Luận văn Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam 1986-2002

Một thực tế đã xảy ra ở Việt Nam trong những năm qua là người nông dân được mùa mà không vui, thu hoạch tăng mà vẵn nghèo túng, số lượng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu lớn song giá trị kim ngạch xuất khẩu không cao do sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế. Để khắc phục tình trạng này cần đẩy mạnh sự phát triển của công nghiệp chế biến hàng nông sản. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến hàng nông sản sẽ tác động đến thị trường đầu ra và vì vậy nó sẽ tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, làm thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Việc phát triển công nghiệp chế biến gắn với các quy hoạch tổng quan của Nhà nước sẽ đảm bảo sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, giải quyết đầu ra cho sản xuất và vì vậy sẽ góp phần đem lại thành công cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo đúng định hướng, đúng quy hoạch của Nhà nước. Hiện nay, tỷ trọng công nghiệp chế biến một số hàng nông sản so với nguyên liệu hiện có còn thấp như mía đường 30%, chè 55%, rau quả 5%, thịt xuất khẩu 1%. Tỷ lệ thất thoát ở khâu thu hoạch và sau thu hoạch lớn (lương thực 13-15%, rau quả 15-20%) [26]. Công nghiệp chế biến chưa phát triển rộng về quy mô để đáp ứng sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, thêm vào đó hiệu quả chế biến còn chưa cao, chất lượng sản phẩm chế biến kém, mặt hàng còn đơn điệu, mẫu mã chưa hấp dẫn nên khả năng cạnh tranh thấp. Tất cả những điều đó làm cho chi phí sản xuất của nông dân tăng lên, công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch chưa tốt nên không giữ được hàng, người sản xuất buộc phải bán hàng ngay cả khi giá cả giảm mạnh (tình trạng thường xảy ra khi được mùa), còn trên thị trường xuất khẩu thì hàng bán bị trả lại, giá bán thấp (bình quân giá sản phẩm chế biến xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực 10-15%, chưa nói đến các nước phát triển).

doc117 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam 1986-2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xây dựng một cách khoa học, có hệ thống. Các giải pháp phải hỗ trợ lẫn nhau nhưng phải phù hợp với từng điều kiện khách quan của từng phạm vi, khu vực áp dụng và trên hết, chúng phải phù hợp và nhất quán với hệ quan điểm về định hướng chuyển dịch cơ cấu toàn nền kinh tế và cơ cấu ngành nông nghiệp nói riêng, cụ thể là: Quan điểm phát triển toàn diện và tăng trưởng bền vững Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay cần phải dựa trên quan điểm phát triển toàn diện và tăng trưởng bền vững. Đây là quan điểm bao trùm trong chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung và chiến lược phát triển ngành nói riêng. Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy nếu chỉ chạy theo lợi ích kinh tế trước mắt mà quá coi trọng đầu tư vào một vùng, một ngành hay chỉ một lĩnh vực sẽ làm cho nền kinh tế mất cân đối, dễ gây ra các hậu quả xấu về mặt kinh tế và xã hội, đồng thời, trong quá trình phát triển kinh tế nếu không quan tâm đến vấn đề bảo vệ môi trường, giữ gìn tài nguyên thiên nhiên sẽ dễ dẫn đến sự thoái triển ở giai đoạn sau và những chi phi khắc phục hậu quả là rất lớn. Vì vậy, trong phát triển nông nghiệp và định hướng cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp cần phải đặt mục tiêu dài hạn là đảm bảo phát triển toàn diện và tăng trưởng bền vững lên trên hết. Muốn vậy, trong nông nghiệp phải thực hiện đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi gắn với chuyên môn hoá và thâm canh cao. Trong sản xuất phải đồng thời vừa đảm bảo phát triển sản xuất toàn diện với tốc độ cao, vừa phải đảm bảo cân bằng môi trường sinh thái, khắc phục tình trạng chạy theo tốc độ tăng trưởng nhanh trên cơ sở khai thác kiệt quệ tài nguyên môi trường, nhất là môi trường đất, nước, rừng, biển; gắn tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội nông thôn. Quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa Phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững nhất thiết phải dựa trên cơ sở kinh tế hàng hoá gắn với thị trường. Thực tiễn lịch sử phát triển kinh tế thế giới và quốc gia đều cho thấy kinh tế hàng hóa có tính ưu việt hơn hẳn so với sản xuất tự cung tự cấp, nó tạo ra khả năng tăng quy mô và hiệu quả sản xuất cao. Vì vậy, để phát triển nông nghiệp cần tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng đẩy mạnh sản xuất hàng hóa. Trong sản xuất hàng hóa thì thị trường là yếu tố quan trọng quyết định khả năng phát triển của sản xuất. Với điều kiện cụ thể của Việt Nam, thị trường tiềm năng tiêu thụ nông sản là rất lớn, cả thị trường quốc gia và quốc tế, vấn đề quan trọng trong sản xuất nông nghiệp hiện nay là làm thế nào để sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường, đáp ứng được nhu cầu thị trường và khai thác tối đa các thị trường đó. Điều đó có nghĩa là việc quyết định sản xuất sản phẩm nào, số lượng bao nhiêu, chất lượng và chủng loại ra sao phải do thị trường quyết định, không phải do khả năng đất đai, lao động, khí hậu và càng không phải do tập quán, kinh nghiệm người sản xuất quyết định như thường diễn ra trước đây. Trồng cây gì, nuôi con gì, sản phẩm dịch vụ nông thôn như thế nào, xu hướng chuyển đổi cơ cấu sản xuất và cơ cấu lao động ra sao phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Quan điểm này sẽ khắc phục xu hướng chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tự phát, quy mô nhỏ- một trong những bất cập lớn nhất ở nước ta hiện nay. Quan điểm hiệu quả kinh tế và xã hội Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý thì trước hết phải cho hiệu quả kinh tế cao: năng suất lao động cao, giá trị sản xuất, thu nhập cao, tạo nhiều công ăn việc làm, có khả năng duy trì tăng trưởng bền vững… Song một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý không chỉ đạt hiệu quả kinh tế cao mà còn cần phải có hiệu quả về mặt xã hội. Trong nông nghiệp và nông thôn cũng vậy. Ngoài các chỉ tiêu kinh tế, phát triển nông nghiệp phải gắn với ổn định xã hội, với mục tỉêu xóa đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo ở nông thôn và khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị. Quan điểm này sẽ là định hướng cho các giải pháp khắc phục những bất cập trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hiện nay, nhất là mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tăng lao động dư thừa ở nông thôn khi thực hiện cơ giới hoá, điện khí hoá nông nghiệp trong giai đoạn hiện nay và trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa trước mắt. Quan điểm phát triển nền