Luận văn Thị trường vàng Việt Nam, thực trạng và giải pháp

Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng của nước ta đã từng bước được hoàn thiện. Tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường vàng phát triển, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vàng của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Tạo ra một thị trường vàng phong phú đa dạng gồm các thành phần kinh tế cùng kinh doanh, cạnh tranh phát triển, góp phần ổn định giá cả thị trường, hỗ trợ tích cực cho việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Bên cạnh những vướng mắc như chính sách quản lý còn kồng kềnh, phức tạp gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, chính sách thuế vẫn có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ. Song, trong thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực của các doanh nghiệp kinh doanh vàng từ chỗ kinh doanh đơn thuần là mua bán, sản xuất kinh doanh vàng miếng, sang đầu tư sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ. Hoạt động sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ đã được các doanh nghiệp quan tâm, chú trọng nhằm nâng cao uy tín của mình. Nhờ vậy, doanh số xuất khẩu sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ đã tăng lên đáng kể. Có thể nói đây là một tiềm năng, chính phủ nước ta phải có những chính sách phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất vàng trang sức phát triển. Vấn đề ở chỗ chúng ta nên lựa chọn cách tốt nhất, hướng đi đúng nhất cho Việt Nam, nhằm đưa ngành kim hoàn phát triển vượt bậc, đạt kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD vào những năm tới.

doc77 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1704 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thị trường vàng Việt Nam, thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ối bán buôn ra thị trường và có khả năng điều tiết thị trường vàng trong cả nước. Lợi thế của nhập khẩu vàng là không phải đầu tư thiết bị máy móc, quay vòng vốn nhanh, mang lại lợi nhuận lớn. Vì thế nhiều DNNN nhất là Tổng Công ty VBĐQ Việt Nam thì việc nhập khẩu vàng là hoạt động chính đem lại nguồn thu chủ yếu cho đơn vị. - Tình hình xuất nhập khẩu vàng từ năm 1996 - 2000: Do tình hình thâm hụt cán cân vãng lai lớn, thị trường vàng tương đối ổn định và lạm phát ở mức thấp việc ngừng nhập khẩu vàng là một giải pháp phù hợp - góp phần tiết kiệm được nguồn ngoại tệ chính ngạch. Tuy nhiên việc ngừng nhập khẩu vàng hoàn toàn trong khi thị trường vẫn có nhu cầu và việc kiểm soát buôn lậu chưa triệt để nên vẫn có một số lượng vàng đáng kể nhập lậu vào Việt Nam. Lượng vàng nhập lậu được điều tiết phân phối qua mạng lưới của tư nhân do đó vai trò điều tiết thị trường bán buôn của các DNNN cũng bị ảnh hưởng và Ngân sách cũng thất thu một nguồn thuế đáng kể. 2.1.2.4. Đánh giá chính sách quản lý vàng giai đoạn sau 1993 đến 2000 2.1.2.4.1. Những kết quả Sau hơn 10 năm đổi mới, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, quy định về quản lý hoạt động kinh doanh vàng tại Nghị định 63/CP đã từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường vàng phát triển, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vàng của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Tạo ra một thị trường vàng phong phú đa dạng gồm đủ các thành phần kinh tế cùng kinh doanh, cạnh tranh phát triển, góp phần ổn định giá cả thị trường hỗ trợ tích cực việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Thể hiện cụ thể ở các mặt sau: - Mở rộng mạng lưới, phạm vi kinh doanh vàng đáp ứng kịp thời nhu cầu về vàng của thị trường góp phần ổn định giá cả thị trường: Trong điều kiện giá vàng có nhiều biến động, nhu cầu về vàng lớn thì việc công nhận quyền sở hữu hợp pháp về vàng, mở rộng phạm vi kinh doanh không những đối với vàng tư trang mà với tất cả các loại vàng khác, vàng khối, thỏi, miếng... cũng như việc mở rộng đối tượng hoạt động kinh doanh vàng đã thực sự tạo điều kiện thuận lợi cho những người có nhu cầu kinh doanh vàng công khai hóa các hoạt động mua bán kinh doanh vàng của mình. Chính điều đó mang lại thành công của Nghị định 63/CP là tạo ra một mạng lưới kinh doanh vàng thông thoáng đủ sức đáp ứng kịp thời nhu cầu về vàng trong giai đoạn mà giá trị của Đồng Việt Nam chưa ổn định người dân vẫn có thói quen dùng vàng làm phương tiện cất trữ giá trị (tỷ trọng vàng cất trữ chiếm hơn 80% lượng vàng nhập khẩu). Đặc biệt là NHNN đã thông qua hệ thống Tổng Công ty VBĐQ với mạng lưới các công ty thành viên ở hầu khắp các tỉnh, thành trong cả nước can thiệp ổn định giá vàng và đẩy lùi được nạn thao túng đầu cơ nâng giá vàng thành những cơn sốt giả tạo. Biện pháp trên đã hỗ trợ tích cực cho việc ổn định của tỷ giá nói riêng và của thị trường ngoại hối nói chung, giúp cho NHNN thực hiện chính sách tiền tệ. - Xác lập được các cơ sở pháp lý về cơ chế tổ chức, hoạt động, chính sách và biện pháp quản lý thị trường vàng phù hợp với tình hình thực tế, tạo điều kiện cho NHNN điều tiết giá vàng, góp phần ổn định giá cả thị trường, hỗ trợ tích cực cho việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. - Thiết lập một cơ chế quản lý xuất nhập khẩu vàng thống nhất, đảm bảo đáp ứng nhu cầu vàng của thị trường đồng thời kiểm soát được luồng vàng vào - ra khỏi Việt Nam: Nghị định 63/ CP của Chính phủ đã xác định vai trò quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh kể cả xuất nhập khẩu vàng của NHNN và tập trung việc nhập khẩu vàng thông qua NHNN. Điều đó đã tạo điều kiện cho NHNN điều tiết kịp thời cung cầu vàng vào, ra khỏi Việt Nam sao cho phù hợp với tình hình cung cầu ngoại tệ. Tránh được tình trạng nhập vàng ồ ạt, gây ra hiện tượng cung lớn hơn cầu làm giá vàng thấp hơn giá quốc tế và tránh lãng phí ngoại tệ. - Bước đầu tạo điều kiện phát triển ngành kim hoàn Việt Nam: Nghị định 63/CP ra đời đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để khuyến khích đội ngũ nghệ nhân, thợ kim hoàn phát huy ngành nghề truyền thống. Một người thợ kim hoàn bậc 3 trở lên khi có đủ điều kiện thành lập DN kinh doanh vàng ngoài phạm vi được mua bán còn được gia công chế tác, được phép trực tiếp xuất khẩu vàng tư trang hoặc liên doanh với các tổ chức, cá nhân người nước ngoài tổ chức gia công chế tác vàng. Chính các quy định trên đã tạo tiền đề để ngành kim hoàn nước ta từng bước được hồi sinh. Các nghệ nhân kim hoàn không những tổ chức sản xuất hàng tư trang trong phạm vi gia đình, dần dần còn tập trung đội ngũ thợ để mở rộng sản xuất và từng bước áp dụng công nghệ mới trong ngành kim hoàn. 2.1.