thiết lập quan hệ sản xuất mới. Nhà nước sớm có những hỗ trợ cho việc xây dựng các khu trang trại bằng nguồn ngân sách và các phương tiện sản xúat tiên tiến. Việc quay trở lại mô hình HTX nông nghiệp sẽ thu hút được nhiều lao động nông nghiệp nhưng phải tránh những sai lầm như mô hình HTX mà chúng ta đã xây dựng trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung.Người lao động phải có tính tự chủ, sáng tạo và độc lập trong mô hình lao động tập thể.Trong cơ chế thị trường hiện nay thiết nghĩ các HTX cổ phần nên được mở rộng hơn về quy mô cũng như chất lượng.Việc chuyên môn hoá trong từng bộ phạn của quá trình sản xuất sẽ tiết kiệm được chi phí và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Vậy thu nhập sẽ được phân phối như thế nào ? Vì đây cũng là một dạng của các doanh nghiệp cổ phần nên phân phối thu nhập của nó cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản như : mức độ đóng góp, số lượng cổ phiếu và kết quả thực hiện những công việc đảm nhân. Tuy nhiên do những đặc thù riêng có của sản xuất nông nghiệp nên phân phối thu nhập cũng có những sự linh hoạt cần thiết và nhất là phải có nững biện pháp kiểm tra , giám sát , đánh giá kết quả công việc của mỗi cá nhân.
Đẩy mạnh công nghiệp hốa nông thôn
Trước hết phải tập trung xây dựng một số cơ sở hạ tầng nông nghiệp và giao thông nông thôn. Về cơ bản thì các quan hệ sản xuất được thiết lậptừ chính lực lượng, tư liệu sản xuất và các kết cấu vật chất cần thiết. Như vậy để hiện đại hốa nông thôn thì phải có một hệ thống các công
trình thuỷ lợi, đường giao thông cũng như các công trình phúc lợi xã hôi khác. Với hình thức tín dụng nông thôn Nhà nước đã huy động được một nguồn vốn khá lớn và tái đầu tư nó vào hoạt động phát triển khu vực kinh tế nông thôn kèm theo những mức lãi suất phù hợp với khả năng tín dụng của người lao động.
Công nghiệp hốa nông thôn còn kéo theo việc thiết lập một số cơ sở sản xuất, khu chế suất hiện đại dựa trên những tiềm lực vốn có của địa phương. Hoạt động này thưc sự khó khăn nhưng khi tất cả đã đi vào một guồng máy với chu kỳ đặc trưng thì hàng năm nó sẽ tạo ra rất nhiều việc làm thu hút nhiều lao động.
Nông thôn Việt Nam hôm nay đã có nhiều biến chuyển tích cực. Quá trình đô thị hoá nông thôn diễn ra với tốc độ khá nhanh. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng mức độ linh hoạt của thi trường sức lao động ở nông thôn nói riêng và thị trường sức lao động cả nước nói chung.
Bên cạnh những giải pháp đã nêu trên chúng ta có thể phát triển và khôi phục các nghành nghề truyền thống của nông thôn như đã phân tích.
1.2. Đối với cầu lao động
Việt Nam là một nước đang phát triển . Việc làm là một thách thức rât lớn. Một phần nguyên nhân là do gia tăng dân số ngày càng cao nhưng nhu cầu sử dụng lao động còn rất hạn chế. ở nhiều khu vực kinh tế đòi hỏi lao động chất lượng cao thì lao động phục vụ trong khu vực đó lại không đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động. Bên cạnh đó cũng có những khu vực kinh tế lao động dư thừa , số lượng lao động dôi dư luôn ở mức độ cao. Hàng năm cần có chỗ làm việc cho khoảng trên 43 triệu người , bình quân mỗi năm tăng từ 900-1100 việc làm hay 2,2%/năm. Một thách thức không nhỏ đặt ra đối với cầu lao động còn ở chỗ việc tái phân bố lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ còn tồn tại nhiều khó khăn. Trong khi khu vực nông nghiệp cần rút tuyệt đối khoảng 17000 lao động/ năm và cần phải tạo việc làm mới cho 9 triệu lao động hiện tại đang thiếu việc làm thì khu vực công nghiệp cần thu hút thêm 463 000 việc làm / năm ; con số tương ứng sẽ là 507 000 việc làm / năm đối với khu vực dịch vụ . Tuy nhiên để tạo ra việc làm không phải chỉ hoàn toàn dựa vào tăng trưởng kinh tế . Một khi nền sản xuất ngày càng được hiện đại hoá với những công nghệ sản xuất tiên tiến thì sẽ có một bộ phận rất lớn lao động dôi dư. Lao động này thường sẽ được thay thế bằng một loạt công nghệ và các thiết bị máy móc và như vậy họ sẽ trở thành lực lượng lao động thất nghiệp chủ yếu trong một nền kinh tế hiện đại.
