MS: LVVH-VHVN029
SỐ TRANG: 107
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2009
CẤU TRÚC LUẬN VĂN
LỜI CẢM ƠN
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6. Kết cấu luận văn
CHƯƠNG 1: QUAN NIỆM VỀ GIỚI TÍNH Ở PHƯƠNG ĐÔNG VÀ PHƯƠNG TÂY
1.1. Giới tính
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Nguồn gốc và bản chất của giới tính
1.1.3. Phương Đông và phương Tây nhìn về giới tính
1.2. Hồ Xuân Hương
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
2.1. Điểm nhìn giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
2.2. Sự tự hào về giới
2.2.1. Người phụ nữ với hình thể đẹp
2.2.2. Người phụ nữ với phẩm chất cao quý
2.3. Thú vui trần thế và khát vọng tình yêu
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG VÀ VẤN ĐỀ GIỚI TÍNH
3.1. Kết cấu lạ
3.1.1. Phá vỡ sự cân bằng của kết cấu thơ Đường luật
3.1.2. Dấu hiệu mở trong câu kết
3.2. Biểu tượng tạo nghĩa độc đáo
3.3. Từ ngữ ấn tượng
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
107 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3624 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thơ Hồ Xuân Hương nhìn từ góc độ giới tính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tính như trên phần lớn nhờ vào cách sử dụng những động từ, tính từ mạnh, những động từ đặc
tả, cách nói lái... khiến cho bất cứ ai đọc thơ bà liền hiểu được bà muốn nói cái gì.
Trước hết là việc huy động những động từ mạnh và sắc nhọn gợi liên tưởng đến những
hoạt động tính giao của con người, từ đó tạo ra một hệ thống động từ hoạt động mạnh: thốc
(gió), gieo (sương), nảy (vừng quế đỏ đỏ lòm lom), đâm lên, đạp xuống, đâm ngang, cọ (với
non sông), đấm (Chày Kình tiểu để suông không đấm), bóc yếm, xiên ngang... những từ ngữ có
khả năng in hình lên sự vật, tác động trực tiếp đến giác quan người đọc, buộc người ta phải suy
ngẫm và liên tưởng đến nó. Thêm vào đó chúng còn là những động từ gây ấn tượng mạnh mẽ
tới trí tưởng tượng của người đọc như : cắm, nứt, chen, xọc, dòm, đóng (cọc), mân mó, ngó
ngoáy, móc, khua, sờ, mó, mân mó, xỏ, đua xói móc, xâu xâu, chành, khép, phì phạch, húc, đâm,
xiên, đạp, châm, quệt, lách, thả, bóc (yếm)... Bài thơ Vịnh cái quạt – 1, bà tả như sau :
Một lỗ xâu xâu mấy cho vừa
Duyên em dính dáng tự bao giờ
Chành ra ba góc da còn thiếu
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa
Cái quạt có lỗ có thể xâu xâu, rồi lại chành ra ba góc, không dừng ở đó, Xuân Hương cặn kẽ
hơn khi tả cả phần da còn thiếu lẫn thịt vẫn thừa. Nói như thế thì người tiếp nhận không muốn
nghĩ cũng bắt buộc phải nghĩ tới một loại « quạt ba góc » khác trong đúng hàm nghĩa như bà đã
tả trên thân thể người phụ nữ. Bài Quả mít thật sự ấn tượng với hình ảnh người quân tử « đóng
cọc » cho mít, nhưng lời nhắn nhủ sau mới gieo vào lòng người đọc nhiều suy nghĩ nhất là với
động tác mân mó và đọng lại bài thơ là hình ảnh nhựa ra tay. Câu kết bài thơ làm người ta giật
mình vì nét nghĩa táo bạo, mở ra một không gian riêng của bao điều tình tự, bao cảm xúc đam
mê của con người. Đáng quan tâm là hầu như bài thơ nào của Xuân Hương cũng có sử dụng
những động từ kiểu này, thậm chí một số từ còn được sử dụng lặp đi lặp lại. Kết hợp với những
động từ gây ấn tượng mạnh mẽ trên là những phụ từ làm đậm thêm, rõ hơn hành động, đã xiên
ngang, đâm ngang thì phải là đâm toạc, chen xọc... Cỏ, đá cũng:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”.
(Tự tình -2)
Những vật vô tri như rêu, như đá cũng trở nên sắc nhọn, có sức sống vô cùng mãnh liệt, rêu
xiên ngang mặt đất mà trồi lên, đá đâm toạc, như rách cả chân mây để nhô lên, chĩa thẳng lên
trời. Từ ngữ đã dùng phải thật đắc địa, đi đến tận cùng của nó, thế mới thoả lòng Người Cổ
nguyệt và cũng tạo khoái cảm thẩm mĩ ở người tiếp nhận. Xuân Hương đã chạm khắc thế giới
thơ Nôm của bà bằng những động từ động tạo nên đủ hình dáng của sự vật. Hình dáng của
những sự vật ấy cũng chính là bóng dáng của con người trong cuộc đời. Những động từ được
sử dụng với một sắc thái mới tạo linh hồn cho tác phẩm, vẽ lên một thế giới thiên nhiên và con
người sống động hơn. Thủ pháp nghệ thuật trên cũng đã góp phần rất lớn tạo nên sắc thái động
trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Thế giới sự vật hiện tượng trong thơ bà luôn lay động, luôn
vận động. Con người có cá tính, phóng khoáng và mạnh mẽ ấy không chấp nhận một thế giới
im lìm, bất động. Thế giới ấy phải sinh sôi nảy nở từng giờ từng phút, cựa quậy, bứt phá vươn
lên không ngừng.Vì Hồ Xuân Hương là con người của sự sáng tạo sắc thái động, động từ ngôn
từ, động ra hình ảnh. Đến với thơ Hồ Xuân Hương, ta như lạc vào khu vườn sáng tạo, như lạc
vào một thế giới động với những hình ảnh tươi thắm, sống động, một thiên nhiên tràn đầy sự
sống, khu vườn ấy đẹp nhưng không thoát tục, vì nó thuộc khu vườn của những điều trấn thế,
của trực giác, của bản năng và giới tính hòa trong không gian và nhịp vận động hối hả mãnh liệt.
Những tính từ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng vô cùng đáng quan tâm, đó là
những tính từ chỉ sắc màu tươi rói của sự sống: đỏ loét, xanh rì, trắng phau phau, trong leo lẻo,
chín mõm mòm, đỏ lòm lom, lắt lẻo, đầm đìa… những màu sắc đậm, những trạng thái động có
tác dụng chuyển nghĩa từ sự diễn tả sự vật trong thế giới tự nhiên sang hình ảnh ẩn dụ cho cơ
thể người phụ nữ. Những màu trên cũng là màu sắc họa theo sắc màu của da thịt con người,
những trạng thái này là những trạng thái lâng lâng, chất ngất, hưng phấn của con người. Bài thơ
Giếng nước có cầu trắng phau phau đôi mảnh ghép, có độ trong leo lẻo của nước, cỏ gà thì lún
phún leo quanh mép, lại thêm sự đính chính của người viết về sự thanh tân của nó khi chưa có
kẻ nào dám thả nạ dòng dòng vào; cái giếng ấy dễ làm người ta liên tưởng đến một « cái
giếng » khác cũng chứa đựng những điều kì thú. Khi Xuân Hương nhìn trăng thu thì:
“Một trái trăng thu chín mõm mòm,
Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom”
(Hỏi trăng - 1)
Có lẽ trái trăng thu đó không thể chín hơn được nữa và màu đỏ ở đây có sắc độ mạnh như đập
vào mắt người đọc, sắc đỏ được đẩy đến cực hạn, như thế màu sắc ấy mới gây chú ý, mới cuốn
hút người ta đi khám phá những gì là niềm vui trần gian. Những động từ, tính từ ấy đã tạo ra thế
giới độc đáo của sự sáng tạo. Đó là những hang động biết trở mình, những hòn đá biết ấm lạnh,
cỏ cây biết cựa quậy để mang vóc dáng và khát vọng của con người.
Việc dùng những từ ngữ mang sắc thái động trong cách thể hiện về giới tính đó của
Xuân Hương đã mang lại giá trị thức tỉnh và gọi dậy sức sống, cái đẹp tiềm năng của con người.