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân Bên cạnh những tác động tích cực, chính sách quản lý vàng quy định tại Nghị định 63/CP cũng bộc lộ những hạn chế nhất định thể hiện ở sự yếu, kém của thị trường vàng trang sức, tỷ lệ vàng dùng trong thanh toán cất trữ vẫn chưa giảm triệt để, các DN kinh doanh vàng nhiều nhưng không mạnh, quy mô quá nhỏ, công nghệ lạc hậu, không chú trọng đến đầu tư sản xuất vàng trang sức. Có thể nêu ra một số nguyên nhân chính như sau: - Do quy định về điều kiện kinh doanh vàng tương đối rộng rãi và mức vốn còn thấp nên có quá nhiều các DN kinh doanh vàng (cả nước có trên 7.000 DN kinh doanh vàng và chế tác vàng tư trang, riêng Tp. Hồ Chí Minh có trên 1.000 DN), gây khó khăn trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh vàng. - Việc mở quá rộng phạm vi kinh doanh vàng cho các DN, DN nào cũng sản xuất vàng trang sức, mua, bán vàng thỏi, vàng miếng gây khó khăn cho việc quản lý chất lượng vàng, đặc biệt là vàng trang sức, đồng thời không khuyến khích các DN tập trung vốn thành lập các xưởng sản xuất vàng trang sức lớn mà chỉ là các tổ thợ với quy mô nhỏ. - Chưa tạo ra thị trường vàng nguyên liệu đáp ứng cho nhu cầu của các DN sản xuất. Cơ chế nhập khẩu vàng khối, thỏi và quy định sử dụng vàng nhập khẩu thiếu chặt chẽ, vì vậy đã không khuyến khích các DNNN đầu tư phát triển sản xuất vàng trang sức mà chỉ trông đợi vào nguồn quota nhập khẩu của Nhà nước. - Cơ chế quản lý sản xuất vàng miếng trong Nghị định 63/CP chưa có quy định cụ thể. Việc sản xuất, lưu thông vàng miếng có liên quan đến việc đưa ra các phương tiện thanh toán, cất trữ và gắn liền với chính sách lãi suất tiết kiệm, mức độ lạm phát... Đây là lĩnh vực mà NHNN cần phải quản lý chặt chẽ, nhưng lại chưa có cơ chế để NHNN quản lý việc sản xuất và nắm bắt nhu cầu sử dụng vàng miếng. - NHNN là cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh vàng mới chỉ quan tâm đến vàng vật chất phục vụ chính sách tiền tệ, chưa có định hướng tổng thể thúc đẩy sự phát triển thị trường vàng trang sức, cũng như giúp các DN tìm thị trường xuất khẩu nữ trang ra nước ngoài. Vì vậy các DN chỉ nặng về kinh doanh vàng tiền tệ, chưa chú ý đầu tư sản xuất vàng trang sức. - Các quy định về việc huy động nguồn vốn bằng vàng không phù hợp, thiếu các công cụ phòng ngừa rủi ro, vì vậy đã có một số lượng lớn vốn bằng vàng nằm đọng trong dân không sử dụng được, trong khi đó một số đơn vị thực hiện các nghiệp vụ huy động vàng mà chưa có văn bản quy định chặt chẽ nhằm hạn chế rủi ro... - Chính sách thuế đối với ngành vàng quy định chưa hợp lý, chưa tạo được sự bình đẳng về thuế giữa các loại hình DN, chưa có chính sách thuế khuyến khích DN sản xuất vàng trang sức xuất khẩu. Hình thức thuế đối với DN tư nhân vẫn chủ yếu áp dụng theo chế độ thuế khoán doanh thu, vì vậy mang tính chủ quan không tạo ra sự bình đẳng giữa các DN, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. - Chưa ban hành tiêu chuẩn chất lượng vàng Việt Nam, do đó có nhiều DN sản xuất các sản phẩm vàng không đủ chất lượng, gây thiệt hại cho người tiêu dùng, thiệt thòi cho các DN làm ăn chính đáng, gây khó khăn cho các cơ quan chức năng khi giải quyết khiếu nại. Các vi phạm về chất lượng, làm ảnh hưởng đến yêu cầu nâng cao chất lượng và giảm sức cạnh tranh của sản phẩm vàng trên thị trường, đặc biệt khi tham gia thị trường nước ngoài. - Chưa thể hiện được ưu đãi của Nhà nước Việt Nam đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài như quy định của luật pháp. Việc quản lý đối với các DN này cũng giống như DN Việt Nam, mặc dầu hoạt động kinh doanh của họ chỉ là gia công, chế tác (nhập khẩu nguyên liệu, tái xuất sản phẩm), đặc biệt là quy định về thủ tục xuất nhập khẩu quá phiền phức không cần thiết như cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng lần, phải qua kiểm tra kiểm định hàng hóa. - Trong thực tế, kinh doanh vàng thường gắn liền với kinh doanh bạc, kim loại thuộc nhóm bạch kim và đá quý theo quy định hiện nay do 2 cơ quan quản lý nên cũng gây khó khăn cho các DN khi làm thủ tục xin phép kinh doanh cũng như thủ tục xuất nhập khẩu. - Chưa có một tổ chức là tiếng nói chung của các DN kinh doanh vàng, vì vậy hoạt động của các DN còn mang tính phân tán, riêng lẻ, lấy hiệu quả kinh doanh của đơn vị làm mục tiêu chính, chưa có sự phối hợp, hỗ trợ lẫn nhau trong quá trình kinh doanh. Như vậy trong giai đoạn 1993 - 2000 về cơ bản Chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã có những thay đổi tạo nên một thị trường vàng phong phú. Tuy nhiên bên cạnh đó chính sách quản lý vàng vẫn còn những bất cập, chưa thực sự theo kịp sự phát triển của thị trường, chưa phù hợp với tình hình kinh tế, chính trị trong thời kỳ mới. Vì vậy việc ban hành một chính sách mới phù hợp hơn là một đòi hỏi tất yếu. 2.1.3. Giai đoạn từ 2000 đến nay: Điểm đánh dấu trong hoạt động kinh doanh vàng giai đoạn này là sự ra đời của Nghị định 174/NĐ-CP, ngày 9/12/1999, về quản lý hoạt động kinh doanh vàng. Theo đó, thủ tục hành chính cho hoạt động này đã được giảm thiểu, Nghị định chỉ đề cập đến một số quy định đặc thù của hoạt động kinh doanh vàng, những khía cạnh khác được tuân thủ theo Luật DN và Luật Thương mại. Phạm vi quản lý của NHNN được thu hẹp, chỉ quản lý một số hoạt động liên quan đến chính sách tiền tệ như sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu, còn lại thì được phép kinh doanh vàng bình thường như các loại hàng hóa khác. Để triển khai Nghị định số 174 của Chính phủ, NHNN đã ban hành Thông tư hướng dẫn số 07/2000/TT-NHNN 7 ngày 28/4/2000. Trong thời gian đầu khi NHNN chưa ban hành Thông tư hướng dẫn, một số ít DN có lo lắng về quy định mức vốn pháp định. Tuy nhiên vấn đề này đã được hiểu đúng và thực hiện thống nhất khi NHNN ban hành Thông tư hướng dẫn và tổ chức triển khai tập huấn chu tất ở tất cả các địa phương. Đặc biệt là ở địa phương có thị trường vàng sôi động như Tp. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Cần Thơ, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Đắc Lắc, Thái Bình, Hải Dương, Hải Phòng do NHNN phối hợp với địa phương tổ chức hướng dẫn. Các địa phương còn lại do Chi nhánh NHNN dưới sự chỉ đạo của Uỷ ban Nhân dân tỉnh tổ chức Hội nghị tập huấn rộng rãi cho các DN kinh doanh vàng, Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND huyện thị và các ngành chức năng trên địa bàn. Tại một số địa phương Hội nghị do đồng chí Phó Chủ tịch Tỉnh tham dự và trực tiếp chỉ đạo. Điều này cho thấy đã có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các cấp các ngành tại địa phương và đã hướng dẫn rõ ràng đúng theo tinh thần Nghị định 174. Sau khi Nghị định 174 được ban hành, cùng với việc ban hành Luật DN, số lượng DN và cá nhân đăng ký kinh doanh vàng đã tăng khoảng 2.000 so với thời kỳ trước khi ban hành NĐ 174 (tổng số hơn 8.000 DN và cá nhân). Nhìn chung các DN đã có thay đổi về nhận thức, chuyển mạnh từ mua - bán, sản xuất kinh doanh vàng miếng sang đầu tư sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ. Hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ đã được các DN quan tâm, chú trọng hơn nhằm nâng cao uy tín của mình. Vì vậy đến nay hoạt động gian lận thương mại trong thị trường vàng đã giảm. Nhiều DN đã huy động tiềm lực tài chính, tự nguyện tăng vốn để đầu tư sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ. Doanh số xuất khẩu sản phẩm vàng trang sức mỹ nghệ đã tăng lên đáng kể. Đặc biệt đối với khu vực DN có vốn đầu tư nước ngoài do cơ chế quản lý thông thoáng, doanh số xuất khẩu trong năm 2002 đã tăng trên 30% so với năm 2001, đạt trên 37 triệu USD. Thị trường vàng bước đầu đã đi vào nền nếp theo đúng định hướng của Chính phủ đề ra. Doanh số nhập khẩu vàng nguyên liệu, xuất khẩu các sản phẩm vàng của các DN đặc biệt là sản xuất và lưu thông vàng miếng đã nằm trong tầm kiểm soát của NHNN, diễn biến của thị trường vàng đã không có tác động xấu đến việc thực thi chính sách tiền tệ của NHNN. Hà Nội có Công ty TNHH Kim Thanh đã đăng ký sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ với mức vốn 5 tỷ đồng. Riêng tại Tp. Hồ Chí Minh tuy chỉ là địa phương có nhiều DN kinh doanh vàng lớn nhưng mới chỉ có 2 DN đăng ký sản xuất là Công ty VBĐQ (SJC), Công ty VBĐQ Phú Nhuận. Tại Thanh Hoá có 9 DN, Nghệ An có 17 DN, Đắc Lắc có 36 DN đủ mức vốn pháp định trên 1 tỷ, các DN này đều xác định sẽ đăng ký sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ theo đúng quy định tại Nghị định 174. Số lượng DN đăng ký điều chỉnh lại hoạt động từ sản xuất xuống gia công, mua bán là 72 DN, nhiều nhất là ở Nghệ An (25 DN). Theo báo cáo của các chi nhánh có một số DN trước đây kinh doanh vàng nay ngừng kinh doanh để kinh doanh các mặt hàng khác hoặc chuyển đăng ký kinh doanh mặt hàng khác vì kinh doanh vàng không có hiệu quả (tổng số 289 DN ngừng kinh doanh, trong đó có 196 DN trước đây hoạt động trong lĩnh vực mua bán, gia công). Thực tế hiện nay tại nhiều DN, hoạt động kinh doanh vàng chỉ là một ngành hàng kinh doanh của DN, họ còn kinh doanh một số lĩnh vực khác như thương mại, hải sản, nhà hàng. Hoạt động của DN có vốn đầu tư nước ngoài: Do cơ chế quản lý quy định tại Nghị định 174 và Thông tư 07 được đơn giản hoá triệt để, đặc biệt là về thủ tục giấy phép xuất nhập khẩu, kiểm định vàng đã được huỷ bỏ nên hoạt động của các DN này được thuận lợi hơn, doanh số xuất khẩu tăng khoảng 40% trong năm 2000 (đạt khoảng trên 30 triệu USD), một số Công ty cũng đã mở rộng sản xuất như Công ty Design mở thêm một nhà máy tại Biên Hoà, đến nay đã thu hút trên 1.000 công nhân, một số công ty trước đây có giấy phép nhưng trong nhiều năm chưa triển khai hoạt động được, nay cũng bắt đầu đi vào sản xuất. Các nhà đầu tư đánh giá rất cao tinh thần cởi mở của Luật đầu tư nước ngoài, của Nghị định 174, họ cho rằng môi trường đầu tư trong lĩnh vực này đã ngang bằng với các nước khác trong khu vực. Tuy nhiên, trong việc thực thi nghị định vẫn còn một số hạn chế. Cụ thể, theo quy định thì số vốn pháp định cho một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng ở hai thành phố lớn là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là 5 tỷ đồng, ở các tỉnh khác là 1 tỷ đồng, nhưng vẫn chưa có các văn bản cụ quy định cách thức xác nhận vốn pháp định, cơ quan chịu trách nhiệm về quản lý vốn pháp định của DN. Vẫn còn nhiều kẽ hở trong việc quản lý thị trường vàng, theo nghị định 147, NHNN chỉ quản lý thị trường vàng trên một số hoạt động liên quan đến chính sách tiền tệ, nhưng trên thực tế hoạt động kinh doanh vàng rất phức tạp, khó bóc tách như vậy để quản lý. Vì vậy, nhiều địa phương thị trường vàng thường bị buông lỏng quản lý, vì cơ quan quản lý thị trường cho rằng hoạt động kinh doanh vàng là do NHNN quản lý, trong khi đó, các chi nhánh NHNN tại địa phương chỉ quản lý những hoạt động theo Nghị định 174, mà những hoạt động này thì ở các tỉnh hầu như không có (chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn), như vậy, hầu hết các chi nhánh NHNN ở các tỉnh cũng không quản lý thị trường vàng, hạn chế vai trò tham mưu cho các cấp. * Một số vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện: Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, NHNN đã họp với đại diện các ngành liên quan (Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tổng cục Địa chính, Ban Vật giá Chính phủ, Bộ Khoa học công nghệ môi trường, tổ công tác thi hành Luật DN của Chính phủ) để rà soát nội dung từng quy định của NĐ 174. Các ý kiến đều cho rằng hầu hết các quy định tại NĐ 174 hiện còn phù hợp và hợp lý. Riêng quy định về điều kiện vốn pháp định đối với DN cần đề nghị Chính phủ xem xét cho huỷ bỏ, vì điều kiện này hiện nay không còn phù hợp và rất khó có thể thực hiện. Nghị định 174/CP quy định điều kiện vốn pháp định đối với một số hoạt động kinh doanh vàng, một mặt nhằm kế thừa Nghị định 63/CP ngày 23/9/1993 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng, mặt khác nhằm tập trung việc sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ, vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu vào một số DN có mức vốn lớn, có khả năng và quy mô sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ, vàng miếng mẫu mã đẹp đủ chất lượng, hướng tới xuất khẩu. Tuy nhiên sau 3 năm thực hiện NĐ 174, NHNN thấy rằng trong nền kinh tế thị trường, để tạo dựng uy tín thương hiệu của sản phẩm, các DN phải đảm bảo nhiều điều kiện chứ không phải chỉ có điều kiện về vốn mà quyết định được. Hơn nữa hầu hết các DN kinh doanh vàng không phải chỉ hoạt động kinh doanh vàng mà họ thường kinh doanh nhiều ngành nghề khác như xe máy, bất động sản, xăng dầu, cầm đồ..., hoạt động kinh doanh vàng chỉ chiếm từ 20 - 40% doanh thu. Việc xác định vốn để tính vốn pháp định liên quan đến nhiều ban ngành vì các tài sản của DN được tính vào vốn rất đa dạng, cả hữu hình và vô hình, bao gồm: Tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật và các tài sản khác (theo Luật DN). Trong đó quyền sở hữu trí tuệ, công nghiệp, bí quyết kỹ thuật rất khó định giá, và theo Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường thì "Đối với việc xác định vốn pháp định bằng giá trị quyền sở hữu công nghiệp, như quyền sở hữu đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp... trên thực tế rất khó. Căn cứ thực tế để xác định giá trị quyền sở hữu công nghiệp là giá thị trường hầu như không tồn tại. Hiện nay chưa có quy định pháp lý về cách thức và thẩm quyền định giá quyền sở hữu công nghiệp" (công văn số 3282/BKHCNMT-PC ngày 13/11/2001 của Bộ Khoa học Công nghệ Môi trường đính kèm). Như vậy việc quy định điều kiện vốn pháp định đối với hoạt động kinh doanh vàng không còn chính xác và hợp lý nữa. Do đó nếu bỏ điều kiện này sẽ khuyến khích hoạt động sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ, một lĩnh vực cần khuyến khích phát triển còn việc kiểm soát sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu vì mục tiêu chính sách tiền tệ thì vẫn được thực hiện theo giấy phép của NHNN như quy định của NĐ 174. 