Các nhà kinh tế dự báo trong tương lai các doanh nghiệp thường gắn kết với 4 yếu tố liên quan đến việc sử dụng lao động. Trong đó yếu tố có xu hướng gia tăng mạnh nhất là cắt giảm lao động và sử dụng ít nhân công. Nhờ sử dụng một lực lượng linh hoạt gồm những người làm việc theo hợp đồng , làm việc theo giờ và có khả năng chuyên môn hoá cao; thêm vào đó là một đội ngũ các nhà thầu phụ nhận làm một số phần công việc và các doanh nghiệp chỉ cần hoàn thiện khâu cuối cùng để sản phẩm mang thương hiệu của họ. Vì vậy quy mô lao động không cần thiết phải được duy trì quá lớn . Để đáp ứng nhu của một nền sản xuất với quy mô lớn các doanh nghiệp đã liên tục tái cơ cấu, cắt giảm lao động và đổi mới nhằm duy trì năng lực cạnh tranh. Cũng chính do áp lực của nền kinh tế nên xu hướng chung là các doanh nghiệp sẽ liên tục sa thải lao động, thay thế những lao động đắt tiền bằng lao động có chi phí rẻ hơn. Như vậy có một số giải pháp được đưa ra để điều hoà mức cầu lao động như sau:
a) Lựa chọn mô hình và đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế
Cho đến nay mô hình phát triển kinh tế vẫn chưa tạo ra sự cân bằng giữa các mục tiêu kinh tế xã hội và mục tiêu phát triển kinh tế do công nghiệp hoá vẫn ưu tiên cho khu vực 1. ở nước ta vẫn đang tồn tại một số cực tăng trưởng tiêu biểu đó là : Hà Nội , Hải Phòng, Đà Nẵng, T.P Hồ Chí Minh. Những thành phố này có nền kinh tế khá phát triển trong đó công nghiệp và kinh tế dịch vụ giữ vai trò chủ đạo. Việc tập trung phát triển các cực tăng trưởng là cần thiết vì chúng ta cần thiết lập một vài điểm nhấn trong cơ chế thị trường mở cửa và hội nhập. Nhưng song song với nó lại là giảm khả năng tạo việc làm . Nếu trong tổng thể 64 tỉnh thành chỉ có 4 cực tăng trưởng chủ yếu thì sức ép về việc làm sẽ rất lớn ở chính các tỉnh này.
Không những thất nghiệp xảy ra trong chính nội bộ các tầng lớp dân cư tại các thành phố lớn mà một phần không nhỏ còn là bộ phận di dân từ nơi khác đến nhằm tìm kiếm cơ hội việc làm. Việc tăng trưởng không đồng đều giữa các vùng , các khu vực sẽ tạo sự chênh lệch về kinh tế , thu nhập . Khi điều hoà được mối quan hệ này thì sự chênh lệch sẽ được giảm thiểu, đời sống vật chất của mọi tầng lớp nhân dân được cải thiện nâng cao. Từ đó sẽ đặt ra những yêu cầu mới cho sản xuất, tạo mọi việc làm. Chính vì sự tồn tại các cực là cần thiết nên để tạo cơ hội việc làm chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp đối với cả các cực và các vùng không thuộc cực đang tăng trưởng.
Cụ thể hơn, đối với các cực: hiện đang tồn tại sự chênh lệch thu nhập giữa bộ phận dân cư vốn sống định cư ở đó và di dân từ nơi khác đến. Nhà nước nên phân luồng thu nhập để có những chính sách hỗ trợ tích cực cho thành phần di dân mới. Một vài chính sách có thể không thể thực hiện đồng loạt với tất cả các tầng lớp dân cư trong xã hội cũng chính vì sự chênh lệch trong mức sống của họ là rất lớn. Các công trình phúc lợi xã hội mang tính chất cộng đồng nên được đầu tư xây dựng từ các khoản cho vay dưới hình thức công trái, tiết kiệm của nhân dân. Để phù hợp với một cơ chế kinh tế linh hoạt thì không nên sử dụng tất cả nguồn đầu tư của nhà nước mà phải kết hợp với nguồn đầu tư của các bên có liên quan trong nền kinh tế mà đặc biệt là tư nhân và các đối tác nước ngoài.
Còn những vùng không thuộc cực tăng trưởng thì sao? Những vùng này đa phần đều lấy kinh tế nông nghiệp làm trọng tâm và nhờ đó mà giữ được sự cân bằng trong nền kinh tế đặc trưng riêng của mỗi vùng.
Xuất phát từ chính đặc điểm sản xuất nông nghiệp nên quyền sử dụng đất cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình điều hoà thị trường sức lao động hiện có của vùng. Thực trạng hiện nay sau khi chuyển quyền sử dụng đất người nông dân rơi vào tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng. Một bộ phận trong số lao động rơi dư đó chuyển sang hoạt động trong khu vực phi nông nghiệp, sản xuất thủ công, các nghề truyền thống. Bộ phận còn lại di chuyển vào các khu vực kinh tế khác cũng như tiến hành di dân đến các thành phố lớn, các khu công nghiệp. Tuy nhiên quá trình này cũng mang lại nhiều kết quả tích cực. Nhờ vào số tiền được đền bù mà một số gia đình ở nông thôn có thể đầu tư cho con cái họ học tập, giáo dục dạy nghề và mở thêm một số dịch vụ nhỏ.
Theo số liệu thống kê nhận thấy khoảng 11 tháng sau khi chuyển quyền sử dụng đất thì người lao động bắt đầu tìm được một việc làm mới, ổn định cuộc sống, bắt đầu tham gia vào quá trình trao đổi mới trên thị trường sức lao động.Xu hướng trong tương lai khi cơ cấu kinh tế thay đổi tỷ trọng nông nghiệp so với công nghiệp được giữ ở mức cân bằng. Điều đó có nghĩa là chuyển giao quyền sử dụng đất là một chính sách tích cực nếu xét ở tàm vĩ mô, mang tính chiến lược lâu dài cần được thúc đẩy. Nhưng để không gây nên sự xốa trộn xã hội thì trong thời gian tới chuyển giao quyền sử dụg đất phải có một khoảng thời gian để người lao động sắp xếp và tìm kiếm một cơ hội việc làm mới. Những kế hoạch của nhà nước phải được chuẩn bị công phu và phải có thông tin đày đủ nhất đối với người lao động. Dù sau chuyển giao ngưòi lao động được đền bù một khoản tiền không nhỏ nhưng đó chưa thực sự lag cái họ càn để ổn định cuộc sống. Nhà nước nên có những dự án phát triển kinh tế nông thôn như xây dựng một số công trình mang tính chất cộng đồng và khả năng kinh tế. Cũng như tạo điều kiện hỗ trợ vốn cho các hộ gia đình thiết lập những mối quan hệ sản xuất mới và một số công xưởng sản xuất với quy mô nhỏ.