Có lẽ vì cách sử dụng những động từ, tính từ mạnh, táo bạo này của bà mà có người bảo bà là
“hiếu dâm” (chữ dùng của Trương Tửu). Không thể phủ nhận Xuân Hương hay đề cập đến
chuyện phòng the, chăn gối, nhưng điều này cần phải nhắc lại, bà nói không phải bì bà thích
dâm tục, mà đây chỉ là một phương thức thể hiện cho nỗi lòng, cho những khát vọng của người
phụ nữ toàn gặp những chuyện “bấp bênh” trong đời sống tình ái. Sống trong xã hội phong kiến,
con người bị trói buộc bởi những quan niệm đạo đức, con người trở nên đạo đức giả, không
dám sống thật với những khát khao của mình, không dám đạp lên dư luận để hát bài ca tự do
luyến ái. Khi không ai dám công khai thừa nhận vấn đề giới tính thì Xuân Hương đã dũng cảm,
nồng nhiệt chào đón nó bằng cả trái tim của một người đàn bà đa đoan. Người đời giả dối thì bà
chân thật, người đời xa lánh, khinh miệt thân xác thì bà nâng niu, yêu thương trân trọng nó.
Dường như Người Cổ Nguyệt muốn nói to để mọi người cùng hiểu, cùng thoát ra sự tù túng của
những luân lí trói buộc hạnh phúc trần thế của con người. Đã là người phải sống cho ra con
người, phải thỏa mãn những khát khao của con người, kể cả sự thỏa mãn cuộc sống bản năng.
Khát khao ấy cũng là một khát khao chính đáng, giống như bất cứ một khát vọng chính đáng
nào. Có điều, dù Xuân Hương công khai nói đến cuộc sống bản năng, đến vấn đề giới tính, hay
ca ngợi vẻ đẹp thân xác của con người, dù viết về những đề tài với đích đến là để người ta liên
tưởng đến chuyện yêu đương nơi buồng kín, nhưng bất cứ bài thơ nào bà cũng đều gợi cho
người tiếp cận thơ bà những cảm giác sảng khoái và ấn tượng khó phai về sự chiêm ngưỡng và
ngộ ra cái Đẹp. Chính sắc thái thể hiện này của Xuân Hương đã nâng bà lên vị trí của một nghệ
sĩ lỗi lạc trong dòng thơ Nôm nước nhà.
Ngoài ra Xuân Hương còn đặc biệt chú ý đến hệ thống các từ láy, cách nói lái, từ tượng
thanh, tượng hình…Đầu tiên phải kể đến những từ láy gợi âm thanh vô cùng sinh động: lắc cắc,
phập phồng, long bong, lõm bõm, thánh thót, tỉ tì ti, hi ha, hu hơ, vo ve… những âm thanh đó là
những khua động, những tiếng, những âm vang vừa khắc khoải khát khao, vừa nồng nhiệt, tác
động trực tiếp đến giác quan của con người khiến người ta không thể cưỡng lại sự khám phá và
tận hưởng những lạc thú của cuộc đời. Sau đó là những từ láy gợi xúc giác khi tiếp cận: toen
hoẻn, mân mó, xù xì, dầy, mỏng, lam nham, lún phún… Cả những từ láy diễn tả mức độ của
màu sắc: phau phau, lòm lom, leo lẻo ; những từ láy tả độ nông, sâu, sự chông chênh trong thế
đứng, sự mạnh mẽ trong những cử động: hỏm hòm hom, phập phòm, cheo leo, lom khom, ngất
nghểu, vắt vẻo, nổi nênh, lênh đênh, tấp tênh, năng năng (nhắc), thích thích (mau)… Từ láy
nhưng lại có giá trị như những động từ mang nghĩa vận động, chuyển dịch có tác dụng làm
khấy đảo nơi thâm u, làm vơi đi sự cô quạnh, mang niềm vui, hơi ấm, náo nhiệt, mang mùa
xuân, hạnh phúc đến cho con người. Tiện đây, chúng tôi cũng xin được đưa ra con số thống kê
về việc bà chúa thơ Nôm dùng từ láy: 88 từ / 48 bài thơ. Một số liệu từ láy khồng lồ, thú vị hơn
là cách sử dụng ấy hết sức linh hoạt. Hơn thế, Hồ Xuân Hương rất độc đáo trong cách khai thác
những vần vốn được coi là “tử vận” vô cùng ấn tượng của những từ láy trên như: ênh (lênh
đênh, nổi nênh, gập nghềnh…), om (lom khom, phập phòm, om, mõm mòm, dòm…), eo (cheo
leo, thiên thẹo, lộn lèo, leo lẻo)… gợi ra cái thế đứng của cảnh vật cũng là cái phần “trong hang
hé thấy mặt trời lại râm”, phần thuộc về bản thể con người. Trong hai bài Hang Cắc Cớ và
Động Hương Tích Xuân Hương đều dùng từ hỏm hòm hom để tả độ sâu của hang, động. Từ láy
này còn có khả năng gợi cho người đọc liên tưởng đến cấu trúc của hang với vòng tròn, vòm
cung, sâu hun hút với đường đi lắt léo, không những thế người đọc còn cảm nhận một không
gian khác, hé lộ một cái « hang » khác cũng gây sự chú ý vô cùng.
Chơi chữ để hướng đến những gì thuộc về trần thế của con người cũng là một thủ pháp
nghệ thuật Xuân Hương sử dụng rất khéo léo. Bài Bỡn bà lang khóc chồng có nhiều từ chỉ các
vị thuốc: cam thảo, quế chi, trần bì, thạch nhũ, quy thân, liên nhục, cả những dụng cụ bào chế
thuốc: dao cầu, từ chỉ hành động bào chế thuốc: sao, tẩm. Thủ pháp nghệ thuật này dựa trên sự
đa nghĩa của từ. Ngoài giá trị là tên của các vị thuốc, theo nghĩa Hán Việt, trần bì còn hiểu là da
thịt, thạch nhũ: vú đá, quy thân: phần củ của đương quy, liên nhục: thịt của hạt sen. Những từ
ngữ luôn lấp lửng chỉ những thứ quen thuộc, những thứ thuộc về đời sống vợ chồng khiến cho
bà Lang phải buồn bã, tiếc nuối mới cất tiếng khóc tỉ ti mà không khóc thảm thiết, khóc cho
những thứ đáng để cho bà ôm ấp thì nay phải tẩm mang đi, những thứ để lại hoá ra vô nghĩa
cho một người đàn bà goá bụa. Cái nhìn ấy của Xuân Hương có phần tinh quái song đó là cái
nhìn thấu đáo, cái nhìn tận gốc rễ của niềm yêu thương con người tha thiết, nói đúng về những
cảm xúc giới tính của con người. Sự bỡn cợt đáo để của Xuân Hương có lẽ không làm “phạm
thượng” đến bà Lang kia bởi trong hoàn cảnh oái ăm này, bà Lang không thể giận nữ sĩ mà phải
nể cho tài “kê đơn bắt mạch” tài tình của Xuân Hương.
Lại nói về nghệ thuật lái trong mảng thơ Nôm của bà, chắc cũng là hiện tượng “vô tiền
khoáng hậu”, vô cùng đặc sắc: suông không đấm, đếm lại đeo, đáo nơi neo, lộn lèo, lo cũ, đá
đeo, nắng cực, trái gió, đứng tréo, đẽo đá… Nói lái thường thấy trong văn học dân gian, văn
học viết có nhưng không nhiều. Ở đây, Xuân Hương đã khai thác vốn ngôn ngữ nôm na bình
dân để chơi chữ, nói lái. Có lẽ Xuân Hương là một trong số rất ít những nữ sĩ của văn học trung
đại Việt Nam sử dụng thủ pháp nghệ thuật này, hơn thế bà dùng khá mạnh tay. Bà tạo ra những
câu từ mà độc giả nào vô tình sẽ bị “sập bẫy” bà « gài » ngay. Chùa Quán Sứ được Xuân
Hương tái hiện với lời hỏi thăm ông sư trụ trì đáo nơi neo, để chú tiểu quên cả gõ chày Kình, bà
vãi thì ngồi lần tràng hạt hết đếm lại đeo. Cụm từ đáo nơi neo, suông không đấm, cũng như đếm
lại đeo… hiểu theo nghĩa thứ hai của nó thì đây cũng chính là chuyện của ông sư, bà vãi, chú
tiểu với nhau như người bình dân vẫn nói nôm na “ông sư bà vãi cuộn tròn lấy nhau”. Người
phụ nữ tài hoa này đã tạo nên những câu thơ mà cho đến nay nhiều người đã quá quen thuộc vì
bản thân những từ bà sử dụng đều có nghĩa, song mỗi lần đọc lái lại, lộn lại thì nó mang một
nghĩa hoàn toàn khác, khiến mỗi lần nghĩ đến không khỏi làm ta vừa thẹn thùng vừa tủm tỉm
cười thích thú và thầm thán phục cho cái tài xoay trở câu chữ của bà.
Đôi khi để tạo nên sự phong phú trong việc sử dụng từ ngữ, dù không phổ biến, không
tồn tại như một thủ pháp nghệ thuật, Hồ Xuân Hương đã tạo ra hiện tượng tràn nghĩa rất độc
đáo. Khi đặt những từ ngữ cạnh nhau, tự nhiên nghĩa thứ hai sẽ hiển hiện. Bài Kẽm Trống rất
tiêu biểu cho cách thức nghệ thuật này. Bài thơ có câu : “Có phải đây là Kẽm Trống không? ”.
