Hiện nay tình hình môi trường trong Làng nghề đang ở mức độ rất nghiêm trọng vì vậy mà phát triển sản xuất kinh doanh trong Làng nghề cần gắn liền với việc bảo vệ môi trường. Do đó cần phải thực hiện các biện pháp sau:
- Xây dựng khu sản xuất tập trung, di chuyển sản xuất ra khỏi khu dân cư
- Đưa máy móc vào sản xuất thay thế sản xuất thủ công
- Có các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở mức độ ít nhất.
Vừa rồi em đã trình bày xong tóm tắt bài luận văn của mình, em xin cảm ơn các thầy các cô cùng toàn thể các bạn đã quan tâm theo dõi. Do trình độ còn nhiều hạn chế bài luận văn không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để bài luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
99 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và các giải pháp chủ yếu phát triển làng nghề truyền thống Đại Bái tỉnh Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
triển công nghiệp TTCN của tỉnh, của từng địa phương. Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của từng làng nghề cần xây dựng quy hoach chi tiết về khu dân cư, khu sản xuất, quy hoạch về cơ sở hạ tầng như điện, nước, giao thông…Sở công nghiệp phối hợp với các ngành địa chính giao thông, thương mại, du lịch… và các huyện thị xây dựng quy hoạch một số làng nghề, ngành nghề công nghiệp TTCN theo hướng phát triển kinh tế của tỉnh. Sở xây dựng phối hợp với các ngành có liên quan hướng dẫn làng nghề trong quy hoạch xây dựng làng nông thôn mới.
Đối với làng nghề Đại Bái, do trước đây việc sản xuất của các cơ sở trong làng nghề được phân bố xen kẽ lẫn các khu dân cư nên việc sản xuất và tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, không những thế còn ảnh hưởng tới sức khoẻ và đời sống của người của người dân trong làng đồng thời còn ảnh hưởng đến cơ sở hạ tầng trong làng.
Đứng trước những bất lợi trên, giải pháp hợp lý nhất đối với việc phát triển làng nghề nói chung và làng Đại Bái nói riêng là xây dựng quy hoạch mặt bằng sản xuất cho làng nghề, việc quy hoạch đó mang lại hiệu quả rất lớn không chỉ về mặt kinh tế mà còn cả về mặt xã hội.
Triển khai, thực hiện nghị quyết của tỉnh uỷ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của huyện uỷ, UBND huyện Gia Bình, chi bộ thôn Đại Bái đã ra nghị quyết về tiến hành xây dựng chi tiết cụm sản xuất công nghiệp tập trung và dành quỹ đất cho việc quy hoạch.
Căn cứ vào quỹ đất hiện có của xã,của làng Đại Bái trên cơ sở xem xét các điều kiện cần thiết đối với việc xây dựng các cụm công nghiệp tập trung. Sau khi thống nhất với Sở công nghiệp tỉnh, nhất trí việc lựa chọn khu Bắc Đồng Đoan với tổng diện tích khoảng 4,5 ha (trong đó đã chuyển đổi mục đích cho dân cư 0,2 ha) để xây dựng cụm sản xuất công nghiệp tập trung của làng nghề. Quá trình triển khai thực hiện sẽ phân đợt đầu tư, chuyển đổi dần diện tích đất nông nghiệp sang mục đích sản xuất công nghiệp. Để thực hiện phương án này thì cần giải quyết một số vấn đề như: Giải quyết triệt để diện tích sử dụng 4,5 ha dùng vào làm nghề bằng cách chia cho các hộ có diện tích bị cắt làm khu sản xuất vào các diện tích khác ở phần 5% quỹ đất của làng. Đối với các hộ có diện tích nhà ở trên khu đất đó thì có sự thoả thuận với chính quyền thôn để có sự đền bù thoả đáng.
Quy hoạch để tách ra khỏi khu dân cư cần phù hợp riêng với từng đặc điểm của từng làng, từng nghề. Nhìn chung chỉ nên thực hiện ở những khâu, những công đoạn sản xuất mang tính chuyên môn nói chung như những giai đoạn sản xuất mang tính công nghiệp, các dây truyền sản xuất dựa trên máy móc thiết bị. Còn ở những khâu những chi tiết cụ thể, nhỏ lẻ có thể làm bằng phương pháp thủ công, không ảnh hưởng đến môi trường, sức khoẻ thì vẫn đưa về từng gia đình để phù hợp với từng điều kiện và tập quán sản xuất trong làng nghề. Những vấn đề nêu trên được sự ủng hộ rất lớn của nhân dân trong làng vì vậy mà cần nhanh chóng hình thành khu công nghiệp sản xuất tập trung.
Lập quy hoạch, kế hoạch cho phát triển làng nghề truyền thống là biện pháp hết sức quan trọng trong việc sắp sếp, bố trí khu dân cư, nhà cửa, công xưởng, nguyên vật liệu… vừa đảm bảo cho việc lưu thông hàng hoá nhưng phải bảo vệ được cảnh quan môi trường sinh thái và môi trường sống trong lành cho khu vực dân cư của từng làng nghề, đây là vấn đề rất lớn và rất bức xúc cần phải giải quyết ngay. Chính quyền địa phương cần phải khẩn chương tiến hành việc ngiên cứu, quy hoạch khu dân cư, khu sản xuất sao cho vừa hiện đại, vừa văn minh và đảm bảo cuộc sống hài hoà, môi trường không bị ô nhiễm, kế hoạch cụ thể phải được tính toán kỹ lưỡng và có bước đi thích hợp không gây sáo trộn làm ảnh hưởng tới sản xuất cũng như đời sống của người lao động trong làng nghề.
2. Mở rộng và phát triển đồng bộ thị trường cho làng nghề.
Đối với các làng nghề, thị trường là vấn đề sống còn, nó quyết định sự tồn tại phát triển hay suy vong của làng nghề. Thực trạng phát triển làng nghề cho thấy, những cơ sở nào tồn tại và phát triển mạnh đều giải quyết được vấn đề đầu vào và đầu ra cho sản phẩm. Sự biến động thăng trầm của làng nghề phần lớn do nhu cầu của thị trường quyết định.
Đồng bộ hoá các chính sách thị trường nhằm thúc đẩy và phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ có vai trò rất quan trọng. Các chính sách thị trường chỉ có trên cơ sở tác động hỗ trợ để khắc phục những bất lợi hiện nay của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề mới có khả năng xác lập lại thế cân bằng trong cạnh tranh. Sự phát triển và hoàn thiện các loại thị trường và cơ chế thị trường sẽ là điều kiện cơ bản cho việc tạo lập một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, hạn chế những khó khăn rủi ro không đáng có.
Thị trường cung cấp nguyên vật liệu cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng Đại Bái phần lớn là thị trường địa phương, thị trường tại chỗ, gắn bó với tài nguyên, các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp và những phế thải, phế liệu ở nông thôn như đồ dùng bằng nhôm, đồng đã cũ hỏng trong các gia đình hoặc các vật dụng, đồ dùng, máy móc thiết bị đã cũ hỏng trong các nhà máy....Vì thế mà nguyên vật liệu cung cấp cho làng nghề Đại Bái phần lớn là do mua đứt bán đoạn của những người thu gom đồng lát, hoặc của những người bán lẻ…Vì vậy mà nguyên vật liệu cung cấp cho làng nghề chưa đảm bảo chất lượng, cũng có khi lượng cung nguyên vật liệu không đủ cung cấp cho nhu cầu sản xuất của làng nghề, làm cho việc sản xuất bị gián đoạn, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự tồn tại và phát triển của làng nghề. Do đó mà nhà nước, tỉnh và các cấp có thẩm quyền cần phải có chính sách giải quyết nguyên vật liệu đầu vào cho làng nghề nói chung và làng nghề Đại Bái nói riêng như.
+ Hình thành các trung tâm thu mua nguyên vật liệu.
+ Quy định mức giá chung, cụ thể đối với từng loại nguyên vật liệu.