Vậy mô hình tăng trưởng kinh tế mà chúng ta có thể lựa chọn là gì ?
Nền kinh tế nước ta vốn bắt đầu từ một nền sản xuất hàng hoá với quy mô nhỏ với những nghành nghề truyền thống đầy tiềm năng. Nhưng hiện nay dưới tác động của cơ chế thị trường nhiều ngành truyền thống đã bị xem nhẹ , hao mòn dần thậm chí mất hẳn . Những nghệ nhân không còn nhiều cũng như những người lao động trẻ trong lĩnh vực này là rất ít. Mỗi địa phương có một đặc thù riêng, đặc thù đó thường gắn với những ngành nghề truyền thống nhất định. Nước ta cũng vậy , Việt Nam khác với những nước khác ở chỗ chúng ta có những sản phẩm đặc biệt được tạo ra từ bàn tay khéo léo của người lao động . Tại sao chúng ta không phát huy tiềm năng , thế manh của mình ? Cần phải nói thêm rằng lực lượng lao động phải rất lớn mới có thể đảm bảo cho sản xuất những ngành nghề truyền thống đó. Nhà nước có thể đầu tư hơn để khôi phục và phát triển khu vực sản xuất này Từ đó chắc chắn sẽ tạo hơn được nhiều việc làm hơn nữa, tạo điều kiện cho sự chuyển dicvhj cơ cấu lao động trên thị trường sức lao động ngày nay. Những chính sách đặc thù có thể áp dụng được để khuyến khích khu vực này phát triển như nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng bằng cách thốa gỡ dần các hàng rào thuế quan , giản thuế đối với những cá nhân tham gai đầu tư phát triển rộng ngành nghề , có những chính sách đào tạo nghề và chính sách điều tiết thị trường sức lao động.
Bên cạnh phát triển khu vực truyền thống Việt Nam còn phải chú trọng phát triển một nền sản xuất hiện đại dựa vào những tiềm năng về dầu mỏ , khoáng chất và các tài nguyên rừng, tài nguyên thuỷ hải sản khác.
Bằng cách kết hợp giữa sản xuất truyền thống và sản xuất hiện đại chúng ta sẽ kiến tạo được một môi trường kinh tế bền vững , linh hoạt. Nhờ vậy mà nâng cao được khả năng điều tiết , di chuyển cơ cấu lao động trong tổng thể chung của nền kinh tế . Thực hiện được điều đó thì tăng trưởng kinh tế sẽ gắn với tăng trưởng việc làm góp phần giải quyết được vấn đề lao động đang cấp bách.
b) Các giải pháp phát triển kinh tế nhiều thành phần
Phát triển kinh tế nhiều thành phần là một yêu cầu khách quan để phù hợp với một cơ chế thị trường đang trong tiến trình mở cửa và hội nhập. Các thành phần kinh tế tư nhân cần được khuyến khích phát triển vì nó đóng một vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết thị trường. Giá cả sức lao động trong khu vực kinh tế này cũng có nhiều biến động đáng quan tâm và nó luôn có những biến động của nó rát khó lường. Không nên duy trì những quan niệm lỗi thời đối với khu vực phi chính quy. Nhà nước phai đưa ra những chính sách để cải thiện các mối quan hệ xã hội giữa các khu vực và thốa gỡ những rào cản đối với sự phát triển tự do theo định hướng của kinh tế tư nhân. Thành phần kinh tế này nếuđược hỗ trợ hoạt động và có sự phối hợp của kinh tế nhà nước thì sẽ tạo ra mối quan hệ hài hoà giữa các khu vực kinh tế tạo cơ hội việc làm cho người laođộng.
Kinh nghiệm các nước cho thấy việc áp dụng các chương trình trợ giúp cho những người lao động tự tạo công ăn việc làm cho mình hoặc tự thành lập các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ luôn mang lại những tiện ích căn bản . Việt Nam đứng trước ngưỡng cửa hội nhập , xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần , đa dạng hoá các phương pháp sản xuất kinh doanhcó thể học tập kinh nghiệm của những nứơc đã đi trước để áp dụng vào thực tế khách quan trong nước. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cũng là một kiếu mở rộng hình thức sở hữu vì vậy cần tỉnh tốa để giữ vững định hướng phát triển kinh tế ổn định chế độ xã hội. Khi tiến hành những giải pháp phải thận trọng tránh những thành phần cơ hội , lợi dụng kinh tế tư nhân với ý đồ nhen nhóm tư tưởng tư bản hoá vào nội bộ quần chúng. Để người lao động có điều kiện tự lập doanh nghiệp và đứng ra quản lý mọi quá trình sản xuất kinh doanh cần thiết phải có những chính sách hỗ trợ của nhà nước mở rộng và nới lỏng các quy định về thành lập doanh nghiệp.