“Kẽm Trống” đặt cạnh từ nghi vấn “không” – có nghĩa là rỗng, khi đọc lên thành “Kẽm Trống
không” có thể hiểu ngầm là cái nơi trống rỗng ám chỉ đến âm vật. Cũng tương tự như “Qua cửa,
mình ơi nên ngắm lại”, sự tràn nghĩa sẽ thành qua “cửa mình” của chị em. Sự độc đáo trong
cách chơi chữ này của bà chúa thơ Nôm đã để lại cho hậu thế thêu dệt lắm điều thú vị xung
quanh bài thơ “Kẽm Trống”. Tương tuyền, vua Minh Mạng trong một lần đi tuần thú đến Kẽm
Trống, vì thẹn với bài thơ trên của Xuân Hương, đã bắt thuyền dừng lại, ra lệnh cho quân lính
đào một con kênh bên ngoài để thuyền đi qua chứ nhất định không chịu chui qua “kẽm” mà
Xuân Hương đã đề thơ. Vị vua triều Nguyễn kia xem chừng vẫn ngán ngẩm những câu chữ ấy
vì sợ lại bị bà úp cho “cái quạt” lên đầu như mấy vị quân vương khác. Đúng là huyền thoại về
một tài thơ biến hóa ngôn từ một cách lão luyện - Xuân Hương!
Cách vận dụng và sử dụng từ ngữ của Xuân Hương còn đáng nể ở việc lựa chọn từ ngữ
giàu sức liên tưởng. Bà tả cái quạt, bằng những câu thơ ngắn : «Mười bảy hay là mười tám
đây », có thể hiểu mười bảy, mười tám là con số chỉ những nan quạt, nhưng cũng có thể hiểu là
tuổi đời đẹp nhất, xinh tươi và đầy sức sống nhất của người thiếu nữ. Đến câu thơ «Chành ra
ba góc da còn thiếu / Khép lại hai bên thịt vẫn thừa » thì ý tứ câu từ đã khá rõ, người đọc giật
mình vì «cái ba góc» có cả da lẫn thịt kia. Những từ ngữ hàm chứa sức liên tưởng, nghĩa của từ
ngữ này gọi nghĩa của từ ngữ khác trong một trường liên tưởng khiến sự vật muốn che đậy,
điều muốn giấu diếm cứ dần dần lộ nguyên hình, không nhiều lời chỉ vài từ ngữ cũng gợi lên tất
cả. Chính điểm này tạo ra sự hứng thú cho hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, họa sĩ Chóe khi hoạ thơ Hồ
Xuân Hương bằng tranh. Họa sĩ Chóe cũng như Bùi Xuân Phái bằng những nét vẽ đơn sơ,
những nét phác thảo mộc mạc nhưng tóm được toàn ý mà tác giả Xuân Hương muốn bày tỏ.
Những động từ, tính từ, cách chơi chữ, lối nói lái kì dị có vẻ bất thường, có vẻ gai góc lại
là những từ có khả năng chuyển đạt những ẩn dụ, bản năng của sự sống, gọi dậy sức sống, khơi
dậy vẻ đẹp bản năng của con người; những câu chữ xộc xệch tạo nên sự khấp khểnh, gồ ghề, có
những đoạn thơ, nhịp thơ gãy khúc nhưng lại tạo ra nét nghĩa mới, chuyển từ sắc thái bình
thường sang sắc thái giới tính. Đồng thời, những động từ mang sức mạnh vô hình này đã tạo ra
sắc thái hối hả, dồn dập từ đó bật lên những ý nghĩa về giới tính và thân xác một cách trần tục:
“Cửa son đỏ loét tùm hum nóc,
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo”
(Đèo Ba Dội)
“Gió giật sườn non khua lắc cắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong”
(Kẽm Trống)
Con người thì mạnh mẽ, ráo riết, say mê trong thế giới trần tục đó:
“Người quen cảnh Phật chen chân xọc
Kẻ lạ bầu tiên mỏi mắt nhìn”
(Động Hương Tích)
Xuân Hương dường như không muốn che giấu chuyện đó nữa, bà miêu tả rất cụ thể cảnh trai
thanh gái lịch “đánh đu”, cách những anh chàng lực lưỡng đang “đánh trống”. Sự thể hiện cụ
thể này đủ sức tuyên chiến với những định kiến xã hội lúc bấy giờ và cũng đủ sức tạo nên sức
hút khi chòng ghẹo, trêu chọc người ta.
Qua những điều người viết trình bày ở trên, cần phải thấy rằng cách thể hiện về vấn đề
giới tính này của Xuân Hương rất tinh tế nhưng cũng vô cùng cụ thể, nó đã được hình thành bởi
những hình tượng ngôn ngữ điêu luyện, được kết tinh từ trong ngôn ngữ mẹ, trong ca dao, tục
ngữ, cấu đố, truyện cười của quảng đại quần chúng, quen thuộc nhưng không quá sống sượng,
thô thiển, lộ liễu, sỗ sàng, chớt nhả, hay khiêu dục. Ở sự thể hiện về vấn đề giới tính mà tập
trung nhất là không gian buồng khuê với những pha giao hoan nam nữ, thời Xuân Hương nếu
nói trắng ra không dễ gì được chấp nhận. Ngay cả thời hiện đại này – những năm đầu của thế
XXI, đọc những câu văn đậm tính dục người ta còn ngỡ ngàng, thẹn thùng đỏ mặt. Không phải
người Việt ta khó tính nhưng cũng rất khó chấp nhận những gì quá tục tĩu, thô kệch trái với thị
hiếu thẩm mĩ truyền thống (người Việt ta vốn ưa kín đáo, tế nhị...), hơn nữa những trang viết
mang đậm sắc màu tính dục dễ kích thích những trẻ mới lớn, thiếu hiểu biết, tò mò, tạo ra
những hiệu ứng xấu trong xã hội. Vì vậy những câu văn sặc mùi ham muốn xác thịt trong Bóng
đè của Đỗ Hoàng Diệu đã bị một số độc giả tẩy chay. Trong khi thơ Xuân Hương ra đời từ mấy
trăm năm rồi, vẫn được người đời nay yêu mến. Làm được điều đó, có lẽ vấn đề giới tính được
bà thể hiện một cách tinh vi qua các thủ pháp nghệ thuật, điều thú vị được ẩn bên trong lớp
nghĩa tạo thành khiến người đọc hưng phấn hơn khi tự mình phát hiện, khám phá và lôi ra ánh
sáng điều bí ẩn đó. Những từ ngữ mà Xuân Hương sử dụng vẫn giữ được sự tinh tế, dí dỏm,
thông minh nhưng cũng gần gũi với người đọc. Sắc thái tinh tế này cho thấy trình độ bậc thầy
về ngôn ngữ dân tộc của Hồ Xuân Hương, không phải ai cũng đủ tài, đủ khả năng để “biến
hóa” ngôn từ, để đưa ngôn ngữ bình dân nôm na kia theo hướng sáng tạo của mình, để trở thành
thứ ngôn ngữ tự nhiên, dí dỏm, phóng khoáng một cách đặc sắc như thế. Ngôn ngữ dân tộc -
sắc thái bình dân được Xuân Hương sáng tạo vừa hàm súc vừa uyển chuyển, giàu sức tạo hình
gợi cảm, khiến cho thể thơ Đường luật trong tay bà cũng khước từ vẻ kiêu sa, đài các để đón
nhận nét nghĩa dung dị hơn. “Sáng tác của Xuân Hương là sự xâm nhập vào ngôn ngữ nghệ
thuật cao cấp của nền văn hóa nhân dân bị cấm đoán ở Việt Nam thời cổ truyền” (Niculin).