+ Hỗ trợ các cơ sở sản xuất, tạo cho họ có một lượng vốn lưu động nhất định để có thể thu mua nguyên vật liệu nhằm tránh sự gián đoạn của quá trình sản xuất...
Thị trường tiêu thụ sản phẩm có ưu thế đối với việc sản xuất kinh doanh trong làng nghề, trước hết là thị trường “ngách”, các thị trường nhỏ lẻ, phân tán, thị trường địa phương, thị trường tại chỗ, thị trường nông thôn và thị trường các khu đô thị nhỏ…đó là các thị trường có quy mô rất lớn, song trên thực tế còn hạn chế rất nhiều về sức mua của các tầng lớp dân cư ở các thị trường nông thôn, địa phương, tại chỗ còn rất hạn chế. Cho nên các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề đã và đang phải nhìn tới thị trường các điạ bàn, địa phương khác, đặc biệt là thị trường xuất khẩu.
Trong những năm gần đây sản phẩm của làng nghề đã được xuất khẩu ra một số nước trên thế giới như Trung Quốc, Đài Loan…Tuy giá trị xuất khẩu mới chỉ đạt 5% tổng giá trị sản phẩm tiêu thụ nhưng đây là sự mở đầu mới cho sự phát triển của thị trường của làng nghề. Để tìm kiếm và chiếm lĩnh được nhiều thị trường, đặc biệt là phải ổn định thị trường trong nước và vươn tới thị trường nước ngoài thì làng nghề cần phải giữ uy tín trong việc sản xuất kinh doanh, đảm bảo chất lượng và giá thành sản phẩm.
Trong làng nghề Đại Bái chỉ tồn tại hai loại hình sản xuất đó là hợp tác xã và hộ kinh doanh cá thể do vậy mà trình độ và khả năng tiếp cận thị trường của các cơ sở sản xuất trong làng nghề hiện rất yếu kém. Các cơ sở sản xuất không có bộ phận chuyên trách về thu nhập và sử lý thông tin, kể cả thông tin liên quan đến thị trường và sản phẩm mà cơ sở đang tiến hành sản xuất.
Nguồn vốn kinh doanh của cơ sở có hạn cho nên không đủ kinh phí để mua sắm thiết bị và chi phí phục vụ hoạt động tiếp cận, thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh chóng. Do vậy, các cấp có thẩm quyền cần tiến hành hỗ trợ các cơ sở sản xuất trong làng nghề trong việc tìm kiếm và mở rộng thị trường, giúp cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề làm tốt thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá.
Đồng thời còn có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho mọi tổ chức cá nhân quan tâm trú trọng đến công tác tiếp thị (tạo ra mẫu mã hàng hoá, chào hàng và kí các hợp đồng xuất khẩu), cần thành lập trung tâm thu mua sản phẩm cho các cơ sở sản xuất để giảm những khâu trung gian không cần thiết làm giảm bớt tổn hại cho người sản xuất.
Để mở rộng thị trường trong nước, nhà nước và chính quyền địa phương cần có chính sách và biện pháp tác động tạo điều kiện cho nhân dân ngày càng nâng cao thu nhập, làm tăng sức mua của nhân dân. áp dụng các biện pháp tích cực ngăn chặn hàng nhập lậu, khuyến khích tiêu dùng hàng trong nước. Phát triển mạnh các trung tâm thương mại, chợ nông thôn nhằm trưng bày và giới thiệu sản phẩm. Tạo ra mối quan hệ giữa các cơ sở sản xuất trong làng nghề với các doanh nghiệp lớn của nhà nước, trong đó các doanh nghiệp này sẽ đứng ra thu mua, bao tiêu sản phẩm cho các cơ sở sản xuất trong làng nghề trên cơ sở hợp tác đôi bên cung có lợi. Khuyến khích thành lập các hiệp hội ngay trong làng nghề, vì thông qua tổ chức này, các cơ sở sản xuất, người thợ có thể cung cấp thông tin về kinh tế kỹ thuật, công nghệ, thị trường, giá cả, thị hiếu, mẫu mã và chất lượng sản phẩm… tạo ra sự hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
3. Thực hiện các chính sách, biện pháp giúp đỡ hỗ trợ, đổi mới công nghệ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề một cách tích cực và có hiệu quả.
Một trong những thế bất lợi của sản xuất kinh doanh trong làng nghề là trình độ thiết bị công nghệ cơ bản còn lạc hậu, còn mang tính thủ công và máy móc đơn giản là chủ yếu, cho nên năng suất, chất lượng làm ra thường thấp kém. Trong điều kiện hiện nay khi cơ chế thị trường phát triển và công cuộc CNH- HĐH đất nước, tất yếu đòi hỏi phải đổi mới trang thiết bị, công nghệ trong làng nghề. Chỉ có đổi mới công nghệ sản xuất mới giúp cho làng nghề nâng cao được năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, mới giúp cho làng nghề đứng vững và cạnh tranh được với hàng công nghiệp hiện đại ở trong và ngoài nước đồng thời còn làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Chủ trương “Hiện đại hoá công nghệ truyền thống, truyền thống hoá công nghệ hiện đại” mà nghị quyết đại hội trung ương lần thứ 5 khoá VII nêu ra có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt. Nó đáp ứng nguyên tắc đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ giữa tính truyền thống với tính hiện đại trong làng nghề. Tính truyền thống nó không chỉ mang một phong cách của nghề thủ công mà còn mang giá trị sắc thái đặc trưng cho mỗi làng nghề riêng biệt. Nhưng chỉ có yếu tố truyền thống thì sản phẩm làm ra chắc chắn sẽ không đáp ứng được yêu cầu của người sản xuất và người tiêu dùng, vì đối với bất kỳ một người thợ nào thì ngoài việc đồn hết tâm huyết của mình đối với nghề họ còn mong muốn thu được một khoản lợi nhuận thích hợp với công sức mà họ bỏ ra. Còn đối với người tiêu dùng, nếu mua sản phẩm hoàn toàn mang tính chất thủ công truyền thống thì cũng sẽ không đáp ứng được yêu cầu của họ, vì sản phẩm này chắc chắn sẽ không đáp ứng được con mắt thẩm mỹ của người tiêu dùng và hơn nữa có thể giá trị của nó quá đắt. Vì vậy mà cần có sự kết hợp giữa yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại thì mới tạo ra năng suất chất lượng sản phẩm tốt, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng.
Đối với làng nghề Đại Bái, do các sơ sở sản xuất chủ yếu là hộ gia đình cá thể, nên việc đầu tư đưa máy móc, công nghệ kỹ thuật vào sản xuất là một công việc rất khó khăn, do vậy rất cần có sự quan tâm của chính quyền trong việc đầu tư công nghệ vào sản xuất nhằm tạo ra khối lượng sản phẩm ngày càng đa dạng và tạo điều kiện cho làng nghề ngày càng phát triển.
Hơn nữa, do các cơ sở sản xuất là hộ gia đình cá thể nên vốn ít, trình độ quản lý kinh doanh của các chủ doanh nghiệp và trình độ kỹ năng tay nghề của người lao động, khả năng nắm bắt và xử lý các nguồn thông tin còn hạn chế…cho nên bản thân sự đổi mới thiết bị, hiện đại hoá thiết bị công nghệ của các cơ sở sản xuất trong làng nghề rất cần có sự giúp đỡ đắc lực và có hiệu quả từ các cơ quan tổ chức, bên ngoài các cơ sở sản xuất kinh doanh mà quan trọng nhất là từ phía nhà nước.
4. Đổi mới chính sách tài chính, tín dụng nhằm hỗ trợ, tạo lập và tăng cường vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề.
Chính sách tài chính, tín dụng là một bộ phận hữu cơ không thể tách rời của chính sách kinh tế xã hội. Nó là cơ sở để hình thành thị trường vốn, thực hiện các biện pháp nhằm đảm bảo sự công bằng, hoặc hỗ trợ vốn, tín dụng ưu đãi về thuế của các cấp chính quyền nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh.