2.2. ĐÁNH GIÁ. Qua những phân tích về thực trạng thị trường vàng nước ta trong thời gian qua đã cho thấy những thay đổi lớn trong việc quản lý, hoạt động kinh doanh vàng. Đồng thời, cho thấy sự chuyển biến tích cực của các DN kinh doanh vàng, từ chỗ kinh vàng đơn thuần là mua bán, sang hình thức gia công chế tác vàng trang sức mỹ nghệ. Chính sách quản lý vàng đã thu được nhiều thành công, ổn định được thị trường, góp phần tích cực ổn định tỷ giá đồng Việt Nam. Bên cạnh đó hoạt động của thị trường vàng Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, làm hạn chế sự phát triển của hoạt động này như: Chính sách quản lý vẫn còn kồng kềnh, phức tạp gây khó khăn cho hoạt động bình thường của DN; Các DN vẫn chưa có định hướng hoạt động rõ ràng, vẫn trong vòng hoạt động nhỏ lẻ, manh mún; Chính sách thuế vẫn chưa có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ, đưa ngành này thành một ngành có doanh thu xuất khẩu cao; Cơ quan chịu trách nhiệm quản lý thị trường và hoạt động kinh doanh vàng cần rõ ràng, cụ thể và phải được chi tiết hoá. Như vậy, có thể thấy sự cần thiết phải tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh và đề ra các giải pháp nhằm tạo điều kiện thúc đẩy ngành sản xuất vàng trang sức, hướng tới mục tiêu xuất khẩu. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM 3.1. MỤC TIÊU ĐỔI MỚI CƠ CHẾ QUẢN LÝ NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM Thị trường vàng trong thời gian vừa qua diễn biến khá phức tạp, thị trường vàng thế giới thay đổi kéo theo đó là sự ảnh hưởng của nó đến thị trường trong nước, cho nên cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc quản lý các hoạt động kinh doanh của thị trường, nhằm thực thi những chính sách của Nhà nước một cách có lợi nhất. Trong thời gian tới, cơ chế quản lý thị trường vàng, hoạt động kinh doanh vàng của Việt Nam nên hướng đến các mục tiêu sau: - Từng bước tự do hoá thị trường vàng để thực hiện hội nhập Quốc tế. Trong thời gian qua, chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng đã được nới lỏng từng bước, tuy nhiên, cho đến nay ở Việt Nam vàng vẫn là một hàng hoá đặc biệt, được coi là ngoại hối và được quản lý theo quy chế đặc biệt. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, vai trò tiền tệ của vàng ngày càng giảm mức độ ảnh hưởng của vàng tới việc điều hành chính sách tiền tệ vì vậy cũng dần mất đi. Vì vậy, có thể dần dần bỏ đi qui chế quản lý đặc biệt đối với vàng do NHNN thực hiện, mà thay vào đó coi nó là một hoạt động kinh doanh bình thường. - Phát triển vàng trang sức, mỹ nghệ hướng đến xuất khẩu. Chủ trương phát triển nền kinh tế hướng đến xuất khẩu là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Có thể xem việc sản xuất đồ trang sức mỹ nghệ là một thế mạnh của Việt Nam. Đây có thể nói là một ngành không đòi hỏi công nghệ quá cao, với mức đầu tư quá lớn, mà đòi hỏi sự khéo léo trong nghề nghiệp. Xét trên hai khía cạnh là cung và cầu của ngành gia công chế tác vàng bạc, có thể thấy, thị trường này có nhiều tiềm năng không chỉ ở trong nước mà còn ở nước ngoài, vấn đề là, chúng ta có tạo được chỗ đứng cho mặt hàng này của Việt Nam hay không. Vì vậy, cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng của Việt Nam cần hướng đến việc tạo điều kiện cho lĩnh vực này phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu. - Huy động sử dụng hiệu quả nguồn vốn dưới dạng vàng để phát triển kinh tế. Theo đánh giá của Hiệp hội vàng thế giới, từ năm 1990 đến nay, lượng vàng nhập khẩu vào Việt Nam đạt 500 tấn tương đương 5 tỷ USD. Theo một số nguồn số liệu khác, lượng vàng trong dân ở các tỉnh phía Nam trước giải phóng khoảng 150 tấn. Như vậy, có một lượng lớn tài sản của nhân dân còn nằm dưới dạng vàng cất trữ mà chưa biến thành vốn đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Vì vậy, trong tiến trình đổi mới cơ chế chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng cần chú trọng các biện pháp để huy động nguồn vốn này. Theo yêu cầu của đổi mới cơ chế quản lý hoạt động kinh doanh vàng là phải tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, có chính sách đòn bẩy kinh tế khuyến khích các DN đầu tư phát triển các cơ sở sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ với công nghệ hiện đại tạo ra các sản phẩm chất lượng tốt, kỹ thuật tinh xảo và giá thành hạ đủ sức cạnh tranh tại thị trường trong nước và hướng tới xuất khẩu. Đồng thời cần có cơ sở để Nhà nước có thể điều hành thị trường vàng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 3.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM: 3.2.1. Nên đưa vàng ra khỏi khái niệm ngoại hối Hiện nay các nước trên thế giới đã không coi vàng là ngoại hối, mặc dù nó vẫn được coi là một tài sản dự trữ của các NHTW. Tuy nhiên ở một số nước như ở Trung Quốc, các giao dịch về vàng khối, thỏi vẫn do NHTW Trung Quốc quản lý, nhưng trong khái niệm ngoại hối lại không có vàng mà thực hiện theo một quy định riêng. Nguyên nhân chính không đưa vàng vào khái niệm ngoại hối là do nếu coi vàng là ngoại hối thì cơ chế quản lý sẽ rất phức tạp vì đương nhiên phải coi nó như là một loại tiền và như vậy phải quản lý chặt chẽ ngược với bản chất của vàng hiện nay và không phù hợp với xu hướng tự do hoá thương mại của thế giới vì thị trường vàng thế giới lại diễn biến theo xu hướng ngày càng được tự do hoá. Ở Việt Nam do trước đây vàng còn mang nặng vai trò tiền tệ nên việc coi vàng là ngoại hối để kiểm soát chặt chẽ là hợp lý. Tuy nhiên hiện nay khi nền kinh tế đã ổn định, lạm phát đã được kiểm soát, vai trò tiền tệ của vàng đã giảm nhiều thì việc coi vàng là ngoại hối là không cần thiết và thực tế sẽ rất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh thưoưng mại bình thường của các DN. Đồng thời nếu tiếp tục coi vàng là ngoại hối có thể sẽ gây tâm lý đề cao vai trò tiền tệ của vàng (trong khi cần phải giảm thấp vai trò tiền tệ của vàng), ngược lại với xu hướng của các nước trên thế giới và sẽ là một trong những nhân tố cản trở quá trình hội nhập quốc tế. Trước đây nhằm hạn chế việc sử dụng vàng miếng (trọng lượng 1 kg) do nước ngoài sản xuất để cất trữ, thanh toán, Luật NHNN và Nghị định 63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối đã đưa ra khái niệm "Vàng tiêu chuẩn quốc tế" và coi đây là một loại ngoại hối với cơ chế quản lý rất chặt chẽ. Loại vàng này không được sử dụng để làm nguyên liệu sản xuất mà