Đây cũng chính là điểm mang lại sức hấp dẫn cho thơ Hồ Xuân Hương. Ngôn từ của Xuân
Hương như có ma lực, đọc những từ ngữ mà bà sử dụng phần nào cũng thỏa mãn tính hiếu kì
và óc hóm hỉnh của người bình dân. Từ trước đến nay, do bị nhiễm những chuẩn mực cao siêu
của nguyên lý sáng tác nghệ thuât, văn chương vẫn có một cách nhìn cứng nhắc cho rằng văn
chương là một thứ nghệ thuật sang trọng, chỉ dung chứa những gì thanh cao, những chuyện của
bản năng và giới tính thuộc về những góc tối sâu ẩm thấp nào đó trong đời sống, những sinh
hoạt riêng tư của con người cá nhân chốn phòng the, không nên đưa vào văn chương vì cơ hồ
nó sẽ làm vấy bẩn thứ văn chương thanh cao kia và tác hại hơn có thể làm khuynh bại đạo đức,
thuần phong mĩ tục của xã hôi. Sự thực thì khi xã hội đảo điên, những giá trị đạo đức, văn hóa
xuống cấp, vấn đề nhân tính con người có nguy cơ bị xói mòn và hủy diệt chính là lúc sự thức
dậy và vươn mình của thứ văn chương này. Thứ nghệ thuật này không làm cho con người trở
nên dung tục, cũng không làm cho xã hội đảo điên mà nó sẽ như cơn mưa đầu mùa, ít ỏi nhưng
mát ngọt vì quý và nó hiếm hoi vì đó là sự trỗi dậy kịp thời, để phản kháng, chống lại xã hội
ngột ngạt đương thời. Hồ Xuân Hương đã là người làm được điều đó, không chỉ là khởi xướng
mà thực hiện một cách mạnh mẽ và táo bạo và bà đã gặt hái được những thành công đáng kể.
KẾT LUẬN
Hồ Xuân Hương là một trong số những nhà thơ trong thời kì văn học trung đại mà tên
tuổi đã rực sáng trên thi đàn văn học của dân tộc. Đề tài về bà, cũng như những bài thơ Nôm kì
tài của bà dẫu là cả một lịch sử vấn đề đã được nghiên cứu nhưng vẫn hết sức độc đáo với bất kì
ai muốn tiếp tục hành trình thú vị này. Lâu nay, vấn đề nghiên cứu về Hồ Xuân Hương và thơ
văn của bà đã rất phong phú; ta thấy một tài nữ, một tài thơ Xuân Hương. Hồ Xuân Hương hiện
lên từ chính những bài thơ Nôm tươi rói chất cuộc đời với cả niềm vui, nỗi buồn đau, sự bướng
bỉnh, hóm hỉnh rất thật. Nghiên cứu thơ Nôm Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn giới tính thực chất
là tìm hiểu quan điểm, thái độ của nhà thơ đối với những nhu cầu, khao khát hạnh phúc trần thế
của con người mà đặc biệt là đối với người phụ nữ. Ta bắt gặp trong thơ Nôm của Hồ Xuân
Hương là cả một nền văn hóa, lối sống của người Việt, hơn nữa những vấn đề mà bà đề cập còn
là những vấn đề gắn liền với đời sống tình cảm, đời sống tinh thần của dân tộc, không những
thế, những điều đó cũng thuộc về những vấn đề của nhân loại, thuộc mẫu số chung của nhân
loại – Những vấn đề thuộc về tâm thức chung của nhân loại - Những vấn đề con người còn và
mãi quan tâm, là tiếng nói tri âm về những khát khao hạnh phúc trần thế của con người. Chính
vì thế, thơ Nôm Hồ Xuân Hương luôn sống trong hồn độc giả, trong lòng dân tộc – như món ăn
tinh thần quý báu. Nếu như người đời thường chiêm nghiệm cuộc đời bằng việc bói Kiều thì
người ta dùng thơ Nôm Hồ Xuân Hương để thổ lộ những khát khao hạnh phúc được ái ân, được
sống trọn vẹn của mình.
Trong giới hạn của một luận văn tốt nghiệp, chúng tôi dã chọn lọc từ những công trình
nghiên cứu về Hồ Xuân Hương, kể cả những bài báo không chuyên đề liên quan đến vấn đề
giới tính trong thơ Hồ Xuân Hương có những chỗ rất quí, độc đáo và mới mẻ đều được chúng
tôi khai thác. Điều đó cho phép chúng tôi có được cái nhìn hệ thống toàn bộ những sáng tác của
Xuân Hương về vấn đề giới tính.
Luận văn chúng tôi đã trình bày được những điều tổng quát sau đây. Trong chương thứ
nhất của luận văn chúng tôi đã đưa ra những nhận xét khái quát và hệ thống về vấn đề giới tính
trong thế giới quan và nhân sinh quan nhân loại: từ phương Đông sang phương Tây, từ cổ chí
kim, từ lịch sử, nguồn gốc đến bản chất của vấn đề giới tính; cho thấy vấn đề giới tính in dấu ấn
trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội từ vật chất đến tinh thần. Giới tính trong lịch sử triết
học và tôn giáo, trong lịch sử mỹ học: nghệ thuật điêu khắc và hội hoạ, đặc biệt là sự thể hiện
vấn đề giới tính một cách phong phú, muôn màu trong nghệ thuật ngôn từ. Như thế chúng tôi đã
được khảo sát vấn đề giới tính từ nhiều lĩnh vực để thấy giới tính là một vấn đề mang tính khoa
học, một vấn đề tất yếu trong cuộc sống và trong văn chương. Trên cơ sở đó, giúp chúng tôi mở
ra chương tiếp của luận án, góp phần giải quyết những vấn đề còn lại.
Vấn đề giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương là trọng tâm chúng tôi khảo sát. Điều
này được thể hiện ở cả hai mặt nội dung và nghệ thuật thể hiện chúng tôi thực hiện trong hai
chương của luận văn. Trước hết là nội dung, chúng tôi nhận thấy, vấn đề giới tính trong thơ
Nôm Hồ Xuân Hương xoay quanh những quan niệm của bà về người phụ nữ. Từ điểm nhìn
giới tính, nữ sĩ thể hiện sự bình đẳng về giới, sự tự hào về giới, ca ngợi người phụ nữ với nét
đẹp hoàn mỹ về hình thể. Trong đó, chúng tôi luôn khẳng định vấn đề giới tính là điểm độc đáo
và làm nên sức hấp dẫn của thơ Xuân Hương với nhiều thế hệ, điều đặc biệt là vấn đề giới tính
được thể hiện cụ thể trong những khát vọng về tình yêu – khía cạnh hoà hợp thể xác, thú vui
trần thế của con người.
Vấn đề giới tính không chỉ được tiếp cận trong nội dung tác phẩm mà còn được khai thác
từ những thủ pháp nghệ thuật thể hiện. Chúng tôi cũng đã phát hiện được các điểm độc đáo
trong nghệ thuật thể hiện từ các bài thơ Nôm của Hồ Xuân Hương. Rõ ràng Xuân Hương độc
đáo ngay trong cách thức thể hiện; hết sức sáng tạo trong nghệ thuật tổ chức bài thơ, độc đáo
hơn cả là phá vỡ sự cân bằng của kết cấu thơ Đường luật, tạo sự cân bằng mới về ngữ nghĩa
trong lối tả vịnh, là cách tạo ra những câu thơ kết mang dấu hiệu mở, là cách sử dụng những
biểu tượng và từ ngữ độc đáo hướng về giới tính. Bằng thiên tài của mình, dấu hiệu của sự sáng
tạo có mặt ở khắp các bài thơ trong kết cấu sáng tạo, các biểu tượng tạo nghĩa độc đáo, trong
một số thủ pháp nghệ thuật chơi chữ, nghệ thuật dùng những từ ngữ mới lạ, ấn tượng. Các thủ
pháp nghệ thuật này đã tạo ra một giọng thơ rất riêng, rất Hồ Xuân Hương. Tất nhiên chúng ta
hiểu được điều mà Xuân Hương muốn nhắn gửi qua những hình thức nghệ thuật ấy chính là
những thông điệp cuộc đời mà bà gửi lại cho người đời chẳng thể nào khác ngoài những khao
khát hạnh phúc của con người. Đây cũng chính là phần đóng góp của người viết trong đề tài
này.
Văn chương nghệ thuật đích thực luôn lấy con người làm trung tâm thể hiện. Những khát
khao, những nỗi niềm của con người bao giờ cũng là đề tài chính cho đối tượng của văn học,
cho người nghệ sĩ sáng tạo. Hồ Xuân Hương cũng không nằm ngoài quy luật sáng tạo nghệ
thuật ấy. Con người cá nhân trong thơ văn trung đại, đến thế kỉ XVIII, các nhà thơ, nhà văn đã
có những thay đổi trong cách nhìn về đối tượng sáng tác của mình. Con người cá nhân được đề
cao với đầy đủ những cung bậc của nó. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương cũng hòa vào dòng chảy
chung của những cảm hứng về con người cá nhân đó. Hơn bất cứ nhà thơ nào trước đó, Hồ
Xuân Hương bộc lộ nỗi niềm riêng, khát vọng riêng một cách tha thiết, sâu sắc. Mà mục đích
đầu tiên của sự thể hiện giới tính đó là khẳng định quyền sống trọn vẹn cho con người cá nhân.