Mặc dù yêu cầu về vốn cho sản xuất của các cơ sở trong làng nghề không phải là lớn, nhưng với quy mô sản xuất nhỏ, nguồn vốn hạn hẹp cho nên các cơ sở thường gặp khó khăn về vốn trong việc đầu tư trang thiết bị và công nghệ đầu tư mới. Ví dụ một chiếc máy cán dát có giá trị từ 80- 100 triệu đồng, có năng suất cao hơn gấp 100 lần người thợ gò trong làng làm theo cách thủ công, vì vậy làng nghề cần được nhà nước hỗ trợ cho vay vốn để phát triển sản xuất kinh doanh, cần có sự đổi mới mạnh mẽ hơn nữa chính sách tài chính tín dụng của nhà nước.
Để mở rộng hệ thống tín dụng phục vụ cho các cơ sở sản xuất trong làng nghề nói riêng và các hộ nông dân trong nông thôn nói chung. Hàng năm các tỉnh, huyện nên có kế hoạch dành một lượng vốn đầu tư nhất định từ nguồn vốn đầu tư phát triển để cho vay với lãi suất ưu đãi cho các cơ sở sản xuất công nghiệp TTCN trong làng nghề mà thời gian đầu bước vào sản xuất còn gặp khó khăn về vốn. Các thủ tục cho vay vốn cũng cần được đơn giản hoá, tăng thời hạn cho vay lên tới 3- 5 năm là chủ yếu, tăng lượng vốn cho từng món vay của các ngân hàng, các quỹ tín dụng. Hiện nay các thủ tục để vay vốn khá nhiều bao gồm các thủ tục như làm sổ, xin dấu, có giấy xác nhận của chính quyền địa phương, có tài sản thế chấp... đòi hỏi mất nhiều thời gian, hơn nữa lượng vay vốn lại được ít mà trong thời gian ngắn hạn nên các cơ sở rất khó khăn trong việc hoàn trả vốn.
Để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn vay, các hộ gia đình cần được nâng cao chi thức về quản lý, các kiến thức về quản lý kinh doanh tiếp thị, tiếp cận thị trường, quản lý tài chính…nhằm đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh. Đồng thời trong quá trình cho vay vốn, hệ thống ngân hàng cũng cần phải tăng cường công tác kiểm tra các hộ gặp khó khăn vướng mắc trong quá trình triển khai công tác sản xuất và sử dụng đồng vốn, để phối hợp cùng khách hàng tháo gỡ những khó khăn sai phạm trong quá trình sử dụng nguồn vốn, giảm sự rủi ro và thất thoát vốn cho vay.
Hiện nay chúng ta đang từng bước cải thiện hệ thống chính sách thuế, nổi bật là thuế giá trị gia tăng thay cho thuế doanh thu và thuế thu nhập của doanh nghiệp, cùng với việc thực hiện luật thuế, chuyển quyền sử dụng đất đai với tinh thần giảm mức thuế suất được quốc hội khoá X thông qua tại kỳ họp thứ 6 đã có nhiều chuyển biến tích cực trong công tác thuế. Đối với Đại Bái thì chỉ có 3 HTX là phải đóng góp và nộp thuế cho nhà nước, còn các cơ sở sản xuất hộ gia đình thì không phải nộp thuế mà chỉ có những đóng góp nhất định cho địa phương trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng trong làng nghề. Với 3 HTX thì mức thuế nộp như vậy cũng còn cao, do vậy nhà nước cần có những chính sách thuế phù hợp để không ảnh hưởng tới việc sản xuất kinh doanh của làng nghề. Các biện pháp đưa ra như giảm thuế, nhất là đối với các mặt hàng xuất khẩu cần đơn giản hoá thủ tục, tạo điều kiện cho sản phẩm của làng nghề ngày càng được xuất khẩu nhiều hơn nữa.
5. Tích cực đào tạo kiến thức quản lý, bồi dưỡng nâng cao năng lực kinh doanh cho chủ sản xuất và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho người lao động trong làng nghề.
Đầu tư vào con người là loại đầu tư có hiệu quả nhất đối với mọi quốc gia trên thế giới. Phát triển và đào tạo nguồn nhân lực là một chính sách quan trọng có tính chiến lược, tình trạng yếu kém về kiến thức và năng lực quản lý kinh doanh của các cơ sở sản xuất, trình độ tay nghề thấp của người lao động và thiếu lao động lành nghề trong các làng nghề đòi hỏi phải tăng cường đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ chi thức quản lý, năng lực kinh doanh của chủ sản xuất và kỹ năng tay nghề của người lao động. Thực tế cho thấy, trong thời gian qua nhiều cơ sở sản xuất trong làng nghề được “bung ra”, đa số là kinh tế hộ gia đình với quy mô nhỏ bé, sức cạnh tranh yếu. Hơn nữa, hầu hết các chủ hộ đều có trình độ quản lý kinh doanh rất hạn chế, có ảnh hưởng đến hiệu quả, chất lượng sản xuất kinh doanh thấp, một số không ít các cơ sở sản xuất bị phá sản…Vì vậy mà nhà nước,chính quyền địa phương các cấp, các tổ chức cần kết hợp tổ chức đào tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các chủ hộ, các chủ HTX trong làng nghề về mặt học vấn, văn hoá, khoa học kỹ thuật và kiến thức quản trị doanh nghiệp. Khuyến khích họ mở rộng và phát triển quy mô nhằm đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Cách thức đào tạo có thể là các hình thức như:
+ Đào tạo tại các trung tâm, mở các lớp tập huấn ngắn hạn cho các chủ doanh nghiệp.
+ Đào tạo bồi dưỡng kiến thức thông qua hình thức mở các câu lạc bộ.
+ Đào tạo thông qua các trung tâm thông tin và tư vấn cho các chủ doanh nghiệp.
Đối với người thợ làm nghề có thể đào tạo bằng các hình thức như:
+ Dạy nghề theo lối truyền nghề vừa học, vừa làm trong một thời gian nhất định.
+ Tổ chức các hiệp hội nghề nghiệp, các lớp đào tạo về kỹ thuật, tay nghề và kiến thức quản lý có trình độ cao, nhằm đào tạo được nhiều người có trình độ sản xuất và kinh doanh giỏi, có khả năng tiếp cận nghề nhanh, làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất cũng như sự phát triển của làng. Để khuyến khích được người lao động nâng cao tay nghề thì nhà nước cũng cần có các chính sách như công nhận và chao tặng danh hiệu cao quý và phần thưởng xứng đáng cho những người sản xuất giỏi, những nhà kinh doanh có tài làm ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, xuất khẩu nhiều và những người có phát minh sáng chế, cải tiến máy móc, thiết bị công nghệ sản xuất góp phần tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm.
6. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong làng nghề.
Kết cấu hạ tầng là điều kiện và nhân tố quan trọng thúc đẩy quá trình sản xuất, trong làng nghề Đại Bái hiện nay kết cấu hạ tầng cũng đã được quan tâm đầu tư nhưng nhìn chung vẫn còn trong tình trạng thấp kém, lạc hậu. Tình trạng thiếu hụt, lạc hậu, yếu kém của hệ thống công trình giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp điện, cấp thoát nước, xử lý chất thải, vệ sinh môi trường, trường học, trạm y tế, chợ búa, kho tàng, bến bãi… đã gây trở ngại rất lớn trong việc phát triển sản xuất của làng nghề. Tình trạng điện năng không ổn định, ách tắc giao thông, tình trạng chất thải công nghiệp, sinh hoạt không được xử lý, không có hệ thống cung cấp nước sạch và hệ thống thoát nước, khu vực sản xuất nằm trong khu dân cư…đã tác động không nhỏ tới môi trường và cản trở việc mở rộng quy mô sản xuất, mở rộng thị trường và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Bởi vậy cần phải có chính sách, giải pháp đồng bộ về phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật trong làng nghề.