chỉ để mua bán thông thường. Tuy nhiên trong thực tế quy định này mang nặng tính quản lý hành chính, mà hiệu quả quản lý không cao và còn hạn chế quyền kinh doanh của DN, đồng thời gây khó khăn trong việc đối chiếu văn bản để thực hiện. Đồng thời do đã điều chỉnh bằng chính sách thuế (hiện nay thuế nhập khẩu vàng miếng - vàng tiêu chuẩn quốc tế là 5%), do thuế cao nên thực tế nếu có cho nhập khẩu vàng tiêu chuẩn quốc tế, các DN cũng không nhập được. Trên thế giới thông thường các NHTW chỉ quản lý vàng trong dự trữ ngoại hối nhà nước. Như vậy việc quy định "vàng tiêu chuẩn quốc tế" là ngoại hối và do NHNN quản lý cũng không phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác dùng thuật ngữ "vàng tiêu chuẩn quốc tế" cũng không chính xác, vì có rất nhiều loại vàng khác nhau như vàng nguyên liệu, vàng trang sức, vàng mỹ nghệ... Các loại vàng này có thể gọi là vàng nguyên liệu tiêu chuẩn quốc tế, vàng trang sức tiêu chuẩn quốc tế... Đồng thời trên thế giới cũng không có nước nào sử dụng thuật ngữ này mà họ chỉ dùng thuật ngữ "vàng đủ tiêu chuẩn giao dịch"... Để tạo môi trường kinh doanh thông thoáng trong hoạt động kinh doanh của các DN, phù hợp với sự đổi mới của hệ thống văn bản nói chung, hoạt động thực tế của thị trường vàng, phù hợp với thông lệ quốc tế cần có thay đổi chỉnh sửa các văn bản về quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo hướng chỉ nên quy định thống nhất một loại vàng và NHNN chỉ quản lý vàng trong dự trữ ngoại hối nhà nước. 3.2.2. Không nên quản lý hoạt động kinh doanh vàng theo một quy chế riêng Hiện nay hoạt động kinh doanh vẫn chịu sự điều chỉnh của 2 Nghị định đối với 2 loại vàng là vàng tiêu chuẩn quốc tế và không phải tiêu chuẩn quốc tế. - Nghị định 63/CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối điều chỉnh vàng ngoại hối tức "vàng tiêu chuẩn quốc tế". - Các loại vàng không phải vàng tiêu chuẩn quốc tế được điều chỉnh trong Nghị định 174/1999 ngày 19/12/1999 về quản lý đối với hoạt động kinh doanh vàng. NHNN có chức năng quản lý hoạt động kinh doanh của cả hai loại vàng này. Quy định này đã gây không ít khó khăn, phức tạp cho hoạt động bình thường của các DN. Do thực hiện theo cơ chế riêng nên còn nhiều vấn đề qui dịnh chưa chặt chẽ không đầy đủ. NHNN với chức năng quản lý hoạt động tiền tệ, tín dụng vốn đã rất phức tạp, nay lại phải thực hiện việc quản lý thị trường vàng rộng lớn với hơn 8.000 tổ chức và cá nhân kinh doanh thì quả là công việc quá tải. Mặt khác cơ quan quản lý thị trường thấy nhiệm vụ quản lý hoạt động kinh doanh vàng là nhiệm vụ của NHNN nên đã không thực sự quan tâm đến lĩnh vực này, nên còn hiện tượng đùn đẩy, bỏ ngỏ trong công tác quản lý thị trường vàng. Hoạt động kinh doanh vàng trang sức, mỹ nghệ (sản xuất, mua bán các loại sản phẩm như nhẫn, dây chuyền, khuyên tai, ...) là những hoạt động kinh doanh bình thường, giống như kinh doanh các loại hàng hoá bình thường khác. Việc kinh doanh này chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu trang sức của xã hội và thu lợi nhuận, không ảnh hưởng gì tới việc điều hành chính sách tiền tệ nên không cần phải có cơ chế quản lý riêng. Đối với một số hoạt động kinh doanh vàng còn ảnh hưởng tới việc điều hành chính sách tiền tệ như hoạt động sản xuất vàng miếng, xuất nhập khẩu vàng nguyên liệu trong thời gian trước mắt chỉ cần quy định cơ chế quản lý riêng đối với các hoạt động này. Đồng thời chỉ cần giao NHNN là cơ quan quản lý các hoạt động kinh doanh vàng có ảnh hưởng tới việc điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên đây cũng chỉ là biện pháp trước mắt, điều quan trọng là cần phải chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cần thiết để có thể bỏ các hạn chế này vào năm 2003 khi Việt Nam chính thức ra nhập khối thị trường tự do Châu Á (AFTA). 3.2.3- Chính sách nhập khẩu vàng nguyên liệu Việt Nam là nước nhập khẩu vàng, hàng năm số lượng vàng nhập khẩu nên tới trên 40 tấn tương đương 400 triệu USD. Tuy nhiên do chưa có thị trường vàng nguyên liệu nên khi các DN có nhu cầu nhập vàng vẫn phải trực tiếp xin phép NHNN. Việc thực hiện như trên dẫn đến hiện tượng các DN không chủ động trong kế hoạch sản xuất kinh doanh, thị trường vàng không chủ động được nguồn hàng. Trong năm 2001 mặc dù nhiều DN xin và được cấp giấy phép nhập khẩu vàng, nguyên liệu, nhưng do mức thuế nhập khẩu cao (vàng hạt 1%, vàng miếng 5%), trong khi vàng nhập khẩu giá lại rẻ hơn nên các DN cũng không nhập khẩu được. Chính vì vậy cần hình thành nên trung tâm giao dịch vàng nguyên liệu để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu với giá cả hợp lý cho các DN. Sau khi thị trường vàng nguyên liệu hình thành và thực sự điều tiết được quan hệ cung cầu vàng nguyên liệu sẽ bỏ giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu. Như vậy nhu cầu vàng nhập khẩu sẽ được tự điều tiết thông qua quan hệ cung cầu về vàng, đó là hợp lý hơn, do không còn hạn chế bởi giấy phép, các DN chỉ nhập khẩu vàng khi thấy thực sự cần thiết và giá cả rẻ hơn giá trong nước. Nhà nước chỉ điều tiết thông qua chính sách thuế. Và như vậy hoạt động của thị trường vàng sẽ được công khai. Ngân sách Nhà nước tăng được nguồn thu, Nhà nước nắm được hoạt động của thị trường và đây cũng là tiến trình chống độc quyền không cần thiết. 3.2.4. Chính sách quy hoạch phát triển của các tổ chức kinh doanh vàng Để có thể phát triển được thị trường vàng cần phải có chính sách quy hoạch lại các DN kinh doanh vàng. Hiện nay số lượng các DN tương đối lớn so với dung lượng của thị trường (hơn 8000 DN và cá nhân kinh doanh vàng). Tuy nhiên hiệu quả hoạt động lại thấp, vì vậy cần phải sắp xếp quy hoạch lại các DN kinh doanh vàng. Cụ thể: 3.2.4.1. Đối với hệ thống DNNN Chỉ duy trì các DNNN có quy mô lớn, hoạt động có hiệu quả. Các DN này phải thực sự đóng vai trò chủ đạo, đảm đương được vai trò làm đầu mối gắn kết các thành phần kinh tế khác để thực hiện các chủ trương quy hoạch chung của ngành theo định hướng của Nhà nước. Giải thể, chuyển hình thức kinh doanh đối với các DNNN làm ăn không hiệu quả. Bỏ bao cấp các DN này, nếu không tự đứng vững trên thị trường thì phải tiến hành sắp xếp lại DNNN theo hướng sáp nhập, giải thể, cổ phần hoá. 3.2.4.2. Đối với hệ thống tư nhân Chính phủ cần sớm có các chính sách hợp lý (như hỗ trợ đầu tư, chính sách thuế...) để khuyến khích các DN tư nhân sắp xếp tổ chức lại mạng lưới sản xuất gia công vàng trang sức, tạo điều kiện để các xưởng sản xuất nhỏ, thủ công thiết bị máy móc lạc hậu, quy mô vốn nhỏ liên doanh, liên kết thành những cơ sở sản xuất có quy mô hoạt động lớn, thu hút các nguồn vốn để đầu tư mở rộng sản xuất. Các DN không làm ăn hiệu quả, không có chỗ đứng trên thị trường sẽ phải tự giải thể. Có như vậy mới tập hợp, khai