Thơ Xuân Hương là tiếng lòng của một người đàn bà khao khát được yêu, được sống và yêu
sống một cách trọn vẹn. Khát vọng ấy làm cho tiếng nói của Xuân Hương độc đáo, khác lạ hơn
những người cùng thời với bà. Có thể nói, viết những tác phẩm mang màu sắc giới tính cũng
chính là đề cập đến những cái gì thuộc về con người, cuộc đời Xuân Hương. Một cái tôi nữ giới
đầy cá tính, bản lĩnh chịu đựng trước nỗi đời cay cực để giữ trọn cái sắt son.
Với những kết cấu nghệ thuật độc đáo, tác phẩm đã bao hàm nội dung cần biểu đạt. Bà
muốn khẳng định triết lí sống trong thơ Nôm của mình, triết lí vì con người, vì sự sống trọn vẹn,
đầy đủ những khát khao hạnh phúc. Khát khao hạnh phúc là nhân bản, là vấn đề sống còn của
con người. Điều này lí giải tại sao giới tính, thân xác không phải chỉ là một khía cạnh, một góc
nhỏ trong thơ Hồ Xuân Hương mà là một nội dung phổ biến bằng cả một hệ thống biểu tượng,
hình ảnh. Không hiểu tại sao nhưng mỗi khi nghĩ về nữ sĩ này, người viết luôn có cảm giác con
người tài tình ấy đang đi kiếm tìm hạnh phúc…trên một con đương xa ngái - Một con đường
khấp khểnh đầy nhọc nhằn của những người phụ nữ đi tìm hạnh phúc. Giống như những kẻ
lang thang trên sa mạc, con người khát khao hạnh phúc, Xuân Hương như người thứ lữ cần giọt
nước; dẫu chưa có được những giọt nước mát lành thì ảo ảnh về nó cũng sẽ làm dịu đi cơn khát;
hạnh phúc dẫu mơ hồ, bé nhỏ, ít ỏi cũng xoa dịu phần nào nỗi khát khao của con người trong
cuộc đời. Vì chút hạnh phúc nhỏ nhoi ấy người ta dám đánh cược số mệnh của mình trong vai
tỳ thiếp, trong vai vợ lẽ để chấp nhận kiếm chút ít “miếng đỉnh chung”. Sống trong xã hội bất
bình đẳng, một xã hội mà mọi nề nếp đạo đức đang trên đà suy thoái thì số phận con người
được nhìn nhận rõ nét hơn cả. Và con người được bộc lộ mình rõ nét hơn cả chính trong cuộc
mưu cầu hạnh phúc, thể hiện một cách bản chất tính người, với những khát vọng chưa bao giờ
đạt được của con người. Niềm khát vọng sống hạnh phúc trọn vẹn ấy đâu phải là khát vọng của
riêng Xuân Hương nữa, nó trở thành sự khát khao của tất cả những người phụ nữ mà bà là
người tiêu biểu. Xuân Hương đã ôm trọn trong trái tim mình sự rỉ máu của những nỗi đau và cả
niềm khát vọng sống, khát khao hạnh phúc trọn vẹn cũa cả thời đại - một thời đại người phụ nữ
chịu đầy bi kịch. Xuân Hương mang trong mình nỗi niềm của Thúy Kiều, của cả người phụ nữ
sẵn lòng làm thứ “cơm nguội đỡ khi đói lòng” trong ca dao. Xuân Hương thu nhận cả khát vọng
ân ái của người cung nữ, cả nỗi nhung nhớ của người chinh phụ, cả khúc li biệt não nề của công
chúa Ngọc Hân... Người phụ nữ càng khát khao hạnh phúc thì càng chẳng có được nó một cách
trọn vẹn trong xã hội ấy. Nàng Tấm muốn yên phận cũng không được, Thúy Kiều thông minh,
sắc sảo rồi cũng bị cuốn vào kiếp đoạn trường, Thị Mầu phóng túng, lẳng lơ cũng là kẻ bất
hạnh, Xúy Vân liều lĩnh rồi cũng hóa dại dại điên điên... Hồ Xuân Hương không cam chịu, bà
cất tiếng nói đòi quyền sống cho người phụ nữ: quyền được làm vợ, làm mẹ, quyền được yêu và
hưởng hạnh phúc chăn gối một cách trọn vẹn – những quyền sống tối thiểu và thiết yếu của giới
mình.
Thơ Xuân Hương là thơ của nỗi niềm, của thân phận rất riêng nhưng cũng là tiếng nói
cho mọi người. Có thể nói, đề cập đến những vấn đề giới tính trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương
là đề cập đến những vấn đề nhân bản. Dưới góc nhìn giới tính, chúng tôi đã tìm hiểu, phân tích,
so sánh thơ bà với thơ văn cùng tư tưởng như bà trên thế giới để thấy rằng con đường đi đến
với các thiên tài sáng tạo đều có điểm chung đó là các vấn đề con người làm cho “người gần
người hơn”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Phương Anh (1969), “Con người Việt Nam trong nghệ thuật tạo hình xưa”, Tạp chí mỹ
thuật Việt Nam, (5), tr.70 - 83.
2. Bakhtin. M (Phạm Vĩnh Cư dịch) (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn
Nguyễn Du, Hà Nội.
3. Bakhtin. M (Từ Thị Loan dịch, Hoàng Ngọc Hiến hiệu đính) (2006), Sáng tác của Francois
Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ Phục hưng, Nxb KHXH, Hà Nội.
4. Hoa Bằng (1970), Hồ Xuân Hương – nhà thơ cách mạng, Nxb Bốn Phương, Viện học thuật,
Sài Gòn.
5. Trương Duy Bích (1984), “Điêu khắc đình làng”, VHDG, (3), tr.40 – 44.
6. Nguyễn Đức Bính (1982), “Người Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Hương”, Tạp chí Văn nghệ,
(10).
7. Bocassio (1994), Mười ngày, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Bùi Hạnh Cẩn (1999), Hồ Xuân Hương, Thơ chữ Hán, chữ Nôm và giai thoại, Nxb VHTT,
HN.
9. Cây Thông (Nxb) (1950), Thân thế và thơ ca Hồ Xuân Hương: Bà chúa thơ Nôm, sưu tầm
tất cả thơ ca của Hồ Xuân Hương từ lúc lên 8 tuổi trải mấy đời chồng cho đến lúc già,
HN.
10. Nguyễn Thị Chiến (1992), “Tính bi kịch xã hội qua hình tượng người phụ nữ trong thơ ca
thế kỷ XVIII và nửa thế kỷ XIX”, Tạp chí văn học, (2), tr.9 -12.
11. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hoá học, Viện văn hoá & NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
12. Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Vũ (1984), “Tìm hiểu thơ Hồ Xuân Hương hay một vài nhận
định về tâm lý học, phân tâm học và văn hoc”, Bách Khoa, (168), Sài Gòn.
13. Hoàng Sơn Cường (1994), “Đạo vợ chồng theo lý giải âm dương, bát quái”, Văn học nghệ
thuật, (7), Hà Nội, tr.10 – 13.
14. Nguyễn Văn Dân (2005), Thần thoại Hy Lạp, Nxb Giáo Dục.
15. Ngô Viết Dinh (sưu tầm và biên tập) (1997), Đến với thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Hà Nội.
16. Đỗ Hoàng Diệu (2005), Bóng đè, Nxb Đà Nẵng.
17. Xuân Diệu (1958), Ba thi hào dân tộc – Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nxb
Phổ Thông, Hà Nội.
18. Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học.
19. Xuân Diệu (1961), Hồ Xuân Hương, Bà Chúa Thơ Nôm, Nxb Phổ Thông, Hà Nội.
20. Nguyễn Đức Dũng – Đặng Thanh Lê (1963), “Góp phần tiếng nói trong việc đánh giá thơ
Hồ Xuân Hương”, Nghiên cứu văn học, (3), tr.76–83.
21. Tản Đà (1932), “Thơ Nôm Hồ Xuân Hương”, An nam tạp chí, (1), ra ngày 1-10, tr.1 – 2.
22. Chử Anh Đào (2000), Tự thú trước vần trăng (Phân tích những bài thơ hay), Nxb Mũi Cà
Mau.
23. Trần Thanh Đạm (1993), “Giới tính và văn nghệ”, Báo Sài Gòn Giải Phóng, (5859).
24. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
25. Phạm Xuân Độ (1960), Nữ văn hào Việt Nam – Sương Nguyệt Ánh, Bà Huyện Thanh Quan,
Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Trung tâm liệu học, Sài Gòn.
26. Mãn Hồng Đường (2003), “Từ “dê cỏn” đến “báo hoá dê”, Tạp chí Cửa Việt, (101), tháng
12.
27. Trần Thị Minh Giới (1995), Yếu tố Folklore học trong thơ Hồ Xuân Hương, Luận văn cao
học Ngữ văn, Đại học KHXH & NV.
28. Nguyễn Thị Thanh Hà (1998), “Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương”, Tạp chí Ngôn ngữ và
đời sống, (5).