Để hoàn thiện cơ sở hạ tầng ở làng nghề Đại Bái cần có các biện pháp cụ thể như.
+ Xây dựng và thực hiện phương án quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội của toàn xã và của làng nghề
+ Xây dựng và thực hiện phương án quy hoạch phát triển làng nghề, phát triển cơ sở hạ tầng trong làng nghề.
+Đẩy mạnh việc khảo sát thiết kế và phát triển hệ thống đồng bộ công trình giao thông bao gồm cả đường sá, cầu cống.
+ Kết hợp giữa duy tu bảo dưỡng và cải tạo nâng cấp và xây dựng những công trình trọng điểm, đầu mối...
Bên cạnh nguồn đóng góp trực tiếp của dân cư còn huy động thêm các nguồn đóng góp, sự hỗ trợ của các tổ chức đầu tư nước ngoài, của nhà nước để xây dựng cơ sở hạ tầng trong làng nghề.
7. Phát triển sản xuất kinh doanh của làng nghề gắn liền với việc bảo vệ môi trường.
Hiện nay tình hình môi trường trong làng nghề đang ở mức rất nghiêm trọng. Vì vậy mà phát triển sản xuất trong làng nghề cần gắn liền với việc bảo vệ môi trường. Do vậy biện pháp đề ra đó là:
+ Xây dựng khu sản xuất tập trung, di chuyển sản xuất ra khỏi khu dân cư
+ Đưa máy móc vào sản xuất, thay thế sản xuất thủ công
+ Có biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở mức độ ít nhất...
Một số kiến nghị
- Đề nghị UBND tỉnh Bắc Ninh và các cấp có thẩm quyền xem xét, phê duyệt dự án đầu tư xây dựng cụm công nghiệp sản xuất tập trung Đại Bái, để dự án sớm đi vào hoạt động trên cơ sở có điều kiện xử lý các chất thải.
- Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các cơ sở sản xuất trong làng nghề thiếu vốn trầm trọng. Vì vậy đề nghị UBND huyện Gia Bình phối hợp với các hệ thống tín dụng cho các cơ sở sản xuất trong làng nghề vay vốn với lãi suất ưu đãi, thời gian hợp lý và thủ tục vay vốn đơn giản.
- Thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề còn manh mún, phân tán. Đề nghị các cơ quan chức năng hình thành hệ thống thu mua sản phẩm cho các làng nghề, nhằm tránh những khâu trung gian, tránh những lãng phí trong quá trình tiêu thụ.
- Đề nghị các cơ quan chức năng thường xuyên giám sát và giúp đỡ các cơ sở sản xuất trong làng nghề, nhằm tìm ra những khó khăn trong quá trình sản xuất để cùng nhau giải quyết.
- Đề nghị nhà nước có chính sách giảm thuế đối với các hợp tác xã trong làng nghề.
- Có biện pháp hỗ trợ các địa phương xử lý ô nhiễm môi trường để đảm bảo sức khoẻ cho mọi người xung quanh khu vực sản xuất.
kết luận
Phát triển LNTT không chỉ mang ý nghĩa kinh tế mà còn mang cả ý nghĩa xã hội một cách sâu sắc. Nó không chỉ góp phần vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết được tình trạng thất nghiệp ngày càng gia tăng trong nông thôn mà còn tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho dân cư nông thôn.
Làng nghề Đại Bái đã tồn tại lâu đời, nó tồn tại được là do nội lực của chính bản thân làng nghề đã vươn lên để đáp ứng được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng. Làng nghề đã trải qua rất nhiều thăng trầm, có lúc còn trở nên trì trệ. Nhưng trong những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế, nhờ có những phương thức đổi mới mà làng nghề đã đi vào hoạt động trở lại. Sự phát triển của làng nghề làm cho lực lượng lao động chưa có việc làm và lao động nông nhàn trong làng nghề và trong những vùng xung quanh được giải phóng triệt để, mọi tiềm năng sẵn có của làng nghề được khai thác và huy động đến mức tối đa và sản xuất, nhằm tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm cho tiêu dùng và xuất khẩu. Tuy nhiên với sự phát triển mạnh mẽ như vậy, nhưng làng nghề vấn còn rất nhiều hạn chế trong quá trình sản xuất. Đó là số nghệ nhân trong làng rất ít, đội ngũ thợ lành nghề chưa cao, quy mô sản xuất của làng nghề còn nhỏ, việc huy động vốn, áp dụng khoa học công nghệ để phát triển sản xuất ngày càng khó khăn và hơn nữa tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên trầm trọng...
Phát triển làng nghề phải dựa trên quan điểm đánh giá đúng vai trò, vị trí của làng nghề trong điều kiện nền kinh tế phát triển. Đồng thời phải dựa trên quan điểm toàn dụng lao động nông thôn theo phương châm “ly nông bất ly hương”, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại, đa dạng hoá các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, kết hợp giữa phát triển kinh tế, bảo vệ môi trường và phát triển toàn diện nông thôn.
Phương hướng trong những năm tới của làng nghề là quy hoạch, tạo ra mặt bằng sản xuất cho các cơ sở sản xuất, tách rời khu vực sản xuất ra khỏi khu dân cư sinh sống nhằm tạo cho dân cư khỏi sự ảnh hưởng của sản xuất. Đưa máy móc, công nghệ vào quá trình sản xuất, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động, tạo ra đội ngũ thợ lành nghề đông đảo. Đồng thời giới thiệu sản phẩm của làng nghề qua các phương tiện thông tin đại chúng...nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có thể tiêu thụ không chỉ ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường xuất khẩu.
Để thúc đẩy sự phát triển sản xuất của làng nghề hơn nữa cần giải quyết đồng bộ các chính sách và giải pháp khuyến khích, giúp đỡ, hỗ trợ, tạo điều kiện cho các làng nghề hoạt động thuận lợi trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh chính sách tạo mặt bằng cho sản xuất, tạo điều kiện cho làng nghề vay vốn, áp dụng công nghệ vào sản xuất kinh doanh và tạo được thị trường ổn định cho làng nghề. Quan trọng hơn nữa là hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong làng nghề, hỗ trợ cho các chủ cơ sở sản xuất và người lao động nhằm tạo ra đội ngũ quản lý, sản xuất thích ứng với sự phát triển của làng nghề.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tổng hợp của sở Công Nghiệp- Tiểu Thủ Công Nghiệp tỉnh Bắc Ninh
2. Giáo sư Nguyễn Điền : CNH nông nghiệp nông thôn các nước Châu á và Việt Nam- NXB chính trị quốc gia 1997
3. TS. Dương Bá Phượng : Bảo tồn và phát triển làng nghề trong quá trình CNH- HĐH
4. Tạp chí công nghiệp số 10/ 2002, số 20/ 2002
5. Phương hướng và giải pháp phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp tỉnh Bắc Ninh trong quá trình CNH- HĐH
6. Niên giám thống kê năm 2001- Cục thống kê tỉnh Bắc Ninh
7. Báo cáo tổng hợp của phòng kinh tế huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh
8. Dự án đầu tư xây dựng cụm công nghiệp Đại Bái- Sở Công nghiệp TTCN tỉnh Bắc Ninh
9. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 9
10. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 15
Mục lục
Trang
Biểu 3: Hiện trạng sử dụng đất ở làng nghề Đại Bái (năm 2002)
Loại đất
Diện tích (ha)
Tỷ lệ (%)
Đất nông nghiệp
199,5
51,79
Đất nuôi trồng thuỷ sản
35,2
9,1
Đất chuyên dùng và đất ở
92,7
24,06
Đất chưa sử dụng
57,8
15
Tổng
385,2
100
Nguồn: UBND xã Đại Bái
Biểu 4: Tình hình dân số lao động của làng năm 2002.
Chỉ tiêu
Lao động (người)
Tỷ lệ (%)
1.Tổng số dân trong làng
6203
2.Số lao động trong độ tuổi
2600
100
- Lao động sản xuất nông nghiệp
593
22,8
- Lao động chuyên
1280
49,3
- Lao động kiêm
500
19,2
- Lao động khác
227
8,7
Nguồn: UBND xã Đại Bái
Biểu 5:Quy mô tổ sản xuất kinh doanh của làng nghề.
Chỉ tiêu
1995
2000
2002
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
1.Diện tích tự nhiên (ha)
- Diện tích đất nông nghiệp (ha)
- Diện tích đất chuyên dùng làm nghề (ha)
385,2
251,6
5,6
100%
65,3%
1,45%
385,2
242,7
6,4
100%
63%
1,66%
385,2
234.7
14,4
100%
60,9%
3,7%
2.Tổng số hộ trong làng (hộ)
- Số hộ sản xuất ngành nghề (hộ)
1009
749
100%
74,2%
1153
857
100%
74,3%
1240
960
100%
77,4%
3.Số lao động trong độ tuổi (người)
- Lao động làm ngành nghề (người)
1992
1435
100%
72%
2330
1653
100%
70,9%
2600
1780
100%
68,5%
4.Giá trị sản xuất của làng nghề (tỷ đồng)
- Giá trị sản xuất của TTCN (tỷ đồng)
41.25
26,38
100%
63,95%
55,05
35,99
100%
65,37%
88,7
63,2
100%
71,25%
Nguồn UBND xã Đại Bái
Biểu 6: Các loại hình sản xuất của làng nghề
Chỉ tiêu
1995
2000
2002
Số lượng (hộ, htx)
Tỷ lệ (%)
Số lượng (hộ, htx)
tỷ lệ (%)
Số lượng (hộ, htx)
tỷ lệ (%)
1.Tổng số hộ trong làng
- Hộ thuần nông
- Hộ chuyên
- Hộ kiêm
- Hộ khác
1009
210
437
312
50
100
20,81
43,3
30,9
4,95
1153
234
569
288
62
100
20,29
49,3
24,9
5,37
1240
223
620
340
57
100
17,98
50
27,5
4,59
2.Hợp tác xã
3
3
3
Nguồn UBND xã Đại Bái
Biểu 8:Quy mô vốn của các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng.
Chỉ tiêu
HTX
(tỷ Đ)
Hộ chuyên (Tr Đ)
Hộ kiêm (Tr Đ)
Tổng vốn bình quân 1 cơ sở
6,5
28
23
Tổng vốn cố định bình quân
4,875
20
17
Tổng vốn lưu động bình quân
1,625
8
6
Vốn tự có bình quân
4,55
19
18
Vốn vay bình quân
Vay ngân hàng
Vay tư nhân
Vay khác
1,95
76%
8%
16%
9
72%
15%
13%
5
65%
24%
11%
Nguồn UBND xã Đại Bái
Biểu 9: Tình hình sử dụng trang thiết bị của làng.
Chỉ tiêu
1995
2000
2002
Số lượng
(hộ, htx)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(hộ, htx)
Tỷ lệ
(%)
Số lượng
(hộ, htx)
Tỷ lệ
(%)
1.Hộ sản xuất
- Hộ có sử dụng máy móc
- Hộ sử dụng công nghệ truyền thống
- Hộ sử dụng công nghệ mới
749
126
664
0
16,8
88,6
0
857
192
709
1
22,4
82,7
0,1
960
513
598
43
53,4
62,2
4,5
2.HTX
- HTX có sử dụng máy móc
- HTX sử dụng công nghệ truyền thống
- HTX sử dụng công nghệ mới
3
3
3
0
100
100
0
3
3
2
1
100
66,7
33.3
3
3
0
3
100
0
100
Nguồn UBND xã Đại Bái
Biểu 10 :Tình hình tiêu thụ sản phẩm
Chỉ tiêu
1995
2000
2002
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ lệ
(%)
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ lệ
(%)
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ lệ
(%)
Tổng giá trị sản xuất TTCN
26,38
100
35,99
100
63,2
100
Tổng giá trị tiêu thụ sản phẩm
22,21
84,2
31,2
86,7
56,1
88,76
Tiêu thụ trong nước
22,21
84,2
31,2
86,7
52,9
83,7
Xuất khẩu
0
0
0
0
3,2
5,06
Nguồn UBND xã Đại Bái
Một số chữ viết tắt
TCN : Thủ công nghiệp
CN- TTCN : Công nghiệp- tiểu thủ công nghiệp
TTCN : Tiểu thủ công nghiệp
LNTT : Làng nghề truyền thống
CNH- HĐH : Công nghiệp hoá- hiện đại hoá
HTX : Hợp tác xã
Tóm tắt
Kính thưa các thầy, các cô trong hội đồng, cùng toàn thể các bạn
Sau đây em xin trình bày tóm tắt bài luận văn của mình.
ở nước ta, nông thôn là một địa bàn rất rộng lớn, để phát triển kinh tế của đất nước thì phát triển kinh tế nông thôn là một nhiệm vụ rất quan trọng. Để phát triển nông thôn thì phát triển công nghiệp nông thôn, đặc biệt là phát triển làng nghề là một công việc không thể thiếu được.
ở nước ta làng nghề đã xuất hiện và tồn tại từ rất lâu đời. Tuy nhiên do chưa được quan tâm đúng mức vì thế mà sự hoạt động của các làng nghề còn bị cầm chừng, kém phát triển, thậm trí còn có một số làng nghề bị mai một. Trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là từ những năm 90 trở lại đây, với chính sách thúc đẩy mọi thành phần kinh tế phát triển và việc xác lập hộ gia đình làm đơn vị kinh tế tự chủ, giao quyền sở hữu đất lâu dài cho nông dân, giải toả nhiều khâu trong lưu thông phân phối đã làm cho nhiều làng nghề, ngành nghề được khôi phục và phát triển đồng thời còn làm xuất hiện thêm nhiều làng nghề mới, ngành nghề mới ở các địa phương.
Hiện nay ở nước ta có trên 1000 làng nghề tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng sông Hồng. Mặc dù việc sản xuất TTCN trong các làng nghề còn gặp nhiều khó khăn nhưng mọi người dân đều nhận thức được rằng, nếu chỉ sản xuất thần nông thì chỉ đủ ăn, thậm trí còn trở nên yếu kém khi gặp thiên tai, hạn hán, mất mùa, còn muốn làm giàu lên thì phải kết hợp hoặc chuyển hẳn sang các hoạt động phi nông nghiệp, đặc biệt là đối với những sản phẩm có khả năng đáp ứng đượp nhu cầu của người tiêu dùng.
Làng nghề Đại Bái là một trong những làng nghề truyền thống tồn tại từ rất lâu đời. Tình hình sản xuất của làng góp phần rất to lớn đối với quá trình phát triển nông thôn trong vùng cũng như của tỉnh. Tuy nhiên trong quá trình phát triển làng nghề vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn tồn tại, cần có nhiều biện pháp để giải quyết. Để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn đề ra mà em chọn đề tài ‘ thực trạng và các giải pháp phát triển LNTT Đại bái tỉnh Bắc Ninh’ làm luận văn tốt nghiệp cho mình.
Kết cấu của đề tài gồm 3 chương được thể hiện qua biểu sau :
Chương1 : Vị trí, vai trò của LNTT, sự cần thiết phải khôi phục và phát triển LNTT
Chương 2 : Thực trạng phát triển LNTT Đại Bái
Chương 3 : Phương hướng, giải pháp chủ yếu phát triển LNTT Đại Bái tỉnh Bắc Ninh
Sau đây em xin đi vào trình bày cụ thể từng chương
Chương 1 : Vị trí, vai trò của LNTT, sự cần thiết phải khôi phục và phát triển LNTT
Do thời gian có hạn nên em xin đi vào một số nội dung chính sau
Khái niệm về làng nghề : Làng nghề là một cộng đồng dân cư được cư trú trong một vùng không gian lãnh thổ nhất định tại các vùng nông thôn. Có một hoặc nhiều nghề tồn tại và tách ra khỏi sản xuất nông nghiệp. Sản phẩm thủ công của làng nghề có tính độc đáo, có nét tinh xảo riêng mà những làng khác không có, đồng thời người sản xuất vừa là người thợ trong những lúc nông nhàn vừa là người nông dân trong những lúc thời vụ.
