Luận văn Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình mua hàng, thanh toán tại công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC

Thủ tục phân tích là một trong những thủ tục rất hữu ích cho KTV khi thực hiện kiểm toán, nó cho phép kiểm toán viên tiết kiệm được thời gian và chi phí đồng thời phản ánh được những mối liên hệ bản chất giữa các số dư của các khoản mục trên báo cáo tài chính, từ đó giúp kiểm toán viên xác định được trọng tâm công việc trong quá trình thực hiện kiểm toán. Các biến động lớn liên quan đến chu trình mua hàng - thanh toán có thể dễ dàng phát hiện qua các thủ tục phân tích. Tuy nhiên, trong thực tế kiểm toán tại cả hai khách hàng được nghiên cứu, kiểm toán viên chủ yếu chỉ sử dụng thủ tục phân tích ngang ở mức độ cơ bản như so sánh sự biến động tuyệt đối của các số dư tài khoản đầu kỳ, cuối kỳ. Các thủ tục phân tích tỷ suất (hay phân tích xu hướng) là những công cụ phân tích mạnh, ngoài việc cho thấy sự biến động của các khoản mục nó còn cho phép kiểm toán viên có thể nhận biết được bản chất của các biến động đó. Hiệu quả mà các thủ tục phân tích dọc mang lại rất lớn, lại tốn ít chi phí khi sử dụng. Tuy nhiên, các thủ tục phân tích dọc này thường ít được kiểm toán viên sử dụng hoặc sử dụng rất hạn chế. Mặt khác, chúng rất ít khi được lưu lại trên giấy tờ làm việc và hồ sơ kiểm toán gây khó khăn khi rà soát công việc kiểm toán hay kiểm tra, kiểm soát. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm toán, trước khi thực hiện kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên cần thực hiện sâu rộng các thủ tục phân tích khác như phân tích tỷ suất, phân tích xu hướng biến động để đánh giá chính xác những nguyên nhân tạo ra những biến động. Việc làm này giúp cho kiểm toán viên xác định trọng tâm và định hướng công việc kiểm toán vào trọng tâm đó, tiết kiệm chi phí kiểm toán nhưng vẫn đảm bảo chất lượng bằng chứng thu được. Trên đây là những nhận định của em sau khi tìm hiểu thực tế tại AASC. Với những thông tin thu thập được em nhận thấy quy trình kiểm toán của Công ty nói chung và việc thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết nói riêng còn một số hạn chế từ đó em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp khắc phục những hạn chế này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm toán của Công ty.

doc98 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1892 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình mua hàng, thanh toán tại công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c”. Giá trị NVL tồn kho trên bảng cân đối kế toán được tính theo giá gốc nhưng đến thời điểm 31/12 của năm tài chính, khoảng chênh lệch thời gian làm cho giá thực tế NVL không còn ở mức ban đầu nữa. Ước tính giá trị thuần có thể thực hiện được là một biện pháp hữu hiệu để xác định đúng đắn giá trị NVL tồn kho, từ đó xác định mức hợp lý của dự phòng hàng tồn kho của đơn vị được kiểm toán. Sự đánh giá về hàng tồn kho được KTV thực hiện như sau: - Kiểm tra sự đánh giá của các khoản mua vào trong kỳ thông qua khảo sát chi phí cấu thành giá hàng nhập kho hạch toán có đúng đắn và hợp lý không, đặc biệt đối với chi phí vận chuyển, bốc dỡ hao hụt… - Kiểm tra giá trị NVL xuất vào sản xuất trong kỳ có đúng đắn và hợp lý không thông qua: + Phỏng vấn nhân viên kế toán và xem xét các chính sách kế toán được thông qua bởi ban lãnh đạo. Đối chiếu với tài liệu kiểm toán năm trước để xem xét tính nhất quán của phương pháp đó, nếu có sự thay đổi thì đơn vị khách hàng có trình bày trên thuyết minh BCTC không? + KTV chọn mẫu các NVL tồn kho trọng yếu để tính toán lại trị giá NVL xuất kho theo phương pháp được xem xét ở trên và so sánh với kết quả do khách hàng cung cấp. - Ước tính giá trị thuần có thể thực hiện được về NVL tồn kho bằng cách dùng giá bán tại thời điểm khóa sổ trừ đi chi phí ước tính để hoàn thiện và bán mặt hàng đó, so sánh kết quả thu được với giá trị NVL tồn kho và dự phòng giảm giá hàng tồn kho trên bảng cân đối kế toán để đưa ra mức điều chỉnh nếu thấy cần thiết. Khi tiến hành kiểm toán tại cả hai khách hàng Avà B, thủ tục kiểm tra về sự đánh giá đối với hàng tồn kho đều không được thực hiện. Nguyên nhân là do KTV đánh giá rủi ro tiềm tàng đối với mục tiêu này của cả hai khách hàng là thấp, mặt khác do hạn chế về thời gian và các tài liệu kế toán của khách hàng không đầy đủ, KTV đã bỏ qua không tiến hành thủ tục này. Cuối cùng, KTV kiểm tra việc trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho đối chiếu số dự phòng trên bảng cân đối kế toán với số dự phòng cần lập theo tính toán và đưa ra đề nghị điều chỉnh trong trường hợp trọng yếu. Tại Công ty A, do hàng tồn kho có tốc độ luân chuyển nhanh, không lưu kho doanh nghiệp do vậy việc lập dự phòng là không cần thiết. Đối với Công ty B, đây là năm đầu tiên Công ty đi vào hoạt động, ban giám đốc Công ty cũng chưa xem xét việc trích lập dự phòng cho hàng tồn kho, không có các tài liệu liên quan đến dự phòng, KTV không thể tiến hành công việc này. 3.3.3. Kiểm tra chi tiết thuế GTGT đầu vào và thuế nhập khẩu Cả hai khách hàng được đưa vào làm ví dụ đều thực hiện kê khai thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ. a) Kiểm tra chi tiết thuế GTGT đầu vào Thuế GTGT đầu vào ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của doanh nghiệp, vì vậy đối với khoản mục này khả năng gian lận là việc khai tăng thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Khi kiểm toán thuế GTGT đầu vào của hàng nội địa, KTV quan tâm nhiều tới tính có căn cứ hợp lý của các khoản mục được kê khai trên bảng kê thuế GTGT đầu vào. Do vậy, KTV thường thực hiện kiểm tra ngược từ bảng kê khai thuế GTGT được khấu trừ hoặc sổ cái tới các chứng từ hỗ trợ. Trong khi thuế GTGT hàng nhập khẩu thường ít có sai phạm hơn đối với mục tiêu tính có căn cứ hợp lý do chứng từ của các khoản thuế này được lập bởi bên thứ ba độc lập đó là bộ phận hải quan. Mục tiêu KTV quan tâm nhiều hơn đối với thuế nhập khẩu là sự khai báo thiếu thuế phải nộp. Theo chương trình kiểm toán của AASC mục tiêu kiểm toán thuế GTGT đầu vào được xác định là: + Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ được hạch toán đúng trong các TK (tính đầy đủ, tính hiện hữu sở hữu, cách trình bày) + Các khoản thuế được hoàn lại, được khấu trừ được tính toán chính xác + Đảm đảo rằng các bản kê khai được lập chính xác. Các khoản mua vào của khách hàng A và B đều liên quan đến thuế GTGT riêng đối với Công ty A có thêm thuế nhập khẩu. Kiểm tra chi tiết thuế GTGT đầu vào tại AASC được tiến hành đúng theo chương trình kiểm toán. Bước đầu tiên khi tiến hành kiểm toán thuế GTGT đó là đối chiếu số liệu tổng hợp và thu