thác được thế mạnh của đội ngũ nghệ nhân, thợ kim hoàn, phát triển sản xuất hàng trang sức với quy mô lớn, có đủ điều kiện tiếp nhận công nghệ máy móc thiết bị hiện đại tạo ra các sản phẩm có sức cạnh tranh đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Có chính sách khuyến khích hình thành các DN phi quốc doanh (tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần), đặc biệt ở quy mô vừa và nhỏ và tại lĩnh vực chế tác nữ trang truyền thống. Hình thức áp dụng như chính sách thuế, chính sách ưu đãi đầu tư, tín dụng ngân hàng... - Tại lĩnh vực chế tác nữ trang công nghiệp, khuyến khích đầu tư công nghệ mới có sức cạnh tranh để phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu của ngành trong từng giai đoạn. - Vận động bằng phương thức hợp tác có tính thuyết phục và các hình thức tổ chức thích hợp để đưa các DN vừa và nhỏ, các hộ sản xuất gia đình vào dây chuyền sản xuất công nghệ tập trung với sự chi phối của các DN. 3.2.4.3. Đối với DN có vốn đầu tư nước ngoài Khuyến khích đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất vàng trang sức để xuất khẩu, nhằm tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, đồng thời giúp các DN Việt Nam tiếp cận với nền sản xuất công nghiệp. Việt Nam là nước phải nhập khẩu vàng, vì vậy trong khi chưa sản xuất được vàng nguyên liệu, đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải nhập khẩu vàng để gia công tái xuất. Tỷ lệ cho phép tiêu thụ sản phẩm tại thị trường Việt Nam đúng bằng số tiền đồng sử dụng tại Việt Nam. Không nên cho các DN này bán hàng tại Việt Nam với tỷ lệ lớn, nếu không các DN Việt Nam sẽ không có cơ hội để cạnh tranh với loại hình các DN này. 3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: 3.3.1. Chỉnh sửa hệ thống văn bản cho phù hợp với tinh thần đổi mới - Bỏ khái niệm vàng tiêu chuẩn quốc tế tại Luật NHNN. - Chỉnh sửa Nghị định 63/1998/NĐ-CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối, bỏ "Vàng tiêu chuẩn quốc tế" ra khỏi khái niệm ngoại hối, không được điều chỉnh trong Nghị định 63/CP (coi vàng tiêu chuẩn quốc tế là một loại vàng miếng nguyên liệu được điều chỉnh trong Nghị định 174). - Đối với chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng: + Trước mắt cần chỉnh sửa ngay Nghị định 174/1999 ngày 19/12/1999 về quản lý đối với hoạt động kinh doanh vàng. Nội dung chỉnh sửa là bỏ các quy định về vốn pháp định đối với hoạt động sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ, coi đây là một hoạt động kinh doanh bình thường giống như hoạt động kinh doanh vàng khác. Chỉ giữ lại một số quy định liên quan đến việc sản xuất vàng miếng, nhập khẩu vàng nguyên liệu. Vì các quy định này đang cản trở hoạt động bình thường của các DN như đã phân tích tại phần trên. + Có bước đi thích hợp dỡ bỏ các hạn chế đối với hoạt động kinh doanh vàng trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, sản xuất vàng miếng. Chỉ điều tiết thị trường vàng thông qua hệ thống thuế. Coi hoạt động kinh doanh vàng như các loại hàng hoá khác bị điều chỉnh bởi luật thương mại. 3.3.2. Cần có chính sách thuế hợp lý- đây là yếu tố cơ bản tạo ra một động lực phát triển ngành vàng Thuế đang là vật cản lớn đối với phát triển ngành vàng như đã phân tích ở phần trên. Vì vậy cần phải có sự nghiên cứu kỹ càng để đưa ra một chính sách thuế phù hợp mới có tác dụng khuyến khích đầu tư tạo ra động lực phát triển ngành. Chính sách thuế đối với ngành mỹ nghệ kim hoàn cẩn được chỉnh sửa theo hướng: - Điều chỉnh mức thuế suất từ 20% xuống mức thuế suất 7 - 10% GTGT tính theo phương thức trực tiếp. Với mức thuế suất này các DN kinh doanh sẽ tích cực đầu tư mở rộng sản xuất, mở rộng thị trường và sẽ góp phần phát triển nền kinh tế đất nước. - Nghiên cứu giảm thuế nhập khẩu vàng xuống khoảng 1% để các DN có khả năng cạnh tranh với các sản phẩm của các nước trong khu vực. Đồng thời hạn chế được tình trạng nhập lậu vàng đang diễn ra như hiện nay. - Cần có chế tài bắt buộc các DN tư nhân phải sử dụng sổ sách chứng từ kế toán, bỏ cách tính thuế theo phương pháp thuế khoán (là phương thức tính thuế phổ biến hiện nay) nhằm tạo ra sự bình đẳng trong nghĩa vụ thuế có như vậy mới khuyến khích các DN đầu tư phát triển sản xuất. 3.3.3. Nghiên cứu ban hành các quy định phù hợp hơn làm cơ sở pháp lý cho việc huy động nguồn vốn bằng vàng Với chủ trương khai thác triệt để nguồn vốn trong nội bộ nền kinh tế để đầu tư phát triển sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc khai thác nguồn vốn dưới dạng vàng là một yêu cầu thực tế cần thiết và cấp bách. Thực hiện được điều này cũng góp phần quan trọng trong việc tiết kiệm chi dùng ngoại tệ nhập khẩu. Giúp cho việc điều hành chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá. Nhất là trong điều kiện giá vàng ổn định ở mức thấp và tỷ lệ lạm phát trong nước ở mức thấp như hiện nay. Để có thể thực hiện nghiệp vụ huy động nguồn vốn bằng vàng có hiệu quả cần quan tâm đến các vấn đề sau đây: - Mục đích sử dụng nguồn vốn bằng vàng đã huy động: Việc huy động vốn dưới dạng vàng phải gắn liền với các biện pháp phòng ngừa rủi ro về biến động giá vàng, nên chỉ cho các tổ chức nào hoạt động kinh doanh vàng có hiệu quả, đảm bảo an toàn mới được huy động vàng. Trước mắt nên để các tổ chức tín dụng, các DN kinh doanh vàng lớn có uy tín được huy động vàng. - Về nguyên tắc lãi suất huy động và ở mức hợp lý để hoạt động này thực sự đem lại hiệu quả. - Điều quan trọng là phải sớm hình thành Trung tâm giao dịch vàng để phát triển thêm các nghiệp vụ giao dịch về vàng kỳ hạn để có công cụ phòng ngừa rủi ro. 3.3.4. Thành lập trung tâm giao dịch vàng Mặc dù Việt Nam có tiềm năng về khoáng sản vàng, tuy nhiên đến nay trữ lượng khai thác mới đạt ở mức thấp khoảng từ 1,2 tấn/năm. Do vậy so với nhu cầu sản xuất kinh doanh của khoảng gần 8.000 tổ chức và cá nhân kinh doanh vàng thì nguồn nguyên liệu vàng phục vụ cho nhu cầu sản xuất cuả các DN chủ yếu phải nhập khẩu từ nước ngoài là chính. Theo số liệu của tổ chức Gold Field Mineral Service, lượng vàng nhập khẩu ước tính vào Việt Nam trong các năm qua không dưới 40 tấn một năm. Như vậy trong khi các công cụ giao dịch khác của thị trường vàng chưa có thì nguồn nguyên liệu của thị trường vàng Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào nguồn vàng nhập khẩu. Chính vì vậy việc thành lập một thị trường vàng nguyên liệu ở Việt Nam là cần thiết. Trong giai đoạn đầu, thị trường vàng nguyên liệu này có thể được tổ chức dưới hình thức trung tâm giao dịch vàng, nơi các DN kinh doanh vàng có thể tìm kiếm nguồn nguyên liệu ổn định phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Đồng thời sẽ tiết giảm được các chi phí nhập khẩu cho các DN, góp phần làm giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của