nông nghiệp mở và hội nhập với quốc tế. Nội dung của quan điểm này là chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn hiện nay phải phù hợp với xu hướng hội nhập và mở cửa với thế giới và khu vực. Nội dung này cũng nhằm khắc phục xu hướng khép kín, cát cứ địa phương, tự cung tự cấp lương thực, thực phẩm đã và đang diễn ra ở một số ngành và địa phương. Sự chuyển dịch cơ cấu sản phẩm và lao động nông nghiệp, nông thôn của nước ta phải hoà nhập với xu thế của thị trường nông sản thế giới và khu vực trong bối cảnh toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế. Chất lượng giá cả của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ do đó cũng phải có sức cạnh tranh không chỉ trên thị trường trong nước mà còn trên cả thị trường thế giới. Có như vậy thì chúng ta mới có thể khai thác tối đa lợi thế cũng như hạn chế tối thiểu những mặt trái khi tham gia hội nhập. Quan điểm lựa chọn ngành mũi nhọn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh của từng vùng. Do đặc điểm tự nhiên, ở mỗi vùng nước ta có những nét đặc thù riêng về đất đai, địa hình, khí hậu và vì vậy ở mỗi vùng sẽ phù hợp hơn cả trong việc trồng trọt và chăn nuôi một số sản phẩm nhất định. Hơn thế nữa, với Việt Nam nói chung và từng vùng kinh tế nói riêng, các điều kiện tiền đề về nguồn lực không cho phép chúng ta phát triển cơ cấu ngành cân đối trên mọi lĩnh vực, mọi ngành nghề. Vì vậy, trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần xác định các ngành trọng điểm, ngành mũi nhọn mà vùng có lợi thế để tập trung đầu tư. Tiêu chuẩn để chọn ngành mũi nhọn trong sản xuất nông nghiệp trước hết phải khai thác được lợi thế về tự nhiên của từng vùng, phải là ngành có thị trường rộng lớn trong và ngoài nước, là ngành có đóng góp cao trong tổng sản phẩm toàn ngành hay giá trị gia tăng toàn ngành đồng thời trong hiện tại và tương lai có tác động thúc đẩy các ngành khác tạo đà cho tăng trưởng chung, tạo sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực. Việc xác định đúng đắn các ngành mũi nhọn, ngành có lợi thế ở mỗi vùng là bước đầu tiên quyết định sự thành công của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Gắn chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp với quy hoạch và chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung Nội dung của quan điểm này là cần gắn kết chặt chẽ giữa cơ cấu kinh tế nông nghiệp với cơ cấu kinh tế nông thôn và cơ cấu kinh tế quốc dân cả về mục tiêu, phương hướng và giải pháp. Nông nghiệp là bộ phận chủ yếu của kinh tế nông thôn, nông thôn lại là một bộ phận của hệ thống kinh tế quốc dân nói chung và do đó sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động nông nghiệp phải gắn kết với chiến lược và mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn nói riêng, cơ cấu kinh tế quốc dân nói chung và phân công lao động xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Yêu cầu của quan điểm này là các giải pháp về quy hoạch, kế hoạch và đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn phải xuất phát từ quy hoạch tổng thể và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội - an ninh quốc phòng của cả nước. Trên cơ sở các quan điểm định hướng đối với các giải pháp cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thời gian tới, ta có thể xem xét một số giải pháp cả trên bình diện vĩ mô và vi mô. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở Việt Nam. Xây dựng các quy hoạch tổng quan phát triển các ngành sản xuất chủ yếu của ngành nông nghiệp. Để thực hiện việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng hiệu quả nhằm khắc phục bất cập lớn nhất và mang tính phổ biến thời gian qua - tính tự phát, manh mún trong sản xuất, việc đầu tiên cần phải làm là dựa trên nhu cầu thị trường để nghiên cứu xây dựng các quy hoạch tổng quan phát triển các ngành sản xuất chủ yếu của ngành nông nghiệp. Trong các quy hoạch tổng quan đó cần nghiên cứu làm rõ các nội dung sau: Thị trường, giá cả sản phẩm và yêu cầu chất lượng sản phẩm; Phân bố các vùng sản xuất và sản lượng của từng vùng; Các giải pháp kỹ thuật để sản xuất ; Công nghệ sau thu hoạch; Công tác nghiên cứu khoa học và khuyến nông; Giải pháp về vốn đầu tư; Giải pháp về tổ chức sản xuất; Các chính sách để phát triển ngành. Điểm mấu chốt trong việc xác định quy hoạch phát triển các ngành và cơ cấu trồng trọt - chăn nuôi - dịch vụ nông nghiệp là lấy thị trường làm gốc. Trước hết, phải nghiên cứu thị trường, cả thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu để xác định tổng quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm, chất lượng sản phẩm của toàn ngành cũng như của mỗi ngành sản phẩm chủ yếu. Sau đó, dựa trên những nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, địa hình, khí hậu, đất đai của từng vùng để lựa chọn những vùng sản xuất thích hợp với từng loại sản phẩm, đồng thời phân bổ sản lượng cho mỗi vùng và chi tiết đến từng tiểu vùng trong vùng. Về vấn đề này, Nghị quyết 09-NP/CP của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/6/2000 đã xác định khá rõ về các mục tiêu định lượng với từng loại cây trồng, vật nuôi, các nông, lâm, thuỷ sản sản xuất và xuất khẩu đến năm 2010. Tuy nhiên, việc sản xuất trong ba năm qua vẫn mang tính tự phát, có sản phẩm vượt chỉ tiêu quy hoạch, có sản phẩm lại chưa đạt chỉ tiêu. Vì vậy, sau khi đã có quy hoạch, vấn đề quan trọng là tổ chức, chỉ đạo, thực hiện quy hoạch đó thống nhất trên phạm vi cả nước. Để thực hiện đúng quy hoạch của Nhà nước cần có sự phối hợp của các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương và cơ sở để lập kế hoạch chi tiết và thông báo đến từng doanh nghiệp, hợp tác xã, trang trại và hộ nông dân về quy hoạch của tiểu vùng để mỗi cơ sở có kế hoạch sản xuất, chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động nhằm đảm bảo cung ứng sản phẩm với số lượng và chất lượng phù hợp với nhu cầu thị trường đồng thời phù hợp với quy hoạch tổng thể của Nhà nước. Có làm được như vậy thì chúng ta mới có thể khắc phục được tình trạng sản xuất tự phát, dẫn đến cung vượt cầu về nhiều loại nông sản, nhất là gạo, cà phê, hạt tiêu, rau… hay thiếu hụt sản phẩm như ngô, bông… hiện nay. Để thực hiện các đề án tổng quan và quy hoạch phát triển ngành của Nhà nước có hiệu quả, bên cạnh việc phân bổ quy mô sản xuất thì trong triển khai thực hiện quy hoạch trên mỗi vùng, Nhà nước cần có các biện pháp hỗ trợ từ khâu sản xuất đến thu hoạch và tiêu thụ sản phẩm. Trong điều kiện cụ thể của người sản xuất nông nghiệp Việt Nam - những người nông dân nhìn chung trình độ văn hóa không cao, kiến thức sản xuất và kinh doanh còn hạn chế, vì vậy cần hướng dẫn cho người nông dân về các vấn đề