29. Trịnh Thu Hằng (1992), “Hình ảnh người phụ nữ trong điêu khắc đình làng”, Khoa học và
phụ nữ, Hà Nội, (2), tr.16 – 17.
30. Nguyễn Văn Hanh (1970), Hồ Xuân Hương tác phẩm, thân thế và văn tài, Nxb Khai Trí,
Sài Gòn, in lần thứ 3.
31. Hoàng Xuân Hãn (1995), Thiên tình sử Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học.
32. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử (1992), “Từ điển thuật ngữ văn học”, Nxb văn học.
33. Đỗ Đức Hiểu (1963), “Văn học thời Phục hưng”, Nghiên cứu văn học, (3), tr.63 – 64.
34. Đỗ Đức Hiểu (1990), “Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương”, Tạp chí văn học, (5).
35. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên) (2003), Từ điển
văn học bộ mớ”, Nxb Thế giới.
36. Hồ Sĩ Hiệp (1996), Văn học trong nhà trường, Phần Hồ Xuân Hương, Nxb Văn Nghệ, tp
HCM.
37. Nguyễn Hữu Hào (Nguyễn Thị Thanh Xuân khảo đính, phiên âm và chú thích) (1984),
Truyện Song Tinh, Nxb Văn nghệ Tp HCM.
38. Kiều Thu Hoạch (2008), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học.
39. Mai Văn Hoan (2007), “Sex như thế không thể coi là tục”, www.vannghequandoicuoi.
40. Nguyễn Phi Hoanh (1984), Mỹ thuật Việt Nam, Nxb Tp HCM.
41. Hồng Tú Hồng (1953), “Có nữ sĩ Hồ Xuân Hương hay không?”, Nhân loại, (2), Sài Gòn,
tr.10, 11, 15.
42. Hiền Hồng (1984), “Bức chạm trai gái đùa vui”, Văn hóa dân gian, Hà Nội, (4), tr.43 – 45.
43. Quang Hùng, Nguyễn Thị Tuyết (2003), Từ điển Việt - Anh, Nxb Đà Nẵng.
44. Nguyễn Văn Huyên (1992), “Từ những hình tượng nam nữ yêu nhau trên tháp Đào Thịnh,
nghĩ về ước vọng phồn thực lâu đời của nhân dân ta”, Văn hóa dân gian, Hà Nội, (2),
tr.60 – 67.
45. Trần Đình Hựu (1991), “Về ảnh hưởng nhiều mặt Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ
đại”, Tạp chí văn học, (3), Hà Nội, tr.18, 20, 75.
46. Đinh Gia Khánh (1990), “Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam”, VHDG, (3), tr.5 – 10.
47. Đinh Gia Khánh (1997), Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh Văn hoá Đông Nam Á,
Nxb KHXH – Hà Nội.
48. Vũ Ngọc Khánh (1987), “Văn học dân gian và việc tìm hiểu thử tư tưởng Việt Nam”,
VHDG, (4), tr.28 – 34.
49. Nguyễn Đức Khuê (2002), “Tự tình – 1, bài thơ giàu chất nhân văn, chất người của Hồ
Xuân Hương”, Tạp chí Ngôn ngữ, (11).
50. Tương Lai (1989), “Phạm trù Người của triết học Mác – xít và nghiên cứu văn học”, TCVH,
(3), tr.9 – 14.
51. Đặng Thanh Lê, Nguyễn Đức Dũng (1983), “Góp thêm một tiếng nói trong việc đánh giá
thơ Hồ Xuân Hương”, Tập san Nghiên cứu văn học, (1).
52. Đặng Thanh Lê (1968), “Nhân vật phụ nữ qua một số truyện Nôm”, Tạp chí văn học, (2, 3),
tr.102 – 114.
53. Lê– nin. I.V (1962), Bàn về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự Thật, Hà Nội.
54. Mai Quốc Liên (1994), “Bàn lại chuyện Xuân Hương”, Báo Văn nghệ, (5, 6).
55. Nam Liên (1978), “Người phụ nữ trong sáng tác của một số nhà văn tiến bộ Ấn Độ nửa
cuối thế kỷ XIX nửa đầu thế kỷ XX”, TCVH, (1), tr.114 – 123.
56. Trần Gia Linh (1980), “Vai trò của người phụ nữ khai sáng đất nước và dân tộc trong
truyền thống dân gian”, TCVH, (2), tr.34 – 40.
57. Lại Văn Long (1991), “Thân phận người phụ nữ trong lịch sử làm vợ”, Kiến thức ngày nay,
(68).
58. Nguyễn Lộc (1969), “Những vấn đề xã hội trong truyện Nôm bình dân”, Tạp chí văn học,
(4), tr.62 – 73.
59. Nguyễn Lộc (1982), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, Hà Nội.
60. Nguyễn Lộc (1986), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX (tập 1),
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
61. Đặng Đình Lưu (1995), Nữ sĩ Tây Hồ, Tiểu thuyết, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
62. Đặng Thai Mai (1943), “Ý nghĩa nhân sinh trong truyện cười nước ta ngày xưa”, Tri Tân,
(112).
63. Trần Thanh Mại (1961), “Thử bàn lại vấn đề tục và dâm trong thơ Hồ Xuân Hương”, Tạp
chí NCVH, (4).
64. Trần Thanh Mại (1964), “Lưu Hương ký và lai lịch phát triển của nó”, Tạp chí văn học,
(11).
65. Murakami. Haruki (Trịnh Lữ dịch) (2007), Rừng Na-uy, Nxb Hội nhà văn.
66. Nguyễn Đăng Na (1992), “Thơ Hồ Xuân hương với văn học dân gian”, Tạp chí Văn học,
(2), tr.36, 43, 73.
67. Niculin (Tiêu Dương dịch) (1968), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Khoa học, M.
68. Nguyễn Nghiệp, Trương Quang Kiến (1961), “Thử tìm hiểu ý thức chủ đạo trong thơ Hồ
Xuân Hương”, NCVH, Hà nội, (9), tr.12 – 27.
69. Nguyễn Thị Ngọc (1997), “Nguồn cội của thơ Nôm Hồ Xuân Hương”, Tạp chí Văn hoá
nghệ thuật, (156).
70. Nguyễn Văn Ngọc (2008), “Hình tượng Linga và Yoni trong điêu khắc Chăm”,
www.khcnbinhdinh.com.vn.
71. Lữ Huy Nguyên (1996), Hồ Xuân Hương thơ và đời, Nxb Văn học.
72. Nguyễn Khắc Ngữ (1965), “Mẫu hệ Việt Nam”, Sài Gòn Tri Tân, (175 – 178).
73. Vương Trí Nhàn (1986), “Hồ Xuân Hương với Rabelais, Vi-lông và Đôxtôi-epxki, Tạp chí
văn học, (1), tr.140, 149.
74. Hồ Tuấn Niêm (1972), “Bàn lại một đôi điều về tiểu sử Hồ Xuân Hương”, Tạp chí văn học,
Hà Nội, tr.11 – 31.
75. Phạm Hoàng Oanh (2007), “Tục thờ sinh thực khí qua các hội làng cổ”, www.dongtacnet.vn.
76. Hoàng Phê (chủ biên) (2005), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
77. Trần Phò (2007), Người xưa với văn hóa tính dục, Nxb Phụ Nữ.
78. Vũ Trọng Phụng (2003), Giông Tố, Nxb Văn học, Hà Nội.
79. Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng (1991), Mỹ thuật của người Việt, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
80. Nguyễn Đức Quyền (2001), Mời trầu, in trong Giảng văn chọn lọc văn học Việt Nam, văn
học dân gian và văn học cổ, cận đại, Trần Đình Sử tuyển chọn, Nxb ĐHQG, HN.
81. Vũ Tiến Quỳnh (Tuyển chọn và giới thiệu) (1994), Phê bình nghị luận thơ Hồ Xuân Hương,
Nxb Văn nghệ TP HCM.
82. Hoành Sơn - Hoàng Sỹ Quý (2006), Tính dục nhìn theo phương Đông¸ Nxb Trẻ.
83. Nguyễn Hữu Sơn (1991), “Tâm lí sáng tạo trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương”, Tạp chí văn
học, (2).
84. Phạm Côn Sơn (1996), Phụ nữ trong đời sống xã hội, Nxb Đồng Tháp.
85. Trần Đình Sử (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục.
86. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
87. Văn Tân (1955), Hồ Xuân Hương với các giới phụ nữ, Văn hóa và Giáo dục, Nxb Sông Lô,
Hà Nội.
88. Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm (1994), Từ điển tiếng Việt (in lần thứ 3), Nxb KHXH.
89. Nguyễn Thanh (1992), “Về tên gọi một bài thơ của Hồ Xuân Hương nhìn từ góc dộ văn hóa
dân gian”, VHDG, (1), tr.69 – 70.