Làng nghề có vai trò vị trí rất to lớn đối với đời sống dân cư nông thôn, thể hiện :
- Phát triển Làng nghề cho phép thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nông thôn, nâng cao đầu tư và tiếp nhận đầu tư vào khu vực nông thôn
- Mở rộng thị trường để phát triển công nghiệp, nông nghiệp và các ngành kinh tế khác ở nông thôn
- Giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn, đặc biệt là giải quyết việc làm, khai thác các nguồn lực sẵn có ở mỗi địa phương, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn
- Cho phép thực hiện đô thị hoá nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng di dân từ nông thôn ra đô thị, tạo điều kiện cho nông thôn tiến gần với đô thị
Chương 2 : Thực trạng phát triển LNTT Đại Bái tỉnh Bắc Ninh
I. Vài nét về tình hình cơ bản của làng
LNTT Đại Bái nằm trong xã Đại Bái huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh với tên gọi cổ là làng Bưởi. Đại Bái cách thủ đô Hà Nội 30 Km về phía đông, tỉnh lỵ Bắc Ninh15 Km về phía nam và huyện lỵ Gia Bình3 Km về phía tây. Đại Bái nằm gần bờ nam sông Đuống, có quốc lộ 282 chạy qua nên rất thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán cả đường bộ và đường thuỷ.
Về tình hình đất đai : Tổng diện tích đất tự nhiên là 385,2 Ha trong đó đất dùng cho sản xuất ngành nghề bao gồm cả đất ở chỉ có 92,7 ha chiếm 24,06 % tổng diện tích đất tự nhiên. do vậy mà quá trình sản xuất còn nhiều hạn chế.
Về Dân số và lao động :Năm 2002 tổng dân số trong làng là 6203 người, số người trong độ tuổi lao động là 2600 người chiếm 41,9% tổng dân số trong làng, trong khi đó lao động làm nghề có 1780 người chiếm 68,5% số người trong độ tuổi lao động, hơn nữa số lượng lao động này chỉ có trình độ văn hoá hết cấp 2, số người có trình độ chuyên môn kỹ thuật là rất hiếm, nên đây là một khó khăn rất lớn của làng nghề.
Về công cụ sản xuất : Do có điện khí hoá mà các cơ sở sản xuất trong làng nghề đã mua sắm được nhiều máy móc thiết bị, tạo ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao, giá thành hạ, đáp ứng được nhu cầu người tiêu dùng.
Về cơ sở hạ tầng : Cơ sở hạ tầng trong làng nghề được hoàn thiện khá đầy đủ, hệ thống đường liên xã, liên thôn đã được gạch hoá, bê tông hoá. ở làng còn có 2 trạm biến thế phục vụ cho sản xuất ngành nghề, sản xuất nông nghiệp và đời sồng dân cư trong làng. Hệ thống thông tin liên lạc được hoàn thiện khá đầy đủ, tiện lợi cho giao lưu buôn bán sản phẩm. Hiện nay tuy làng chưa có hệ thống cung cấp nước sạch nhưng 100% các hộ dân cư đã sử dụng nước giếng đào, giếng khoan…từ đó giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh trong làng được diễn ra thuận lợi.
II. Thực trạng làng nghề Đại Bái trong những năn gần đây
1. Quy mô và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề
Quy mô và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh của làng nghề được thể hiện qua biểu….Dựa vào đó ta thấy : Quy mô sản xuất của làng nghề đã tăng qua các năm. Thể hiện diện tích đất dùng cho sản xuất ngành nghề năm 1995 là 5,6 ha thì đến năm 2000 tăng lên là 6,4 ha và đến năm 2002 đã tăng lên 14,4 ha. Số hộ sản xuất ngành nghề cũng tăng tương ứng từ 749 hộ năm 1995 lên 857 hộ năm 2000 và lên 960 hộ năm 2002. Số lao động làm ngành nghề tăng tương ứng từ 1435 lao động năm 1995 lên 1653 lao động năm 2000 và lên 1780 lao động năm 2002. Giá trị sản xuất của làng nghề cũng tăng tương ứng từ 26,38 tỷ năm 1995 lên 35,99 tỷ năm 2000 và lên 63,2 tỷ năm 2002.
Sự gia tăng của quy mô đã đánh dấu một bước ngoặt trong phát triển sản xuất kinh doanh của làng nghề. Tuy vậy sự chênh lệch giữa diện tích được sử dụng vào làm nghề với các yếu tố khác còn quá lớn. Vì vậy cần tăng diện tích sử dụng vào sản xuất ngành nghề để quá trình sản xuất kinh doanh của làng nghề được phát triển một cách cân đối.
2. Các loại hình sản xuất trong làng nghề
Loại hình sản xuất trong làng nghề chỉ có hai loại hình đó là HTX và hộ gia đình. Đối với loại hình HTX thì chỉ có 3 HTX, 3 HTX này kinh doanh tương đối ổn định, nó làm vệ tinh cho các cơ sở sản xuất ở quy mô hộ gia đình trong việc thu mua nguyên vật liệu cũng như tiêu thụ sản phẩm. Còn đối với hộ kinh doanh cá thể, trong làng có 940 hộ tham gia sản xuất ngành nghề, với hình thức này hầu hết các thành viên trong gia đình đều được tham gia vào các công việc khác nhau, phù hợp với tập quán nhỏ nhưng cũng còn có nhiều hạn chế đó là quy mô nhỏ nên chưa đầu tư vốn, máy móc cho sản xuất, trình độ tay nghề còn nhiều yếu kém, nhiều khi còn rụt rè trong kinh doanh.
3. Thực trạng lao động trong làng nghề
Về số lượng lao động : Trong làng có 2600 lao động trong độ tuổi, trong đó lao động làm nghề là 1780 lao động chiếm 68,5% số lao động trong độ tuổi, ngoài ra làng nghề còn thuê thêm một lực lượng rất lớn từ nơi khác, tuy đây chưa phải là một lực lượng lớn song cũng góp phần rất tích cực vào việc sản xuất kinh doanh của làng nghề
Về chất lượng lao động : Lao động trong làng nghề chủ yếu là lao động thủ công, có trình độ chuyên môn kỹ thuật thấp, quá trình sản xuất chủ yếu dựa vào đôi bàn tay khéo léo và khối óc tinh tế của người thợ nên sản phẩm làm ra còn rất nhiều hạn chế. Dựa vào biểu… ta thấy trình độ học vấn của lao động trong làng chủ yếu mới hết cấp 2, về trình độ chuyên môn kỹ thuật thì tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ rất nhỏ, việc dạy nghề trong làng nghề chủ yếu là theo phương thức vừa học vừa làm. Do vậy trong những năm tới cần có các biện pháp để làng nghề có một đội ngũ lao động vừa có trình độ cao, vừa có trình độ chuyên môn kỹ thuật.