quan trọng có liên quan đến sản xuất sản phẩm như: phương pháp tổ chức sản xuất, các kỹ thuật sản xuất, công tác và công nghệ bảo quản sau thu hoạch… nhằm đảm bảo sản phẩm sản xuất ra đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất cho bản thân người nông dân - là động lực để họ tin tưởng và thực hiện đúng quy hoạch của vùng và quy hoạch của Nhà nước. Hơn thế nữa, sau khi đã có những phân tích quy hoạch tổng thể phát triển ngành, để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng đã nghiên cứu trong các đề án quy hoạch, trong một số trường hợp cần thiết Nhà nước có thể cần phải có những biện pháp để khuyến khích nông dân điều chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ cấu lao động để thực hiện theo quy hoạch, ví dụ: các ưu đãi về tài chính, điều kiện và thời gian cho vay vốn, về đất đai, về kỹ thuật sản xuất, về hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, thậm chí Nhà nước có thể cam kết hỗ trợ bù lỗ trong trường hợp có những biến động bất thường gây mất mùa hay giá cả sản phẩm quy hoạch xuống thấp đủ đảm bảo cho người sản xuất thu hồi được chi phí và có lợi nhuận tối thiểu. Ngược lại, Nhà nước cũng cần kiên quyết không bù lỗ dưới mọi hình thức đối với những nông sản hàng hoá và dịch vụ tự phát ngoài quy hoạch của Nhà nước (ví dụ, lúa vụ 3 ở đồng bằng sông Cửu Long, cà phê hộ tự phát ở Tây Nguyên do phá rừng, rau quả không đảm bảo độ sạch...) nhằm góp phần hạn chế tối đa tính tự phát trong sản xuất của nông dân. Thực hiện được những điều trên chúng ta mới có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách có định hướng, khắc phục được tính tự phát trong sản xuất nông nghiệp, đảm bảo cân bằng quan hệ cung- cầu về nông sản trên thị trường, đặc biệt việc thực hiện quy hoạch sẽ cho phép hình thành các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, khắc phục tình trạng manh mún, quy mô nhỏ trong sản xuất dẫn đến chất lượng sản phẩm không đồng đều, khó đáp ứng yêu cầu của thị trường cao cấp trong nước và thị trường xuất khẩu, đồng thời khắc phục tư tưởng tự cấp, tự túc lương thực, thực phẩm đang tồn tại ở một số vùng, một số địa phương và vì vậy sẽ làm tăng tỷ trọng của nông sản hàng hóa, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa. Việc sản xuất tập trung theo quy hoạch không những tạo điều kiện thuận lợi cho khâu sản xuất và chế biến những sản phẩm hàng hóa chất lượng cao, đồng đều mà còn cho phép dễ dàng triển khai ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất. Tất cả những điều đó sẽ làm tăng hiệu quả kinh tế - xã hội, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người sản xuất. Tuy nhiên, kết quả đạt được đến đâu, trước hết phụ thuộc vào những nghiên cứu và tính chính xác trong dự báo của Nhà nước khi lập quy hoạch. Vì vậy, trong quá trình thực hiện, có thể có nhiều biến động của thị trường, đặc biệt trên thị trường thế giới nên cần liên tục có những điều chỉnh, bổ sung những nội dung mới, khắc phục hạn chế của quy hoạch cũ để kịp thời điều chỉnh cơ cấu sản xuất nhằm đem lại hiệu quả tối đa cho sản xuất nông nghiệp. Củng cố và mở rộng thị trường cho hàng nông sản, đặc biệt quan tâm đến thị trường xuất khẩu Trong nền sản xuất hàng hóa, thị trường tiêu thụ có ý nghĩa quyết định tới sự phát triển của sản xuất. Để phát triển nông nghiệp, cần phải không ngừng tìm kiếm, củng cố và mở rộng thị trường cho hàng nông sản. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta những năm vừa qua chậm chạp và không đều dẫn tới tình trạng đầu ra không ổn định và kéo theo những những bất cập giữa sản xuất và tiêu thụ, giữa cung và cầu. Những bất cập giữa cung và cầu ở nhiều loại nông sản hàng hoá theo hướng cung lớn hơn cầu chỉ có thể giải quyết bằng giải pháp củng cố các thị trường cũ song song với việc tìm kiếm và mở rộng thị trường mới, từ đó lập lại quan hệ hợp lý và ổn định giữa cung và cầu. Khi tìm thị trường đầu ra cho nông sản, cần phải chú trọng cả hai thị trường là thị trường trong nước và thị trường ngoài nước (thị trường xuất khẩu). Với hơn 80 triệu dân, thị trường trong nước về nông sản là không nhỏ. Nếu biết khai thác, tiềm năng của thị trường trong nước sẽ là lợi thế rất lớn của nền sản xuất nông nghiệp Việt Nam. Trên thực tế, hiện nay đang tồn tại tâm lý e ngại trong tiêu dùng rau quả, thực phẩm (đặc biệt ở các thành phố lớn) về việc các loại nông sản này không đảm bảo an toàn thực phẩm: trồng, chăn nuôi sử dụng quá nhiều chất hóa học: thuốc trừ sâu, thuốc kích thích, thuốc tăng trọng... vì thế, người tiêu dùng đã tự hạn chế mua rau quả, thực phẩm hoặc tìm mua những sản phẩm của nước ngoài. Vì vậy, để khai thác tốt thị trường trong nước, cùng với việc đa dạng hóa sản phẩm, ngành nông nghiệp cần phải nâng cao chất lượng sản phẩm, sản xuất các loại nông sản cao cấp, sạch, đảm bảo an toàn trong tiêu dùng. Do đó, trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp cần phải chuyển hướng sản xuất từ tập trung vào tăng năng suất và sản lượng nông sản sang chú trọng tăng chất lượng, độ sạch và chủng loại nông sản hàng hoá đi đôi với giảm chi phí sản xuất để giảm giá thành - tăng sức cạnh tranh với hàng ngoại nhập. Đồng thời, trong quản lý của Nhà nước, cần phải hạn chế và cố gắng từng bước khắc phục tình trạng nhập lậu, nhập tiểu ngạch nông sản nước ngoài bằng các biện pháp kinh tế - tài chính phù hợp (thuế, kiểm dịch, quản lý thị trường). Đối với thị trường xuất khẩu, trên thị trường xuất khẩu, sản phẩm của Việt Nam có sức cạnh tranh thấp. Sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam thấp xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Trước hết, một số nông sản xuất khẩu của Việt Nam chưa có chất lượng cao do hạn chế trong việc nghiên cứu và đưa những giống mới ưu việt hơn vào canh tác hay chưa áp dụng những thành tựu của công nghệ sinh học vào sản xuất. Bên cạnh đó, một số sản phẩm của Việt Nam mặc dù chất lượng về giống được đánh giá là tốt nhưng chất lượng không cao và không đồng đều vì phần lớn sản phẩm mới chỉ qua sơ chế, chủ yếu dùng các phương pháp thủ công để bảo quản, không qua công nghệ chế biến và bảo quản hiện đại. Vì vậy, tuy có thị phần cao trên thị trường thế giới (cà phê, điều, cao su), song Việt Nam không những không có vị thế chi phối giá của thị trường mà giá bán các mặt hàng này đều thấp hơn so với sản phẩm của các nước xuất khẩu khác. Một số chủng loại nông phẩm khác (như quả tươi và rau tươi) có thị trường nhập khẩu song phần lớn lại không đáp ứng được yêu cầu của nước nhập khẩu do dư lượng kháng sinh trong sản phẩm quá cao hay đã sử dụng thuốc trừ sâu, thuốc bảo quản thực vật độc hại. Một số sản phẩm ngành chăn nuôi cũng ở tình trạng tương tự, hoặc dư lượng kháng sinh