DN Việt Nam. Trung tâm giao dịch vàng ra đời sẽ dần loại bỏ thị trường vàng chợ den, đồng thời cũng sẽ góp phần cho việc huy động nguồn vàng to lớn hiện đang nằm trong dân chúng. Mặt khác, cùng với sự phát triển của trung tâm giao dịch vàng, các DN sẽ có các phương tiện để dự phòng rủi ro đối với biến động giá vàng. Về hình thức hoạt động của trung tâm giao dịch vàng, cũng giống như mô hình của trung tâm giao dịch vàng Hongkong hay Indonesia bước đầu trung tâm sẽ hoạt động giống như chợ mua, bán vàng nguyên liệu để tập trung nhu cầu mua bán và hình thành nên giá vàng nguyên liệu. Trung tâm này sẽ được điều hành bởi Hiệp hội kinh doanh vàng dưới sự bảo trợ của NHNN. Thông qua cung cầu vàng nguyên liệu trên trung tâm này, NHNN sẽ nắm được cung cầu vàng của thị trường, qua đó có căn cứ để cho phép nhập khẩu vàng với số lượng phù hợp. Đồng thời thông qua trung tâm sẽ mở ra một số nghiệp vụ kinh doanh vàng mới nhằm khai thác nguồn vàng nguyên liệu tại chỗ để giảm nhu cầu nhập khẩu. Hiện tại các tổ chức tín dụng đã được phép huy động tiết kiệm dưới dạng vàng, tuy nhiên đang khó khăn đầu ra cho nguồn vàng này. Thông thường để đảm bảo an toàn tránh rủi ro về giá vàng, mục đích sử dụng của nguồn vàng nguyên liệu huy động chủ yếu để cho vay các DN kinh doanh vàng làm nguyên liệu sản xuất các sản phẩm vàng. Về nguyên tắc sau khi các DN bán sản phẩm vàng sẽ mua lại vàng nguyên liệu để trả cho các Ngân hàng nên không có rủi ro về giá vàng. Nếu hình thành nên trung tâm giao dịch vàng, có các nghiệp vụ về giao dịch kỳ hạn bản thân các ngân hàng sẽ chống rủi ro về giá vàng thông qua các hợp đồng giao dịch kỳ hạn trên thị trường vàng quốc tế. Lúc đó huy động vàng sẽ đảm bảo an toàn hơn. 3.3.5. Nâng cao vai trò của các tổ chức hỗ trợ phát triển ngành kim hoàn 3.3.5.1. Thành lập hiệp hội kinh doanh vàng Mặc dù có gần 8.000 DN kinh doanh vàng, nhưng nhìn chung DN nhiều nhưng không mạnh, sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ của các DN vẫn mang tính chất sản xuất nhỏ, thủ công, manh mún nên sản phẩm chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của thị trường trong và ngoài nước cả về số lượng, chất lượng và mẫu mã. Sản phẩm mới chỉ đáp ứng được chủ yếu cho nhu cầu của thị trường trong nước. Một trong những nguyên nhân quan trọng làm thị trường vàng Việt Nam chưa phát triển là do thiếu một tổ chức nghề nghiệp thống nhất, tập trung và là đại diện của các DN. Trước đây ngành vàng cũng đã có tổ chức Hội mỹ nghệ kim hoàn, tuy nhiên tổ chức này không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh doanh của các DN. Hiệp hội kinh doanh vàng là một tổ chức tự nguyện phi Chính phủ của các DN kinh doanh vàng, bạc và đá quý thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các DN, đặc biệt có sự phối hợp có hiệu quả giữa các tổ chức, cá nhân kinh doanh vàng tại Việt Nam để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài, tạo thêm uy tín và sức mạnh cho các DN kinh doanh vàng khi thâm nhập thị trường vàng khu vực và quốc tế. Hiệp hội này cũng là cơ quan đại diện cho tiếng nói của các DN kinh doanh vàng để đưa ra những kiến nghị, đề xuất về cơ chế, chính sách đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Thực chất việc ra đời Hiệp hội kinh doanh vàng xuất phát từ 4 mối quan hệ tổng thể: - Trước hết là mối quan hệ với Nhà nước. Các cơ chế chính sách của Nhà nước và Chính phủ phải dựa trên quyền lợi chung của quốc gia và của các DN. Tuy nhiên không thể từng DN với giác độ và quyền lợi riêng của mình để đối thoại với Chính phủ, mà còn có một tổ chức đại diện, mang tiếng nói chung của ngành nghề mình trước những cơ quan của Nhà nước và Chính phủ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp và khả năng phát triển của ngành nghề. - Mối quan hệ giữa các DN với nhau cũng đòi hỏi có tổ chức thống nhất. Cơ chế thị trường chấp nhận cạnh tranh và cạnh tranh thúc đẩy cơ chế thị trường phát triển. Việc ra đời một tổ chức thống nhất như Hiệp hội kinh doanh vàng không phải với mục đích triệt tiêu cạnh trah mà tạo ra một sân chơi bình đẳng giữa các DN cùng ngành nghề, hơn nữa nó còn thúc đẩy sự hợp tác cùng phát triển giữa các DN. - Hiệp hội kinh doanh vàng ra đời sẽ bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng. Nói đến quyền lợi của khách hàng không thể không nói đến 2 vấn đề cơ bản đó là giá cả và chất lượng hàng hoá. Chúng ta đã biết đối với các sản phẩm vàng, bạc và đá quý hiện nay, đây là vấn đề hết sức nan giải. Hiệp hội kinh doanh vàng ra đời sẽ góp phần bảo vệ người tiêu dùng và cũng chính là bảo vệ các DN làm ăn chân chính. - Cuối cùng là xuất phát từ mối quan hệ giữa ngành vàng, bạc và đá quý Việt Nam với thế giới. Rõ ràng là chúng ta đang bị tụt hậu so với ngành vàng, bạc thế giới cũng như khu vực. Và nếu như chúng ta cứ hoạt động manh mún như hiện nay không có sự thống nhất về chiến lược phát triển chung cho toàn ngành thì chúng ta sẽ tiếp tục bị tụt hậu và sẽ bị hoà tan khi chúng ta hội nhập vào AFTA vào năm 2003, không những sản phẩm không xuất ra được nước ngoài mà sản phẩm quốc tế sẽ tràn ngập vào Việt Nam và chúng ta sẽ thất bại ngay trên thị trường của mình. Chính vì vậy, không còn con đường nào khác là cùng nhau hợp tác phát triển nâng dần thế và lực của ngành vàng, bạc và đá quý Việt Nam. Hiệp hội kinh doanh vàng ra đời chủ yếu thực hiện các chức năng: - Thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, tìm kiếm thị trường xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm vàng, đá quý; - Hỗ trợ thông tin thương mại, dầu tư của DN đối với hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực vàng, đá quý ở Việt Nam và nước ngoài; - Đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cộng đồng các DN hội viên trong các quan hệ trong nước và quốc tế; - Là diễn đàn thông tin và trao đổi ý kiến giữa các hội viên, tổng hợp ý kiến của hội viên về những vấn đề liên quan đến các hoạt động kinh tế và môi trường kinh doanh trong lĩnh vực vàng, đá quý ở Việt Nam và đại diện cho các hội viên phát biểu với các tổ chức và cơ quan Nhà nước; - Hình thành các tổ chức trực thuộc tiến hành kinh doanh và cung cấp các dịch vụ như trung tâm giao dịch mua bán, dạy nghề... 3.3.5.2. Hình thành trung tâm thông tin khuếch trương xuất khẩu kim hoàn Nâng cao hoạt động ngành kim hoàn hướng đến xuất khẩu đòi hỏi phải đẩy mạnh việc thu thập, xử lý thông tin và tích cực tìm cơ hội đầu tư giao dịch ở cấp độ quốc tế. Hoạt động này phải có sự tham gia tích cực vàliên kết chặt chẽ giữa các DN kinh doanh VBĐQ và Hiệp hội bằng cách hợp tác thành lập Trung tâm Thông tin - Khuếch trương xuất khẩu kim hoàn, một loại hình DN dịch vụ, phục vụ đắc lực cho chiến lược phát triển và công nghiệp hoá ngành. Mô hình tổ chức