90. Trần Thị Băng Thanh (1978), “Nhìn qua những tác phẩm viết về đề tài phụ nữ trong văn
học chữ Hán thế kỷ XVIII và nửa thế kỷ XIX”, Tạp chí văn học, (2), tr.68 – 77.
91. Trần Thị Băng Thanh (1991), “Thơ Bà Huyện Thanh Quan, niềm vui và nỗi buồn”, Tạp chí
văn học, (1), tr.34 – 41.
92. Tuấn Thành, Anh Vũ (tuyển chọn) (2007), Hồ Xuân Hương Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn
học.
93. Phạm Minh Thảo (biên soạn) (2002), Almanach Thế giới đàn ông, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
94. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam (cái nhìn hệ thống loại hình),
Nxb Tp HCM.
95. Nguyễn Gia Thiều (1986), Cung oán ngâm khúc, Nxb Văn học.
96. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb GD.
97. Nguyễn Huy Thiệp (2006), “Tình dục trong văn học hôm nay”, www.vietnamNet.vn.
98. Đỗ Lai Thúy (1994), “Về hiện tượng “Dâm” và “Tục” trong văn hóa dân gian của người
Việt Nam”, Văn hóa nghệ thuật, (8), tr.52 – 54.
99. Đỗ Lai Thúy (1994), “Nguyên lý giới tính trong đời sống văn hóa”, Văn hóa nghệ thuật, (8),
tr.52 – 54.
100. Đỗ Lai Thúy (1994), “Tín ngưỡng phồn thực – nhìn từ góc độ văn hóa”, Văn hóa nghệ
thuật, (4), tr.16.
101. Đỗ Lai Thúy (1995), “Tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương từ nguyên lý Hội hóa trang của M.
Bakhtin”, VHDG, (5).
102. Đỗ Lai Thúy (1999), Hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa thông tin.
103. Trịnh Thanh Thủy, (2006), ““Sex – dưới mắt nhìn của người viết nữ Việt Nam”,
www.evan.com.vn.
104. Lê Anh Thu (2007), “Bàn về thơ sex”, www.thotre.com.vn.
105. Trương Xuân Tiếu (1999), “Thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt với thơ Nôm Đường luật của
Hồ Xuân Hương”, Tạp chí Văn hoá dân gian, (1).
106. Bùi Bội Tỉnh (2001), Tình sử Hồ Xuân Hương (tiểu thuyết), Nxb VHTT, HN.
107. Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến (1917), Giai nhân di mặc, Hà Nội, Đông kinh ấn quốc.
108. Nguyễn Khánh Toàn (1974), “Văn hóa dân gian Việt Nam, một biểu hiện độc đáo và xuất
sắc sức sống mãnh liệt của dân tộc”, Tạp chí văn học, (3), tr.2– 6.
109. Đào Thái Tôn (1978), “Bàn về bài thơ Đánh đu được xem là của Hồ Xuân Hương”, Tuần
báo văn nghệ, (25).
110. Đào Thái Tôn (1978), “Xuân Đường đàm thoại – một nhịp nối trong tiến trình Dân gian
hóa thơ ca Hồ Xuân Hương”, TCVH, (6), tr.64 –75.
111. Đào Thái Tôn (tuyển chọn và giới thiệu) (1993, 1994, 1995, 1997), Thơ Hồ Xuân Hương,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
112. Đào Thái Tôn (1993), Thơ Hồ Xuân Hương từ cội nguồn vào thế tục, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
113. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, Nxb Trẻ, Tp HCM.
114. Lê Ngọc Trà, Lâm Vinh (1984), Đi tìm cái đẹp, Nxb Tp HCM.
115. Trần Thị Trâm (1998), “Xuân Hương – kỳ nữ, kỳ tài”, Tạp chí Quê Hương, (3).
116. Nguyễn Văn Trung (1953), “Trường hợp có tác phẩm, có tác giả , nhưng chỉ là tục truyền,
trường hợp Hồ Xuân Hương”, Văn học Sài Gòn, (108), tr.48 – 56.
117. Nguyễn Văn Trung (1986), Câu đố Việt Nam, Nxb Tp HCM.
118. Nguyễn Văn Trung (2006), Ca tụng thân xác, Nxb Văn nghệ.
119. Trần Quang Tuấn (1989), “Nữ thần trong nghệ thuật Ấn Độ”, VHDG, (4), tr.49 – 53.
120. Hoàng Phong Tuấn (2005), Các hướng tiếp nhận thơ Nôm truyền tụng Hồ Xuân Hương,
Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Sư Phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
121. Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ.
122. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia - Viện KHXH tại tp HCM; Trung tâm
nghiên cứu phụ nữ và gia đình (1995), Gia đình và địa vị người phụ nữ Việt Nam
cách nhìn từ Việt Nam và Hoa Kỳ, Nxb KHXH.
123. Trương Tửu (1951), Văn nghệ bình dân Việt Nam, Nxb Văn hóa mới, Liên khu IV.
124. Trương Tửu (1958), Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
125. Lê Thị Nhâm Tuyết (1975), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại (in lần thứ 2), Nxb KHXH,
Hà Nội.
126. Thế Uyên (2005), “Tình dục trong ca dao và thơ Hồ Xuân Hương”, www.talawas.vn
127. Thôn Văn (1982), Thơ Hồ Xuân Hương, Hội liên hiệp Phụ nữ và Hội văn nghệ Hà Nội.
128. Đỗ Long Vân (1966), Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương, Nxb Trình bày, Sài Gòn.
129. Lê Trí Viễn (1987), Nghĩ về Hồ Xuân Hương, Sở Giáo dục Nghĩa Bình.
130. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử văn học Việt Nam (phần văn học viết thời quốc gia phong kiến
độc lập đến nửa thế kỷ XIX), Nxb ĐHSP TpHCM.
131. Ngô Gia Võ (2000), “Nghệ thuật với ý nghĩa khẳng định khát vọng nhân văn trong thơ
Nôm Hồ Xuân Hương”, Tạp chí văn học, (2).
132.Trần Ngọc Vượng (2007), “Tục hóa - quay về để tiến tới”, www.vienvanhoc.org.vn.
133. Lê Thu Yến (2008), Sức hấp dẫn của thơ nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, HN.
134. Nhiều tác giả (2008), Almanach Người mẹ và phái đẹp, Nxb Văn hóa thông tin.
135. Nhiều tác giả (1992), Bình luận văn học, Phần Hồ Xuân Hương, Nxb Tổng hợp Khánh
Hòa.
136. Nhiều tác giả (1997), Danh ngôn phái đẹp, Nxb Đồng Nai.
137. Nhiều tác giả (2006), Tình dục dưới góc độ văn hóa, Nxb Phụ nữ.
138. Nhiều tác giả (2007), “Chuyên đề tình dục trong văn chương”, www.tienve.org.vn
Tiếng n ớc ngoài
139. Allgeres. E .R (1984), Sexual Interactions, D.C. health, Toronto.
140. Balaband. John (2000), Spring Essance: The poetry of Ho Xuan Huong, Port Toumsend,
WA: Copper Canyon.