thập các tài liệu phục vụ cho việc kiểm tra chi tiết gồm: biên bản quyết toán thuế, xác nhận của cơ quan thuế, các tờ khai thuế, sổ cái TK 133, sổ chi tiết, bảng cân đối kế toán và các báo cáo thuế. Bảng số 14 : Giấy tờ làm việc của kiểm toán viên AASC Tên khách hàng: Công ty A Niên độ kế toán : 1/1 - 31/12/2002 Tham chiếu: O1/1 Khoản mục: TK 133 Người thực hiện: HTV Bước công việc: Tổng hợp số liệu từ bảng cân đối PS Ngày thực hiện: 8/4/03 TK Số dư đầu kỳ Phát sinh nợ Phát sinh có Số dư cuối kỳ 13311 13312 133121 133122 0 1.913.741.000 1.907.227.000 6.514.000 22.010.632.000 Ag 253.466.000 250.101.000 Ag 3.365.000 Ag 22.010.632.000 1.807.942.000 1.798.063.000 9.878.0000 0 359.265.000 359.265.000 0 Tổng 1.913.741.000 ly 22.264.098.000 Ag 23.818.573.108 359.265.000 Ghi chú: TK 13311: Thuế GTGT của hàng hóa dịch vụ TK 13312: Thuế GTGT và các khoản chi hộ hàng ủy thác nhập khẩu TK 133121: Thuế GTGT hàng nhập khẩu ủy thác được khấu trừ Ag: Khớp đúng với số liệu đã được kiểm toán (AASC) đầu năm. Ly: Khớp đúng với số liệu trên BCTC, sổ cái TK. Sau khi thu thập đầy đủ các tài liệu có liên quan, KTV đối chiếu số dư đầu kỳ trên BCTC năm nay (nếu có) với số liệu trên BCTC năm trước (đã được kiểm toán hoặc được phê duyệt bởi các cơ quan có thẩm quyền), với biên bản quyết toán thuế. Nếu có chênh lệch phải kiểm tra các bút toán điều chỉnh trong kỳ. Đồng thời KTV thực hiện việc đối chiếu số dư cuối kỳ trên bảng cân đối kế toán với báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, sổ cái TK, sổ chi tiết và các báo cáo thuế. Qua đó khẳng định tính chính xác của việc cộng sổ, chuyển sổ của các số dư đầu kỳ và cuối kỳ. Các bước thực hiện công việc trên tại khách hàng A được trình bày trên Bảng số 14. Tiếp theo, KTV tiến hành kiểm tra các nghiệp vụ ghi nợ TK 133: kiểm tra việc tính toán và hạch toán thuế GTGT đầu vào, xác định lại tỷ lệ thuế suất, giá tính thuế và các mặt hàng được khấu trừ thuế để kiểm tra tính chính xác đầy đủ, đúng hạn của các khoản thuế được kê khai. Thực hiện thủ tục này đối với Công ty A KTV nhận thấy có sự chênh lệch giữa số thuế GTGT đầu vào trên tờ khai và số liệu trên sổ cái TK 133 số tiền là 289.490.000 VND. Khi thực hiện quyết toán thuế năm 2002 thì đơn vị lại lập quyết toán theo số liệu trên sổ kế toán, phần chênh lệch này đã được kế toán thuế giải trình theo từng tháng. Toàn bộ công việc tiến hành đối với Công ty A được thể hiện trên giấy tờ làm việc như sau (Bảng số 15): Bảng số 15: Giấy tờ làm việc của kiểm toán viên AASC Tên khách hàng: Công ty A Niên độ kế toán : 1/1 - 31/12/2002 Tham chiếu: O1/2 Khoản mục: TK 133 Người thực hiện: HTV Bước công việc: Tổng hợp số liệu theo tờ khai Ngày thực hiện: 8/4/03 Tháng Thuế GTGT Tháng Thuế GTGT 1 2 3 4 5 6 205.718.000 376.608.000 1.338.516.000 294.341.000 31.210.000 507.921.000 7 8 9 10 11 12 1.909.709.000 1.647.214.000 3.543.876.000 5.395.220.000 5.055.837.000 1.993.952.000 Tổng (1) 22.300.122.000 (2) Số liệu theo sổ cái TK : 22.010.632.000 (1-2) Chênh lệch với tờ khai : 289.490.000 Tại công ty B sau khi thực hiện công việc trên, KTV phát hiện ra thuế GTGT đầu vào đã hạch toán lớn hơn số tiền trên bảng kê đã được cơ quan thuế chấp nhận là 2.199.000 VND, KTV đã đưa ra bút toán điều chỉnh: Nợ TK 642/ Có TK 3331: 2.199.000 Đồng thời, KTV phát hiện ra số tiền thuế GTGT được khấu trừ của đơn vị trong năm đã được cục thuế Hưng Yên chấp nhận nhưng đơn vị chưa thực hiện bút toán khấu trừ thuế làm cho số tiền thuế GTGT đầu vào trên BCTC cuối năm phản ánh không đúng số thuế còn được khấu trừ của doanh nghiệp. KTV đã đưa ra bút toán điều chỉnh: Nợ TK 3331/ Có TK 133: 559.465.000 Bảng số 16: Giấy tờ làm việc của kiểm toán viên AASC Tên khách hàng: Công ty A Niên độ kế toán : 1/1 - 31/12/2002 Tham chiếu: O1/3 Khoản mục: TK 133 Người thực hiện: HTV Bước công việc: Kiểm tra các hóa đơn khấu trừ Ngày thực hiện: 8/4/03 quá thời hạn Tháng Hóa đơn Thuế Tháng Hóa đơn Thuế SH NT SH NT 1 032982 25/9/01 (*) 62.000 131526 048323 425070 070036 24/1/02 27/3/02 31/3/02 31/3/02 34.000 111.000 27.000 5.000 2 - - - 3 - 017020 088422 10/12/01 29/1/02 29/1/02 513.879.000 11.000 120.000 6 - - - 7 094188 146931 150669 04/4/02 18/4/02 30/4/02 27.000 27.000 18.000 4 - - - 5 060818 053627 096117 119338 1/3/02 8/3/02 11/1/02 15/1/02 36.000 37.000 (*) 391.000 (*) 5.000 8 063631 20/5/02 23.000 (*) Thuế quá 4 tháng Tổng thuế quá 4 tháng: 458.000 Tổng thuế quá 3 tháng: 514.254.000 Trong quá trình kiểm toán, KTV nhận thấy tại Công ty A có nhiều hoá đơn GTGT đã hạch toán nhưng chưa thực hiện kê khai khấu trừ thuế. Vì vậy, KTV kiểm tra các bảng kê khai thuế, tìm ra những hóa đơn khấu trừ quá thời hạn. Kết quả kiểm toán được trình bày trên giấy tờ làm việc như sau (Bảng 16): Theo quy định hiện hành, các khoản thuế GTGT đầu vào chỉ được khấu trừ trong phạm vi 3 tháng kể từ ngày phát hành hóa đơn. Vì vậy, những hoá đơn đã quá thời hạn 4 tháng được liệt kê ở trên không được khấu trừ thuế Bảng số 17: Giấy tờ làm việc của kiểm toán viên AASC Tên khách hàng: Công ty A Niên độ kế toán : 1/1 - 31/12/2002 Tham chiếu: O1/5 Khoản mục: TK 133 Người thực hiện: HTV Bước công việc: kiểm tra chi tiết phát sinh TK 13311 Ngày thực hiện: 8/4/03 - thuế GTGT được khấu trừ Bảng kê 12 tháng: 22.300.122.000 Phát sinh nợ theo sổ cái: 22.010.632.000 Chênh lệch: 289.490.000 (*) Tháng Nội dung Số hạch toán Kê khai 1 + Hạch toán thấp hơn bảng kê khai thuế GTGT chi hộ hàng ủy thác + Thuế GTGT hàng nhập khẩu kinh doanh 2001 kê khai vào năm 2002 - 20.000 (điều chỉnh kê khai) 188.577.000 (không điều chỉnh) 3 Thuế GTGT hàng kinh doanh hạch toán không kê khai 178.000 (điều chỉnh vào tăngTK 642) - 4 Thuế GTGT hàng kinh doanh đã hạch toán chưa kê khai 150.000 (điều chỉnh vào tăngTK 642) - 5 Phí ngân hàng 38.000 (điều chỉnh vào tăngTK 642) - 8 Kê khai lớn hơn số hạch toán chi hộ - 10.000 (điều chỉnh kê khai) 10 Thuế GTGT chi hộ kê khai không hạch toán 77.000 (điều chỉnh kê khai) 11 Thuế GTGT chi hộ 43.000 (điều chỉnh kê khai) 12 + Thuế GTGT mua hàng kinh doanh chưa hạch toán + Thuế GTGT nhập khẩu ủy thác Bút Sơn + thuế GTGT nhập khẩu hàng kinh doanh 172.000 điều chỉnh Nợ TK 133111/ có TK 3311 15.447.000 điều chỉnh Nợ TK 331/ Có TK 333111 9.812.000 206.086.000 328.370.000 điều chỉnh kê khai do chưa viết hóa đơn ra Chưa kê khai Tổng 231.883.000 517.097.000 Bù nợ và có 285.214.000 Chênh lệch với (*) 4.276.000 (chưa rõ nguyên nhân) GTGT đầu vào. KTV đã đưa ra bút toán điều chỉnh ghi tăng chi phí quản lý doanh nghiệp. Cùng với việc kiểm tra số phát sinh nợ TK thuế GTGT đầu vào KTV kiểm tra số phát sinh có của TK này. KTV đối chiếu số thuế đã được khấu trừ trong kỳ trên sổ kế toán với bản quyết toán và xác nhận thuế