Luận văn Thơ ca dân gian của người dao tuyển ở Lào Cai

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Lí do khoa học Văn hoá là nền tảng, là nhân tố phản ánh trình độ phát triển của xã hội. Văn hoá truyền thống thể hiện sự sáng tạo của mỗi dân tộc. Nền văn hoá Việt Nam mang đậm bản sắc văn hoá của cư dân nông nghiệp, được tạo bởi dân tộc Việt Nam trong đó có sự đóng góp không nhỏ của các dân tộc thiểu số sống trên đất nước Việt Nam. Đảng Cộng Sản Việt Nam khẳng định: “Coi trọng và bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống và xây dựng phát triển giá trị mới về văn hoá văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số là một nhiệm vụ vô cùng cấp bách”[77, tr.63]. Văn học dân gian là một thành tố quan trọng của văn hoá dân gian, là di sản văn hoá quí báu của dân tộc. Mỗi làn điệu dân ca, mỗi lời ca dao . đều lấp lánh trong nó vẻ đẹp của bản sắc văn hoá truyền thống dân tộc, vẻ đẹp của tính cách, tâm hồn con người. Thơ ca dân gian là một tiểu loại đặc sắc của văn học dân gian. Tìm hiểu thơ ca dân dân gian của dân tộc Dao nói chung, của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng là một việc làm cần thiết, góp phần gìn giữ và phát huy những tinh hoa di sản văn hoá quý báu của dân tộc. 1.2.Lí do thực tiễn Từ trước đến nay, có khá nhiều công trình nghiên cứu về người Dao đã được tiến hành trong phạm vi cả nước, từ việc tìm hiểu cội nguồn lịch sử, tình hình phân bố dân cư, đời sống tôn giáo, tín ngưỡng cho đến việc phân tích sự phát triển kinh tế xã hội và biến đổi văn hoá dân tộc Dao ở các địa phương. Các công trình ấy cung cấp khá đầy đủ về một số khía cạnh dân tộc học, văn hoá học. Nhưng chưa có công trình nào đi sâu vào tìm hiểu thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai. Vì vậy, chúng tôi lựa chọn đề tài này nhằm tìm hiểu đời sống tinh thần của người Dao Tuyển qua thơ ca, đặc biệt là các giá trị về nội dung và nghệ thuật của thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai. Tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ góp phần làm sáng tỏ thêm về cuộc sống, văn hoá, tâm hồn của con người miền núi nói chung và nhóm người Dao Tuyển nói riêng. Hiện nay, tôi đang trực tiếp giảng dạy bộ môn Văn tại nơi có nhiều người Dao Tuyển sinh sống. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai sẽ giúp tôi hiểu rõ hơn về văn hoá tinh thần của người Dao Tuyển. Từ đó có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy văn học dân gian của các tộc người thiểu số. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Mỗi dân tộc đều có những nét văn hoá đặc thù riêng. Những giá trị văn hoá đậm bản sắc đó đã tạo nên nền văn hoá thống nhất mà đa dạng Việt Nam. Nghiên cứu nền văn học dân gian của các dân tộc là nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Nghiên cứu để bảo tồn và phát triển bền vững thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai có ý nghĩa thiết thực với địa phương. Trong nhiều thập kỉ qua, đã có không ít nhà khoa học quan tâm nghiên cứu về người Dao. Các công trình nghiên cứu đó đã đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến một vài khía cạnh về người Dao ở Lào Cai. Từ thế kỉ XVIII, nhà bác học Lê Quý Đôn đã viết tác phẩm Kiến văn tiểu lục (1778). Trong tác phẩm này, Lê Quý Đôn không chỉ đề cập đến nguồn gốc, mà còn miêu tả khái quát về cách ăn mặc, cuộc sống di cư của một nhóm người Man (Dao) ở nước ta. Cũng vào năm đó, tác phẩm Hưng Hoá xứ – Phong Thổ lục của tiến sĩ Hoàng Bình Chính đã giới thiệu sơ lược về người Dao ở Châu Thuỷ Vỹ (Lào Cai). Năm 1856, nhà sử học Phạm Thận Duật đã viết tác phẩm Hưng Hoá kí lược, giới thiệu khái quát về phong tục tập quán của các dân tộc ở Hưng Hoá, trong đó có nói tới phong tục tập quán người Mán (Dao). Tuy nhiên, các tác phẩm trên đều chưa nói đến thơ ca dân gian của người Dao mà chỉ giới thiệu khái quát về người Dao với những vấn đề về lịch sử, dân tộc học. Đến đầu thế kỉ XX, nhiều tài liệu viết về người Dao ở nước ta do các tác giả người Pháp viết lần lượt được công bố. Đáng chú ý là các bài viết của M.Abadie, đặc biệt là A.Bonifacy với các bài viết: Các dân tộc miền Bắc Đông Dương, Một cuộc công cán ở vùng người Mán. Những bài viết này đề cập đến nhiều khía cạnh văn hoá của các nhóm Dao ở Việt Nam như ngôn ngữ, sản xuất, phong tục tập quán .nhưng cũng chỉ mô tả khái quát và còn tản mạn. Năm 1904, A.Bonifacy tiếp tục công bố các bài đã sưu tầm được về truyền thuyết dân gian người Dao như Truyền thuyết Bàn Hồ, Quá Sơn Bảng .rồi hàng loạt các chuyên khảo về người Dao như: Mán Quần cộc (1904 – 1905), Mán Quần Trắng (1905), Mán Đại Bản (1908) .Trong đó có trích dẫn một số đoạn thơ ca từ sách cúng, từ đám cưới, đám tang của người Dao. Mặc dù những đoạn thơ ấy chỉ được giới thiệu hết sức sơ lược hay chỉ làm minh chứng cho những nhận định, nhưng cũng đã đánh dấu ông là học giả đầu tiên đề cập đến thơ ca dân gian dân tộc Dao ở Việt Nam. Sau năm 1945, các nhà khoa học ở nước ta tiếp tục sưu tầm và nghiên cứu về người Dao. Đáng chú ý là tác phẩm Dân ca Dao do nhà nghiên cứu Triệu Hữu Lý sưu tầm và biên dịch. Đây là tập dân ca đầu tiên của người Dao gồm nhiều loại hình được xuất bản: hát đối đáp nam nữ, tình thư gửi (tín ca), những lời răn lưu truyền, những lời bài hát đám cưới. Người Dao ở Việt Nam của các tác giả Bế Viết Đẳng - Nguyễn Khắc Tụng - Nông Trung - Nam Tiến, do nhà xuất bản khoa học xã hội xuất bản năm 1971, là tác phẩm đề cập khá toàn diện về đời sống của người Dao trên lãnh thổ Việt Nam như dân số, địa vực, tên gọi các nhóm Dao, các hình thái kinh tế, sinh hoạt vật chất, sinh hoạt xã hội, sinh hoạt văn hoá tinh thần và những đổi mới trong cuộc sống sinh hoạt của người Dao từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 đến 1971. Tuy nhiên, các tác giả mới đề cập tới những nét cơ bản về đời sống văn hoá của người Dao, trong đó có thơ ca dân gian, chưa có điều kiện đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu những nét đặc thù về văn hoá, đặc biệt là thơ ca dân gian của người Dao ở từng địa phương. Cuốn Lễ hội cổ truyền Lào Cai của Trần Hữu Sơn, do Nxb Văn hoá dân tộc xuất bản năm 1999, đã giới thiệu những sinh hoạt lễ hội truyền thống tiêu biểu của các dân tộc thiểu số ở Lào Cai. Trong đó đề cập đến Lễ tết nhảy của dân tộc Dao Đỏ Sa Pa, Lễ lập tịch của người Dao Họ. Trong sách, tác giả có đề cập đến dân ca Dao nhưng chỉ dừng ở mức độ khái quát. Cuốn Tập tục chu kì đời người của các tộc người ngôn ngữ H’Mông - Dao ở Việt Nam của Nguyễn Đức Lợi, do Nxb Văn hoá dân tộc xuất bản năm 2002, đã đề cập đến tập tục, chu kì đời người của các dân tộc trong ngữ hệ H’Mông - Dao ở Việt Nam.Trong đó đã đi sâu vào tìm hiểu một số tập tục trong cuộc đời của người Dao như tập tục đánh dấu sự trưởng thành, lễ cấp sắc, tục cưới xin, tục ma chay nhưng chưa chú ý tới thơ ca dân gian của người Dao. Về người Dao Tuyển, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu quan tâm, chú ý là các công trình nghiên cứu của tác giả Trần Hữu Sơn. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cưới người Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, đã đề cập tương đối chi tiết đến hôn nhân và nghi lễ cưới hỏi của người Dao Tuyển. Cuốn sách đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca đám cưới của người Dao Tuyển ở Lào Cai, Hà Giang (chủ yếu là ở Lào Cai). Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian người Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Cuốn sách là một nguồn tư liêụ quý nghiên cứu về kinh tế, văn hoá, xã hội của người Dao. Công trình đã giới thiệu hàng trăm bài dân ca lao động, dân ca nghi lễ phong tục, dân ca sinh hoạt của người Dao Tuyển (chủ yếu là ở Lào Cai). Tuy nhiên, Thơ ca dân gian người Dao Tuyển mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu về các loại hình thơ ca dân gian, trình bày sơ đôi nét về nghệ thuật. Vì vậy, việc tìm hiểu thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai, đặc biệt là việc đi sâu vào tìm hiểu những giá trị nội dung và thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai vẫn còn là một khoảng trống. Trên cơ sở kế thừa thành quả của các công trình đi trước, chúng tôi lựa chọn đề tài Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm góp phần tiếp tục khai thác vốn văn hoá nghệ thuật cũng như những nét đẹp trong tâm hồn của người Dao Tuyển. Đây là một lĩnh vực nghiên cứu mang tính cấp thiết, tiếp tục bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng, văn hoá của của các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở kế thừa những tài liệu khoa học đã công bố về người Dao Tuyển ở Việt Nam nói chung, về người Dao Tuyển ở Lào Cai nói riêng, bằng những nguồn tư liệu địa phương qua nghiên cứu, sưu tầm tại chỗ, tác giả muốn đi sâu nghiên cứu về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Qua đó, nhận diện thực trạng đời sống văn hoá tinh thần phong phú của cộng đồng người Dao Tuyển, đặc biệt là những giá trị của thơ ca dân gian. Nghiên cứu thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một việc làm cần thiết, là góp phần bổ sung những hiểu biết về một tiểu loại văn học trong sự đa dạng phong phú của nền văn học dân gian dân tộc Dao. Từ đó, khẳng định những giá trị cần được gìn giữ và bảo tồn. Từ kết quả nghiên cứu trên, chúng tôi muốn giới thiệu những giá trị của của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai nhằm giáo dục truyền thống tốt đẹp của văn hoá tộc người và giá trị của nó trong cuộc đấu tranh xây dựng, bảo vệ quê hương đất nước trong giai đoạn hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. Nghiên cứu những vấn đề lí thuyết làm cơ sở để triển khai đề tài. Tìm hiểu một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội, phong tục tập quán, tín ngưỡng tôn giáo của người Dao có liên quan đến đề tài. Khảo sát, thống kê, phân tích tư liệu về dân ca Dao Tuyển để đi đến những nhận định về giá trị của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Chỉ ra những nét đặc thù của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai trên cơ sở so sánh đối chiếu với thơ ca dân gian của các dân tộc khác. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chính Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Xem xét thêm một số yếu tố khác có liên quan đến nội dung đề tài. 4.2. Phạm vi nghiên cứu 4.2.1. Phạm vi tư liệu nghiên cứu Chúng tôi tiến hành khảo sát thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai trong một số công trình đã được công bố: 1. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cưới người Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 2. Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian người Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. Ngoài ra, chúng tôi còn tiến hành khảo sát, phân tích một số lời thơ dân gian của người Dao Tuyển và những tư liệu liên quan đến đề tài mà chúng tôi thu thập được trong quá trình điền dã. 4.2.2.Phạm vi vấn đề nghiên cứu Trong giới hạn của một đề tài luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ nghiên cứu nội dung cơ bản và một số yếu tố về thi pháp tiêu biểu trong phần lời của dân ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai ( những yếu tố khác dùng để phân tích tham khảo khi cần thiết). 5. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu liên ngành. Phương pháp khảo sát thống kê. Phương pháp phân tích tổng hợp so sánh. Phương pháp điền dã. 6. Những đóng góp của luận văn Lần đầu tiên thơ ca của người Dao Tuyển ở Lào Cai được tìm hiểu một cách hệ thống trên các phương diện nội dung và thi pháp. Bước đầu làm rõ bản sắc riêng của thơ ca dân gian của người Dao Tuyển so với thơ ca dân gian của các dân tộc khác trên địa bàn. Bên cạnh đó, trong quá trình điền dã, chúng tôi sưu tầm được một số lời ca dân gian, dù lời lẽ còn thô mộc, nhưng những lời ca ấy chính là minh chứng sinh động cho sinh hoạt tinh thần phong phú rất đặc trưng của người Dao Tuyển. 7. Bố cục của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn chia thành ba chương viết: - Chương1: Khái quát về lịch sử, xã hội,văn hoá của người Dao Tuyển ở Lào Cai. - Chương 2: Nội dung thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. - Chương3: Đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai. Tài liệu tham khảo Phần phụ lục của luận văn có một số tranh ảnh, bản đồ minh hoạ Mục lục Trang MỞ ĐẦU . 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề . 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 6 5. Phương pháp nghiên cứu . 7 6. Những đóng góp của luận văn . 7 7. Bố cục của luận văn 7 NỘI DUNG CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ LỊCH SỬ XÃ HỘI VĂN HOÁ CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI . 8 1.1. Đặc điểm lịch sử, xã hội, văn hoá của người Dao Tuyển . 8 1.2. Khái quát về thơ ca dân gian của người Dao Tuyển . 19 * Tiểu kết . 26 CHƯƠNG 2. NỘI DUNG THƠ CA DÂN GIAN NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI . 27 2.1. Vài nét khái quát về cuộc sống của người Dao Tuyển qua thơ ca dân gian 28 2.2. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển là tiếng ca ai oán của những người mồ côi bất hạnh 30 2.3. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển thể hiện một quan niệm đẹp về tình yêu và hôn nhân của con người 37 2.4. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển là tấm gương phản chiếu đời sống tập quán tín ngưỡng của con người . 50 * Tiểu Kết 58 CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP THƠ CA DÂN GIAN CỦA NGƯỜI DAO TUYỂN Ở LÀO CAI . 60 3.1. Khái niệm thi pháp, thi pháp học và thi pháp văn học dân gian . 60 3.1.1. Thi pháp và thi pháp học 60 3.1.2. Thi pháp văn học dân gian . 60 3.2. Một số đặc điểm thi pháp thơ ca dân gian của người Dao Tuyển 61 3.2.1. Thời gian nghệ thuật 61 3.2.2. Không gian nghệ thuật . 70 3.2.3. Một số biện pháp tu từ nghệ thuật 77 3.2.4. Hình thức diễn xướng thơ ca dân gian 85 *Tiểu kết 97 KẾT LUẬN . 99 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 102 PHỤ LỤC 108 .

pdf120 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2281 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thơ ca dân gian của người dao tuyển ở Lào Cai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian siêu nhiên trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển còn xuất hiện ở cả những tên đất, tên người vốn đã in sâu trong tâm trí của đồng bào. Đó có thể là không gian chín châu quê hương người Dao: Mặt trời đằng đông sáng rực rỡ Sáng tới Cửu Châu, mƣời phủ đƣờng [51, tr.81]. Đó có thể là những địa danh cư trú của người Dao xưa như Châu Dương, Châu Đan, Biển Đông, Biển Nam Hải… Phủ Bính cử đi hợp chín chữ Sáu chữ là âm, ba chữ dƣơng Vì có Châu Đan cầu lục hợp Theo trƣớc đƣờng xƣa cáo kinh thành [50, tr.113]. Những địa danh này hồi cổ và mang tính chất phiếm chỉ . Đúng như Hoàng Tiến Tựu nhận xét “ những không gian này không có tính cá thể hoá trong miêu tả, có thể thay địa danh này bằng địa danh khác nhƣng nội dung vẫn phù hợp” [ Dẫn theo 80, tr.148]. Những địa danh, những tên đất, tên người mang tính chất phiếm chỉ chung chung như trên đã góp phần tạo ra một không gian huyền thoại, linh thiêng, một không khí rất riêng, rất đặc trưng trong sinh hoạt thơ ca dân gian người Dao Tuyển. Như vậy, không gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển khá phong phú, đa dạng. Khi thì là không gian thiên nhiên đa sắc màu, khi thì là không gian sinh hoạt gần gũi với cuộc sống của đồng bào, cũng có khi là không gian siêu nhiên mang dáng vẻ huyền bí thể hiện quan niệm tín ngưỡng tâm linh của người Dao Tuyển. 