4. Tình hình vốn sản xuất trong làng nghề
Tình hình sử dụng vốn của làng nghề được thể hiện qua biểu …Tổng nguồn vốn trong làng nghề vào khoảng 45 tỷ đồng, trong đó vốn bình quân 1 HTX là 6,5 tỷ một hộ là trên 25 triệu đồng. Tổng nguồn vốn cố định là 33.720 triệu đồng chiếm 74,93% còn lại là vốn lưu động chiếm 25,07%, trong đó vốn bình quân 1 HTX là 4,5 tỷ đồng, một hộ là 18 triệu đồng, còn lại vốn lưu động bình quân 1 HTX là 2 tỷ và một hộ là 7 triệu đồng. Sự chênh lệch giữa vốn cố dịnh và vốn lưu động đối với làng nghề là rất lớn, vì nghề này đòi hỏi một lượng vốn lưu động lớn. Trong tổng nguồn vốn thì nguồn vốn tự có chiếm 70% còn lại là vốn vay chiếm 30%, nguồn vay được các cơ sở vay nhiều từ ngân hàng còn lại là vay từ anh em, họ hàng… Nguồn vốn vay là một trong những nguồn vốn quan trọng để phát triển sản xuất kinh doanh, nhưng nguồn vốn này mà quá lớn thì việc sản xuất kinh doanh cũng không có lãi do vậy mà các cơ sở sản xuất cần giảm lượng vay đến mức có thể, như vậy thì việc sản xuất kinh doanh của làng mới có kết quả.
5. Công nghệ kỹ thuật trong làng nghề
Kỹ thuật sản xuất trong làng nghề chủ yếu là sản xuất thủ công, dựa vào đôi bàn tay khéo léo và khối óc tinh tế của người thợ. Công nghệ mà làng nghề sử dụng chủ yếu là các công cụ thủ công lạc hậu. Theo biểu… ta thấy tỷ lệ hộ sử dụng công nghệ truyền thống là rất lớn, tỷ lệ hộ sử dụng công nghệ mới chiếm rất ít, chỉ chiếm 4,5 %. Còn đối với HTX thì đã có 100% số HTX sử dụng công nghệ mới và máy móc, không còn 1 HTX nào sử dụng công nghệ truyền thống.
Trong n
hững năm gần đây, nhờ chính sách mở cửa mà việc sản xuất kinh doanh cũng như đưa máy móc vào sản xuất trong làng nghề càng được cải thiện. Điều đó làm cho khối lượng sản phẩm ngày càng được sản xuất ra nhiều, với chất lượng đảm bảo góp phần rất tích cực vào sản xuất kinh doanh của làng
6. Tình hình cung cấp nguyên vật liệu và TTSP trong làng nghề
a. Thị trường cung cấp nguyên vật liêụ
Nguyên vật liệu trong làng nghề chủ yếu được huy động từ những người thu gom ở nông thôn. Do hệ thống giao thông, thông tin phát triển mà tình hình cung cấp nguyên vật liệu cũng trở nên rễ dàng hơn, nhưng quá trình cung cấp nguyên vật liệu vẫn không được đầy đủ do đó ảnh hưởng rất lớn tới quá trình sản xuất của làng nghề
b. Tình hình thị trường tiêu thụ sản phẩm
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề được thể hiện qua biểu….Tổng giá trị sản xuất TTCN trong làng nghề năm 2002 là 63,2 tỷ đồng trong đó giá trị tiêu thụ sản phẩm là trê 56 tỷ đồng chiếm 88,76% còn lại là giá trị xuất khẩu. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của làng ghề diễn ra khá tốt, trong những năm tới làng nghề phấn đấu đạt giá trị xuất khẩu lên tới 15% và đưa giá trị sản xuất của làng ghề cao hơn nữa.
7. Tình hình môi trường trong làng nghề
Tình hình môi trường trong làng nghề ảnh hưởng rất lớn tới sức khoẻ của đời sống dân cư trong làng, người sản xuất cũng như đời sống của người dân vùng lân cận. Tình trạng ô nhiễm môi trường trong làng nghề ngày càng trở nên nghiêm trọng, do đó làng nghề cần có biện pháp thích hợp trong việc giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất.
Tóm lại làng nghề Đại Bái đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội nông thôn trong vùng thể hiện
- Làng nghề đã góp phần không nhỏ vào sự gia tăng sản lượng ở địa phương
- Sự phát triển làng nghề đã và đang tạo thêm nhiều việc làm, góp phần tăng thu nhập cho đời sống dân cư nông thôn, nâng cao đời sống của người dân địa phương
- Sự phát triển làng nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp
- Sự phát triển làng nghề cho phép làng nghề mở mang kiến thức giao lưu buôn bán với các vùng khác, tạo cho làng nghề có thế mạnh trong việc tiếp cận thị trường cũng như học hỏi kinh nghiệm của các làng nghề khác
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu đáng kể nhưng làng nghề cũng gặp không ít những khó khăn, những khó khăn đó là
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề còn bị bó hẹp
Trình độ công nhân kỹ thuật còn thấp, quá trình đổi mới công nghệ còn nhỏ và nhiều hạn chế
Vốn để phát triển sản xuất kinh doanh của làng nghề còn quá nhỏ, tình hình vay vốn còn gặp nhiều khó khăn
Năng lực sản xuất kinh doanh của người lao động còn hạn hẹp
Tình hình cơ sở hạ tầng trong làng ngày càng bị xuống cấp
Tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọng
Sự quản lý của các cấp chính quyền chưa được chặt chẽ, gắt gao….
Chương 3 : Phương hướng, giải pháp chủ yếu phát triển LNTT Đại Bái tỉnh Bắc Ninh
Từ phân tích thực trạng em đưa ra một số phương hướng trong thời gian tới là
- Phát triển LNTT gắn với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn
- Đẩy mạnh và phát triển sản xuất trong làng nghề theo hướng đưa máy móc vào dây truyền sản xuất
- Đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động
- Xây dựng khu sản xuất tập trung nhằm thu hút vốn đầu tư
- Giới thiệu sản phẩm qua các phương tiện thông tin đại chúng
Từ những phương hướng cụ thể trên em đưa ra một số giải pháp là
1. Quy hoạch và giải quyết mặt bằng sản xuất cho làng nghề
Việc sản xuất của làng nghề dược phân bố xen kẽ giữa các khu dân cư, vì các cơ sở sản xuất là các hộ gia đình, nên các hộ này thường lấy nơi ở làm mặt bằng sản xuất. Do vậy việc sản xuất gặp nhiều khó khăn, hơn nữa còn ảnh hưởng tới nhiều mặt khác như sức khoẻ của người dân trong làng, cơ sở hạ tầng nhanh chóng bị xuống cấp. Do vậy quy hoạch mặt bằng sản xuất là một nhiệm vụ rất quan trọng. Để quy hoạch mặt bằng sản xuất các cấp chính quyền địa phương đã lập kế hoạch thành lập khu sản xuất tập trung (nhưng chưa hoàn thành) nhằm di chuyển sản xuất ra khỏi khu dân cư (Chỉ di chuyển ở từng khâu còn đối với những khâu ít ảnh hưởng họăc không ảnh hưởng thì được sản xuất tại gia đình). Thành lập khu sản xuất tập trung trước hết giải quyết được tình trạng ô nhiễm môi trường, tránh được ảnh hưởng tới đời sống của dân cư trong vùng, tránh được những ảnh hưởng tới cơ sở hạ tầng trong làng. Mặt khác còn thuận tiện rất nhiều trong sản xuất tiêu thụ cũng như quá trình thu mua nguyên vật liệu. Vì vậy đây là vấn đề quan trọng hàng đầu mà làng nghề cần tập trung giải quyết
2. Mở rộng và phát triển đồng bộ thị trường trong LN.
Đối với thị trường cung cấp nguyên vật liệu: thị trường cung cấp nguyên vật liệu cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề chủ yếu là thị trường địa phương thị trường tại chỗ gắn bó với các phế thải, phế liệu trong nông thôn. nguyên vật liệu cung cấp cho làng nghề chủ yếu cho mua đứt bán đoạn của những người thu mua đồng nát, hoặc những người bán lẻ…. Vì vậy mà nguyên vật liệu cung cấp cho làng nghề chưa đảm bảo được số lượng cũng như chất lượng. do vậy, mà ảnh hưởng nhiều tới kết quả sản xuất kinh doanh. để đảm bảo nguyên vật liệu được cung cấp đầy đủ cho quá trình sản xuất, tỉnh và các cấp có thẩm quyền cần có các chính sách giải quyết nguyên vật liệu đầu vào như :
- Hình thành các trung tâm thu mua nguyên vật liệu
- Hỗ trợ kinh phí cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề nhằm giúp cho họ có kinh phí để mua nguyện vật liệu tránh sự gián đoạn của quá trình sản xuất
Về trị trường tiêu thụ sản phẩm : thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề chủ yếu là thị trường tại chỗ, thị trường đại phương…các thị trường này có tính chất phân tán, tuy các thị trường này có quy mô rộng lớn song nó còn bị bó hẹp bởi sức mua của các tầng lớp dân cư nông thôn. Để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của làng nghề thì cần có các biện pháp như :
- Nâng cao thu nhập của dân cư trong nông thôn, nhằm tăng sức mua của người tiêu dùng
- Nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa sản phẩm của làng nghề vươn tới thị trường xuất khẩu
- Thành lập các trug tâm thu mua sản phẩm, nhằm tránh những khâu trung gian không cần thiết.