của cơ quan thuế trong kỳ. Kiểm tra các chứng từ của các nghiệp vụ liên quan đến việc hoàn thuế, miễn giảm thuế, đối với các khoản thuế không được khấu trừ, không được miễn giảm, kiểm tra việc tính toán, cơ sở tính toán và việc hạch toán trên sổ kế toán. Quá trình kiểm tra tại Công ty A được trình bày trên giấy tờ làm việc như sau (Bảng số 17): Cuối cùng, KTV đối chiếu lại với các phần hành kế toán khác như tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, mua hàng… để kiểm tra các nghiệp vụ phát sinh nợ TK 133 nhưng lại bị bỏ sót trong quá trình ghi sổ hoặc không ghi sổ hoặc việc đơn vị cố ý khai tăng TK 133 để tăng số tiền thuế được khấu trừ. Sau đó, KTV hoàn thiện giấy tờ làm việc. b) Kiểm tra chi tiết thuế nhập khẩu Nghiệp vụ chính trong chu trình mua hàng - thanh toán của Công ty A là nhập khẩu hàng hóa, vật tư, thiết bị ngành sản xuất xi măng. Do vậy, đối với Công ty A kiểm tra chi tiết thuế nhập khẩu là công việc không thể bỏ qua. Tại Công ty B, các nghiệp vụ mua hàng ít liên quan đến thuế nhập khẩu (trừ nghiệp vụ nhập khẩu máy móc, thiết bị), KTV không cần phải thực hiện công việc này. Cũng giống như thuế GTGT của hàng nhập khẩu các chứng từ liên quan được cung cấp bởi bộ phận hải quan. Do vậy, thuế nhập khẩu thường ít có sai phạm hơn đối với mục tiêu tính có căn cứ hợp lý. Mục tiêu KTV hướng tới là sự khai báo thiếu thuế phải nộp. Trước hết, KTV kiểm tra việc cộng sổ, chuyển sổ bằng cách đối chiếu số dư đầu kỳ và số phát sinh trong kỳ trên bảng cân đối số phát sinh với số liệu trên bảng cân đối kế toán. KTV nhận thấy có sự khớp đúng số liệu trên hai tài liệu này, các số tổng cộng được cộng dồn đúng, số dư đầu kỳ trùng khớp với số được kiểm toán năm trước. Tiếp theo, KTV thu thập các tờ khai thuế nhập khẩu, thông báo nộp thuế, chứng từ nộp thuế trong kỳ, đối chiếu với phần hạch toán trên sổ kế toán và báo cáo kế toán. Đối chiếu số thuế phải nộp trong kỳ với tổng hợp các thông báo nộp thuế, tờ khai thuế. Kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của các khoản thuế được kê khai về thuế suất được áp dụng, về cơ sở tính thuế (giá tính thuế), các mặt hàng chịu thuế, đối tượng chịu thuế. Đồng thời, KTV kiểm tra số phát sinh có tài khoản thuế nhập khẩu dựa vào thông báo nộp thuế cung cấp bởi bộ phận hải quan. Các bước tiến hành tại Công ty A được thể hiện trên giấy tờ làm việc như sau (Bảng số 18): Bảng số 18: Giấy tờ làm việc của kiểm toán viên AASC Tên khách hàng: Công ty A Niên độ kế toán : 1/1 - 31/12/2002 Tham chiếu: O1/12 Khoản mục: TK 33331225 – thuế nhập khẩu Người thực hiện: HTV Bước công việc: Tổng hợp nhận xét chi tiết thuế Ngày thực hiện: 10/4/03 nhập khẩu Tổng hợp các bút toán điều chỉnh 1) Hạch toán vào giá vốn hàng đi trên đường quá đối với thuế nhập khẩu đầu búa hợp đồng số 0244 số tiền là 2.182.000 VND. Đề nghị điều chỉnh: Nợ TK 151 : 2.182.000 Có TK 3331125 : 2.182.000 2) Thuế nhập khẩu ủy thác đã nộp nhưng chưa thực hiện kết chuyển vào công nợ phải thu của xi măng Bút Sơn. Đề nghị điều chỉnh: Nợ TK 131118: 14.043.000 Có TK 33331225: 14.043.000 3) Thuế nhập khẩu hàng kinh doanh giấy 229 tấn Kraft Hải Phòng đã nộp nhưng chưa tính vào giá vốn hàng 151 số tiền là 60.025.000 VND. Đề nghị điều chỉnh: Nợ TK 151 : 60.025.000 Có TK 33331225 : 60.025.000 4) Thuế nhập khẩu kết chuyển vào giá vốn quá 1.132.000 VND. Đề nghị điều chỉnh hàng đã tiêu thụ: Nợ TK 33331225 : 1.132.000 Có TK 632 : 1.132.000 5) Thuế nhập khẩu tính vào giá vốn thiếu 400.000 VND. Nợ TK 632 : 400.000 Có TK 33331225: 400.000 Bên cạnh đó, KTV kiểm tra chứng từ của các nghiệp vụ liên quan đến giảm thuế, hoàn thuế nhập khẩu. Đối chiếu với các phần hành kế toán có liên quan như mua hàng, tiền mặt, tiền gửi ngân hàng…. Sau khi kiểm tra, kiểm toán viên không phát hiện thêm bất kỳ sai phạm nào liên quan đến thuế nhập khẩu. Cuối cùng, KTV điều chỉnh lại số dư cuối kỳ của tài khoản thuế nhập khẩu dựa trên các sai sót phát hiện được trong quá trình kiểm toán và lập lại BCTC. Như vậy, số dư tài khoản thuế nhập khẩu cuối năm của Công ty A phải điều chỉnh giảm số tiền là 73.336.000 VND. Công ty A đã điều chỉnh số liệu kế toán của mình theo ý kiến của kiểm toán viên. Do đó, kiểm toán viên đã đưa ra kết luận số dư tài khoản thuế nhập khẩu bằng 390.808.000 VND là trung thực và hợp lý theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung và được lập nhất quán với các năm trước. Đồng thời, kiểm toán viên cũng lưu ý Công ty A rút kinh nghiệm trong việc hạch toán thuế nhập khẩu, cần thực hiện hạch toán đúng, đủ, kịp thời khi kết chuyển thuế nhập khẩu vào giá hàng mua và số tiền thuế mà đơn vị thực tế phải nộp trong kỳ. 3.4. Đánh giá kết quả kiểm tra chi tiết và xử lý chênh lệch kiểm toán Đây là công việc cuối cùng trong quá trình thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết. Sau khi hoàn thành thủ tục kiểm tra chi tiết chu trình mua hàng - thanh toán, kết hợp với các thủ tục khác đã được thực hiện (thủ tục kiểm soát thủ tục phân tích), kiểm toán viên đưa ra đánh giá của mình về kết quả kiểm tra chi tiết đối với từng tài khoản liên quan trong chu trình. Các kết luận và kiến nghị về các khoản phải trả người bán của Công ty B được trình bày trên bảng số 19. Nhận xét và kiến nghị đối với TK hàng tồn kho: + Trong kỳ có một số khoản chi mua hàng trên 100.000 VND nhưng không có hóa đơn tài chính (chi mua giẻ lau, dây kẽm kẹp, vải vụn…) số tiền là 4.211.000. Đề nghị đơn vị sử dụng hóa đơn khi mua hàng cho các khoản chi trên 100.000 VND. + Thực tế khi phát sinh nghiệp vụ phản ánh tăng hàng tồn kho và tăng công nợ phải trả đơn vị không lập chứng từ ghi sổ chứng minh cho việc hạch toán. Khi thanh toán tiền cho người bán, đơn vị quay lại kẹp hóa đơn đã ghi nhận hạch toán tăng hàng tồn kho vào phiếu chi khi hạch toán. Cách làm này không khoa học và tốn nhiều thời gian, gây khó khăn cho kiểm tra kiểm soát. Đề nghị đơn vị sớm khắc phục tình trạng trên. + Việc bảo quản chứng từ còn nhiều sai sót, đề nghị Công ty chú ý hơn trong việc bảo quản chứng từ. Bảng số 19: Giấy tờ làm việc của kiểm toán viên AASC Tên khách hàng: Công ty B Niên độ kế toán : 1/1 - 31/12/2001 Tham chiếu: N1/S1 Khoản mục: TK 331 Người thực hiện: MHT Bước công việc: tổng hợp nhận xét Ngày thực hiện: 9/1/03 Kết luận kiểm toán Công việc kiểm toán đối với phần phải trả người bán đã tiến hành theo đúng chương trình theo biểu Nhận xét: Đơn vị đã mở sổ chi tiết theo dõi công nợ theo từng đối tượng khách hàng tuy nhiên việc theo dõi cồn nợ còn tồn tại một số vấn đề sau: Các vấn đề phát sinh: - Tại thời điểm khóa sổ kế toán đơn vị chưa thực hiện đối chiếu công nợ với các nhà cung cấp do chưa có đầy đủ biên bản đối chiếu công nợ. - Đề nghị đơn vị rút