Nhà nước là cơ quan quản lý cao nhất đối với mọi hoạt động của đời sống chính trị xã hội. Bởi vậy những can thiệp của nhà nước sẽ góp phần đáng kể vào quá trình điều tiết thị trường . Ví dụ xúc tiến thành lập các trung tâm hỗ trợ kinh doanh để thực hiện các hoạt động đào tạo, tư vấn, truyền đạt kinh nghiệm, đảm bảo và cập nhật thông tin. Hoặc tạo dựng một môi trường kinh doanh có cơ chế cạnh tranh thực sự hoàn hảo trong đó những ưu đãi đối với các khu vực, các thành phần kinh tế được giữ ở mức cân bằng. Những ách tắc trong thủ tục, pháp lý gây nên những khó khăn cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên được hạn chế và dần huỷ bỏ . Việc đảm bảo thực hiện đúng, đủ các nội dung cơ bản của luật doanh nghiệp sẽ là những bước đi thiết thực nhất thúc đẩy phát triển nhanh, mạnh khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
c)Tiến hành cải cách các doanh nghiệp nhà nước để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm phát triển và thu hút việc làm.Nhìn chung khu vực kinh tế nhà nước là một thị trường sức lao động có tiềm năng lớn .Mặc dù tiền lương chính thức của khu vực này không cao nhưng do tính chất ổn định của công việc và mức độ bảo đảm cao về phúc lơị xã hội cũng như những quan niệm truyền thống về việc làm nên nó vẫn có sức hấp dẫn đối với ngưòi lao động. Vì những lý do đó nên thị trường sức lao động khu vực doanh nghiệp Nhà nước mang một số đặc trưng cơ bản như :
+ Có quá nhiều lao động : Đây là một thực tế đang tồn tại trong hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước ở tất cả các nước chứ không riêng gì ở Việt Nam. Các doanh nghiệp này thường được bảo hộ về cạnh tranh , bảo hộ về ngân sách cộng thêm những vấn đề chính trị xã hội dẫn đến tuyển dụng lao động quá mức cần thiết. Hiện nay trong nhiều doanh nghiệp lao động dư thừa không bố trí được việc làm chiếm một số lượng lớn mà chủ yếu là lao động do quá khứ để lại , trình độ thấp kém. Nhưng do bảo hộ việc làm vĩnh viễn nên vẫn phải xếp cho họ những vị trí công tác mà thường là các công việc hành chính. Có nhiều nơi: Văn thư chỉ cần 3-5 người nhưng số lượng này lại lên đến vài chục. Vấn đề này không phải là mới nhưng đến nay vẫn chưa có một chính sách hoàn hảo để giải quyết bộ phận lao động bất đắc dĩ này.
+ Tiền lương có xu hướng bình quân hơn , trả lương cao cho lao động có chuyên môn không cao và thấp hơn khu vực ngoài quốc doanh đối với lao động có chuyên môn trình độ cao. Xuất phát từ đặc điểm này nên xảy ra hiện tượng chảy máu chất xám từ khu vực kinh tế Nhà nước sang khu vực kinh tế tư nhân – môi trường mà người lao động tìm thấy sự đãi ngộ thích đáng mà khả năng phát triển của mình .
+ Hợp đồng lao động có sự ràng buộc quá chặt chẽ . Hợp đồng này được ký kết giữa người lao động và người sử dụng sức lao động. Hiện nay các điều kiện ràng buộc của nó gây khó khăn cho việc sắp xếp lao động, tuyển dụng hay sa thải lao động đối với các chủ doanh nghiệp. Ví dụ theo quy định của pháp luật tuổi lao động của nữ kết thúc ở tuổi 55 và ở nam là 60 . Khi lao động đã được biên chế thì doanh nghiệp buộc phải bố trí công việc cho đến khi họ đủ tuổi nghỉ hưu nếu cả hai bên không vi phạm hợp đồng đã kí kết. Người lao động cũng bị hạn chế. Họ không có điều kiện chuyển đổi linh hoạt vị trí công việc và thử sức ở nhữn môt trường mới .Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là rất thấp chính vì thị trường sức lao động trong kinh tế nhà nước đã gây nên xu hướng người lao động không muốn có sự xáo trộn trong công việc của mình.
Đứng trước những thực tế về thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước buộc chúng ta phải có những cách nhìn đúng đắn hơn về tình hình lao động trong khu vực kinh tế quốc doanh. Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001-2010 Đảng đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của kinh tế quốc doanh, khu vực này vẫn là then chốt, quyết định giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước. Tương lai sẽ hình thành mối quan hệ biện chứng giữa các khu vực kinh tế cơ bản . Nếu chiến lược việc làm dựa vào sự phát triển của khu vực tư nhân thì tăng trưởng kinh tế phải dựa vào nhà nước. Hai khu vực kinh tế này không tồn tại mâu thuẫn. Để giải quyết tốt mối quan hệ này phải thực hiện một số giải pháp như sau :
*Tiếp tục cải cách các doanh nghiệp nhà nước , giải thể các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả. Một biện pháp để kích thích khả năng hoạt động của người lao động rất hiệu quả đã được thực hiện đó là cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Từ nguồn vốn 100 % thuộc về nhà nước sau cổ phần người lao động đã có sự đóng góp đáng kể vào vốn hoạt động với khoảng 40-50 % tổng số vốn. Vai trò chủ thể của người lao động được khẳng định, họ ý thức hơn về vai trò của mình trong tổng thể cơ cấu nói chung. Mỗi công nhân trở thành một mắt xích trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
* Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp , giảm dần các bảo hộ và ưu đãi đối với khu vực này để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. Các chính sách về tuyển dụng , biên chế , tiền lương phải cụ thể hơn tạo điều kiện tự chủ cho người sử dụng lao động có điều kiện sử dụng những lao động tốt nhất. Chế độ khoán sản phẩm đến nay vẫn được duy trì nhưng nên đặt ra những điểm khoán đúng với khả năng hiện có của doanh nghiệp. Có thể tăng mức khoán để kích thích doanh nghiệp sản xúat kinh doanh.
* Giảm biên chế trong các doanh nghiệp nhà nước , mở rộng quy mô sản xuất, di chuyển một bộ phận lao động dôi dư sang các khu vực kinh tế khác. Bên cạnh đó cũng nên có những chế độ khen thưởng đối với người lao động giỏi, lao động có tay nghề cao. Thực hiện những chế độ ưu đãi đặc biệt đối với những người lao động này sẽ chống lai hiện tượng chảy máu chất xám giữa các khu vực kinh tế.
d)Phát triển kinh tế phi nông nghiệp và chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp nông thôn.
Công nghiệp hoá đất nước không thể thành công nếu không tạo được sự chuyển đổi mạnh trong khu vực nông nghiệp nông thôn. Giải quyết việc làm ở nông thôn trong giai đoạn mới không chỉ đơn thuần là tạo việc làm mà phải gắn giải quyết việc làm với chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Muốn vậy phải có những quy hoạch phát triển kinh tế nông nghiệp và các giải pháp đồng bộ để tạo môi trường pháp lý thuận lợi thúc đẩy tăng trưởng trong khu vực. Tuy nhiên giải quyết vấn đề này phải đảm bảo được tính ổn định , thường xuyên, hiệu quả và chất lượng việc làm.