- Thực hiện các biện pháp marketing, quảng cáo thông qua các buổi hội trợ, các buổi giới thiệu sản phẩm nhằm giới thiệu sản phẩm qua số lượng đông đảo người tiêu dùng
- Thành lập khâu thu thập xử lý thông tin trên thị trường nhằm tránh những biến động bất ngờ xảy ra
3. Thực hiện các chính sách, biện pháp hỗ trợ giúp đỡ đổi mới công nghệ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề một cách tích cực và có hiệu quả
Đổi mới công nghệ có tác động rất lớn tới quá trình sản xuất kinh doanh. Đối với Làng nghề Đại Bái do chủ yếu là sản xuất ở quy mô hội gia đình vì thế mà công nghệ sử dụng thường là những công nghệ lạc hậu, số cơ sở sử dụng công nghệ mới là rất ít. Mọi cơ sở sản xuất trong Làng nghề đều hiểu rằng khi mua sắm máy móc, thiết bị thì sản phẩm làm ra sẽ nhiều hơn chất lượng đảm bảo hơn, hơn nữa nó còn thay thế lao động thủ công ở những khâu khó khăn, nguy hiểm… nhưng để đầu tư mua sắm máy móc thiết bị thì phải có vốn, có trình độ sử dụng… mà họ đều chưa có. Do vậy giải pháp đề ra là
- Các cấp chính quyền cần hỗ trợ trong việc mua sắm máy móc
- Các cơ sở sản xuất cần mạnh dạn đầu tư mua sắm máy móc phục vụ quá trình sản xuất
4. Đổi mới chính sách tài chính tín dụng
Chính sách tài chính tín dụng có vai trò rất quan trọng trong khâu tạo lập vốn cho các cơ sở sản xuất kinh doanh. Do quy mô sản xuất nhỏ bé nên các cơ sở sản xuất thường gặp khó khăn trong vay vốn. Để khắc phục tình trạng này cần có các biện pháp :
- Nhà nước và các cấp chính quyền có chính sách cho vay thích hợp đối với từng cơ sở sản xuất .
- Các khoản vay, thủ tục vay cũng cần được đơn giản hoá, số lượng vay và thời hạn vay cần tăng lên
- Các cơ sở sản xuất cần phối hợp với các hệ thống tín dụng kiểm tra tình hình sử dụng vốn nhằm cùng nhau tháo gỡ những khó khăn trong quá trình sử dụng, tạo cho các cơ sở có thể nhanh chóng hoàn vốn
Về chính sách thuế : Nhà nước cần có chính sách ưu tiên miễn giảm thuế một chách hợp lý đối với các cơ sở sản xuất ngành nghề
5. Tích cực đào tạo kiến thức quả lý, bồi dưỡng nâng cao năng lực kinh doanh cho các chủ cơ sở sản xuất, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động trong làng nghề
Đây là một công việc rất quan trọng và cần thiết. Hiện nay ở Làng nghề Đại Bái hầu hết các chủ cơ sở sản xuất đều chưa có trình độ quản lý, chưa có kiến thức hiểu biết về thị trường. Còn đối với người lao động thì chủ yếu là vừa học vừa làm nên trình độ còn nhiều hạn chế vì vậy giải pháp đặt tra là :
- Tổ chức dậy nghề theo lối truyền nghề vừa học vừa làm trong một thời gian nhất định.
- Tổ chức các hiệp hội nghề nghiệp, mở rộng các lớp đào tạo về kỹ thuật, nâng cao tay nghề và kiến thức quản lý ở trình độ cao nhằm tạo được nhiều người có trình độ quản lý kinh doanh giỏi, khả năng tiếp cận nghề nhanh, làm hạt nhân cho các cơ sở sản xuất cũng như sự phát triển của Làng nghề
6. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong Làng nghề
Kết cấu hạ tầng là điều kiện và nhân tố quan trọng để thúc đẩy quá trình sản xuất trong làng nghề . Hiện nay kết cấu hạ tầng trong Làng nghề tuy đã được tu sửa nhưng vẫn còn trong tình trạng thấp kém, lạc hậu. Tình trạng đường giao thông bị xuống cấp nghiêm trọng, hệ thống cung cấp điện nước cũng hay bị hỏng hóc. Tình trạng vệ sinh môi trường, trạm y tế, chợ búa còn bừa bãi…Vì vậy giải pháp đặt ra là :
- Xây dựng và thực hiện các phương án quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội của Làng nghề
- Xây dựng và thực hiện các phương án quy hoạch Làng nghề , phát triển cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh việc khảo sát thiết kế và phát triển đồng bộ hệ thống giao thông. Kết hợp giữa duy tu bảo dưỡng và cải tạo nâng cấp những công trình trọng điểm
7. Phát triển sản xuất kinh doanh của Làng nghề gắn liền với bảo vệ môi trường
Hiện nay tình hình môi trường trong Làng nghề đang ở mức độ rất nghiêm trọng vì vậy mà phát triển sản xuất kinh doanh trong Làng nghề cần gắn liền với việc bảo vệ môi trường. Do đó cần phải thực hiện các biện pháp sau :
- Xây dựng khu sản xuất tập trung, di chuyển sản xuất ra khỏi khu dân cư
- Đưa máy móc vào sản xuất thay thế sản xuất thủ công
- Có các biện pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường ở mức độ ít nhất.
Vừa rồi em đã trình bày xong tóm tắt bài luận văn của mình, em xin cảm ơn các thầy các cô cùng toàn thể các bạn đã quan tâm theo dõi. Do trình độ còn nhiều hạn chế bài luận văn không tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự góp ý của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để bài luận văn được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Một số giải pháp phát triển LNTT Đại Bái tỉnh
bắc ninh
1. Quy hoạch và giải quyết mặt bằng sản xuất cho làng nghề
2. Mở rộng và phát triển đồng bộ thị trường trong LN.
3. Thực hiện các chính sách, biện pháp hỗ trợ giúp đỡ đổi mới công nghệ cho các cơ sở sản xuất kinh doanh trong làng nghề một cách tích cực và có hiệu quả
4. Đổi mới chính sách tài chính tín dụng
5. Tích cực đào tạo kiến thức quả lý, bồi dưỡng nâng cao năng lực kinh doanh cho các chủ cơ sở sản xuất, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động trong làng nghề
6. Hoàn thiện cơ sở hạ tầng trong Làng nghề
7. Phát triển sản xuất kinh doanh của Làng nghề gắn liền với bảo vệ môi trường
Kết cấu của đề tài gồm :
Chương1 : Vị trí, vai trò của LNTT, sự cần thiết phải khôi phục và phát triển LNTT
Chương 2 : Thực trạng phát triển LNTT Đại Bái
Chương 3 : Phương hướng, giải pháp chủ yếu phát triển LNTT Đại Bái tỉnh Bắc Ninh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37047.doc