kinh nghiệm trong việc lập, ký, theo dõi các hợp đồng, các biên bản thanh lý quyết toán hợp đồng (một số hợp đồng ghi sai ngày tháng trên quyết toán hợp đồng, ghi quyết toán cho một số hợp đồng không chính xác). - Phiếu chi tạm ứng hợp đồng không ghi rõ lý do chi tạm ứng cho hợp đồng nào, phiếu chi người nhận tiền không ghi rõ họ tên. - Một số khoản công nợ của cùng một đối tượng công nợ, đơn vị chưa thực hiện kết chuyển bù trừ, cụ thể là: + Năm 2001, đơn vị đã thanh lý và quyết toán công trình xây dựng cho công ty Thành Long (T8/2001 &T11/2001) là 5014.330.000 VND nhưng đơn vị chưa hạch toán tăng tài sản cố định, dẫn đến số dư trên BCTC tại thời điểm 31/12/01 đang thể hiện là khoản tiền ứng trước cho khách hàng. Đề nghị đơn vị thực hiện bút toán điều chỉnh: Nợ TK 211: 5.014.330.000/ (1+0.05) = 4.775.552.381 Có TK 3312: 4.775.552.381 (Số thuế GTGT đầu vào của tài sản cố định này được phép chuyển sang thuế GTGT được khấu trừ năm 2002, năm 2001 chỉ điều chỉnh phần tài sản). + Xây dựng trạm biến áp đã hoàn thành tài sản đưa vào sử dụng, đã thanh toán tiền cho nhà cung cấp đề nghị điều chỉnh tăng tài sản, giảm công nợ cho người bán. Nợ TK 211 : 395.000.000 Có TK 3312 : 395.000.000 Kết luận: Dựa vào kết quả công việc theo ý kiến chúng tôi cơ sở dẫn liệu cho phần phải trả người bán là thích hợp trên các khía cạnh trọng yếu theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung và được lập nhất quán với các năm trước. Nhận xét và kiến nghị đối với thuế GTGT đầu vào: + Một số hóa đơn thuế GTGT đầu vào trong bảng kê khai thuế kế toán đơn vị tính sai thuế suất dẫn đến thuế GTGT đầu vào được không được khấu trừ ghi tăng chi phí, số tiền là 2.199.000 VND. + Trong năm 2001, kế toán đơn vị không thực hiện việc kết chuyển thuế GTGT đầu vào được khấu trừ. Tổng số thuế GTGT đầu vào theo quyết định của cục thuế Hưng Yên là: 1.393.478.000 VND. Đề nghị đơn vị khắc phục trong việc thực hiện kê khai hạch toán thuế GTGT theo quy định tại thông tư 122/2000 TT-BTC và các hướng dẫn hạch toán kế toán hiện hành. Tại Công ty A, các kết luận kiểm toán cũng được đưa ra sau khi KTV rà soát lại các công việc đã thực hiện đối với các tài khoản. Đối với TK hàng tồn kho KTV nhận thấy giá mua hàng hóa bằng ngoại tệ ghi vào TK 151 theo nhiều tỷ giá khác nhau. Việc hạch toán như vậy là không đúng quy định về nguyên tắc ghi nhận giá gốc. Đối với hàng nhập khẩu đơn vị có đầy đủ các chứng từ theo quy định gồm hóa đơn nhập khẩu, tờ khai hải quan, thông báo nộp thuế, doanh nghiệp cần tích cực phát huy. Đối với nợ phải trả người bán, số liệu chênh lệch giữa biên bản đối chiếu công nợ với sổ sách kế toán chưa được điều chỉnh kịp thời là chưa đúng với quy định hiện hành và chưa phản ánh đúng tình hình tài chính của Công ty tại thời điểm lập BCTC đề nghị đơn vị thực hiện việc đối chiếu thường xuyên các khoản công nợ tìm nguyên nhân chênh lệch và điều chỉnh để đảm bảo số liệu kế toán và BCTC phản ánh đúng công nợ thực tế tại đơn vị. Đối với thuế nhập khẩu, đơn vị còn tồn tại nhiều khoản thuế nhập khẩu hạch toán thiếu, thừa hoặc chưa thực hiện kết chuyển vào giá vốn, đơn vị cần sớm khắc phục tình trạng trên. Đối với thuế GTGT đầu vào: đơn vị chưa hạch toán và kê khai thuế GTGT đầu vào theo đúng quy định của Nhà nước cụ thể là: + Tại thời điểm khóa sổ kế toán, số thuế GTGT đầu vào nhưng chưa thực hiện kê khai khấu trừ tổng số tiền là 231.883.000 VND. + Thuế GTGT đầu vào đã kê khai khấu trừ nhưng chưa hạch toán số tiền là: 517.097.000 VND. Việc hạch toán nhưng không kịp thời kê khai khấu trừ thuế GTGT đầu vào sẽ dẫn đến có thể có hóa đơn quá thời hạn quy định không được khấu trừ và phải ghi tăng chi phí trong năm của đơn vị, ảnh hưởng đên kết quả hoạt động kinh doanh. Việc kê khai nhưng không thực hiện hạch toán kịp thời khấu trừ thuế GTGT đầu vào đầu ra sẽ dẫn tới số thuế GTGT phải nộp phản ánh trên BCTC không đúng với số thuế thực tế phát sinh tại đơn vị. Đề nghị đơn vị thực hiện việc hạch toán và kê khai thuế GTGT đầu vào theo đúng quy định hiện hành của nhà nước. Hoàn tất thủ tục kiểm tra chi tiết chu trình mua hàng - thanh toán, kết hợp với hoàn thiện các chu trình còn lại, KTV sẽ thực hiện bước hoàn thành cuộc kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán. Trước khi lập và công bố báo cáo kiểm toán, KTV tiến hành các công việc: xem xét các sự kiện xảy ra sau ngày kết thúc niên độ kế toán và đánh giá mức độ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của khách hàng (nếu có); rà soát đối chiếu các giấy tờ làm việc đảm bảo sự hoàn chỉnh và đầy đủ của kết luận kiểm toán; đánh giá tính đầy đủ và hợp lý của bằng chứng kiểm toán trong trường hợp nhận thấy bằng chứng là chưa đủ để đưa ra kết luận thì thu thập thêm hoặc đưa ra ý kiến chấp nhận có các yếu tố loại trừ; đánh giá và trình bày thuyết minh trên báo cáo kiểm toán. ở Công ty A, sau khi đánh giá kết quả kiểm toán và có sự điều chỉnh của họ theo yêu cầu của KTV, AASC thấy không có sự loại trừ trọng yếu nào về việc áp dụng hợp lý các nguyên tắc kế toán và không có sự giới hạn nào về phạm vi kiểm toán nên đã phát hành báo cáo kiểm toán có ý kiến chấp nhận toàn phần. Đối với Công ty B do KTV không thể tham gia kiểm kê hàng tồn kho, tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và TSCĐ tại thời điểm 31/12/01 vì tại thời điểm đó AACS chưa được mời thực hiện kiểm toán. Với những tài liệu hiện có tại đơn vị khách hàng các KTV cũng không thể kiểm tra được tính đúng đắn của các khoản mục trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. Mặt khác, cho đến thời điểm thực hiện cuộc kiểm toán các KTV cũng chưa được cung cấp các hồ sơ chứng từ chứng minh phần chi tiết giá trị vốn góp bằng TSCĐ. Do vậy, KTV đã đưa ra ý kiến để ngoại trừ những ảnh hưởng nếu có của các yếu tố nêu trên đến BCTC của đơn vị. Trên đây là phần trình bày thực trạng tiến hành thủ tục kiểm tra chi tiết chu trình mua hàng - thanh toán của AASC tại hai đơn vị khách hàng. Để nâng cao hiệu quả kiểm toán, các chương trình kiểm toán cần phải hoàn thiện hơn nữa. Chương 3 sẽ đưa ra những nhận xét và đề xuất một số giải pháp nhằm đạt được mục tiêu trên. Chương III Một vài nhận xét và kiến nghị về thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán do AASC thực hiện. I. Nhận xét chung về hoạt động kiểm toán của Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán. 1.1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hoạt động Hoạt động kiểm toán ở nước ta tuy mới phát triển song cũng đã phần nào hình thành trong nhận thức của mọi người về vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. Với sự nỗ lực hết mình và kinh nghiệm nhiều năm hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán, AASC