này được xây dựng trên cơ sở thương mại hoá thông tin phục vụ cho các DN kinh doanh VBĐQ thuộc các thành phần kinh tế. 3.3.5.3. Tổ chức trường đào tạo chuyên ngành kim hoàn Mục tiêu công nghiệp hoá ngành kim hoàn không thể thực hiện được nếu không có sự đào tạo tay nghề cho đội ngũ lao động chuyên ngành, hiện nay đang ở trình độ rất thấp, thủ công là chủ yếu. Việc đào tạo được thực hiện một phần từ chương trình tự đào tạo tại các DN công nghiệp. Phần lớn còn lại phải được đào tạo chính quy từ trường đào tạo kim hoàn được hình thành với sự liên kết góp vốn hoặc bảo trợ của các Tổng công ty VBĐQ và với sự hợp tác của các trường đại học kỹ - mỹ thuật và các tổ chức quốc tế về vàng và đá quý thế giới. Các chuyên ngành cần đào tạo gồm: - Kiểm định vàng và đá quý (trình độ quốc tế) - Chế tác nữ trang và đá quý công nghiệp - Thiết kế mẫu mã nữ trang công nghiệp - Chế tác khuôn mẫu - Chế tác hợp kim vàng - Vận hành, sửa chữa và bảo trì các thiết bị công nghiệp kim hoàn... 3.3.6. Từng bước phát triển nghiệp vụ kinh doanh vàng theo thông lệ quốc tế và kinh doanh trên thị trường vàng quốc tế: Cũng giống như thị trường ngoại tệ, thị trường vàng quốc tế cũng đầy đủ các loại thị trường giao dịch: - Nghiệp vụ giao ngay - Nghiệp vụ kỳ hạn - Nghiệp vụ về quyền lựa chọn vàng - Nghiệp vụ về chứng chỉ vàng Do hiện nay chúng ta chưa có thị trường vàng kỳ hạn, thị trường quyền lựa chọn, nên việc kinh doanh vàng phụ thuộc nhiều vào biến động của giá vàng thế giới với rất nhiều rủi ro. Việc cho phép các DN kinh doanh vàng áp dụng các phương thức giao dịch mới cùng với việc kinh doanh vàng trên thị trường vàng quốc tế sẽ mở cho các DN một giải pháp bảo toàn vốn. Cùng với nghiệp vụ chứng chỉ vàng hợp đồng mua bán kỳ hạn sẽ làm giảm nhu cầu về vàng thực để dự trữ, tích luỹ và bảo tồn giá trị đồng vốn, đồng thời cũng thuận lợi cho việc chuyển dịch đồng vốn ra khỏi vàng, để trở lại vòng kinh doanh các loại hàng hoá khác. Việc cho phép kinh doanh vàng được mở tài khoản vàng tại nước ngoài cũng sẽ tạo điều kiện tốt cho việc nhập khẩu vàng và sử dụng vàng hiệu quả. Thông qua giao dịch trên tài khoản vàng, các DN sẽ tiết kiệm được rất nhiều thời gian nhận hàng, chi phí vận chuyển bảo quản, đặc biệt là không phải bỏ quá nhiều vốn "chết" trong kho. Các DN chỉ cần giữ lượng vàng tồn kho tối thiểu đủ để sản xuất, kinh doanh. Nếu thị trường có biến động DN có thể sử dụng đến đâu sẽ chuyển tiền mua ngay vàng vào tài khoản đến đó, sau đó nếu cần sử dụng vàng vật chất, DN sẽ chuyển về một lần. Nếu có DN có thể bán ngay vàng trên tài khoản tại thị trường vàng quốc tế. KẾT LUẬN Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, chính sách quản lý hoạt động kinh doanh vàng của nước ta đã từng bước được hoàn thiện. Tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường vàng phát triển, đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vàng của mọi đối tượng trong nền kinh tế. Tạo ra một thị trường vàng phong phú đa dạng gồm các thành phần kinh tế cùng kinh doanh, cạnh tranh phát triển, góp phần ổn định giá cả thị trường, hỗ trợ tích cực cho việc thực thi chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN. Bên cạnh những vướng mắc như chính sách quản lý còn kồng kềnh, phức tạp gây khó khăn cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, chính sách thuế vẫn có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ. Song, trong thời gian qua đã có sự chuyển biến tích cực của các doanh nghiệp kinh doanh vàng từ chỗ kinh doanh đơn thuần là mua bán, sản xuất kinh doanh vàng miếng, sang đầu tư sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ. Hoạt động sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ đã được các doanh nghiệp quan tâm, chú trọng nhằm nâng cao uy tín của mình. Nhờ vậy, doanh số xuất khẩu sản xuất vàng trang sức mỹ nghệ đã tăng lên đáng kể. Có thể nói đây là một tiềm năng, chính phủ nước ta phải có những chính sách phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất vàng trang sức phát triển. Vấn đề ở chỗ chúng ta nên lựa chọn cách tốt nhất, hướng đi đúng nhất cho Việt Nam, nhằm đưa ngành kim hoàn phát triển vượt bậc, đạt kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD vào những năm tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Frederic S.Miskin - tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - NXB KH&KT 1995 2. Cơ cấu và hoạt động của thị trường vàng thế giới - quỹ tiền tệ quốc tế. 3. Dự trữ vàng của các nước - tạp chí ngoại thương các số 5, 9, 10 - 1996. 4. Giáo trình lý thuyết tiền tệ và ngân hàng (NXB Thống kê - HN 2001) 5. Giáo trình lý thuyết tài chính - tiền tệ (Tập I) - NXBGD 1999. 6. Kỹ thuật vàng bạc - HN- KHKT - 1990. 7. Nghiên cứu và các đề xuất liên quan đến sách mở cửa thị trường vàng Trung Quốc trong thời kỳ mới - Hội đồng vàng thế giới. 8. Nghiên cứu kinh tế số 273 tháng 2 năm 2001. 9. Nguyễn Văn Tám - Tài chính quốc tế hiện đại trong nền kinh tế mở (NXB Thống kê) 10. Nghị định số 63/CP ngày 24/9/1993 về quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh doanh vàng 11. Nghị định số 63/1998/NĐ - CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối. 12. Nghị định 174/1999/NĐ - CP ngày 09/12/1999 của Chính phủ về quản lý ngoại hối. 13. Những trang lịch sử của đồng tiền. NXB KH Phân viện Xibiria 1986 - Nga 14. Sổ tay vàng (người dịch: Dương Thị Phượng và Lê Hoàng Dương). 15. Tạp chí ngân hàng số 7/2001. 16. Từ điển tài chính tín dụng (Liên Xô cũ) - M - Tài chính quốc gia 1961 LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ quý báu của các thầy, cô và các bạn. Trước hết, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Phạm Hoàng Anh giảng viên Khoa tiền tệ tín dụng quốc tế - Học viện ngân hàng. Người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình hoàn thành luận văn này. Tôi xin trân trọng cảm ơn Thạc sỹ Đào Xuân Tuấn Phó trưởng phòng - phòng chính sách tỷ giá - NHNN Việt Nam. Xin chân thành cảm ơn và bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô Nguyễn Thị Khánh Tâm - Trưởng phòng Vụ quản lý ngoại hối - NHNN Việt Nam đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn. Xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo, khoa tiền tệ tín dụng quốc tế học viện ngân hàng, đã giúp đỡ em trong suốt thời gian học tại trường. Cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của NHNN Việt Nam, Tổng Công ty vàng bạc đá quý Việt Nam, Công ty chế tác vàng và trang sức 1 - Tổng Công ty vàng bạc đá quý Việt Nam đã tạo những điều kiện thuận lợi nhất để tôi hoàn thành luận văn này. Con xin chân thành cảm ơn đại gia đình, bố mẹ đã có công sinh thành dưỡng dục để con có được ngày hôm nay !

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33916.doc
Tài liệu liên quan