3.2.3. Một số biện pháp tu từ nghệ thuật đƣợc thể hiện trong thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển 3.2.3.1. So sánh tu từ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 “ So sánh tu từ là cách đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng khác loại cùng có một dấu hiệu chung nào đấy ( nét giống nhau) nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tƣợng” [ 21]. So sánh không phải là thủ pháp nghệ thuật đặc trưng riêng của thơ ca dân gian, bởi vì so sánh cũng được thể hiện trong các thể loại văn học dân gian khác như sử thi, câu đố, tục ngữ…nhưng có một điều có thể nhận thấy rất rõ rằng so sánh là thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến và đậm đặc trong thơ ca dân gian. Trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển mức độ so sánh tu từ với sự hiện diện của các liên từ: nhƣ, nhƣ thể, nhƣ là, giống nhƣ, tựa, tựa nhƣ…khá đậm đặc 84 lần/ 60 bài. Đã là so sánh thì bao giờ kết cấu của nó cũng gồm 2 vế: vế so sánh ( vế A) và vế được so sánh ( vế B). Vế so sánh trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển thường là vẻ đẹp của các chàng trai, cô gái với các mô típ: Bên Bắc nhƣ…, bên Nam nhƣ…, ta nhƣ…, nàng nhƣ…, hoặc là những trạng thái tình cảm của con người như sầu, buồn, vui…Còn vế được so sánh thường là những sự vật hiện tượng gần gũi với cuộc sống của đồng bào miền núi như: cá, chim, hoa, lá, bƣớm, đƣờng, chén nƣớc, hũ rƣợu, bột chàm… -Sầu than tơ nhẹ nhƣ chén nƣớc Muội cuộn tơ lại nhƣ hũ rƣợu Bên Bắc nhƣ là cây linh giao [51, tr. 211]. -Lời qua lời lại ngọt nhƣ đƣờng Sầu nhƣ cuốc cuốc kêu nửa đêm Không nhƣ phƣợng hoàng vỗ cánh hót [51, tr.208]. Vế so sánh có khi là những hình ảnh ước lệ như mặt trời, mặt trăng: Ta nhƣ mặt trời phơi cỏ mới [51, tr.163]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 Thơ ca dân gian người Dao Tuyển sử dụng cấu trúc so sánh triển khai với kết cấu gồm vế so sánh ( vế A), vế được so sánh ( vế B), vế B bao giờ cũng được cụ thể hoá ở B’, chẳng hạn như: Bên Bắc (A) nhƣ là ngọn cỏ non ( B) Gió thổi hƣớng nào ngả hƣớng đấy ( B’) [51, tr.199]. Có một điều khá thú vị là vị trí của A, B, B’ trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển biến đổi một cách khá linh hoạt. Khi thì A và B nằm ở câu trên, còn B’nằm ở câu dưới. Cấu trúc so sánh kiểu này không nhiều: -Ân tình (A) nhƣ là số lƣơng thực (B) Ban cho cô hồn sáu loại ăn (B’ ) [51, tr.194]. -Bên Nam (A) nhƣ cây gỗ hoàng tang (B ) Xuân đến nông phu chặt làm cày (B’) [51, tr.213]. Khi thì cả A, B và B’ nằm trên cùng một câu. Cấu trúc so sánh triển khai kiểu này là chủ yếu trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển: -Sầu ( A ) nhƣ Hài Kê ( B ) sợ mặt trời ( B’)[51, tr.195]. -Sầu ( A ) nhƣ cuốc cuốc ( B ) kêu nửa đêm ( B’)[51, tr.208]. -Lệ sa ( A ) nhƣ nƣớc ( B ) chảy trên sông ( B’) [51, tr.197]. -Buồn ( A ) tựa con dê ( B ) bị dầm mƣa ( B’ ) [51, tr.178]. Khi thì A nằm ở câu trên còn B và B’ nằm ở câu dưới: Muốn tỏ hết lòng, lời ân ái ( A ) Cũng nhƣ tiếng gió ( B ) thoảng qua thôi ( B’) [51, tr.182]. Ngoài việc sử dụng cấu trúc so sánh triển khai thơ ca dân gian người Dao Tuyển còn sử dụng kết cấu tương hỗ bổ sung. Có thể là một đối tượng ( cái so sánh) được nhấn mạnh trong quan hệ liệt kê bổ sung: Chúng tôi ăn hết chả thấy gì Nhƣ trẻ đƣợc gặp con hoạ mi Nhƣ trâu uống nƣớc không ngẩng đầu [51, tr.172]. Có thể là đặt hai đối tượng trong quan hệ so sánh đối lập. Nếu như ở thơ ca dân gian người Việt thường được diễn đạt ngắn gọn như: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 Anh nhƣ chỉ gấm thêu cờ Em nhƣ rau má bọc bờ giếng anh. thì ở thơ ca dân gian người Dao Tuyển lại được diễn đạt khá dài dòng: Cơm nếp tẩm đƣờng hai cùng thích Sợ rằng lá rách cơm rơi đất Chẳng bằng cả hai cùng nhung nhớ Nhận kết đồng môn lòng thuỷ chung [51, tr.210]. Người Dao Tuyển hay sử dụng lối diễn đạt ý bằng so sánh, bởi lối diễn đạt ý bằng so sánh làm cho câu nói cụ thể hơn, giàu hình ảnh hơn làm cho người nghe ( người thưởng thức) dễ tiếp nhận hơn . Mức độ sử dụng so sánh trong Thơ ca dân gian người Dao Tuyển khá dày đặc ( 84 lần/ 60 bài) và so sánh tu từ được sử dụng khá đa dạng: từ những khái niệm trừu tượng đến những trạng thái tình cảm phức tạp của con người, từ những đặc điểm thuộc tính của các sự vật đến các mối quan hệ…nhờ so sánh tu từ mà thế giới vốn vô hình ấy đã trở thành thế giới hữu hình, nội dung diễn tả trở nên sáng rõ, dễ hiểu. Đây là lời bộc bạch chân tình của chàng trai: Chƣa từng gặp gỡ chẳng nhớ nhung Gặp rồi thì lòng không dứt đƣợc Giống nhƣ bột chàm nhuộm vải trắng Vải mủn thành bùn, chàm chẳng rơi… Giống nhƣ dây rừng cuốn trên cây Khi cây mục nát vẫn không rời [51, tr.209]. Nỗi nhớ thương của chàng trai ở đây là khái niệm trừu tượng đã được cụ thể hoá bởi hình ảnh bột chàm nhuộm vải trắng; dây rừng cuốn trên cây. Nhận thức được mở rộng trong kết cấu triển khai Vải mủn thành bùn chàm chẳng rơi ; Khi cây mục nát vẫn không rời. Hình ảnh so sánh giúp cho việc thể hiện rõ: nỗi nhớ nhung da diết không lúc nào nguôi của chàng trai đối với cô gái. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 Còn đây là niềm vui sướng của trai gái khi gặp gỡ nhau trò chuyện, ca hát được so sánh với các hình ảnh ong, hoa, cá, nƣớc trong lời hát của cô gái: Làng em gặp may nam nữ vui Nhƣ ong gặp hoa không bay đi… Nếu đƣợc trai gái hát đêm nay Nhƣ cá với nƣớc sƣớng muôn đời [51, tr.165]. Lời ca không những thể hiện hết được nỗi lòng của chủ thể trữ tình mà nó còn thật hay, thật đẹp, bởi nó mang tính quy luật tất yếu của sự sống: con người cần có đôi lứa thì mới có được hạnh phúc trọn vẹn cũng giống như ong cần có hoa để hút mật, cá cần có nƣớc để tồn tại vậy. Trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển có những so sánh chỉ giản đơn, chân chất như tấm lòng của con người miền núi. Họ thấy những gì trong cuộc sống giống với tâm trạng của họ, là có thể so sánh ngay: -Sầu nhƣ cuốc cuốc kêu nửa đêm [51, tr.208]. -Buồn tựa con dê bị dầm mƣa [51, tr.178]. -Nƣớc mắt trên bàn nhƣ mƣa rơi [51, tr.234]. -Em nhƣ chim Iểng đậu cành cây . -Anh nhƣ con đỉa không có chân. -Em nhƣ cái đó ở đáy suối. Anh nhƣ con cua ở trong hang [51, tr.240]. Có những lời ca sử dụng biện pháp tu từ so sánh có giá trị nghệ thuật cao trong một câu thơ rất ngắn gọn: Ta nhƣ mặt trời phơi cỏ mới [51, tr.163]. Khó có câu thơ nào vừa ngắn gọn, vừa tạo hình ảnh cụ thể, sinh động mà có ý nghĩa biểu cảm cao đến thế. Câu thơ đã diễn tả một cách tài tình tâm thế cũng như trạng thái của chàng trai khi được gặp gỡ người thương. Chàng trai đã ví mình như là mặt trời phơi cỏ mới – hẳn là mặt trời ở đây đầy ánh sáng, đầy sức sống nên mới đủ sức phơi cỏ mới vậy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 Có những so sánh đạt trình độ tinh xảo: Trên đời trăm hoa nở đều tốt Không nhƣ thiếu nữ đọng trong tâm [51, tr.174]. Hình ảnh thiếu nữ đọng trong tâm thể hiện tình yêu của chàng trai đã đến độ thiết tha, sâu nặng, vững bền. Tình cảm đó không thể so sánh với hoa nở, bởi trăm hoa nở đều đẹp nhưng rồi hoa cũng sẽ phải tàn. Còn hình thiếu nữ trong trái tim chàng trai thì ngược lại, càng ngày càng đậm nét hơn, sâu nặng hơn, sau nặng đến mức không có thứ gì có thể thay thế được. Như vậy, biện pháp so sánh tu từ trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển Lào Cai là đặc điểm nổi trội cả về số lượng cũng như chất lượng nghệ thuật. So sánh tu từ có vai trò không nhỏ trong việc biểu hiện thế giới tâm hồn phong phú ,tinh tế, chân thành tới độ mộc mạc giản dị của một tộc người sinh sống ở vùng biên ải này. 32.3.2. Ẩn dụ tu từ “Ẩn dụ là phƣơng thức tu từ dựa trên cơ sở đồng nhất hai hiện tƣợng tƣơng tự, thể hiện cái này qua cái khác mà bản thân cái đƣợc nói đến thì ẩn đi một cách kín đáo. Ẩn dụ là phƣơng thức chuyển nghĩa theo nguyên tắc tƣơng đồng của hiện tƣợng, sự vật theo những dấu hiệu khác nhau” [80, tr.68]. Trong thơ ca dân gian, ẩn dụ được sử dụng khá rộng rãi. Đây là biện pháp tu từ giúp cho tác giả dân gian diễn tả được những điều thầm kín, thậm chí những điều khó diễn đạt nhất bằng những hình tượng nghệ thuật vừa khái quát, vừa giàu chất thơ. Chẳng hạn: Quả đào tiên ruột mất vỏ còn Buông lời hỏi bạn lối mòn ai đi. Đào tiên là một loại quả quí nhưng ruột của nó đã bị mất, chỉ còn lại cái vỏ. Lời thơ nói về một cô gái không còn giữ được cái quí nhất là trinh tiết của mình. Đây là cách nói thật ý nhị, bóng bẩy mà đạt được hiệu quả biểu đạt cao. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 Giống như thơ ca dân gian của các dân tộc khác, thơ ca dân gian người Dao Tuyển sử dụng khá nhiều ẩn dụ, với tầng nghĩa khái quát ẩn trong nghĩa biểu vật. Ở đây, ẩn dụ được sử dụng nhiều trong những lời hát đối đáp, cả trong những bài hát giao duyên tình tứ, cũng như những lời vui đùa của nam nữ thanh niên trong hội hè đình đám. ẩn dụ thể hiện tính chất biểu cảm rõ nét thông qua hệ thống hình tượng nghệ thuật.Đây là cách bày tỏ tình cảm của chàng trai trong đêm hát qua làng: Gió yếu toan thổi cây ngô đồng Chẳng biết hoa vàng có rơi không [51, tr.191]. Cách bày tỏ tình cảm của chàng trai thật ý nhị, kín đáo. Lời hát có nói đến gió, cây ngô đồng, hoa vàng nhưng đó đâu phải chỉ là những hiện tượng thiên nhiên đơn thuần trong giới tự nhiên kia. Đây là lời của chàng trai thì chắc chắn rằng cây ngô đồng là cô gái, gió sẽ là chàng trai. Hơn nữa chàng trai tự nhận mình là gió yếu, một cách nói đầy sự nhã nhặn và khiêm tốn. Với người Dao Tuyển, sự khiêm tốn luôn là một trong những nét đẹp về tính cách của họ. Trong các cuộc hát như hát hội đầu xuân, hát qua lang, hát xin cốm trai gái luôn khao khát được giao lưu để bày tỏ tình cảm của mình nhưng khi vào cuộc hát, chàng trai thường cảm thấy mình nhỏ bé trước các cô gái. Đây là tâm sự của chàng trai trong hội hát qua làng: Văn chƣơng trong bụng nhiều vô kể Câu câu xuân nói chẳng hiểu gì [51, tr.192]. Xuân ở đây chính là cô gái. Mặc dù chàng trai biết rất nhiều, thuộc rất nhiều bài hát Văn chƣơng trong bụng nhiều vô kể nhưng sự hiểu biết đó so với cô gái còn kém xa, bởi Câu câu xuân nói chẳng hiểu gì. Đây phải chăng là cách nói thể hiện sự ngưỡng mộ, trân trọng và đề cao đối tác của chủ thể trữ tình. Sự khiêm tốn ấy không chỉ có ở người Dao Tuyển Lao Cai mà nó còn là nét đẹp chung trong tính cách của người Dao vậy. Đây là lời của một chàng trai người Dao khi bước vào cuộc hát: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 Nhà cao lồng lộng hoá cô đơn Con quạ bay nhầm vào đàn phƣợng… Con gà lỡ bƣớc vƣờn đào rộng Con quạ nhìn theo đàn phƣợng bay Muốn hát văn chƣơng bụng rỗng không Muốn hát không biết một hàng chữ [28, tr.21]. Những hình ảnh con quạ trƣớc đàn phƣợng, con gà trƣớc vƣờn đào rộng ở đây là những hình ảnh ẩn dụ: con quạ, con gà là những cách nói khác nhau dùng để chỉ chàng trai; đàn phƣợng, vƣờn đào rộng là cô gái. Chàng trai dùng cách nói ví von này để giãi bày sự nhỏ bé, sự thua thiệt của mình trước những cô gái Dao duyên dáng. Chàng trai đã tự nhận thấy mình văn chƣơng bụng rỗng không, không biết một hàng chữ. Đây là cách nối đầy tự ti, thể hiện sự khiêm tốn của chàng trai. Bởi lẽ, tiêu chuẩn làm người của dân tộc Dao là nam tối thiểu phải biết chữ Nôm Dao, phải biết hát; nữ phải biết kéo sợi, dệt vải…Thế mà chủ thể trữ tình ở đây lại nói: Muốn hát văn chƣơng bụng rỗng không; Muốn hát không biết một hàng chữ. Sự khiêm tốn ấy đã góp phần tôn thêm vẻ đẹp của chủ thể trữ tình. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển đã diễn tả được rất nhiều trạng thái cung bậc tình cảm khác nhau của con người nhờ biện pháp tu từ ẩn dụ. Đây là lời của các chàng trai trong đêm hát qua làng: Bọ hung trong đất thấy khí xuân Khoét đất mở đƣờng ngóng mặt trời Loạn bay trong gió, chầu hoa đẹp Côn trùng đói ý cầu no đủ Ăn uống no nê cầu ân che [51, tr.191]. Lời thơ đề cập đến những hình ảnh: bọ hung, côn trùng. Đó là những con vật nhỏ bé rất đỗi quen thuộc với cuộc sống của người Dao Tuyển: Bọ hung chờ mùa xuân đến để được ngóng mặt trời, để được chầu hoa đẹp ; Côn Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 trùng mong mùa xuân đến để được ăn uống no nê. Hay đó chính là các chàng trai mong mùa xuân đến để được gặp gỡ các cô gái, để được trao duyên tình tứ, để thoả lòng nhớ mong “ Thật thoả đôi lòng uổng nhớ mong”[51, tr.163]. Trong hát hội đầu xuân ở trong làng, niềm vui của nam nữ thanh niên khi được gặp gỡ giao duyên được thể hiện qua câu hát: Xuân đến đầy rừng cây trổ lá Ruộng khô tất cả đóng cày bừa Con mối chỉ ở hang động lí Đợi chờ sấm kêu hoá kiếp sinh Nếu có sấm kêu thì vui vẻ Nhộn nhịp phóng liền hát đêm nay [51, tr.164]. Những hình ảnh rừng cây, thửa ruộng, con mối cũng là những hình ảnh thiên nhiên quen thuộc, gần gũi với cuộc sống của đồng bào. Tất cả đang cần mùa xuân đến để trổ lá, hoá kiếp sinh cũng giống như trai gái mong mùa xuân đến để được gặp gỡ giao duyên. Niềm khao khát được gặp gỡ của trai gái ở đây được diển tả một cách thật kín đáo, ý nhị nhưng cũng không kém phần mãnh liệt, sâu sắc. Như vậy, biện pháp tu từ ẩn dụ là một trong những biện pháp tu từ quan trọng được sử dụng khá phổ biến trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển. Nó chứa đựng những nhận thức, biểu cảm và thẩm mĩ, biểu hiện thế giới tâm hồn phong phú nhưng cũng không kém phần tinh tế, đắm say của người Dao Tuyển, góp một phần không nhỏ đặt nền móng cho nghệ thuật ẩn dụ tu từ trong thơ ca Việt Nam hiện đại. 3.2.4. Hình thức diễn xƣớng thơ ca dân gian Mỗi một tộc người khác nhau đều có hình thức diễn xướng thơ ca dân gian khác nhau. Sự khác nhau đó bắt nguồn từ điều kiện sống, từ nét tâm lí và phong tục của mỗi tộc người. Chính điều đó đã tạo ra những nét riêng về sinh hoạt thơ ca dân gian ở mỗi dân tộc anh em. Qua thực tế điền dã ở một số Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 vùng người Dao Tuyển ở Lào Cai sinh sống qua một số tài liệu đáng tin cậy của giới nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng: Hình thức diễn xướng thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai khá đa dạng, nó gắn bó mật thiết với các mặt sinh hoạt của nhân dân (sinh hoạt lao động sản xuất, sinh hoạt nghi lễ phong tục, sinh hoạt gia đình và xã hội). Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu một số hình thức diễn xướng thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai thông qua những tư liệu mà chúng tôi được biết. 3.2.4.1. Diễn xƣớng thơ ca trong đám cƣới Giống như dân ca đám cưới của một số dân tộc khác ở Lào Cai như Nùng, H.Mông, Dáy,…dân ca lễ người Dao Tuyển chủ yếu là những bài ca gắn chặt với nghi lễ cưới xin, bên cạnh đó còn có những bài hát ngẫu hứng có tính chất trao đổi tình cảm nam nữ, không nằm trong hệ thống các bài ca nghi lễ. Tuy nhiên nghi lễ cưới xin của người Dao Tuyển được quy định khá chặt chẽ và có tính ước lệ rất rõ. Hệ thống bài ca hôn lễ của người Dao Tuyển được chép thành tập thơ “Vẳn ẳn có”(hôn ân ca). Đây là những bài hát do bên nhà trai và nhà gái hát từ khi nhà trai lên đường đi đón dâu đến khi kết thúc lễ cưới ở nhà trai [51, tr.33]. Về diễn xướng dân ca đám cưới của người Dao Tuyển có mốt số đặc điểm đáng chú ý sau : Lễ cưới được quy ước là lễ kết hôn giữa hoàng tử và công chúa của triều đình Phương Nam (đại diện nhà trai) và triều đình Phương Bắc (đại diện nhà gái). Đoàn đón dâu là đoàn sứ thần của quốc gia Phương Nam, còn đoàn nhà gái tiếp đoàn đón dâu là đại diện quốc gia Phương Bắc. Những người này là các nghệ nhân thông thuộc các bài hát “Vẳn ẳn có” và có khả năng ứng tác khi thi tài. Các nghi lễ cưới xin và ca từ đều được mô phỏng nghi lễ, ca từ bang giao của hai quốc gia : Vạn lí trƣờng thành trấn ải quan Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 Nơi đây quan dũng động binh thành Trời yên biển lặng dân vui hát Chẳng dung liều lƣợng loạn hồ hành Điện thành hoàng dƣới trƣớng tam quan Linh bảo anh hùng tế nhị minh Đoàn đây là Bính Châu hành hoá [51, tr.97]. Đại diện của hai nhà trai gái phải hát đối đáp khi vượt qua các cửa ải có tính chất ước lệ (cửa ải chỉ làm bằng một chiếc cổng tre đơn giản nhưng được hình tượng hoá thành quan ải). Bên trong cửa ải có hai anh lính cầm rượu hát: Kính thƣa đoàn sứ tam cung nữ Thuyền hoa chèo đến phƣơng trời nào Quốc giới không yên luôn có đạo tặc Trƣớc tổng trấn ải đƣờng không thông . Đại diện nhà trai viện dẫn lí lẽ bang giao hát trả lời: Đã thƣa trình đủ tin hay không tin Đi đƣờng lục hợp đông tới triều môn Bái cầu dẫn thông tới bệ vua Đăng khoa phong nhiệm muôn đội ơn [51, tr.36]. Khi đến nhà gái, đoàn nhà trai phải trình hồng thư, trình 12 hồng