đã thực hiện rất nhiều cuộc kiểm toán với chất lượng cao cho các khách hàng hoạt động trong lĩnh mọi lĩnh vực. Nhờ đó Công ty đã và đang khẳng định uy tín của mình trên thị trường kiểm toán Việt Nam. Để đạt được những thành công này, AASC đã tận dụng và khai thác tối đa những lợi thế của mình. Trước hết, phải kể đến sự lãnh đạo của bán giám đốc Công ty. Ban giám đốc AASC đều là những người có trách nhiệm và khả năng quản lý tốt, có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn, hoạt động nhiều năm trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán, năng động trong khai thác thị trường, chủ động tham gia trực tiếp vào giai đoạn lập kể hoạch chiến lược và lên kế hoạch kiểm toán cho các phòng nghiệp vụ. Định kỳ, ban giám đốc trao đổi, đánh giá kết quả hoạt động và giải quyết những vướng mắc trong quá trình cung cấp dịch vụ tại các phòng nghiệp vụ. Đóng góp vào thành công chung không thể không kể đến đội ngũ nhân viên. AASC có đội ngũ nhân viên vừa mạnh về số lượng vừa mạnh về chất lượng đáp ứng được mọi yêu cầu của khách hàng, hầu hết các nhân viên đều được đào tạo bài bản tại các trường đại học trong và ngoài nước, trong đó có rất nhiều người là KTV cấp quốc gia. AASC có trong tay chìa khóa của thành công đó là một đội ngũ nhân viên trẻ, năng động, nhiệt tình có kiến thức, kỹ năng chuyên môn và sáng tạo trong công việc. Hàng năm, nhân viên của Công ty đều được đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức chuyên môn. Mỗi nhân viên đều nhận thức được trách nhiệm và nhiệm vụ của mình trong công việc cũng như trong nỗ lực nâng cao chất lượng dịch vụ và uy tín của Công ty. Tiếp theo, phải nói tới nỗ lực của Công ty trong việc xây dựng cho mình các chương trình, phương pháp kiểm toán chất lượng, hiệu quả. Với trình độ chuyên môn, kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn, kết hợp vói các chuẩn mực kiểm toán. Công ty đã xây dựng cho mình một quy trình kiểm toán chuẩn làm căn cứ cơ bản trong họat động thực tiễn của Công ty. Chương trình kiểm toán được các KTV vận dụng sáng tạo, linh hoạt nhằm tối đa hóa hiệu quả kiểm toán. Nhờ đó, AASC đã tạo được một vị thế quan trọng trên thị trường kiểm toán nghiệp vụ dựa vào cả hai yếu tố hiệu quả và chất lượng kiểm toán. Bên cạnh những thuận lợi và thành tựu đã đạt được, hiện nay AASC cũng như các Công ty kiểm toán độc lập khác ở Việt Nam đang vấp phải không ít khó khăn khiến cho hoạt động kiểm toán chưa thực sự xứng đáng với tầm quan trọng của nó điều này thể hiện rõ trên một số khía cạnh sau: áp lực cạnh tranh, đặc bịêt là cạnh tranh với các công ty kiểm toán nước ngoài có nhiều kinh nghiệm hoạt động, nhiều khi xuất hiện mâu thuẫn giữa chất lượng và hiệu quả kiểm toán gây khó khăn cho Công ty trong quá trình hoạt động. Mặt khác, thực tế ở nước ta hiện nay cho thấy hoạt động kiểm toán độc lập mới chỉ tạo dựng cho mình hình ảnh ban đầu trong nền kinh tế thị trường, kiểm toán vẫn chưa khẳng định được vai trò của mình là một công cụ quản lý kinh tế. Cho đến nay, đa số các nhà quản lý, các doanh nghiệp vẫn chưa hiểu hết được bản chất cũng như lợi ích mà kiểm toán mang lại. Họ chỉ hiểu biết hoạt động kiểm toán đơn giản chỉ là sự kiểm tra hoạt động kế toán mà chưa nhận thức được vai trò và vị trí của nó đối với doanh nghiệp là hướng dẫn nghiệp vụ, củng cố nề nếp tài chính nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, nhiều đơn vị thực được thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của cấp trên mà không xuất phát từ nhu cầu thực tế của bản thân đơn vị cũng như tâm lý thiếu tin tưởng vào chất lượng và hiệu quả của kiểm toán. Từ đó nảy sinh thái độ dè dặt, thiếu hợp tác của khách hàng, gây khó khăn và ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm toán. Nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh và nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán của AASC, từ thực tiễn kiểm toán Công ty đã tổng kết, thiết kế và xây dựng cho mình quy trình kiểm toán cũng như các chương trình kiểm toán riêng đặc thù làm cơ sở cho các cuộc kiểm toán. Các quy trình, chương trình kiểm toán đã được các KTV thực hiện vận dụng linh hoạt trong công tác kiểm toán và đã cho thấy những hiệu quả nhất định. Tuy nhiên, các quy trình, chương trình kiểm toán của Công ty vẫn đang trong giai đoạn hoàn thiện do đó vẫn còn một số bất cập trong thực hiện. Hoạt động kiểm toán hiện nay vẫn chưa có đựơc vị trí pháp lý xứng đáng với vai trò của nó. Kết quả các cuộc kiểm toán ở nước ta chưa thực sự được chú ý và tôn trọng. Điều này đựơc thể hiện rất rõ trong thực tế, có nhiều trường hợp kết quả kiểm tra của các cơ quan tài chính mà của yếu là các cơ quan thuế không nhất trí với kết quả kiểm toán. Sự thiếu thống nhất đó đã gây không ít khó khăn cho khách hàng và ngay cả Công ty kiểm toán. Song cũng cần nhắc đến một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện công tác kiểm toán của AASC đó là môi trường pháp lý. ở nước ta, hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán vẫn chưa ổn định. Các chuẩn mực kiểm toán đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, các nghị định, thông tư về chế độ kế toán chưa rõ ràng cũng là những khó khăn cho các kiểm toán viên trong quá trình thực hiện kiểm toán. 1.2. Nhận xét về quy trình kiểm toán và việc thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết Quy trình kiểm toán báo cáo tài chính của AASC tương đối hoàn thiện với 3 giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, thực hiện kiểm toán và kết thúc kiểm toán. Lập kế hoạch kiểm toán Là giai đoạn đầu tiên của mỗi cuộc kiểm toán, vai trò của quan trọng của giai đoạn này đã được khẳng định thông qua các chuẩn mực kiểm toán quốc tế cũng như chuẩn mực kiểm toán Việt Nam. “Công tác kiểm toán phải được lập kế hoạch đầy đủ và các trợ lý nếu có phải được giám sát đúng đắn” điều này đã được nêu ra trong chuẩn mực kiểm toán thứ 4 trong 10 chuẩn mực kiểm toán được thừa nhận rộng rãi (GAAS). Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 300 cũng quy định rõ: “Kế hoạch kiểm toán phải đựơc lập cho mọi cuộc kiểm toán một cách thích hợp đảm bảo bao quát hết các khía cạnh trọng yếu của cuộc kiểm toán, phát hiện gian lận rủi ro và các vấn đề tiềm ẩn, đảm bảo cuộc kiểm toán được tiến hành đúng thời hạn” Tại AASC, việc lập kế hoạch kiểm toán được thực hiện một cách chu đáo cho cả kế hoạch chiến lược và kế hoạch tổng quát. Kế hoạch chiến lược được lập đối với các khách hàng ký hợp đồng thực hiện kiểm toán trong nhiều năm và khách hàng có quy mô lớn, phức tạp. Việc lập kế hoạch chiến lược càng được thực hiện tốt thì hiệu quả công tác kiểm toán càng cao, đồng thời nâng cao khả năng duy trì (đối với khách hàng thường xuyên) và mở rộng khách hàng (đối với những khách hàng mới). Lập kế hoạch tổng quát được thực hiện với mọi khách hàng, AASC làm tốt công tác ngay từ bước ban đầu từ chuẩn bị kế hoạch kiểm toán cho đến việc thu thập các thông tin cơ sở, các thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng cũng như nghiên cứu, đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của khách hàng. Một trong những nguyên nhân giúp AASC duy trì được một lượng khách hàng thường xuyên tương đối lớn và mở rộng được nhiều khách hàng mới đó là khả năng tiếp cận nhanh chóng với khách hàng, có được sự hợp tác từ phía khách hàng, giúp cho cuộc kiểm toán được tiến hành thuận lợi, tiết kiệm thời gian và hiệu quả cao. Thông qua việc tiến hành kiểm toán, AASC đã giúp nhiều khách hàng hoàn thiện công tác kiểm toán và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ bằng những đề xuất kịp thời trong thư quản lý. Giai đoạn thực hiện kiểm toán Kiểm toán viên tiến hành kiểm toán trên cơ sở tuân thủ kế hoạch kiểm toán đã được xây dựng về thời gian, nội dung, phạm vi kiểm toán và dựa vào sự hỗ trợ của chương trình kiểm toán mẫu, kiểm toán viên tiến hành thu thập các bằng chứng kiểm toán. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên đã kết hợp chặt chẽ giữa các phần hành có liên quan thông qua việc trao đổi, thống nhất từng phần việc của những người thực hiện, cùng thỏa thuận giải quyết các vấn đề phát hiện, tăng khả năng gắn kết giữa các phần việc. Kiểm tra chi tiết chiếm một tỷ trọng lớn trong khối lượng các công việc mà kiểm toán viên phải thực hiện trong giai đoạn này. Nói chung, thủ tục kiểm tra chi tiết được diễn ra theo đúng chương trình kiểm toán đã thiết lập, tuân thủ các chuẩn mực kế toán, kiểm toán Việt Nam, được các kiểm toán viên có đầy đủ năng lực và trình độ thực hiện với thái độ thận trọng nghề nghiệp cao. Các bằng chứng kiểm toán thu được trong giai đoạn này là cơ sở vững chắc cho các kết luận thích đáng về khoản mục được kiểm toán. Giai đoạn kết thúc kiểm toán: Sản phẩm của giai đoạn này là báo cáo kiểm toán, trong báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra các kết luận thích đáng về tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính của khách hàng dựa vào những bằng chứng thu được trong giai đoạn thực hiện kiểm toán. Một kết luận hợp lý được kiểm toán viên đưa ra dựa trên việc đánh giá tính đầy đủ và hợp lý của các bằng chứng thu được kết hợp với những nhận định mang tính nhà nghề. Việc đưa ra ý kiến về tính trung thực và hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính luôn được thực hiện với thái độ thận trọng nghề nghiệp cao. I. một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán tại AASC 2.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán Là một doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường, AASC hoạt động kinh doanh ở một lĩnh vực đặc thù rất mới mẻ và nhiều rủi ro. Hoạt động của AASC chủ yếu cung cấp các dịch vụ chuyên ngành về tài chính, kế toán và kiểm toán, chất lượng các sản phẩm dịch vụ đồng nghĩa với sự tồn tại và phát triển của Công ty. Là một doanh nghiệp đi tiên phong trong việc khai phá thị trường kiểm toán độc lập đầy tiềm năng ở nước ta. Tuy nhiên, đến nay các hoạt động và dịch vụ mà AASC cung cấp vẫn còn mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam. Song, qua hơn 10 năm hoạt động, AASC đã dần chứng tỏ được vai trò và sự cần thiết của hoạt động kiểm toán độc lập trong nền kinh tế thị trường cũng như thương hiệu của mình. Những kết quả mà hoạt động kiểm toán của AASC mang lại chính là những bằng chứng sinh động nhất về sự thành công của hoạt động này. Tuy nhiên, so với bề dày lịch sử của ngành kiểm toán thế giới, quá trình phát triển hoạt động kiểm toán ở Việt Nam mới chỉ ở bước mở đầu và còn khá non trẻ. Hoạt động kiểm toán vẫn còn những hạn chế trên cả góc độ lý luận và thực tế. Do đó, ngành kiểm toán ở nước ta không những cần phải tìm tòi, khám phá mà còn phải tự hoàn thiện để phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới. Bên cạnh đó, để đáp ứng xu thế toàn cầu hóa, Việt Nam không ngừng xúc tiến hội nhập kinh tế thế giới. Quá trình hội nhập đã mở ra cho hoạt động kế toán tài chính nói chung và hoạt động kiểm toán nói riêng những cơ hội phát triển và cả những thách thức to lớn. Đứng trước cơ hội mở rộng thị phần đồng thời nâng cao tính cạnh tranh, bất kỳ công ty kiểm toán nào cũng phải đặt vấn đề hoàn thiện quy trình kiểm toán bởi một quy trình kiểm toán hiệu quả luôn là lợi thế đối với các đối thủ khác. Hiện nay, nước ta đã ban hành các chuẩn mực kế toán, kiểm toán nhưng vẫn chưa tạo ra được hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động kiểm toán. Do đó, với mỗi cuộc kiểm toán cho dù khả năng phán xét và trình độ nghiệp vụ của kiểm toán viên cao thì vẫn có khả năng còn những khiếm khuyết. Để hạn chế những khiếm khuyết đó thì yêu cầu hoàn thiện quy trình kiểm toán là cần thiết. Có thể nói, việc hoàn thiện quy trình hay các chương kiểm toán luôn là tất yếu khách quan đối với mỗi Công ty kiểm toán trong quá trình phát triển của mình bởi đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng các cuộc kiểm toán. Hoàn thiện quy trình hay chương trình kiểm toán phải gắn với việc hoàn thiện thủ tục kiểm tra chi tiết vì đây là một trong 3 thủ tục quan trọng được thực hiện trong một cuộc kiểm toán. Các thủ tục kiểm soát có thể bỏ qua nếu hệ thống kiểm soát được đánh giá là không tồn tại hoặc tồn tại nhưng hoạt động không hiệu quả, không ngăn chặn được các gian lận và sai sót. Các thủ tục phân tích được sử dụng khá rộng rãi trong tất cả các cuộc kiểm toán ở tất cả các giai đoạn do chi phí thực hiện tương đối rẻ nhưng hiệu quả mang lại rất lớn. Thủ tục kiểm tra chi tiết được thực hiện trong giai đoạn thực hiện kiểm toán sau khi đã thực hiện thủ tục kiểm soát và thủ tục phân tích. Kiểm tra chi tiết là thủ tục cung cấp các bằng chứng kiểm toán với số lượng lớn và độ tin cậy cao hơn bất kỳ một thủ tục kiểm toán nào khác. Tuy nhiên đây cũng là thủ tục tốn nhiều thời gian và chi phí hơn cả vì khối lượng công việc phải thực hiện rất lớn. Do vậy, cần phải nâng cao hiệu quả kiểm tra chi tiết trên cả phương diện tiết kiệm thời gian, chi phí mà vẫn đảm bảo được chất lượng và số lượng của bằng chứng thu được. 2.2. Những đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra chi tiết trong kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán tại AASC Những đề xuất đưa ra nhằm nâng cao hiệu quả của việc kiểm tra chi tiết chu trình mua hàng - thanh toán không chỉ bó hẹp ở sự hoàn thiện cách thức tiến hành kiểm tra chi tiết mà còn ở những vấn đề trong quy trình kiểm toán có tác động trực tiếp đến thủ tục kiểm tra chi tiết. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các công ty kiểm toán trong nước với các công ty kiểm toán nước ngoài, giữa công ty kiểm toán trong nước với nhau đã đặt ra yêu cầu ngày cao đối với dịch vụ kiểm toán. Việc hoàn thiện quy trình kiểm toán luôn được đặt ra và là mối quan tâm hàng đầu của AASC. 2.2.1. Về phương pháp chọn mẫu Trong kiểm toán có 2 phương pháp chọn mẫu là chọn mẫu xác xuất và phi xác suất. Hiện tại, AASC đang áp dụng chọn mẫu theo nhận định nhà nghề (xem xét những nghiệp vụ bất thường) và chọn mẫu theo quy mô (những nghiệp vụ có số phát sinh lớn), đây là 2 loại hình của phương pháp chọn mẫu phi xác suất. Phương pháp chọn mẫu phi xác suất phát huy hiệu quả trong những trường hợp sai phạm trọng yếu phân bổ tập trung trong tổng thể xác định, quy mô tổng thể không lớn và kiểm toán viên là người có kinh nghiệm hoặc am hiểu về đối tượng kiểm toán. Ngược lại, trong trường hợp sai sót trọng yếu không tập trung mà lại phân bố đều trong tổng thể thì phương pháp chọn mẫu xác suất lại phát huy tác dụng và có thể cho hiệu quả cao hơn. Vì thế, bên cạnh việc sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất, công ty nên áp dụng phương pháp chọn mẫu xác suất trong trường hợp cần thiết. Chọn mẫu xác suất có thể dựa vào bảng số ngẫu nhiên, chọn mẫu hệ thống hay chọn ngẫu nhiên bằng máy tính. Mỗi cách chọn đều có những ưu điểm riêng và điều kiện áp dụng không giống nhau, do đó cũng không thể áp dụng một cách cứng nhắc theo cách chọn nào. Chọn mẫu dựa vào bảng số ngẫu nhiên hay chọn mẫu có hệ thống có ưu điểm là đơn giản, dễ làm. Chọn mẫu ngẫu nhiên bằng hệ thống máy tính đòi hỏi phải xây dựng một chương trình chọn lựa các số ngẫu nhiên, song chọn mẫu theo chương trình đã lập sẵn lại tiết kiệm thời gian cho kiểm toán viên khi thực hiện. Việc áp dụng chọn mẫu ngẫu nhiên bằng máy tính đối với Công ty là hoàn toàn có thể thực hiện được bởi hiện nay Công ty đang có một đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ thông tin và sản xuất phần mềm kế toán, vừa am hiểu công nghệ mới vừa có kiến thức trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán chắc chắn việc thiết kế và ứng dụng các phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên qua máy tính là rất khả thi. 2.2.2. Về việc sử dụng bảng kê xác minh Trong quá trình thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên ở AASC có sử dụng phương pháp xác minh trong thu thập bằng chứng kiểm toán song chưa sử dụng bảng kê xác minh trong hồ sơ kiểm toán. Bảng kê xác minh có thể sử dụng trong trường hợp kiểm tra từ chứng từ và thấy thiếu chữ ký của người phê duyệt, thiếu chữ ký của người nhận tiền đối với phiếu chi, thiếu chứng từ gốc…. Song, kiểm toán viên lại không có những bằng chứng cụ thể về các sai phạm này. Thông tin trên bảng kê xác minh cho biết nội dung, quy mô sai phạm và những đối tượng trực tiếp, gián tiếp có liên quan đến sai phạm. Từ đó, giúp cho kiểm toán viên dễ dàng hơn trong việc điều tra nguyên nhân sai phạm để giải tỏa các nghi ngờ. Bảng kê xác minh cũng là một tài liệu minh chứng cho quá trình thực hiện kiểm toán và là tài liệu hữu ích trong thuyết minh báo cáo kiểm toán. Mẫu bảng kê xác minh như sau: bảng kê xác minh Chứng từ Nội dung Số tiền Đối tượng xác minh Ghi chú mức độ sai phạm SH NT Trực tiếp Gián tiếp 2.2.3. Về những chênh lệch phát hiện trong kiểm toán Trong quá trình thực hiện kiểm toán một khoản mục, khi phát hiện những sai phạm lớn hơn mức trọng yếu được phân bổ cho khoản mục đó, kiểm toán viên sẽ tìm hiểu nguyên nhân của các sai phạm và đưa ra bút toán điều chỉnh. Những sai phạm không trọng yếu được gọi là những chênh lệch kiểm toán không được sửa đổi. Với những chênh lệch kiểm toán không được sửa đổi, cần lập một tóm tắt tính trọng yếu của những chênh lệch này và xét khả năng ảnh hưởng của chúng đến báo cáo tài chính. Thực tế kiểm toán tại Công ty cho thấy, khi phát hiện ra các chênh lệch kiểm toán không trọng yếu, kiểm toán viên bỏ qua ngay các chênh lệch này. Vấn đề đặt ra là có thể một sai phạm là không trọng yếu nhưng tập hợp tất cả các sai phạm không trọng yếu lại có thể là một sai phạm trọng yếu, mà nếu bỏ qua tổng các sai phạm này thì có thể sẽ ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng Báo cáo tài chính. Nếu tổng hợp các sai phạm này được kiểm toán viên xem xét xác định là trọng yếu, kiểm toán viên cần đánh giá ảnh hưởng của nó tới Báo cáo tài chính và đề nghị những điều chỉnh thích hợp, ngược lại, nếu được cân nhắc là không trọng yếu thì không cần đề nghị điều chỉnh nhưng có thể dùng để đưa ra các kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng của công tác kế toán và kiểm soát nội bộ trong Thư quản lý. Theo em, trong quá trình thực hiện kiểm toán, khi phát hiện những sai phạm mà kiểm toán viên coi là không trọng yếu, kiểm toán viên nên lập ra phần “Tổng hợp các chênh lệch kiểm toán không được điều chỉnh”. Phần này tập hợp các chênh lệch kiểm toán viên thu thập được trong quá trình kiểm toán nhưng không trọng yếu đến mức phải đề nghị Công ty khách hàng điều chỉnh. Các đề nghị thích hợp sẽ được đưa ra sau khi tất cả các chênh lệch kiểm toán này được kiểm toán viên tập hợp đầy đủ. 2.2.4. Vấn đề ghi chép của kiểm toán viên Tài liệu làm việc của kiểm toán viên cung cấp các bằng chứng kiểm toán quan trọng làm cơ sở hình thành các ý kiến của kiểm toán viên và là minh chứng cho việc tiến hành theo đúng chuẩn mực của cuộc kiểm toán. ý thức được tầm quan trọng đó, AASC đã xây dựng được những quy định riêng về cách thức tổ chức và lưu trữ tài liệu làm việc, xây dựng hồ sơ kiểm toán hợp lý, thống nhất và khoa học. Hệ thống hồ sơ này không những giúp cho KTV ghi chép các công việc thực hiện một cách nhanh chóng, đơn giản mà còn giúp cho trưởng nhóm kiểm toán và ban giám đốc dễ dàng hơn trong việc soát xét toàn bộ cuộc kiểm toán. Tuy nhiên, qua thực tế xem xét hồ sơ kiểm toán của Công ty A và B, kiểm toán viên hầu như chỉ ghi lại những kết quả sai sót phát hiện được lên giấy làm việc còn các thông tin khác như quá trình tiến hành kiểm tra, trình tự các bước công việc, dung lượng mẫu chọn, cách thức chọn mẫu … không được ghi chép đầy đủ. Nguyên nhân chủ yếu là do phần lớn các cuộc kiểm toán bị hạn chế về mặt thời gian do đó KTV không có điều kiện để ghi chép tất cả những công việc thực hiện. Điều này có thể chấp nhận được nếu những sai sót phát hiện được là đơn giản, còn trong trường hợp có những tình huống phức tạp thì cách ghi chép như trên sẽ tỏ ra không hiệu quả, bởi nó sẽ khiến cho người thực hiện công việc soát xét khó khăn hơn trong việc nắm bắt vấn đề, khó đưa ra quyết định yêu cầu KTV