Lao động nông thôn có thể tìm thấy cơ hội việc làm tại đia phương mình và phát triển khả năng một cách phù hợp. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động phải tuân theo phương châm : “ly nông bất ly hương ”. Nghĩa là người lao động di chuyển sang khu vực kinh tế mới với những với những hoạt động kinh tế phi nông nghiệp như : tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ chứ không phải là di chuyển từ vùng này sang vùng khác, từ nông thôn ra thành thị. Trong chiến lược páht triển kinh tế cơ cấu lao động trong nông nghiệp sẽ giảm từ 62 % đến 50 % vào năm 2010. Để thực hiện điều này cần thực hiện một số giải pháp sau :
*Bổ sung và tăng cường mức độ đầu tư của nhà nước để nhanh chóng thiết lập quan hệ sản xuất mới. Nhà nước sớm có những hỗ trợ cho việc xây dựng các khu trang trại bằng nguồn ngân sách và các phương tiện sản xúat tiên tiến. Việc quay trở lại mô hình HTX nông nghiệp sẽ thu hút được nhiều lao động nông nghiệp nhưng phải tránh những sai lầm như mô hình HTX mà chúng ta đã xây dựng trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung. Người lao động phải có tính tự chủ, sáng tạo và độc lập trong mô hình lao động tập thể.Trong cơ chế thị trường hiện nay thiết nghĩ các HTX cổ phần nên được mở rộng hơn về quy mô cũng như chất lượng.Việc chuyên môn hoá trong từng bộ phận của quá trình sản xuất sẽ tiết kiệm được chi phí và mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn. Vậy thu nhập sẽ được phân phối như thế nào ? Vì đây cũng là một dạng của các doanh nghiệp cổ phần nên phân phối thu nhập của nó cũng phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản như : mức độ đóng góp, số lượng cổ phiếu và kết quả thực hiện những công việc đảm nhân. Tuy nhiên do những đặc thù riêng có của sản xuất nông nghiệp nên phân phối thu nhập cũng có những sự linh hoạt cần thiết và nhất là phải có những biện pháp kiểm tra, giám sát, đánh giá kết quả công việc của mỗi cá nhân.
* Đẩy mạnh công nghiệp hóa nông thôn
Trước hết phải tập trung xây dựng một số cơ sở hạ tầng nông nghiệp và giao thông nông thôn. Về cơ bản thì các quan hệ sản xuất được thiết lậptừ chính lực lượng, tư liệu sản xuất và các kết cấu vật chất cần thiết. Như vậy để hiện đại hốa nông thôn thì phải có một hệ thống các công trình thuỷ lợi, đường giao thông cũng như các công trình phúc lợi xã hội khác. Với hình thức tín dụng nông thôn Nhà nước đã huy động được một nguồn vốn khá lớn và tái đầu tư nó vào hoạt động phát triển khu vực kinh tế nông thôn kèm theo những mức lãi suất phù hợp với khả năng tín dụng của người lao động.
Công nghiệp hóa nông thôn còn kéo theo việc thiết lập một số cơ sở sản xuất, khu chế suất hiện đại dựa trên những tiềm lực vốn có của địa phương. Hoạt động này thực sự khó khăn nhưng khi tất cả đã đi vào một guồng máy với chu kỳ đặc trưng thì hàng năm nó sẽ tạo ra rất nhiều việc làm thu hút nhiều lao động.
Nông thôn Việt Nam hôm nay đã có nhiều biến chuyển tích cực. Quá trình đô thị hoá nông thôn diễn ra với tốc độ khá nhanh. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi để tăng mức độ linh hoạt của thi trường sức lao động ở nông thôn nói riêng và thị trường sức lao động cả nước nói chung.
Bên cạnh những giải pháp đã nêu trên chúng ta có thể phát triển và khôi phục các nghành nghề truyền thống của nông thôn như đã phân tích. Nhìn chung phát triển nông nghiệp nông thôn là một trong những giải pháp quan trọng để điều tiết cầu lao động trên thị trường. Nhờ các biện pháp phát triển nông thôn mà năng suất lao động được nâng caovà thu nhập của người lao động được cải thiện. Các quan hệ sản xuất mới được xác lập như chế độ thầu khoán sẽ tạo ra điều kiện tăng quy mô của lao động làm công ăn lương, giảm quy mô của lao động tự làm. Nông thôn phát triển sẽ giảm áp lực di cư từ nông thôn ra thành thị , giảm quy mô cuả thị trường sức lao động phi chính thức đang tồn tại trong các vùng đô thị. Không những thế công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn cũng tăng nhu cầu sử dụng lao động kỹ thuật của khu vực nông thôn, cải thiện chất lượng sức lao động hiện có.
Nông thôn Việt Nam là một thị trường sức lao động tiềm năng cũng đồng thời là một thách thức đối với đối với khả năng tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Nó đặt ra yêu cầu phải có những giải pháp thực tế và có tính hiệu quả để điều tiết và giữ cân bằng cho thị trường sức lao động đang có nhiều biến động.
e)Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu lao động
Quan điểm mới coi xuất khẩu lao động là một ngành kinh tế mũi nhọn trong những năm tới. Vì vậy cần sớm hoàn thiện hệ thống pháp luật về xuất khẩu lao động, ban hành , sửa đổi, bổ sung những cơ chế chính sách cho phù hợp với sự vận động của thị trường.Tăng cường trách nhiệm của các bộ, các ngành, địa phương trong việc xây dựng, quản lý và chỉ đạo hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia.