quá nhiều, hoặc sử dụng thuốc tăng trọng và nhiều khi lại có giá thành quá cao... Đây là những thách thức lớn đối với Việt Nam trên con đường hội nhập nói chung và trên mặt trận xuất khẩu nông sản nói riêng. Vì vậy, muốn có thị trường tiêu thụ cho sản phẩm nông nghiệp trên thị trường thế giới, vấn đề đầu tiên cần giải quyết là phải khắc phục ngay những hạn chế trên để tăng chất lượng sản phẩm, đảm bảo các thông số về tiêu chuẩn kỹ thuật, nuôi trồng, chế biến, đáp ứng nhu cầu của nước nhập khẩu, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng nông sản Việt Nam. Để có thể chuyển hướng sang sản xuất nông nghiệp chất lượng cao phục vụ xuất khẩu, cần thực hiện nhiều biện pháp: Tích cực nghiên cứu và ứng dụng giống mới, công nghệ mới vào sản xuất, chủ yếu tập trung vào giống cho chất lượng cao; xây dựng vùng nông nghiệp xuất khẩu tập trung quy mô lớn, chất lượng cao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến; tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản và hoàn thiện chiến lược xuất khẩu hàng nông sản phù hợp với yêu cầu của thị trường thế giới và khu vực. Bên cạnh đó, cần phải chấn chỉnh, tổ chức lại hệ thống thu gom, xuất khẩu hàng nông sản theo hướng giảm khâu trung gian, hình thành các tập đoàn xuất khẩu lớn các nông sản chủ lực như gạo, cà phê, cao su, rau quả,..., chống các xu hướng tranh mua, tranh bán, cạnh tranh không lành mạnh trên thương trường, gây thiệt hại và giảm uy tín của hàng nông sản Việt Nam trên thị trường thế giới (như đã xảy ra đối với mặt hàng gạo, thuỷ sản những năm qua). Ngoài ra, việc củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu cho sản phẩm nông nghiệp nói riêng và sản phẩm của Việt Nam nói chung sẽ được đẩy mạnh nếu có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua các hoạt động đối ngoại cấp Nhà nước, thông qua việc tham gia vào các tổ chức thương mại quốc tế và khu vực hay ký kết các hiệp định đa phương và song phương về thương mại với nước ngoài. Tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ, đẩy nhanh ứng dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Để nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường, đặc biệt với thị trường xuất khẩu, cần tập trung đưa các loại giống mới có năng suất và chất lượng cao vào sản xuất, đồng thời áp dụng các quy trình công nghệ tiến bộ và sử dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật, của cuộc cách mạng sinh học vào sản xuất. Có làm được như vậy, chúng ta mới có thể chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa như mục tiêu đã đề ra: xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn, hiệu quả và bền vững, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, xây dựng nông thôn ngày càng giàu đẹp, công bằng, dân chủ, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ngày càng hiện đại. Muốn thực hiện mục tiêu trên, khoa học - công nghệ phải đi trước một bước theo phương châm "đi tắt, đón đầu” những thành tựu tiên tiến về công nghệ sinh học, chương trình giống cây con nhằm tăng năng suất, tăng chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản và khi đó, khoa học- công nghệ sẽ trở thành động lực để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong những năm qua, ngành nông nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc đưa công nghệ về giống vào sản xuất như đã áp dụng thành công công nghệ nuôi cấy mô, nuôi nhân giống tế bào đối với một số loại cây trồng đã đem lại năng suất và chất lượng cao, đồng thời đã thành công trong quy trình nuôi cấy bao phấn nhân nhanh các dòng thuần, tạo tiền đề trong việc tạo các giống lai cho năng suất cao, thời gian cho sản phẩm được rút ngắn; trong chăn nuôi đã bước dầu áp dụng công nghệ gây siêu rụng trứng, hoàn thành quy trình sản xuất vắc xin tụ huyết trùng lợn, gia cầm... Tất cả những điều đó đã góp phần tăng sản lượng của nông nghiệp trong thời gian qua song nhìn chung trình độ về khoa học công nghệ trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn rất thấp, năng suất cây trồng, vật nuôi chưa cao, chất lượng sản phẩm kém, nhất là các ngành rau quả, chăn nuôi, chế biến thịt trứng... đang tụt hậu xa so với thế giới. Theo UNDP, đầu tư vào lĩnh vực nghiên cứu cho nông nghiệp còn quá thấp. Kinh phí nghiên cứu trung bình tính trên mỗi cán bộ nghiên cứu thấp tới mức chỉ là 50 USD/năm (năm 1998), bằng 1/450 mức kinh phí của Ấn Độ và 1/40 mức kinh phí của Thái Lan [23]. Vì vậy cần tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, tăng cường chuyển giao công nghệ và đẩy nhanh ứng dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, trong thời gian tới, cần tập trung vào các giải pháp chủ yếu là: Tổ chức lại các Viện nghiên cứu khoa học về nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng gọn, nhẹ, hiệu lực, hiệu quả lấy mục tiêu hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam làm nền tảng cho các đề tài, dự án trong những năm tới, khắc phục tình trạng phân tán, trùng lặp đề án, hiệu quả thấp, xa rời thực tế thường xảy ra ở các viện nghiên cứu hiện nay. Tăng kinh phí đầu tư cho khoa học công nghệ tương xứng với vai trò và vị trí của nó trong quá trình tạo ra bước đột phá của sự phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn nước ta hiện nay và những năm tới. Đổi mới tư duy và phương pháp đầu tư về khoa học và công nghệ trong nông nghiệp, nông thôn theo hướng: Ưu tiên kinh phí để nhập khẩu công nghệ cao, thiết bị hiện đại, các loại giống cây, con tốt của thế giới nhưng thích hợp với điều kiện Việt Nam. Quan tâm đầu tư để đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học, kỹ thuật nông, lâm nghiệp và thuỷ sản hiện có, đồng thời bồi dưỡng nâng cao trình độ kiến thức sản xuất hàng hoá đối với các chủ doanh nghiệp, chủ hợp tác xã, chủ trang trại, công nhân kỹ thuật và đào tạo nghề cho nông dân với nội dung và thời gian thích hợp. Thu hút cán bộ khoa học, cán bộ quản lý, công nhân lành nghề có trình độ về làm việc lâu dài ở nông thôn và nông nghiệp với chế độ liền lương, phụ cấp thoả đáng. Bên cạnh chế độ tiền lương của Nhà nước, cần có chế độ phụ cấp ưu đãi đối với đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề tình nguyện làm việc lâu dài (trên 10 năm) ở lĩnh vực này. Đó chính là những biện pháp để đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Bởi vì, rõ ràng rằng máy móc, thiết bị hiện đại, khoa học công nghệ tiên tiến chỉ có thể phát huy tác dụng tích cực và đem lại hiệu quả cao khi được con người biết sử dụng và sử dụng hợp lý. Đó là tiền đề quan trọng để thực hiện chuyển đổi sản xuất nông nghiệp sang kinh tế hàng hoá và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Thực hiện phổ cập thông tin khoa học