tăng lượng mẫu chọn, thu thập thêm bằng chứng hay quy trình thực hiện như thế đã phù hợp với tình huống chưa. Để việc kiểm tra soát xét hồ sơ kiểm toán được dễ dàng hơn, KTV cần ghi chép cẩn thận các bước công việc tiến hành, cách thức chọn mẫu cũng như dung lượng mẫu chọn đặc biệt là đối với những khách hàng có quy mô lớn, đồng thời đối với những giấy làm việc ghi chép chưa rõ ràng (Ví dụ ghi bằng bút chì, tẩy xóa…) thì nên viết lại cho rõ ràng hơn. 2.2.5. Về việc áp dụng thủ tục phân tích Thủ tục phân tích là một trong những thủ tục rất hữu ích cho KTV khi thực hiện kiểm toán, nó cho phép kiểm toán viên tiết kiệm được thời gian và chi phí đồng thời phản ánh được những mối liên hệ bản chất giữa các số dư của các khoản mục trên báo cáo tài chính, từ đó giúp kiểm toán viên xác định được trọng tâm công việc trong quá trình thực hiện kiểm toán. Các biến động lớn liên quan đến chu trình mua hàng - thanh toán có thể dễ dàng phát hiện qua các thủ tục phân tích. Tuy nhiên, trong thực tế kiểm toán tại cả hai khách hàng được nghiên cứu, kiểm toán viên chủ yếu chỉ sử dụng thủ tục phân tích ngang ở mức độ cơ bản như so sánh sự biến động tuyệt đối của các số dư tài khoản đầu kỳ, cuối kỳ. Các thủ tục phân tích tỷ suất (hay phân tích xu hướng) là những công cụ phân tích mạnh, ngoài việc cho thấy sự biến động của các khoản mục nó còn cho phép kiểm toán viên có thể nhận biết được bản chất của các biến động đó. Hiệu quả mà các thủ tục phân tích dọc mang lại rất lớn, lại tốn ít chi phí khi sử dụng. Tuy nhiên, các thủ tục phân tích dọc này thường ít được kiểm toán viên sử dụng hoặc sử dụng rất hạn chế. Mặt khác, chúng rất ít khi được lưu lại trên giấy tờ làm việc và hồ sơ kiểm toán gây khó khăn khi rà soát công việc kiểm toán hay kiểm tra, kiểm soát. Để nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm toán, trước khi thực hiện kiểm tra chi tiết, kiểm toán viên cần thực hiện sâu rộng các thủ tục phân tích khác như phân tích tỷ suất, phân tích xu hướng biến động để đánh giá chính xác những nguyên nhân tạo ra những biến động. Việc làm này giúp cho kiểm toán viên xác định trọng tâm và định hướng công việc kiểm toán vào trọng tâm đó, tiết kiệm chi phí kiểm toán nhưng vẫn đảm bảo chất lượng bằng chứng thu được. Trên đây là những nhận định của em sau khi tìm hiểu thực tế tại AASC. Với những thông tin thu thập được em nhận thấy quy trình kiểm toán của Công ty nói chung và việc thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết nói riêng còn một số hạn chế từ đó em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp khắc phục những hạn chế này nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kiểm toán của Công ty. Kết luận Thông qua tìm hiểu quy trình thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong chu trình mua hàng - thanh toán tại khách hàng, em đã phần nào nắm được thực tiễn quy trình thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết trong quá trình thu thập các bằng chứng kiểm toán cũng như thấy được sự cần thiết phải hoàn thiện thủ tục này để nâng cao chất lượng hoạt động kiểm toán. Trong luận văn, em đã trình bày những điểm cơ bản trong quy trình thực hiện kiểm tra chi tiết tại hai khách hàng. Song do hạn chế về thời gian và khả năng nhận thức, do đó số lượng khách hàng được tìm hiểu là không nhiều, một số khoản mục tìm hiểu còn chưa kỹ lưỡng, những ý kiến nhận xét còn mang tính chủ quan, những giải pháp đưa ra chỉ nhằm gợi mở và chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong sự góp ý của các thầy cô để hoàn thiện bài viết của mình. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn TS. Chu Thành đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn em hoàn thành luận văn, Ban lãnh đạo AASC đã tạo điều kiện cho chúng em có cơ hội tiếp xúc với thực tế và các anh chị kiểm toán viên trong phòng Kiểm toán và Tư vấn đã giúp đỡ em trong quá trình tìm kiếm nguồn tài liệu thực tế. Sinh viên thực hiện Nguyễn Thị Ngọc Điệp mục lục Trang Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Kiểm toán tài chính – Trường Đại học Kinh tế quốc dân (NXB Tài chính – Tháng 7/2001) Giáo trình Kiểm toán báo cáo tài chính – Học viện Tài chính (NXB Tài chính 2001) Giáo trình Kiểm toán - Đại học Kinh tế TPHCM (Vũ Hữu Đức) Kiểm toán – A.Arens, James K.Loebbecke. Giáo trình Lý thuyết kiểm toán – Trường Đại học kinh tế quốc dân (NXB tài chính) Báo cáo tổng kết công tác năm 2003 của Công ty AASC. Chương trình kiểm toán của AASC Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế Hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Hệ thống Chuẩn mực kế toán Việt Nam Những nguyên tắc và chuẩn mực Kiểm toán quốc tế (Tài liệu dịch – Vaco) Các tạp chí chuyên ngành. Các văn bản pháp quy hiện hành về kế toán và kiểm toán Luận văn khóa 40, 41. Tìm hiểu về kiểm toán độc lập (Bùi Văn Mai) Các tài liệu khác. Hệ thống các sơ đồ, bảng biểu Tên Trang Sơ đồ 1: Hạch toán nghiệp vụ phát sinh trong chu trình mua hàng - thanh toán (thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ) Sơ đồ 2: Quá trình luân chuyển chứng từ đối với nghiệp vụ mua vào Sơ đồ 3: Quá trình luân chuyển chứng từ đối với nghiệp vụ thanh toán Sơ đồ 4: Các chu trình trong kiểm toán tài chính Sơ đồ 5: Quy trình kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán Sơ đồ 6: Sự kết hợp các trắc nghiệm trong thủ tục kiểm tra chi tiết Sơ đồ 7: Các bước cơ bản của quá trình kiểm tra chi tiết Sơ đồ 8: Quan hệ giữa các thủ tục kiểm toán Sơ đồ 9: Phương pháp luận của việc thiết kế các khảo sát nghiệp vụ chu trình mua hàng - thanh toán Sơ đồ 10: Phương pháp luận của việc thiết kế kiểm tra chi tiết các khoản phải trả Sơ đồ 11 : Biểu đồ doanh thu của Công ty qua các năm Sơ đồ 12: Cơ cấu dịch vụ tính trên doanh thu Sơ đồ 13: Tổ chức bộ máy quản lý của AASC Bảng 1: Quan hệ giữa các thủ tục với một số kiểu mẫu bằng chứng Bảng 2: Thủ tục kiểm toán trong các cuộc kiểm toán khác nhau Bảng 3: Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của công ty Bảng 4: Chương trình kiểm toán chu trình mua hàng - thanh toán Bảng 5: Danh sách các nhà cung cấp của khách hàng A Bảng 6: Bảng ước lượng mức độ trọng yếu Bảng số 7 ->19: Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên 6 7 7 9 11 13 15 17 21 23 36 37 42 17 19 36 48 51 52 Các ký hiệu viết tắt KTV KTTC BCTC KSNB TK HĐ NM XN GTGT HĐKT XM TCT XNK ĐTXD TM DV DN SXKD Kiểm toán viên Kiểm toán tài chính Báo cáo tài chính Kiểm soát nội bộ Tài khoản Hợp đồng Nhà máy Xí nghiệp Giá trị gia tăng Hợp đồng kinh tế Xi măng Tổng công ty Xuất nhập khẩu Đầu tư xây dựng Thương mại Dịch vụ Doanh nghiệp Sản xuất kinh doanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36181.doc
Tài liệu liên quan