Hiện nay các chủ lao động nước ngoài có những yêu cầu khác trước. Đó là lao động có trình độ cao, lịch thiệp trong giao tiếp, công việc và có trình độ ngoại ngữ đủ để giao tiếp, có sức khoẻ và hiểu biết quan hệ chủ – thợ. Để đáp ứng những nhu cầu của lao động nước ngoài cần phải tổ chức giốa dục, đào tạo lao động cho xuất khẩu. Thể chế và biện pháp đào tạo phải tuân thủ những nguyên tắc riêng. Người lao động phải được đào tạo bài bản trong những môi trường dành riêng cho thị trường sức lao động xuất khẩu- tạo môi trường giao tiếp mới cùng những quan điểm mới của lao động xuất khẩu.
Xuất khẩu lao động nên đẩy mạnh theo hình thức xen ghép tức là lao động nước ta sang làm việc chung với lao động các nước khác trong cùng dây chuyền sản xuất hoặc cùng công việc mà do chủ sử dụng lao động nước ngoài điều hành và trả lương. Hình thức “xen ghép” này sẽ tạo điều kiện cho lao động nước ta tiếp thu một cách nhanh nhất những công nghệ sản xuất hiện đạivà học hỏi được những kinh nghiệm về cách làm việc của lao động các nước trên thế giới.
Thời gian qua chúng ta mới tiến hành XKLĐ theo kiểu tự nhiên mà chưa có một cơ chế đầu tư của nhà nước theo một cơ chế bài bản. Không những thế, hệ thống các cơ chế , chính sách về XKLĐ của ta còn chưa đồng bộ, chưa phù hợp nhất là các văn bản pháp luật , quy chế điều tiết hoạt động này còn rất thiếu gây khó khăn cho các bên thực thi XKLĐ.Thực tế vẫn còn tồn tại rất nhiều hiện tượng tiêu cực như : lừa đảo , chiếm đoạt vốn của người lao động khi tham gia vào thị trường xuất khẩu. Do vậy người dân nhiều khi mất đi niềm tin vào công tác XKLĐ được tiến hành ở địa phương. Nhà nước nên có những cơ chế bảo hộ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào thị trường xuất khẩu. Việc thành lập các trung tâm tư vấn, các công ty chuyên trách có sự tham gia , điều hành của nhà nước là cần thiết. Hiện đang có rất nhiều thị trường triển vọng , hứa hẹn nhiều tiềm năng như : Nhật Bản, Hy Lạp, Singapore và Đài Loan. ở các thị trường này giá và tiền lương rất cao cùng với những điêù kiện hợp đồng rất thông thoáng và yêu cầu trình độ của ngưòi tham gia thị trường không quá khó đối với lao động Việt Nam.
Nhà nước cập nhật hệ thống thông tin về thị trường sức lao động xuất khẩu để mỗi cá nhân có điều kiện nắm bắt những thông tin mới nhất và tìm được những việc làm phù hợp với khả năng của mình.
Đối với người lao động đi làm việc ở nước ngoài cũng phải có những chế độ bảo hiểm xã hội nhất định. Cần phải phân biệt các khái niệm : lao động đi xuất khẩu và lao động Việt Nam định cư ở nước ngoài để có chính sách thiết thực cải thiện các mối quan hệ đang đan xen tồn tại trong thị trường sức lao động dành cho xuất khẩu.Việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp Việt Nam tham gia đấu thầu và thắng thầu, ký kết hợp đồng XKLĐ & chuyên gia cũng là hướng đi tốt cần được quan tâm.
2/ Nhóm các giải pháp thúc đẩy trên thị trường sức lao động
Trên thị trường sức lao động ngày nay các giao dịch chưa linh hoạt, quá trình giao dịch diễn ra còn rất cứng nhắc, người lao động chưa thực sự là chủ thể trong các diễn đàn giao dịch đó. Để cải thiện thực trạng trên cần thực hiện những giải pháp cơ bản như:
- Phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm
Các chính sách có tầm vĩ mô của Nhà nước luôn mang lại những kết quả tích cực đối với mọi mối quan hệ trong xã hội. Các trung tâm giới thiệu việc làm là cần thiết nhưng phải hoạt động trong một tổng thể chung của hệ thống kinh tế và dưới sự giám sát của các cơ quan pháp luật Nhà nước. Cho đến nay hệ thống này mới chỉ tập trung ở các thành phố lớn , các khu công nghiệp phát triển. Còn nhìn chung ở các cấp xã, huyện thì hình thức các trung tâm giới thiệu việc làm rất hạn chế, không có hoặc nếu có thì hoạt động kém hiệu quả. Bởi vậy trong thời gian tới phải mở rộng hệ thống dịch vụ này để đưa số lao động ở nông thôn vào dòng luân chuyển việc làm của xã hội. Hơn nữa việc thành lập các tổ chức việc làm cần được khuyến khích mở rộng đối với mọi thành phần và khu vực kinh tế để các dòng luân chuyển hoạt động có hiệu quả hơn. Về thực chất thì trung tâm giới thiệu việc làm là một tổ chức môi giới nối kết giữa người lao động và người sử dụng lao động. Vì vậy các mối quan hệ giữa trung tâm, người lao động, các doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước phải được cải thiện để các cá nhân , tổ chức tham gia lĩnh vực này hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ giao dịch của mình. Hiệu quả của dịch vụ phải được tính toán trên cơ sở so sánh chi phí và kết quả không phân biệt khu vực tư nhân và Nhà nước.
Trong hệ thống chính sách của Nhà nước cũng nên có những khoản trợ cấp hoặc ưu đãi đối với những lao động quá khó khăn đang tìm kiếm cơ hội ở các trung tâm giới thiệu , tư vấn việc làm.