kỹ thuật và thông tin thị trường đến các huyện, xã, thôn thông qua hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, qua loa truyền thanh của xã, thôn, qua các cuộc gặp mặt nói chuyện ở trung tâm văn hóa xã... Đó là những giải pháp rẻ tiền, hiệu quả và có tính khả thi rất thuận lợi cho việc phổ cập kiến thức kinh tế và khoa học - kỹ thuật đến hộ sản xuất nông nghiệp cũng như hộ ngành nghề và dịch vụ ở nông thôn. Nhà nước cần dành kinh phí thỏa đáng để biên soạn, cung cấp các tài liệu hướng dẫn kỹ thuật phục vụ nông nghiệp, nông thôn đến các trung tâm văn hoá xã, thôn. Làm tốt biện pháp này sẽ khắc phục được sự bất cập về "đói" thông tin khoa học - công nghệ và thông tin thị trường ở nông thôn hiện nay. Phát triển công nghiệp chế biến giải quyết đầu ra cho hàng nông sản và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Một thực tế đã xảy ra ở Việt Nam trong những năm qua là người nông dân được mùa mà không vui, thu hoạch tăng mà vẵn nghèo túng, số lượng sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu lớn song giá trị kim ngạch xuất khẩu không cao do sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là sản phẩm thô chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế. Để khắc phục tình trạng này cần đẩy mạnh sự phát triển của công nghiệp chế biến hàng nông sản. Sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến hàng nông sản sẽ tác động đến thị trường đầu ra và vì vậy nó sẽ tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, làm thay đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Việc phát triển công nghiệp chế biến gắn với các quy hoạch tổng quan của Nhà nước sẽ đảm bảo sản phẩm đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, giải quyết đầu ra cho sản xuất và vì vậy sẽ góp phần đem lại thành công cho quá trình chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi theo đúng định hướng, đúng quy hoạch của Nhà nước. Hiện nay, tỷ trọng công nghiệp chế biến một số hàng nông sản so với nguyên liệu hiện có còn thấp như mía đường 30%, chè 55%, rau quả 5%, thịt xuất khẩu 1%. Tỷ lệ thất thoát ở khâu thu hoạch và sau thu hoạch lớn (lương thực 13-15%, rau quả 15-20%) [26]. Công nghiệp chế biến chưa phát triển rộng về quy mô để đáp ứng sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, thêm vào đó hiệu quả chế biến còn chưa cao, chất lượng sản phẩm chế biến kém, mặt hàng còn đơn điệu, mẫu mã chưa hấp dẫn nên khả năng cạnh tranh thấp. Tất cả những điều đó làm cho chi phí sản xuất của nông dân tăng lên, công nghiệp chế biến, bảo quản sau thu hoạch chưa tốt nên không giữ được hàng, người sản xuất buộc phải bán hàng ngay cả khi giá cả giảm mạnh (tình trạng thường xảy ra khi được mùa), còn trên thị trường xuất khẩu thì hàng bán bị trả lại, giá bán thấp (bình quân giá sản phẩm chế biến xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn các nước trong khu vực 10-15%, chưa nói đến các nước phát triển). Vì vậy, để tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, cần phải phát triển công nghiệp chế biến. Sự phát triển công nghiệp chế biến trước hết cần tập trung vào những mặt hàng chủ yếu trong quy hoạch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu cây trồng - vật nuôi đồng thời gắn với các vùng sản xuất tập trung. Các vùng sản xuất theo quy hoạch sẽ là nơi cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến, đảm bảo đầu vào cho các nhà máy này. Để nâng cao chất lượng cho sản phẩm chế biến, nâng cao sức cạnh tranh, cần phải mạnh dạn đầu tư cho các nhà máy công nghệ và thiết bị hiện đại, đặc biệt đối với một số sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như cà phê, gạo, cao su, điều, đồng thời cũng cần ưu tiên đầu tư để phát triển các ngành công nghiệp chế biến ngô, rau quả, nước giải khát, chăn nuôi - là những ngành có khả năng có thị trường lớn trong tương lai. Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong thời kỳ quá độ hiện nay của Việt Nam, để huy động tối đa mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế đất nước cần phải phát triển kinh tế nhiều thành phần. Trong lĩnh vực nông nghiệp cũng vậy, việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế càng trở nên cần thiết, các thành phần kinh tế sẽ hỗ trợ cho nhau trong sản xuất và tiêu thụ nông sản. Hiện nay, việc huy động các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn hạn chế, vì vậy trong sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam, hộ gia đình quy mô nhỏ là đơn vị chủ yếu sản xuất và cung cấp nông sản. Hộ gia đình gần như đảm nhiệm tất cả các khâu từ làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản, tiêu thụ. Với năng lực hạn chế, vốn ít, trình độ có hạn, cơ sở vật chất thô sơ nên chất lượng sản phẩm hạn chế và không đều, sản xuất quy mô nhỏ, manh mún, tự túc. Các hợp tác xã số lượng ít và quy mô cũng rất nhỏ, phần lớn lại hoạt động không hiệu quả, các hợp tác xã dịch vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của các hộ gia đình; khả năng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp rất hạn chế. Vì vậy, để tăng cường hiệu quả sản xuất nông nghiệp, góp phần thực hiện thành công định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, cần phát triển kinh tế nhiều thành phần theo hướng: Thứ nhất, đối với doanh nghiệp nhà nước, cần tiếp tục đổi mới hoàn thiện hình thức tổ chức của doanh nghiệp nhà nước để các nông trường quốc doanh trở thành trung tâm dịch vụ và chuyển giao công nghệ cho các hộ nông dân, các doanh nghiệp nhà nước thì có đủ năng lực giữ vai trò chủ đạo về công nghệ chế biến, sử dụng có hiệu quả cơ sở kỹ thuật và tiền vốn, vươn lên trở thành trung tâm công nghệ, hướng dẫn hợp tác xã, hộ gia đình trong vùng phát triển công nghiệp chế biến, đồng thời là thị trường tiêu thụ nông sản ổn định cho các hộ gia đình. Thứ hai, đối với các hợp tác xã, cần củng cố và phát triển mạnh các hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ kiểu mới cho kinh tế hộ, từ đó tạo nên mối quan hệ gắn bó giữa hợp tác xã nông nghiệp với hộ nông dân tự chủ theo các hợp đồng kinh tế là chủ yếu. Để làm được điều này, trước hết cần tiếp tục củng cố và phát huy vai trò tích cực, tính ưu việt của các hợp tác xã khá, khắc phục dần nhiều mặt yếu kém của các hợp tác xã trung bình hoặc yếu bằng các biện pháp phù hợp như đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, miễn các loại thuế và phí, tạo nguồn vốn cho các hoạt động dịch vụ bằng chính sách tín dụng với lãi suất ưu đãi ở những địa phương có điều kiện tiếp tục thành lập mới và chuyển đổi hợp tác kiểu cũ theo Luật Hợp tác xã. Một yêu cầu cơ bản đối với hợp tác xã cung ứng dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp cho các hộ là chất lượng dịch vụ và hiệu quả của các hợp tác xã kiểu mới phải cao hơn dịch vụ tư nhân hoặc kinh tế hộ tự làm. Có như vậy, hộ gia đình mới sử dụng dịch vụ của hợp tác xã cung ứng, sản xuất được chuyên môn hóa tạo điều kiện nâng cao hiệu quả sản xuất. Tuy nhiên, vấn đề cụ thể hiện nay còn vướng mắc là việc chuyển đổi phương thức sản xuất từ nhỏ lẻ, phi tập trung sang tập trung theo mô hình tập thể, hợp tác xã lại đang gặp vướng mắc lớn về vấn đề vốn. Để mở rộng và phát triển các hoạt động dịch vụ, các hợp tác xã nông nghiệp cần nhiều vốn, nhất là vốn lưu động. Thế nhưng, theo Luật Hợp tác xã nguồn vốn này chủ yếu hình thành từ vốn cổ phần do xã viên đóng góp và thực tế thì nguồn vốn góp cổ phần này rất hạn chế. Do vậy, sẽ hiệu quả hơn nếu Nhà nước sớm có cơ chế và chính sách đầu tư, tín dụng tích cực để hỗ trợ các hợp tác xã nông nghiệp thực hiện tốt chức năng dịch vụ cho kinh tế hộ nông dân trong quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Trên cơ sở củng cố và phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới, các ngành, các địa phương cần tạo điều kiện để giúp các hộ nông thôn thực hiện quy hoạch sản xuất và dịch vụ theo định hướng của Nhà nước. Thứ ba, khuyến khích kinh tế trang trại phát triển mạnh. Kinh tế trang trại là hình thức tổ chức sản xuất tương đối mới ở Việt Nam (mới xuất hiện khoảng hơn 10 năm), so với kinh tế hộ, kinh tế trang trại có quy mô sản xuất (vốn, lao động, đất đai) lớn, có xu hướng chuyên môn hóa sản xuất cao, sử dụng công nghệ hiện đại hơn và được tổ chức quản lý tiên tiến, vì vậy sản phẩm của các trang trại thường có chất lượng cao hơn, khả năng cạnh tranh tốt hơn, đặc biệt trên thị trường xuất khẩu. Hơn 10 năm qua, kinh tế trang trại đã có đóng góp đáng kể trong việc tăng sức sản xuất trong nông nghiệp. Nhận thấy vai trò tích cực của hình thức tổ chức sản xuất này, trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã có nhiều cơ chế, chính sách khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển, tuy nhiên, vấn đề sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của các trang trại còn nhiều khó khăn và bất cập, số lượng trang trại hiện có chưa nhiều, quy mô còn nhỏ, thiếu vốn, thiếu khoa học công nghệ, thiếu cơ sở pháp lý về đất đai đang sử dụng, thiếu thị trường... Vì vậy, để khuyến khích kinh tế trang trại phát triển, khắc phục tính manh mún, quy mô nhỏ trong sản xuất nông nghiệp, Nhà nước cần hỗ trợ kinh tế trang trại cả về cơ chế chính sách lẫn khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng. Đối với kinh tế hộ nông thôn - đơn vị kinh tế tự chủ và chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp, cần đổi mới phương thức tổ chức sản xuất cho phù hợp với yêu cầu sản xuất hàng hoá quy mô lớn, khắc phục tình trạng phân tán nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp, manh mún như hiện nay. Hộ nông dân mặc dù đã được trao quyền sử dụng đất lâu dài song quy mô đất được chia nhỏ, manh mún, phân tán nên đã cản trở quy trình tích tụ, tập trung ruộng đất theo yêu cầu sản xuất hàng hoá. Vì vậy, giải pháp trước mắt là thực hiện chủ trương "dồn điền đổi thửa” với sự quản lý và chỉ đạo thống nhất của Nhà nước, có đầu tư hỗ trợ kinh phí và kỹ thuật, khắc phục tính tự phát như hiện nay. Để làm việc này, ngành nông nghiệp và các bộ, ngành liên quan cần tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm để nhân rộng các mô hình tốt khắc phục mặt chưa tốt trong quá trình thực hiện “dồn điền đổi thửa”. Thứ tư, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp. Hiện nay, đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực nông nghiệp rất hạn chế. Nguyên nhân của tình trạng này là do sản xuất nông nghiệp luôn có nhiều rủi ro, lợi nhuận thấp và không ổn định, cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém nên thiếu hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Trong quá trình phát triển nông nghiệp, kinh nghiệm các nước châu Á và thực tế ở Việt Nam những năm đổi mới cho thấy quy mô và tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn phụ thuộc vào các yếu tố kết cấu hạ tầng ở nông thôn, nhất là đường giao thông, điện, nước, trạm trại nghiên cứu và thực nghiệm, thuỷ lợi, trình độ dân trí, giáo dục, đào tạo lao động lành nghề, khoa học công nghệ... Song tất cả các yếu tố đó đều đòi hỏi phải có vốn đầu tư để xây dựng mới, nâng cấp, hoàn thiện. Trong điều kiện vốn tích lũy trong nông thôn còn thấp, việc huy động nguồn vốn bên ngoài có vai trò chủ yếu. Vì vậy, để gia tăng vốn đầu tư trong nông nghiệp, cần huy động nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Để huy động được nguồn vốn này, cần có cơ chế, chính sách của Nhà nước thông thoáng và hấp đẫn đối với các nhà đầu tư, khuyến khích đầu tư thoả đáng như: giảm mạnh tiền thuê đất, đơn giản thủ tục hành chính, giảm thuế và phí. Các lĩnh vực cần tập trung khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nông nghiệp là xây dựng cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp, xây dựng các nhà máy chế biến và nghiên cứu, triển khai, ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất ... Việc phát triển các thành phần kinh tế sẽ góp phần phát triển một nền nông nghiệp toàn diện, chuyên môn hóa. Các thành phần kinh tế sẽ hỗ trợ cho nhau và có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành công quy hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của Nhà nước. Tổng kết và nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều Chỉ thị, Nghị quyết và các chính sách nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới văn minh hiện đại, song kết quả đạt được còn hạn chế. Khoảng cách giữa Nghị quyết và thực tế còn xa. Đó là một trong những bất cập lớn làm chậm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta trong 17 năm vừa qua. Vì vậy cần khắc phục sự bất cập giữa thực tiễn với chủ trương của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn nói chung, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng trong những năm đổi mới vừa qua. Một giải pháp cần thiết cho vấn đề này là nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, đồng thời uốn nắn xu hướng lệch lạc, bảo thủ của hộ nông dân. Thông qua tổng kết thực tiễn, Nhà nước cần có cơ chế và chính sách xây dựng, nhân rộng các mô hình tiên tiến về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn ở các vùng và các địa phương. Trong thời gian vừa qua, phong trào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã tạo nên nhiều mô hình tốt: nông trường Sông Hậu, công ty mía đường Lam Sơn, hợp tác xã nông nghiệp Trực Thái (Nam Định)... Ưu điểm của các mô hình này là tự lực đi lên không dựa vào sự bao cấp của Nhà