141. Jefreu. W (2003), Sexuallity, Routledge, London.
142. Moi.Torill (1985), Sexual or Textual politic, London and New York, Methuen.
143. Todd. Janet (1988), Ferminist Literary History, New York, Rouledge, 1988.
PHỤ LỤC
I. Phụ lục 1: Nhan đề 48 bài thơ Nôm truyền tụng của Hồ Xuân Hương.
Chúng tôi chọn bộ phận thơ Nôm truyền tụng (gồm 48 bài: 45 bài thơ vịnh và 3 bài xướng họa
cùng Chiêu Hổ) làm đối tượng nghiên cứu. Cụ thể là những bài sau đây:
1. Tranh tố nữ
2. Thiếu nữ ngủ ngày
3. Vịnh nữ vô âm
4. Mắng học trò dốt - 1
5. Mắng học trò dốt - 2
6. Ốc nhồi
7. Quả mit
8. Mời trầu
9. Bánh trôi nước
10. Đồng tiền hoẻn
11. Vịnh cái quạt - 1
12. Vịnh cái quạt - 2
13. Giếng nước
14. Trống thủng
15. Tát nước
16. Dệt cửi
17. Chùa quán sứ
18. Cái kiếp tu hành
19. Sư hổ mang
20. Sư bị ong châm
21. Cảnh chùa ban đêm
22. Tự tình - 1
23. Tự tình - 2
24. Tự tình - 3
25. Chiếc bách
26. Thân phận đàn bà
27. Lấy chồng chung
28. Không chồng mà chửa
29. Bỡn bà lang khóc chồng
30. Dỗ người đàn bà khóc chồng
31. Khóc Tổng Cóc
32. Khóc ông Phủ Vĩnh Tường
33. Đá ông chồng bà chồng
34. Hang Cắc Cớ
35. Hang Thánh Hóa
36. Đèo Ba Dội
37. Động Hương Tích
38. Kẽm Trống
39. Quán Khánh
40. Trăng thu
41. Hỏi trăng -1
42. Đề đền Sầm Nghi Đống
43. Đánh đu
44. Chơi chợ chùa Thầy
45. Đài Khán Xuân
46. Xướng họa cùng Chiêu Hổ - 1
47. Xướng họa cùng Chiêu Hổ - 2
48. Xướng họa cùng Chiêu Hổ - 3
II. Phụ lục 2: Những biểu tượng tính dục, những từ có ý nghĩa liên quan đến vấn đề giới
tính:
1. Những từ mang biểu tượng liên quan đến âm vật: hang, động, đèo, kẽm, cửa, giếng, lỗ, kẽ,
cái quạt, miệng túi, lá. Cụ thể là những trường hợp sau:
- hang - Hang Cắc Cớ; hang - Hang Thánh Hóa, hang – (Ở trong hang núi còn hơi hẹp) - Kẽm
Trống (3 lần)
- động - Động Hương Tích
- đèo - Đèo Ba Dội
- kẽm (Có phải đây là Kẽm Trống không?) - Kẽm Trống
- cửa (mình) (Qua cửa mình ơi nên ngắm lại) - Kẽm Trống; cửa son (Cửa son đỏ loét tùm hum
nóc) – Đèo Ba Dội ( 2 lần)
- lỗ (Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không) – Đánh đu; lỗ (Nứt ra một lỗ hỏm hòm hom) - Động Hương
Tích; lỗ trôn (Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi) - Ốc nhồi; một lỗ (Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa
-Vịnh cái quạt I (4 lần).
- kẽ - kẽ hầm (Kẽ hầm rêu móc trơ toen hoẻn) - Hang Cắc Cớ; kẽ rêu (Trưa trật nào ai móc kẽ
rêu) – Chùa Quán Sứ ; xỏ kẽ (Xỏ kẽ kèo tre đốt khẳng kheo) – Quán Khánh(3 lần)
- miệng túi (Miệng túi càn khôn khép lại rồi) – Khóc ông Phủ Vĩnh Tường
- giếng (Cầu trắng phau phau đôi vàn ghép) – Giếng nước.
- Quạt (Chành ra ba góc da còn thiếu / khép lại đôi bên thịt vẫn thừa) - Vịnh cái quạt - 1; Quạt
(Mỏng dày chừng ấy chành ba góc da còn thiếu) - Vịnh cái quạt - 2. (2 lần)
- lá – lá đa (Nhờ hái cho xin nắm lá đa) - Xướng họa với Chiêu Hổ - 2.
2. Những từ mang biểu tượng liên quan đến dương vật: quả cau, sừng, nọc, cán cân, dùi
trống, con suốt, cọc, hòn, đá. Cụ thể là những trường hợp sau:
- quả cau (Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi) – Mời trầu.
- nọc (Ong non ngứa nọc châm hoa rữa) - Mắng học trò dốt.
- sừng (Dê cỏn buồn sừng húc dậu thưa) – Mắng học trò dốt.
- cán cân (Cán cân tạo hóa rơi đâu mất) – Khóc ông phủ Vĩnh Tường.
- dùi (Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi) – Trống thủng
- con suốt (Một suốt đâm ngang thích thích mau) – Dệt cửi.
- Con cò (Con cò mấp máy suốt đêm thâu) – Dệt cửi.
- cọc (Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không) – Đánh đu; (Quân tử có thương thì đóng cọc) – Quả mít. (2
lần)
- đá - hòn đá (Hòn đá xanh rì lún phún rêu) – Đèo Ba Dội; (Đá kia còn biết xuân già giặn) - Đá
Ông chồng Bà Chồng (2 lần)
- cây (Rộng hẹp dường nào cắm một cây) – Vịnh cái quạt - 2
- cành (Cho cả cành đa lẫn củ đa) – Xướng họa với Chiêu Hổ - 2.
- củ - củ đa (Cho cả cành đa lẫn củ đa) – Xướng họa với Chiêu Hổ - 2.
3. Những từ mang ý nghĩa liên quan đến hành vi tính giao: Cụ thể là những trường hợp sau:
đánh đu, đánh trống, dệt cửi, tát nước, châm, đục, đóng cọc, húc, trèo, xiên, đâm, chơi, húc…
- đánh đu (Trai đu gối hạc khom khom cật / Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng” - Đánh đu .
- dệt cửi (Hai chân đạp xuống năng năng nhắc / Một suốt đâm ngang thích thích mau) – Dệt
cửi.
- đánh trống (Ngày vắng đập tung dăm bảy chiếc / Đêm thanh tỏm cắc một đôi hồi /Khi giang
thẳng cánh bù khi cúi / Đứng chiến không thôi lại chiến ngồi) - Trống thủng.
- tát nước (Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa / Nhấp nhổm bên ghềnh đít vắt ve / Mải việc
làm ăn quên cả mệt / Dạng hang một lúc đã đầy phè) - Tát nước.
- châm (Ong non ngứa nọc châm hoa rữa) - Mắng học trò dốt -1.
- húc (Dê cỏn buồn sừng húc giậu thưa) - Mắng học trò dốt -1.
- trèo (Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo) – Đèo Ba Dội.
- xiên ngang (xiên ngang mặt đất rêu từng đám) – Tự tình – 2.
- đâm toạc (đâm toạc chân mây đá mấy hòn) - Tự tình – 2.
- chơi nguyệt (Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt) - Xướng họa với Chiêu Hổ - 2 .
- ghẹo nguyệt (Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày) - Xướng họa với Chiêu Hổ - 1 .
4. Những từ chỉ bộ phận thân thể người phụ nữ: Cụ thể là những trường hợp sau:
- trắng, tròn - Bánh trôi (Thân em vừa trắng lại vừa tròn) – Bánh trôi nước.
- quả mít, múi mít (Thân em như quả mít trên cây / Da nó sù sì múi nó dày) – Quả mít
- mặt trăng – tuyết trắng, (Đêm vắng cớ chi phô tuyết trắng / Ngày xanh xao nỡ tạnh lòng son)
– Hỏi trăng – 1.
- bồng đảo (ngực) (Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm) – Thiếu nữ ngủ ngày.
- lạch - suối (Một lạch Đào Nguyên suối chửa thông) - Thiếu nữ ngủ ngày.
- oản (Oản dâng trước mặt dăm ba phẩm) – Sư hổ mang.
5. Những hình ảnh mang nghĩa liên tưởng đến bộ phận, hoặc yếu tố gợi dục: Cụ thể là
những trường hợp sau:
- rêu (xiên ngang mặt đất rêu từng đám) – Tự tình - 2; (Hòn đá xanh rì lún phún rêu) - Đèo Ba
Dội; (Kẽ hầm rêu móc trơ toen hoẻn) - Hang Cắc Cớ; (Trưa trật nào ai móc kẽ rêu) – Chùa
Quán Sứ (4 lần)
- cỏ (Lườn đá cỏ leo sờ rập rạp) - Hang Thánh Hóa; (Cỏ gà lún phún leo quanh mép) – Giếng
nước (2 lần).
- sương (Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo) - Đèo Ba Dội; (Thớt dưới sương pha đượm má hồng)
- Đá Ông chồng Bà Chồng; (Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm) – Thiếu nữ ngủ ngày (3 lần)
- nhựa (Xin đừng mân mó nhựa ra tay) – Vịnh quả mít.
- nước – (Một dòng nước biếc cảnh leo teo) - Quán Khánh; (Sóng dồn mặt nước vỗ lonh bong)
– Kẽm Trống; (Rủ chị em ra tát nước khe / Xì xòm đáy nước mình nghiêng ngửa) – Tát nước;
(Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm) – Hang Cắc Cớ; (Lách khe nước rỉ mó lam nham) – Hang
Thánh Hóa; (Giọt nước hữu tình rơi thánh thót) - Động Hương Tích; (Nước trong leo lẻo một
dòng thông) – Giếng nước; (6 lần)
- ba chạc (cây)- (Ba chạc cây xanh hình uốn éo) - Quán Khánh.
- quế đỏ (Nảy vừng quế đỏ đỏ lòm lom) - Hỏi trăng - 1.
- ba góc (Chành ra ba góc da còn thiếu / Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa) - Vịnh cái quạt - 1;
(Mỏng dày chừng ấy chành ba góc) - Vịnh cái quạt -2 ; (Lẽo đẽo chiếc gầu ba góc chụm) – Tát
nước (3 lần)
- cái xuân - cái xuân tình (Đem cái xuân tình vứt bỏ đâu) – Vịnh nữ vô âm; - cái xuân xanh
(Nghìn năm còn mãi cái xuân xanh) – Tranh tố nữ (2 lần).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHVHVN029.pdf