Thời gian tới các hình thức giao dịch trên thị trường cũng nên được đa dạng hoá cả về chức năng và công cụ. Các chợ lao động nên được xúc tiến thành lập và có sự quy hoạch, quản lý của Nhà nước. Trong các chợ đấy nên có sự phân chia nghề nghiệp, tuổi tác, giới tính để các giao dịch có thể diến ra nhanh chóng hơn. Chợ lao động khác với hội chợ việc làm. Nếu hội chợ việc làm chỉ có thể mở được ở một số tỉnh thành có nền kinh tế phát triển và đối tượng tham gia chủ yếu là lao động có tay nghề, trình độ kỹ thuật. Thì chợ lao động có thể hoạt động quanh năm , theo tháng , theo quý và đối tượng tham gia của nó sẽ được mở rộng ra đối với cả những lao động chưa qua đào tạo, lao động chưa có việc làm , lao động thủ công…
Hiện nay hình thức chợ lao động trên mạng cũng đã được thiết lập. Tại T.P Hồ Chí Minh một chợ lao động đã, đang trong quá trình hình thành. Dự kiến trong giữa năm 2004 chợ sẽ chính thức đi vào hoạt động. Hình thức này nên chăng cần khuyến khích và mở rộng hơn. Nó sẽ đáp ứng được nhu cầu tìm việc làm của người lao động có tay nghề, chuyên môn kỹ thuật ở mức độ cao. Nếu hình thức giao dịch này hoạt động tốt thì nó sẽ tiết kiệm được rát nhiều thời gian cho các bên tham gia tuyển dụng.
+ Đối với các doanh nghiệp XKLĐ phải có sự sắp xếp lại các doanh nghiệp hiện có, tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp mới. Hoạt động của các doanh nghiệp này phải được kiểm tra đánh giá hàng năm theo những tiêu chí quy định. Theo đó là những chính sách khen thưởng đối với các cá nhân , tổ chức có đóng góp quan trọng cho công cuộc XKLĐ ở nước ta. Để đẩy mạnh xuất khẩu lao động không những bằng cách phát triển các doanh nghiệp trực tiếp tham gia xuất khẩu mà còn phải thành lập một số trung tâm, doanh nghiệp làm nhiệm vụ phân tích, tìm kiếm thị trường tiềm năng. Việc chiếm lĩnh thị trường sẽ do các đơn vị này đảm trách thông qua các hợp đồng được ký kết giữa doanh nghiệp với các đối tác nước ngoài. Những doanh nghiệp làm nhiệm vụ xuất khẩu sẽ có những hợp đồng chuyển giao cụ thể - đó chính là nguồn thu của các đơn vị tư vấn , tìm kiếm thị trường.
+ Phát triển hệ thống thông tin thị trường sức lao động
Hiện nay các kênh thông tin thị trường sức lao động ở nước ta đã hình thành nhưng còn rát non yếu, kênh chưa cập nhật được những biến động mới nhất của thị trường. Thông tin thị trường đặc biệt quan trọng bởi nó tạo mở những khả năng và những môi trường đầu tư có hiệu quả hơn. Công việc điều tra, khảo sát , tập hợp, xử lý và lưu trữ thông tin phải được tiến hành thường xuyên nhằm cung cấp đầy đủ, nhanh chóngvà thuận tiện các thông tin về người tìm việc, việc tìm người, về các yêu cầu nghề nghiệp kỹ năng cho các bên tham gia thị trường. Đến nay mới chỉ có tạp chí thông tin thị trường sức lao động là hoạt động mạnh nhất trong lĩnh vực này. Nhưng bản thân sự tồn tại của nó cũng ít người biêt đến. Thiết nghĩ ngoài việc cung cấp thông tin trên các kênh thông tin như báo, tạp chí còn phải đẩy mạnh hoạt động của nó trên các phương tiện truyền thông khác để công tác tuyên truyền giốa dục phục vụ thị trường được tốt hơn.
+ Khuyến khích các hình thức giao dịch trực tiếp giữa người lao động và người sử dụng lao động
Việc giao dịch trực tiếp này sẽ tiết kiệm được những chi phí không cần thiết, rút ngẵn được thời gian các bên tham gia giao dịch và nâng cao khả năng người sử dụng lao động tìm kiếm được đúng những lao động theo yêu cầu và mục đích sản xuất của mình.
3. Nhóm các giải pháp liên quan đến hệ thống chính sách của Nhà nước
Cùng với việc hội nhập AFTA , thực hiện CEPT cũng như trong tiến trình gia nhập APEC và WTO thị trường sức lao động Việt Nam sẽ chịu những tác động lớn. Do đó việc tiếp tục thoá gỡ các rào cản, tự do hoá thị trường sức lao động cũng như nâng cao định hướng xã hội của thị trườngtrong thời kỳ 2001-2010 là vấn đề cấp bách.
Đối với hệ thống các điều luật cần tiếp tục cụ thể hoá và công bằng hơn lợi ích của các bên tham gia lao động. Hệ thống trả công lao động theo xu hướng thị trường cũng là vấn đề cần xem xét. Chế độ lương hiện hành có nhiều điều bất hợp lý, không khuyến khích được lao động có tay nghề tham gia tích cực vào quá trình sản xuất. Cải cách chế độ tiền lương cần chú ý đến tính đúng, tính đủ mức độ đóng góp, công tr ạng của người lao động.Việc trả lương được tiến hành theo nguyên tắc: công việc và điều kiện lao động giống nhau, tiền lương như nhau. Trong cơ chế ngày nay đánh thuế thu nhập cũng là một việc làm cần thiết. Nó sẽ điều hoà và phân phối mức thu nhập một cách hợp lý hơn. nhưng đánh thuế thu nhập phải được tiến hành dựa trên một pháp chế chặt chẽ tránh tình trạng thuế thu nhập gây khó khăn cho người lao động có thu nhập thấp. Thuế này sẽ được tái đầu tư vào các hệ thống an sinh xã hội, bảo trợ xã hội cho toàn dân.