nước. Vì vậy, nếu được nhân rộng, chắc chắn sẽ có tác dụng lan tỏa sang nhiều vùng và địa phương khác, góp phần đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đi đôi với việc tổng kết, nhân rộng các mô hình điển hình tiên tiến, cần tổng kết cả những mặt không tốt, phân tích sâu nguyên nhân chủ quan làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phê phán xu hướng bảo thủ, cục bộ, tự cấp, tự túc còn rất phổ biến ở nông thôn và các hộ nông dân, phê phán các địa phương, đơn vị không nghiêm túc thực hiện quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước, duy trì sản xuất tự cấp, tự túc, độc canh hoặc chuyển đổi cơ chế cây trồng tự phát, phá vỡ cân bằng sinh thái môi trường đất, nước, khí hậu, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. Trong việc tuyên truyền, vận dộng các hộ nông thôn về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cần vận dụng những phương pháp linh hoạt, cụ thể, sát với diều kiện đặc thù của từng vùng, từng địa phương, tránh rập khuôn, máy móc. Để làm tốt giải pháp này, các cơ quan tuyên truyền ở các cấp có vai trò rất quan trọng trong việc biên soạn, phổ biến tài liệu tới từng địa bàn dân cư và từng hộ nông thôn. Đổi mới chính sâch và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Để nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp và để chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo hướng có lợi, vai trò của Nhà nước là quan trọng. Suy đến cùng, các giải pháp nêu trên nhằm khắc phục những bất cập trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay đều liên quan đến cơ chế và chính sách của Nhà nước. Các cơ chế, chính sách của Nhà nước có tác động lớn đến tính khả thi của từng giải pháp riêng biệt cũng như hệ thống các giải pháp. Vì vậy, việc tăng cường vai trò của Nhà nước trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa quyết định. Khái quát lại, trong giai đoạn hiện nay, để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả, trước hết Nhà nước cần tạo các điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp nói chung như tăng cường đầu tư cho nông nghiệp (đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn, đầu tư cho thủy lợi, cho nghiên cứu khoa học- công nghệ), rà soát lại các cơ chế và chính sách đã ban hành (chính sách về đất đai, về thuế và lệ phí, về đầu tư và cho vay, về tiêu thụ nông sản, về ngành nghề và dịch vụ nông thôn) để bổ sung hoàn thiện nó phù hợp với yêu cầu và điều kiện hiện nay; hoàn thiện cơ chế chính sách vĩ mô nhằm thu hút mạnh mẽ mọi nguồn vốn trong nước và vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp, nông thôn và trên hết Nhà nước phải lập được quy hoạch tổng thể phát triển các ngành, các vùng trong từng giai đoạn nhất định cũng như xây dựng các biện pháp cụ thể để thực hiện chiến lược đó. * * * Trên đây là một số giải pháp chủ yếu được xây dựng nhằm khắc phục những bất cập trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp thời gian qua, đồng thời tạo điều kiện để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo định hướng nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp trong thời gian tới. Để có được hiệu quả, các giải pháp cần phải được thực hiện đồng bộ, hỗ trợ cho nhau, đồng thời cần có sự kết hợp thực hiện từ trung ương đến từng địa phương và từng hộ sản xuất, trong đó Nhà nước có vai trò quan trọng. KẾT LUẬN Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ lâu. Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp như thế nào cho có hiệu quả và bằng những biện pháp gì để thực chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo định hướng đã và đang là bài toán khó đối với Việt Nam. Để giải được bài toán đó cần phải có những cơ sở khoa học cả về lý luận và thực tiễn cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Với mục đích góp phần xây dựng cơ sở cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng hiệu quả, đề tài đã đề cập đến những vấn đề sau: Thứ nhất, hệ thống hóa và phân tích một số luận điểm cơ bản về cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp, trong đó có phân tích về đặc trưng của cơ cấu kinh tế cũng như các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, đặc trưng của cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp và một số vấn đề mang tính nguyên tắc trong việc Nhà nước chủ động tác động vào cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp theo định hướng; đồng thời đề tài cũng đề cập đến xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một số nước trong khu vực đã từng có xuất phát điểm tương đồng với Việt Nam và hiện nay đã trở thành những nước có nền nông nghiệp tiên tiến, qua đó rút ra bài học về kinh nghiệm thành công cũng như các vấn đề cần lưu ý trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp. Thứ ba, phân tích thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp của Việt Nam từ 1986 đến nay. Việc nghiên cứu về thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên nhiều mặt cho thấy từ sau đổi mới cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp đã có những chuyển biến theo xu hướng tích cực: các ngành có giá trị kinh tế cao dần tăng tỷ trọng, cơ cấu kinh tế được mở rộng và ngày càng hoàn thiện theo hướng hợp lý, hiện đại, xóa dần thế độc canh, tiến tới đa dạng hóa sản phẩm và ngày càng gắn nhiều hơn với thị trường nên đã làm cho nông nghiệp Việt Nam thu được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp vẫn còn tồn tại nhiều bất cập: cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp vẫn nghiêng nặng về trồng trọt, chuyển dịch chậm, mang nặng tính độc canh, tự cấp, tự phát, phân tán và quy mô nhỏ. Trong nhiều ngành sản phẩm thường xuất hiện tình trạng mất cân đối giữa cung và cầu, giữa thực trạng phát triển và tiềm năng... Thứ tư, qua việc phân tích thực trạng cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp ở Việt Nam và từ việc tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến những bất cập còn tồn tại trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đồng thời trên cơ sở những vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, có kết hợp tham khảo kinh nghiệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp của một số nước trong khu vực, luận văn đã đề xuất bảy giải pháp chủ yếu cả trên bình diện vĩ mô và vi mô: Một là, xây dựng các quy hoạch tổng quan phát triển các ngành sản xuất chủ yếu của ngành nông nghiệp. Hai là, củng cố và mở rộng thị trường cho hàng nông sản, đặc biệt quan tâm đến thị trường xuất khẩu. Ba là, tăng cường hoạt động chuyển giao công nghệ, đẩy nhanh ứng dụng những thành tựu của khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Bốn là, phát triển công