lễ và hát đối đáp với đoàn nhà gái. Trong các nghi lễ: lễ bản mệnh, lễ hợp duyên, lễ tổ tông…đều có nghi thức hát đối đáp. Thông thường, trong hát đối đáp, nhà gái đưa ra các bài hát đố buộc nhà trai phải hát đáp với nội dung khá phong phú như nói về sự tích các lễ vật, ôn lại truyền thống các anh hùng văn hoá làm ra sách vở, tri thức, chế ra lửa, làm ra tơ tằm… Nhà gái hỏi: Cái đặt trên bàn vàng tên là gì Ai đào đất nung thành ra nó Vật đẹp trong lò ai nặn ra Trông tròn tròn bây giờ đựng gì Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 Nhà trai đáp: Cái đặt trên bàn vàng tên ống Ngƣời nào đất nung nó họ Ngu Tên của nó ngày xƣa là lọ Để bây giờ đựng thuốc linh đan Nhà gái hỏi : Đất ống ngày xƣa ai sinh tạo Tròn tròn bao quanh truyền đến giờ Giấy đỏ thầy nào để nắp lọ Sợi buộc đầu lọ gái nào se. Nhà trai đáp : Xƣa ông Vàn Ngù làm đất lọ Thân lọ tròn tròn truyền đến giờ Ông Cửu Cai làm ra giấy đỏ Chức nữ dệt tơ chít lọ đầu [50, tr.28]. Xem xét các bài dân ca đám cưới của người DaoTuyển ở Lào Cai, chúng tôi nhận thấy dấu vết của lối hát đối đáp còn rất đậm đặc. Kết cấu các lời ca thường có hai vế: hỏi và đáp. Công thức: vế hỏi thường mở đầu bằng ai, cái gì; vế đáp thường mở đầu bằng ông (bà), này, kia hoặc kể tên nhân vật: Ai ngồi trên đó lập tu chi Ai thế trực làm ra bảy quyển Ai tu trên thế chế mao thơ ? Chín tầng trời nghìn năm tiên ngụ Vô cực tám cửa thấy chín châu Bảy vị lão quân ra bảy quyển Bồ Tát trị thế chế mao thơ [51, tr.102]. Có lẽ đây là kết tinh của tầng tầng, lớp lớp các bài hát đối đáp – một hình thức hát đối đáp rất được ưa chuộng của đồng bào Dao nói chung và tộc người Dao Tuyển nói riêng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 3.2.4.2. Diễn xƣớng thơ ca trong tang lễ Khi có người chết, gia đình tang chủ người Dao Tuyển phải mời người hát giỏi đến hát phụ hoạ cho tiếng khóc than. Trong một số nghi lễ, thầy cúng cũng trở thành thầy hát, hát các bài ca nghi lễ và họ đã trở thành nhân vật diễn xướng. Trong suốt các nghi lễ đều có người hát, người đọc thơ. Tất cả đều nhằm biểu hiện tình cảm đau thương của người thân với người quá cố và dẫn dắt linh hồn người chết về với tổ tiên được thanh thản. Khi nhập quan, con cháu khóc, thầy hát hát bài “Nhập quan ca” phụ hoạ tiếng khóc: Sinh thời tình ân nặng nhƣ núi Một đƣờng tế bội thuận hoà tình Oán vì trời cho ngƣời số thọ Trót cho mẹ (cha) sớm thăng thiên Đa biệt thân sinh lòng gan đứt Nghìn vàng mua phận chẳng quay về. Trong lễ khởi trống thầy cúng chính đánh trống, thầy cúng phụ đánh cồng, con cháu khóc, thầy hát hát phụ hoạ: Đƣờng hoàng đạn thông thiên đã mở Vũ lƣu chấn lệnh bạt âm vang Trống kêu sấm động xuân tiết khí Chay đàn hoa quả mấy tầng thơm Nghênh đón các thần về ngự giáng Tiễn biệt vong linh lên tổ tiên [51, tr.37]. Khi thắp đèn báo ơn, thầy cúng đi quanh quan tài hát, con cháu bò theo sau khóc lóc thảm thiết. Bài hát kể về linh hồn đến 10 điện Diêm Vương: Điện thứ nhất là vua Tần Quảng Trên cầu, Nại Hà hỏi tiền duyên Ai ai đến đây cũng phải khóc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 Bởi vì tra xét thật vô thƣờng Đến cầu có cây nghìn thu thụ Dạ xoa lột áo treo lên cây [51, tr.38]. Trong các bữa ăn dâng cúng cho người quá cố, đều có thầy cúng đọc những bài thơ dâng cúng, miêu tả quá trình làm ra sản vật, miêu tả vẻ đẹp, hương thơm, vị ngon của các vật đem dâng cúng, thể hiện niềm thương tiếc vô hạn của người thân đối với người quá cố: Một bát cơm dâng trắng phau phau Chân trâu cốc mễ chồng lên nhau Gạo trắng kinh qua nƣớc trong tẩy Đặt vào trong chõ bắc lò sôi Bốn bên phồng ra binh đinh hoả Bốn bên lã chã hàng lệ rơi [51, tr.39]. Như vậy, các bài hát, các câu thơ là một bộ phận quan trợng trong diễn xướng đám ma và trong đời sống tinh thần, phản ánh nhân sinh quan, thế giới quan phong phú, thể hiện những tình cảm sâu nặng, thuỷ chung trong đời sống cộng đồng người Dao Tuyển. 3.2.4.3. Diễn xƣớng thơ ca giao duyên Hình thức diễn xướng thơ ca giao duyên của người Dao Tuyển khá phong phú, song có thể chia thành hai hình thức chủ yếu: Hát tự phát đơn lẻ và hát có tổ chức, có lề lối. Hát tự phát là hình thức một nam (nữ) hoặc một tốp nam nữ tình cờ gặp nhau giữa chợ, trên nương, trên đường đi chơi tự cất tiếng hát trực tiếp với nhau. Hát có lề lối, tổ chức là hình thức hát được hai bên chuẩn bị trước, đồng thời được thống nhất tổ chức theo những nghi thức khá chặt chẽ. Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số hình thức diễn xướng thơ ca giao duyên của người Dao Tuyển Lào Cai . * Hát hội đầu xuân Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 Theo tiến sĩ Trần Hữu Sơn và nghệ nhân Hoàng Sĩ Lực: từ ngày mồng hai tết đến rằm tháng giêng hàng năm, người Dao Tuyển thường tổ chức hát đầu xuân giữa nam thanh niên làng này với nữ thanh niên làng khác. Muốn tổ chức hội hát này hai bên đều phải có sự chuẩn bị chu đáo từ trước. Cả làng chọn một thầy hát giỏi, người này có trách nhiệm vừa dạy hát cho thanh niên trong làng vừa trực tiếp viết thư mời nữ giới tham gia hát hội đầu xuân. Nội dung thư mời hát với lời lẽ nhún nhường, mong tổ chức cho “cây lúa nảy mầm, hoa quả sai trái, trâu lợn đẻ đƣợc nhiều con”. Đồng thời thư hẹn hát phải nêu rõ thời gian, địa điểm, số lượng người của đoàn khách nam giới đến hát. Sau khi nhận được thư, trưởng làng sẽ bàn với già làng, bà chủ hát giỏi của làng, sẽ tuỳ điều kiện nhận lời hay từ chối. Nếu được bên nữ nhận lời, đến ngày hẹn, trai làng thách hát do ông thầy dạy hát dẫn đầu, mặc trạng phục ngày tết kéo đến làng nữ (làng nhận hát). Cách cổng làng chừng vài trăm mét, tốp trai làng thách hát tổ chức hát chào, nêu rõ mục đích hát, chào già làng, trưởng bản, xin phép cho trai làng đến hát : Chàu sâu đai rành thảm cạc hu Mung xa thỉn chỉ anh minh thìn. (Chắp tay vái lậy ba thầy làng Cho được mở lòng cùng tiên nữ) Thầy làng gái sẽ lên tiếng hỏi: “Ai đến làng mà làm ồn ã. Trốn việc làm lại bỏ đi chơi”. Lúc này chàng trai mới hát tiếp sang ý thứ hai bằng những câu hát thanh minh, ngộ nghĩnh và đáng yêu: Dăm chay hàn tì luôn dẻng oa Lìn vằn chỉn thẳn ủ típ dzầu. (Không phải ngày thường bỏ đi chơi Thấy hoa nở rộ bướm bay đến) Câu trả lời của trai làng thách hát thật ý nhị vừa thể hiện sự thanh minh không phải lười làm mà đi chơi, mà vì hoa nở, vì mùa xuân về. Lúc này, thầy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 làng sẽ lên tiếng gọi các cô gái ra đón bạn vào làng cùng vui xuân và các chàng trai lại hát tiếp kiểu hát mở ném còn trực tiếp với các cô gái: Tạp tau dòng toòng thểu dều tây Mung xa đào làn anh lấu tàu. (Bước chân đến làng muôn hoa nở Ngắm hoa ta hát một đôi lời) [12, tr.8]. Các cô gái làng hát đáp: Thẳn thôi lồi mành thấy thêu pâu Tha chằm chuân sỏng pẻ than theng. (Sấm kêu mưa rơi hoa đua nở Vườn xuân khoe sắc bướm lựơn vòng) [12, tr.9]. Hát chào xong, đoàn khách nam hát hỏi: Xin chào! Đi theo hƣớng gió thổi, đƣờng đƣa đến Làng trù phú, gái làng đẹp có cho vào? Bên nữ hồ hởi hát đáp: Vƣờn xuân! ông chủ đƣa hoa, hƣơng thơm nức Cửa làng rộng mở. Hƣơng bay cao Gõ cửa? Đôi lời cùng cất cao ngây ngất Đón gió tình xuân, đêm nay vui [51, tr.48]. Cuộc hát diễn ra sôi nổi. Ban ngày, không một ai trong đoàn khách nam được vào nhà, mà họ hát ở những vườn cây, những bãi đất rộng của làng. Bên thách hát xin được trò chuyện, hẹn ước với các bạn gái, nhiều đôi nam nữ tách riêng để hát tâm tình với nhau. Đến bữa tối, già làng mời đoàn khách hát nam và đoàn hát của làng cùng vào ăn cơm, uống rượu. Khi đã no say, lửa được đốt lên, cuộc hát lại bắt đầu. Bên nữ cử hai cô gái mở đầu cuộc hát : Mặt trời đã khuất, sao mọc lên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Cá con từng đàn đến thăm đồng. Bên nam cử hai chàng trai hát đáp: Nghe thấy tiếng sấm vang khắp trời Trời quang mây tạnh sao có mƣa. Bên nữ hát cùng: Bỗng nghe tiếng sấm vang động trời Mƣa dội ào ào vào thôn em Từ nay lúa mẩy nhờ tiếng hát của anh Lợn gà không dịch cũng nhờ anh [51, tr.49]. Không như cách hát ban ngày, hát ban đêm ngân nga chậm rãi hơn, và tiếng hát âm trầm, sâu lắng hơn.Trai ngoài làng hát: Quyết không thể rời nơi ngọc lâm Mong cho cha mẹ kết đôi ta. Miệng mỉm đáp lời không thấy sắc Dựng tạm rèm vàng lại không treo. Những lời hát rất đa dạng và phong phú về nội dung, thể loại, chủ đề. Có thể hát về ước mơ của mình với cô gái nào đó, có khi lại hát hỏi thi tài về sự hiểu biết. Bên nữ đáp: Câu nào cũng thơm tựa ngọt đƣờng Trên đời uyên ƣơng đôi sánh đôi Chƣa đến mùa xuân hoa chƣa thắm Dã từ kí ức hẹn chẳng xa . Các cô gái, chàng trai vừa hát, vừa uống rượu, họ say sưa. say tình hát liền qua đêm. Khi thấy trời sắp sáng, hương hoa toả bay, họ sợ cuộc vui phải tan sớm, phải chia tay nhau khi chưa muốn rời: Nghe thấy hƣơng thơm đứt lòng ruột. Khó theo mọi ngƣời thành xoáy đi . Nhất định bài hát kể không hết. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 Gà trống vỗ cánh thì lại kêu. Năm canh, cửa trời đã sáng tỏ [12, tr.14]. Bên nữ hát: Trồng cây hoa nở chƣa kết trái. Chƣa đến trùng dƣơng gà đã gáy. Đêm ngắn ngày dài sao đã xa. Một tiếng gà than lệ mƣời dòng. Bên nam dùng dằng chia tay: Lời anh nghẹn ngào không thành câu Lòng anh đau nhƣ cắt từng khúc ruột Đành phải chia tay em ở đây [51, tr.50]. Khi ra về các chàng trai, cô gái còn lưu luyến tặng vòng cổ, vòng tay cho nhau quyến luyến, hẹn thề. Chia tay dọc đường, nam hát: Dù có quay về nơi ta ở Lƣơng tâm vẫn nhớ hội hát này. Nữ hát, tiếng hát lưu luyến chưa muốn rời: Anh có lƣơng tâm đặt vòng tay Hẹn ƣớc từ đây ta nhớ nhau [12, tr.15]. Trai ra về, gái dấu túi như chưa muốn chia tay. Nam phải hát xin thật hay, thật giỏi mới được trả túi ra về. Nhờ cuộc hát hội đầu xuân này mà bao đôi trai gái người Dao Tuyển ở Lào Cai đã nên duyên vợ chồng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 * Hát qua làng Người Dao Tuyển có phong tục đẹp, khi có chàng trai hoặc cô gái qua làng, nghỉ tại làng thì các chàng trai (hoặc các cô gái) đều tổ chức hát qua làng. Đây là một biểu hiện của hình thức hát có lề lối có tổ chức trong sinh hoạt văn hoá của người Dao. Cuộc hát thường diễn ra vào buổi tối, địa điểm hát là ngôi nhà khách nghỉ trọ. Thanh niên trong làng trước khi vào nhà phải đứng ngoài cửa hát bài hát chúc gia chủ: “đất hiền lành, người tốt bụng, lúa ngô nhiều, khoai sắn lắm” và tiếp sau đó hát bài hát hỏi: Đi làm nƣơng nghe tin con kiến mách Khi tắm suối lại thấy con cá kêu Về đến làng, ngƣời già bảo nhà ông Có ngƣời thân đến chơi Tin đó đúng hay không đúng? Sau khi khách hát bài hát hỏi xong, chủ nhà phải hát đáp: “Tin đồn do con kiến, con cá đưa đến đúng. Có cô em đến chơi xin mời vào nhà”. Vào trong nhà, chủ nhà rải chiếu ngồi hát đối đáp với khách. Mở đầu cuộc hát, các chàng trai hát hỏi thăm quê quán, mục đích đến thăm làng…lời hát mộc mạc, phong phú với nội dung ướm hỏi, làm quen thể hiện sự thiết tha hiếu khách của chủ nhà. Cô gái khéo léo hát đáp một cách chân tình, tế nhị: Đi qua làng thấy ngƣời tốt em muốn dừng chân Thấy con suối trong, bóng cây mát em muốn nghỉ Thấy ngƣời giỏi cày cuốc, chăm dệt vải em muốn học Sau đó, các chàng trai phải hát khen: Khách đến chơi làng nhƣ mặt trời chiếu sáng Bạn bốn phƣơng sum họp nơi đây. Trà dẫu không ngon, khách nên uống ngụm Lời hát dẫu chƣa hay, vẫn mời khách nghe [51, tr.51]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 Cứ thế, cuộc hát diễn ra mỗi lúc một sôi nổi, càng lúc càng gần gũi hơn với những câu hát dường như không dứt. Đến sáng cuộc hát mới tan. Thanh niên trong làng cảm ơn chủ nhà và khách đã nhiệt tình tiếp đón, các chàng trai, cô gái quyến luyến tặng quà cho nhau. Sau cuộc hát này, nhiều đôi nam nữ đã nên vợ nên chồng. * Hát xin cốm Hàng năm, vào tháng 9 âm lịch, các làng người Dao Tuyển ở Lào Cai thường tổ chức giã cốm ăn tết Trùng dương (tết mừng lúa mới). Đây cũng là một dịp để nam nữ tổ chức hát giao duyên dưới hình thức hát xin cốm. Hát xin cốm là hình thức hát có lề lối, tổ chức, bởi nó có những quy định về thời gian, địa điểm, cách thức tiến hành. Về nội dung cũng có phần hát nghi thức: Chào hỏi chủ nhà, chúc sức khoẻ chúc tết Trùng dương. Theo nhà nghiên cứu – Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, vào buổi tối ngày 8 tháng 9, trong khi các cô gái làm cốm, các chàng trai làng bên đan một số sọt, bên trong đựng một số cành cây xấu hổ (biểu tượng xấu hổ) và củ khoai sọ (biểu tượng cho sự cảm ơn). Vì vậy, chiếc rọ xin cốm vừa có ý nghĩa xấu hổ, vừa có ý nghĩa cảm ơn. Các chàng trai buộc dây và thả rọ vào đầu hồi bếp rồi hát: Cuối thu se se gió lạnh Mùi thơm theo gió lan xa Bƣớm ong mở to đôi mắt Bay tan đến hội Trùng dƣơng [51, tr.52]. Nghe những lời hát ấy, các cô gái hát mời chàng trai vào nhà, nhưng các chàng trai đều lấy lá che kín mặt, không vào nhà chủ hát. Các cô gái vừa tổ chức, vừa rình bắt các chàng trai vào nhà. Cuối cùng, các chàng trai cũng vào nhà cùng các cô gái và hát đối đáp. Hát xong phần nghi thức, họ hát sang phần trao đổi tình cảm, tình yêu. Cuộc hát diễn ra thâu đêm, đến tận sáng hôm sau các chàng trai, cô gái hát bài chia tay, hẹn gặp nhau ở nơi khác, nguyện ước thành vợ chồng. Các cuộc hát giao duyên chỉ được hát giữa trai làng này Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 với gái làng khác. Nghiêm cấm các hiện tượng hát cùng làng hoặc cùng họ hàng hát giao duyên, bởi ngoài việc thi tài, hát đối đáp giao duyên thường để làm quen, tìm hiểu và trai gái bày tỏ tình cảm yêu đương. *Tiểu kết Giá trị của thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai được thể hiện trên nhiều phương diện nghệ thuật. Trong luận văn, người viết đã làm rõ một số phương diện tiêu biểu: thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật, một số biện pháp nghệ thuật biểu hiện so sánh tu từ, ẩn dụ tu từ và giới thiệu một số hình thức diễn xướng tiêu biểu trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai. Thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một hình tượng nghệ thuật sống động gắn liền với việc bộc lộ tâm trạng của chủ thể trữ tình, thể hiện các cung bậc tình cảm, biểu đạt các trạng thái tâm hồn của con người. Đó là thời gian hiện tại diễn xướng và thời gian hiện thực. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai không những giúp chúng ta hiểu sâu sắc hơn nội dung tác phẩm mà còn giúp chúng ta có cái nhìn về một phương diện sáng tạo mang đặc trưng thể loại: Nếu thời gian trong sử thi mang tính khái quát, thời gian trong cổ tích có tính chất hoang đường phiếm chỉ, thời gian trong truyền thuyết lịch sử mang tính chất quá khứ xác định thì thời gian trong thơ ca dân gian là một phương tiện biểu đạt các trạng thái tâm hồn của con người.Không gian nghệ thuật trong thơ ca dân gian người Dao Tuyển là một phương tiện để chủ thể trữ tình bộc lộ tâm trạng. Đó là không gian thiên nhiên đa sắc màu, là không gian sinh hoạt gần gũi với cuộc sống của đồng bào, đồng thời còn là không gian siêu nhiên mang dáng vẻ huyền bí biểu hiện quan niệm về tâm linh, tín ngưỡng của người Dao Tuyển. Bên cạnh đó, nhờ những biện pháp nghệ thuật biểu hiện như so sánh tu từ, ẩn dụ tu từ mà chúng ta hiểu rõ hơn đời sống tinh thần, tâm hồn phong phú nhạy cảm, yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống của một tộc người thiểu số ở vùng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 biên ải này. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai được diễn xướng dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong luận văn, người viết đã giới thiệu một số hình thức diễn xướng thơ ca dân gian tiêu biểu của người Dao Tuyển: diễn xướng thơ ca trong đám cưới, diễn xướng thơ ca trong tang lễ, diễn xướng thơ ca giao duyên (hát hội đầu xuân, hát qua làng, hát xin cốm). Điều đó chứng tỏ rằng: thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai gắn bó mật thiết với các mặt sinh hoạt của nhân dân, sinh hoạt lao động sản xuất, sinh hoạt nghi lễ phong tục, sinh hoạt gia đình và xã hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 KẾT LUẬN Thơ ca dân gian là một thể loại tiêu biểu, là di sản văn hoá phi vật thể có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của tộc người Dao Tuyển ở Lào Cai. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển đã góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học dân gian dân tộc Dao nói riêng, kho tàng thơ ca dân gian các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. Bàn về thơ ca dân gian Dao, từ trước đến nay đã có không ít công trình nghiên cứu đề cập đến. Tuy nhiên, bàn về thơ ca dân gian người Dao Tuyển thì con số ấy không hẳn là nhiều. Được sự giúp đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo, các nhà nghiên cứu, chúng tôi tiếp nối cuộc hành trình của những người đi trước bằng việc tìm hiểu Thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lao Cai. Chúng tôi xác định, đây là vấn đề khá rộng, đòi hỏi phải có thời gian và công sức nghiên cứu lâu dài. Tuy nhiên, qua bước đầu nghiên cứu, chúng tôi xin phép được đưa ra một vài kết luận như sau: 1. Người Dao Tuyển ở Lào Cai có một kho tàng thơ ca dân gian khá phong phú, phản ánh một cách chân thực hiện thực đời sống, tư tưởng tình cảm, phong tục tập quán, tín ngưỡng của con người. Thơ ca giao duyên phản ánh một cách sinh động về hiện thực cuộc sống, biểu hiện vẻ đẹp tâm hồn, tư tưởng tính cách của người Dao Tuyển. Đặc biệt là mảng đề tài về tình yêu lứa đôi. Tình yêu lứa đôi ở đây được thể hiện với đầy đủ các cung bậc, các sắc thái tình cảm: có niềm vui trong buổi đầu gặp gỡ, có nỗi nhớ khi xa cách, có nỗi buồn đau, đắng cay khi tình yêu tan vỡ…như thơ ca giao duyên của các dân tộc anh em khác. Tuy nhiên, những câu hát, bài hát giao duyên của người Dao Tuyển về tình yêu lứa đôi vẫn mang những nét bản sắc riêng, độc đáo. Điều này xuất phát từ quan niệm về tình yêu của họ: Tình yêu phải mộc mạc, chân thành, phải mạnh mẽ quyết liệt. Tình yêu phải gắn liền với hôn nhân và sự thuỷ chung. Tình yêu phải gắn liền với lao động sản xuất, xây dựng gia đình hạnh phúc ấm no, bản làng giàu đẹp. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 Qua thơ ca giao duyên chúng ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn và tính cách của tộc người Dao Tuyển - những con người luôn lạc quan yêu đời, yêu cuộc sống, luôn coi trọng đạo đức luân lí, sống chân thành phóng khoáng và mạnh mẽ. Thơ ca nghi lễ, phong tục của người Dao Tuyển ở Lào Cai khá phong phú với nhiều tiểu loại khác nhau: thơ ca trong lễ đặt tên con, thơ ca trong lễ cấp sắc, thơ ca trong lễ cưới, thơ ca trong tang lễ, thơ ca trong lễ gọi hồn lúa, cúng thần nông…Các tiểu loại ấy là tấm gương phản chiếu đời sống phong tục, tập quán tín ngưỡng của con người với một quan niệm nhân sinh sâu sắc. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển không chỉ đề cập đến những nghi lễ tập tục, những cuộc hát giao duyên ướm hỏi tình tứ ... tác giả dân gian còn thấu hiểu đến cả những cảnh đời bất hạnh, đó là những bài hát than thân cho những kiếp mồ côi nghèo khổ, cơ cực, bị đối xử nghiệt ngã. Những người sống trong hoàn cảnh ấy, hát những bài hát hợp với mình để giãi bày những nỗi lòng trống vắng, đơn côi, hát cho vơi đi nỗi khổ đau cơ cực, hát để hi vọng sự thương cảm, an ủi, che chở của cộng đồng. Vì vậy, tiếng hát mồ côi của người Dao Tuyển tràn đầy tư tưởng nhân đạo và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. 2. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển như một dòng suối ngọt ngào hoà vào dòng chung văn hoá văn nghệ của đồng bào Dao, góp phần làm cho con người đẹp lên cả về nhân cách và tài năng, khơi dậy niềm vui trong cuộc sống lao động sản xuất. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển là sự chắt lọc những gì tinh tuý nhất trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của đồng bào Dao Tuyển. Nó chứa đựng những giá trị nghệ thuật độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc qua lối nói so sánh ví von, ẩn dụ. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển sử dụng chất liệu quen thuộc, gắn bó với cuộc sống của con người miền núi: thời gian, không gian… những phương diện diễn tả và biểu hiện ấy góp phần soi rọi những phẩm chất cao quý, đáng được trân trọng, ngợi ca của tộc người thiểu số ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 vùng biên ải này. Thơ ca dân gian của người Dao Tuyển ở Lào Cai có thể được diễn xướng trong các lễ hội dân gian, trong cuộc sống sinh hoạt thường ngày, trên đường đi, khi khánh thành những ngôi nhà mới, khi lại thu hút cả bản làng vào những cuộc hát giao duyên kéo dài tới thâu đêm, suốt sáng…Tất cả những điều đó chứng tỏ rằng sinh hoạt thơ ca dân gian giữ một vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của người Dao Tuyển ở Lào Cai. 3. Thơ ca dân gian người Dao Tuyển ở Lào Cai là một nguồn tư liệu quí, phản ánh đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá của người Dao Tuyển. Kho tàng thơ ca dân gian ấy chứa đựng những tri thức về nhiều mặt như lịch sử, địa lí, dân tộc học…và có giá trị văn học nghệ thuật vô cùng độc đáo đòi hỏi phải tiếp tục được bảo tồn và phát huy. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội. 2. Triều Ân (1994), Ca dao Tày Nùng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 3. Nguyễn Chí Bền (1999), Văn hoá dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 4. Nguyễn Quốc Chấn (2003), Tinh tuyển văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 5. Chu Xuân Diên (2000), “Về việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian”, Tạp chí văn học, (5), Hà nội, Tr. 19 – 26. 6. Bế Viết Đẳng, Nguyễn Khắc Tụng, Nông Trung, Nguyễn Nam Tiến (1971), Ngƣời Dao ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Bế Biết Đẳng (1994), Về cuộc sống của ngƣời Dao ở Việt Nam, Tư liệu Viện dân tộc học, Hà Nội. 8. Cao Huy Đỉnh (1976),Tìm hiểu tiến trình Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 9. Nịnh Văn Độ (2003), Văn hoá truyền thống các dân tộc Tày-Dao- Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 10. Nguyễn Xuân Đức(2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 11. Mai Thị Hồng Hải (2003), Góp phần nghiên cứu Xƣờng giao duyên của ngƣời Mƣờng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội . 12. Hát hội đầu xuân ngƣời Dao Tuyển, Tư liệu đánh máy của Sở văn hoá Lào Cai. 13. Diệp Đình Hoa (2002), Ngƣời Dao ở Trung Quốc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 14. Phạm Quang Hoan, Hùng Đình Quý (1999), Văn hoá truyền thống ngƣời Dao ở Hà Giang, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 15. Vi Hồng (1979), Sli lƣợn- Dân ca trữ tình Tày-Nùng, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 16. Vi Hồng (1985), Một vài quan niệm vũ trụ quan, nhân sinh quan ngƣời Tày cổ qua một số truyện cổ của họ, Văn học dân gian các dân tộc miền núi. 17. Đinh Gia Khánh (1989), Trên đƣờng tìm hiểu Văn hoá dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 18. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Vũ Ngọc Khánh, Phạm Minh Thảo (1997), Diễn xƣớng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 20. Lộc Bích Kiệm (1999), Đặc điểm dân ca đám cƣới Tày-Nùng, Luận văn Thạc sĩ, Hà Nội. 21. Nguyễn Xuân Kính, Lê ngọc Canh, Ngô Đức Thịnh ( 1989), Văn hoá dân gian - những lĩnh vực nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 22. Nguyễn Xuân Kính (1992),Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 23. Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật (1995), Kho tàng ca dao ngƣời Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội. 24. Đinh Trọng Lạc (1996), 99 biện pháp tu từ Tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 25. Lời ca tỏ tình (2004), Ban Văn học Việt Nam, Nxb Văn học, H.2004. 26. Hoàng Minh Lường (2001), Quan niệm về nghệ thuật trong văn học dân gian cổ truyền của các dân tộc thiểu số, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 27. Triệu Hữu Lý(1974), Truyện Đặng Hành và Bàn Đại Hộ, Tạp chí dân tộc học,( 2), Hà Nội. 28. Triệu Hữu Lý (1990), Dân ca Dao, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 29. Phân Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiẻu số Việt nam trƣớc Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hà Nội. 30. Bùi Mạnh Nhị (1999), Văn học dân gian-những công trình nghiên cứu. Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Nhiều tác giả (2003), Tổng tập văn học dân gian ngƣời Việt, Tập 19 - Nhận định và tra cứu. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 32. Nhiều tác giả (2000), Góp phần nâng cao chất lƣợng nghiên cứu, sƣu tầm văn hoá, văn nghệ dân gian. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 33. Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam. Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 34. Nhiều tác giả ( 1975), Văn học dân gian Lào Cai, Ty văn hoá Lao Cai xuất bản. 35. Nhiều tác giả (1999), Phong tục tập quán các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 36. Hà Thị Kim Oanh (1997), Chợ tình của ngƣời Dao Đỏ ở Sa Pa, Tạp chí dân tộc học, (1), Hà Nội. 37. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, Nxb văn học Hà Nội. 38. Lê Trường Phát (1997), Đặc điểm thi pháp các dân tộc thiểu số, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Hà Nội. 39. Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb văn học, Hà Nội. 40. Mạc Phi (1979), Dân ca Thái, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 41. Đặng Thị Quang (2000), Trang phục cổ truyền của ngƣời Dao Đỏ ở huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang, luận án thạc sĩ, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 42. Lê Chí Quế, Võ Quang Nhơn, Nguyễn Hùng Vĩ (2001), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội. 43. Hùng Đinh Quý (1994) - Văn hoá truyền thống các dân tộc Hà Giang, Nxb Văn hoá - Thông tin . 44. Lý Hành Sơn (1991), Vài khía cạnh về tâm lí ngƣời Dao Tiền, Tạp chi dân tộc học( 4), Hà Nội. 45. Lý Hành Sơn (1996), Nghi lễ ma chay của ngƣời Dao Tiền ở Ba Bể Bắc Kạn, Tạp chi dân tộc học (4), Hà Nội. 46. Lý Hành Sơn (2002), Lễ cấp sắc và bản sắc Văn hoá ngƣời Dao, Tạp chí dân tộc học ( 3), Hà Nội. 47. Lý Hành Sơn (2003), Các nghi lễ chủ yếu trong chu kì đời ngƣời của nhóm Dao Tiền ở Ba Bể Bắc Kạn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Trần Hữu Sơn (1997), Văn Hoá dân gian Lao Cai, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 49. Trần Hữu Sơn (1999), Tục ngữ, câu đố dân tộc Dao, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 50. Trần Hữu Sơn (2001), Lễ cƣới ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 51. Trần Hữu Sơn (2005), Thơ ca dân gian ngƣời Dao Tuyển, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 52. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại. Bộ giáo dục Đào tạo, Vụ Giáo viên, Hà Nội. 53. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 54. Trần Đình Sử (2000), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, Hà Nội. 55. Sự phát triển Văn hoá - xã hội của ngƣời Dao hiện tại và tƣơng lai (Kỷ yếu hội thảo)(1998), Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 56. Thèn Sèn, Lù Dín Siềng (1975), Dân ca Giáy, Hội văn học nghệ thuật Lào Cai. 57. Vũ Anh Tuấn, Nguyễn Xuân Lạc (2003), Giảng văn văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 58. Đào Thanh Thái (2002), Đôi điều về hôn lễ nhóm Dao Họ ở Lào Cai, Tạp chí dân tộc học (1), Hà Nội. 59. Doãn Thanh, Hoàng Thao, Chế Lan Viên(1984), Dân ca H.Mông, Nxb Văn học, Hà Nội. 60. Doãn Thanh (1985), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 61. Hồng Thao (1963), Dân ca Dao, Nxb Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội. 62. Bùi Thiện (2003), Dân ca Mƣờng, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 63. Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Xuân Kính (1990), Văn hoá dân gian - những phƣơng pháp nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 64. Ngô Đức Thịnh (1990), Quan niệm về Folklore, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 65. Bùi Xuân Tiệp (2003), Lễ hội Gầu Tào và dân ca giao duyên dân tộc Mông. Luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn,Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội. 66. Đỗ Bình Trị (1978), Nghiên cứu tiến trình lịch sử của văn học dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội. 67. Đỗ Bình Trị (1991), Văn học dân gian Việt nam (Tập I), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 68. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp của các thể loại Văn học dân gian. Nxb Giáo dục, Hà Nội. 69. Hoàng Văn Trụ (1997), Dân ca các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội. 70. Hoàng Tiến Tựu (1990), Văn học dân gian Việt Nam (Tập II), Nxb Giáo Dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107 71. Hoàn Tiến Tựu (1997), Mấy vấn đề về phƣơng pháp giảng dạy, nghiên cứu văn học dân gian, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 72. Nguyễn Khắc Tụng (1997), Trở lại vấn đề phân loại các nhóm Dao ở Việt Nam, Tạp chí dân tộc học,( 3), Hà Nội. 73. UBND Tỉnh Lao Cai (2002), Qui định thực hiện nếp sống văn minh trong việc cƣới, việc tang, lễ hội và các hoạt động tín ngƣỡng tại tỉnh Lào Cai, Công tác tư tưởng – Ban tuyên giáo Tỉnh Uỷ Lào Cai (8). 74. Từ điển Tiếng Việt (1994), Trung tâm từ điển học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 75. Đặng Nghiêm Vạn (2002), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam, Nxb Đà Nẵng. 76. Đặng Nghiêm Vạn (1991), Huyền thoại về nguồn gốc các tộc ngƣời, Tạp chí văn hoá, (2), Hà Nội. 77. Văn kiện Hội nghị lần thứ V - BCH TW Đảng Cộng sản Việt Nam khoá VIII (1998),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 78. Lê Trung Vũ (1992), Lễ hội của ngƣời Việt ở Bắc Bộ. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 79. Lê trung Vũ (2001), Bàn Vƣơng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 80. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao. Nxb Giáo dục, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108 PHỤ LỤC 1. Bản đồ hành chính Lào cai Nơi tập trung người Dao Đỏ Nơi tập trung người Dao Tuyển Nơi tập trung người Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109 2. Một số hình ảnh về đời sống tinh thần của ngƣời Dao Tuyển Lào Cai Một số hình ảnh thiên nhiên thôn Làng Mi, huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai ( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 17 / 2 / 2008) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110 Hái lúa làm cốm ( Ảnh của Nguyễn Thế Dũng - Trƣờng THPT Nội trú – Lào Cai) Trang phục ngƣời Dao Tuyển Lào Cai (Ảnh của tác giả đề tài chụp 28 / 7/ 2007) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111 Mũ thầy cúng Dao Tuyển Lào Cai ( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 15/ 11/ 2007) Miếu thờ trong rừng cấm ( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 18/2/2008) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112 Hội hát cốm của ngƣời Dao Tuyển Bảo Thắng – Lào Cai ( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 8/ 9/ 2007) Thầy cúng trong đám chay Thầy cấp sắc và ngƣời thụ lễ ( Ảnh của tác giả chụp ngày 15/2/ 2008) ( Ảnh của tác giả chụp ngày 12/2/2008) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113 Thầy cúng trong đám tang ngƣời Dao Tuyển Bảo Yên – Lào Cai ( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 7/8/2007) Thầy cúng đang làm lễ giải hạn tại nhà ông Hoàng Sĩ Lực, thôn Làng Mi, Bảo Thắng, Lào Cai. ( Ảnh của tác giả đề tài chụp ngày 17 / 2 / 2008) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114 Những ngƣời hát giỏi tại thôn Làng Mi - Bảo Thắng – Lào Cai ( Ảnh của tác giả chụp 28 /2/2008) Hát đối đáp tại thôn Làng Mi - Bảo Thắng - Lào Cai ( Ảnh của tác giả chụp ngày 28 /2/2008) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115 Tác giả và nghệ nhân Hoàng Sĩ Lực ( Ảnh của tác giả chụp ngày16/2/2008) Tác giả đang thực tế tại thôn Làng Mi ( Ảnh của tác giả 16/2/2008) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116 Tác giả và một số ngƣời hát giỏi thôn Làng Mi - Bảo Thắng – Lào Cai ( Ảnh của tác giả chụp ngày 28/2/2008)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV_08_SP_VH_PVQ.pdf
Tài liệu liên quan