Bên cạnh cải cách về giá, tiền lương cũng phải đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội. Cho đến nay hệ thống bảo hiểm xã hội nước ta vẫn thực hiện hai chức năng là chức năngbảo hiểm và phân phối thu nhập. Nhưng bây giờ cần phải tách biệt hai chức năng này làm cho việc thực hiện mỗi chức năng rõ ràng hơn. Bảo hiểm xã hội nên tập trung thực hiện chức năng bảo hiểm của mình. Chế độ thu, chi bảo hiểm nên được cải tiến tạo điều kiện để người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều có thể tham gia bảo hiểm sao cho cả khu vực kinh tế tư nhân cũng được tham gia bảo hiểm và được hưởng chế độ hưu trí như lao động trong kinh tế quốc doanh.
Chính sách trợ cấp cho người thất nghiệp cũng cần sớm được ban hành.Nhưng nó phải có sự quản lý, giám sát của Nhà nước tránh những hiện tượng khai man, cửa quyền , xâm phạm bất chính đến nguồn ngân sách quốc gia.
Ngoài ra còn phải nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước đối với thị trường sức lao động. Trước hết để tạo điều kiện thực hiện các giải pháp này phải thực sự coi lao động là hàng hoá và phải thừa nhận mọi đặc tính vốn có của nó. Tham gia thị trường là người lao động và người sử dụng lao động, họ là những chủ thể của các quá trình trao đổi và những trao đổi đấy cũng phải tuân theo những điều kiện pháp lý cụ thể. Nội dung cơ bản là bảo đảm quyền lựa chọn chỗ làm việcvà nơi cư trú cho người lao động thông qua việc tháo gỡ các rào cản về hộ khẩu và những quy định hành chính về nơi cư trú.
Ngay cả sự hoạt động trong các cơ quan quản lý lao động của Nhà nước cũng phải có sự sắp xếp biên chế lại để hoạt động của các cơ quan này có hiệu quả hơn.
Nếu chúng thực hiện được những giải pháp đã nêu trên thì chắc chắn trong thời gian tới thị trường sức lao động Việt Nam sẽ có nhiều biến đổi tích cực hơn. Vẫn biết có thể do những nguyên nhân chủ quan và khách quan của người viết mà những giải pháp đưa ra còn thiếu tính thực tế nhưng hy vọng chúng cũng góp phần gợi mở nhiều hướng đi tốt hơn. Việc phát triển thị trường sức lao động Việt Nam là sự nghiệp chungcủa toàn Đảng, toàn dân và toàn xã hội.
Kết luận
Đối với Việt Nam hiện nay vấn đề lao động việc làm đang rất khó khăn cần thiết phải được giải quyết bằng các chính sách có tầm vĩ mô của Nhà nước. Thực tế cho thấy thị trường sức lao động nước ta là một thị trường tiềm năng, có nhiều thế mạnh nhưng vì việc thực hiện các giải pháp còn nhiều hạn chế nên thị trường chưa có sự bình ổn và phát triển đúng hướng.
Thời gian gần đây mọi cấp, mọi ngành đã có sự cố gắng đáng kể trong việc điều tiết thị trường. Như hạn chế các chợ lao động ngoài quy hoạch, tổ chức nhiều hơn các hội chợ việc làm, cải cách hệ thống giáo dục đào tạo, đẩy mạnh xuất khẩu lao động…Nhưng do nhiều nguyên nhân nên tình hình sức lao động Việt Nam vẫn chưa có những đột phá mang tính chiến lược. Việc điều hành loại thị trường này không phải chỉ là nhiệm vụ của một cấp, một ngành mà còn là nhiệm vụ chung của toàn xã hội, của mọi người, mọi nhà và mọi tầng lớp nhân dân. Những kết quả mà các chính sách mang lại cũng không thể thu được ngay sau khi chính sách được thực hiện, đó phải là một quá trình chuyển đổi lâu dài và khó khăn. Cùng với sự phát triển của hệ thống giáo dục, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân chắc chắn trong thời gian tới thị trường sức lao động Việt Nam sẽ có những biến chuyển tích cực hơn.
Cần phải nhấn mạnh lại rằng: một đất nước chỉ thực sự phát triển khi thị trường sức lao động đạt được trạng thái cân bằng, ổn định và phát triển có định hướng. Đối với Việt Nam là một nước Xã hội chủ nghĩa khi phát triển thị trường sức lao động cũng cần phải chú ý đến những vấn đề về chính trị, tư tưởng. Thị trường sức lao động chỉ phát triển khi sức lao động được coi là hàng hóa và xã hội phải chấp nhận những khái niệm về người làm thuê và ông chủ…
Đó không phải là những khái niệm chỉ tồn tại trong lòng xã hội Tư bản chủ nghĩa. Vì vậy phải xác định đường lối và mục tiêu đúng đắn, xây dựng một thị trường sức lao động vững mạnh trong sự phát triển chung của nền kinh tế, văn hóa Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam./.
mục lục
Tài liệu tham khảo
Th.S Nguyễn Thị Lan Hương: Thị trường lao động Việt Nam định hướng và phát triển. NXB Lao động- Xã hội, 2003.
PGS. TS Phạm Quang Thọ: Thị trường lao động Việt Nam thực trạng và giải pháp. NXB Lao động – Xã hội, 2003.
Một số vấn đề phát triển thị trường lao động ở Việt Nam.
NXB Khoa học và kỹ thuật, 2003.
Giáo trình Kinh tế chính trị ( Dùng cho khối nghành kinh tế ).
NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội,2001.
C. Marx & Ph. Angghen toàn tập – Tập 26, phần 1. NXB Sự thật 1969.
C.Marx: Tư bản quyển 1, tập 1. NXB Sự thật, Hà Nội1963.
Tạp chí Lao động và xã hội : Số 215, số 230, số 231+ 232.
Tạp chí Thông tin thị trường lao động: Số 6/2003, số 1/2003.
Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX.
NXB Chính trị quốc gia, 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33888.doc