nghiệp chế biến giải quyết đầu ra cho hàng nông sản và nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm nông nghiệp. Năm là, khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển kinh tế nhiều thành phần. Sáu là, tổng kết và nhân rộng các mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp có hiệu quả. Bảy là, đổi mới chính sâch và tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với nông nghiệp nói chung và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng. Các giải pháp trên có mối liên hệ với nhau, giải pháp này hỗ trợ giải pháp kia. Vì vậy, để thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng có hiệu quả nhất, các giải pháp cần phải được thực hiện đồng bộ, hỗ trợ cho nhau, đồng thời cần có sự kết hợp thực hiện của các cấp, các ngành từ trung ương đến từng địa phương và từng hộ sản xuất, trong đó Nhà nước có vai trò quan trọng. Do hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, cũng như số liệu thống kê của Việt Nam về những tiểu ngành còn hạn chế, chưa chi tiết và chưa đầy đủ nên ở một số cơ cấu nhóm ngành hay ngành sản phẩm không thể có được phân tích về sự di chuyển lao động và cơ cấu đầu tư hay cơ cấu thu nhập của mỗi ngành trong suốt thời kỳ đổi mới. Vì vậy, đối với những nhóm cơ cấu này, luận văn mới chỉ dừng lại ở việc phân tích định tính, trên cơ sở cơ cấu giá trị tổng sản lượng, cơ cấu diện tích và trong tương quan so sánh với khả năng cung ứng các yếu tố đầu vào và khả năng tiêu thụ của thị trường. Đồng thời, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả mới chỉ đề cập đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp trên phạm vi cả nước, chưa gắn với chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Đây là những vấn đề quan trọng cũng cần phải được tiếp tục nghiên cứu để có được những giải pháp đồng bộ và cụ thể nhằm tạo khả năng tăng trưởng cao cho nông nghiệp, góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Thị Vân Anh, Một số giải pháp kinh tế- tài chính thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 1/2003. Lê Quốc Sử, Chuyển dịch cơ cấu và xu hướng phát triển của kinh tế nông nghiệp Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ thế kỷ XX đến thế kỷ XXI trong thời đại kinh tế tri thức, NXB Thống Kê, Hà Nội, 2001. Lê Đình Thắng chủ biên, Chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn sau Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998. Lê Đình Thắng, Những giải pháp cơ bản nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ chè của Việt Nam, Đề tài nghiên cứu cấp bộ - Hà Nội, 1997. Nguyễn Sinh Cúc, Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Thống kê, Hà nội 2003 Nguyễn Sinh Cúc, Lê Mạnh Hùng, Hoàng Vĩnh Lê, Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Thống kê, Hà nội, 1998. Nguyễn Đình Long, Nguyễn Tiến Mạnh, Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn vùng sinh thái bán sơn địa - Trung du phía Bắc, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1996. Nguyễn Xuân Long, Lê Quang Chút, Phát triển cà phê vùng Duyên hải Nam Trung Bộ: Thuận lợi, khó khăn, và những giải pháp chủ yếu để mở rộng diện tích, Tạp chí Nông nghiệp công nghiệp thực phẩm, số 5 /1997. Nguyễn Thế Nhã, Bản chất và nội dung của cơ cấu kinh tế nông thôn, Đổi mới và phát triển nông nghiệp nông thôn, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 1996. Nguyễn Thế Nhã, Phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thập niên đầu thế kỷ 21, Tạp chí Kinh tế phát triển, Số 41/2000. Nguyễn Đình Phan, Phát triển công nghiệp nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Tạp chí Kinh tế phát triển, Số 41/2000. Ban Tư tưởng - văn hóa Trung ương, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam. NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Báo cáo thúc đẩy tiêu thụ nông sản hàng hóa để phát triển sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, Hà Nội, 2000. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn trong CNH, HĐH thời kỳ 2001-2010, Bộ Thương mại, DA VIE 95/024/A/01/09 Phát triển năng lực vì sự hội nhập có hiệu quả: Tổng quan về ngành Nông nghiệp Việt nam: tác động của hiệp định WTO về nông nghiệp. Đại học Tài chính: Các giải pháp tài chính mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản hàng hóa, NXB Tài chính, Hà Nội, 2003. Kinh tế 1999-2000 Việt Nam và Thế giới, Thời báo kinh tế Việt Nam (tập san năm 2000), Lịch sử Nông nghiệp Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nôi, 1994. Ngân hàng Thế giới, Bước vào Thế kỷ 21, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. Nông dân, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Nông nghiệp, Hà Nội, 2001. Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc, DA UNDP/FAO VIE 98/019. 08, Kế hoạch tổng thể nghiên cứu nông nghiệp Việt Nam, Hà Nội 2001, Trung tâm châu Á- Thái Bình Dương, Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nôi, 1998. UNDP, Việt Nam hướng tới 2010, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001. Vấn đề đa canh hoá trong sản xuất nông nghiệp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII. NXB chính trị quốc gia, Hà Nội năm Viện Nghiên cứu chính sách lương thực quốc tế, Ngành rau quả ở Việt Nam: tăng giá trị từ khâu sản xuất đến khâu tiêu dùng, Hà Nội 2002. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Kinh tế Việt Nam các năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002, 2003. Viện Qui hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ NN & PTNT, Nông nghiệp các nước đang phát triển hướng tới năm 2010 và số liệu cơ bản nông nghiệp các nước ASEAN, Hà Nội, 2000. Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp - Bộ NN & PTNT, Phát triển nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chiến lược phát triển 2001- 2010 - Phần dự báo thị trường và phát triển các ngành sản xuất hàng hóa, Hà Nội, 1999. Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp - Bộ NN & PTNT, Tình hình phát triển nông nghiệp các nước Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Philippin - tài liệu tham khảo, Hà Nội, 2000. Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp- Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Nông nghiệp Việt Nam 61 tỉnh, thành phố, NXB Nông nghiệp 2001 Vụ Kế hoạch và quy hoạch - Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bảng cân đối lương thực - thực phẩm Việt Nam 1997 - 2001, Hà Nội, 2002. Vụ kinh tế địa phương và lãnh thổ - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thông tin về chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng thời kỳ 1990-2000, Hà Nội 2000.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37195.doc
Tài liệu liên quan