- Xây dựng biểu thuế sử dụng đất nông nghiệp sao cho đảm bảo trong điều kiện bình thường, người sản xuất có một phần lãi để tái sản xuất, thực hiện động viên hợp lý với những người sử dụng đất có hiệu quả, ưu đãi thuế với những vùng có điều kiện sản xuất khó khăn, trình độ canh tác thấp.
- Tiếp tục thực hiện chính sách miễm giảm thuế nông nghiệp trong hạn điền để các hộ nông nghiệp có điều kiện bỏ thêm vốn để đầu tư vào sản xuất. Cần thực hiện miễn giảm đối với việc sử dụng đất khai hoang, sử dụng đất chuyên dùng sang sản xuất nông nghiệp, hay miễm giảm với các hộ gặp nhiều khó khăn hoặc những khu vực gặp thiên tai, hạn hán. Hiện nay, ngoài khoản thuế phải nộp cho Nhà nước, người nông dân còn phải nộp nhiều loại lệ phí khác ở địa phương. Vì vậy, cần rà soát lại và xoá bỏ những loại lệ phí bất hợp lý, tổ chức lại việc thu thuế đúng chính sách.Việc thu thuế nông nghiệp hàng năm của tỉnh không nhiều (khoảng 2% tổng thu), nên cần giảm thiểu thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân mà trước hết là bộ phận trồng lúa để người dân đỡ đi một khoản đóng góp, có điều kiện tập trung sản xuất, cần khuyến khích người dân sử dụng nguồn này để đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu giải pháp này được thực hiện thì mặc dù Nhà nước mất đi một phần nhỏ trong tổng thu ngân sách nhưng lại khơi dậy được vốn đầu tư trong khu vực dân cư. Hơn nữa ta có thể thấy trong khi Nhà nước có chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp một cách tối đa, trong khi hàng năm Nhà nước phải bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng (lớn hơn rất nhiều so với thuế sử dụng đất nông nghiệp) để đầu tư cho thuỷ lợi, trợ giá nông sản, phân bón thì tại sao không giảm các khoản đóng góp của nông dân để họ tự đầu tư cải tạo mở rộng sản xuất.
102 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và các giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
oạn này, người dân bỏ vốn khá lớn đầu tư cải tạo đất, chuyển đổi được hơn 4.000ha đất hoang hoá và đất trồng lúa sang trồng cây vải thiều trên 3.000 ha. Sản lượng vải thiều hiện nay khoảng 35.000 tấn lại thu hoạch vào thời gian ngắn, trong khi đó chưa có cơ sở chế biến bảo quản tập trung đã làm vải thiều rớt giá nhanh gây thua thiệt lớn cho người sản xuất). Như vậy cơ cấu đầu tư vào các ngành, lĩnh vực, các vùng còn chưa hợp lý mặc dù có thúc đẩy nhanh hơn chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi nhưng hiệu quả sản xuất chưa cao. Đây là một thực tế đòi hỏi, phải xác định cơ cấu kinh tế hợp lý hơn trong giai đoạn tiếp theo, phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn liền với thị trường và công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.
Bốn là: Việc quản lý và sử dụng vốn trong quá trình đầu tư còn nhiều hạn chế, đây cũng là tồn tại lớn trong thực hiện đầu tư cho phát triển nông nghiệp, những hạn chế này tập trung vào các khâu như:
Trong đầu tư cho phát triển nông nghiệp hàng năm thường mất cân đối lớn giữa nhu cầu và khả năng dẫn đến tình trạng vốn đầu tư cho các công trình bố trì dàn trải, nhỏ giọt và dàn đều cho các địa phương hoặc được cân đối theo chủ quan. Từ đó dẫn đến nhiều công trình mặc dù quy mô không lớn nhưng lại phải cân đối đầu tư xây dựng từ 2-3 năm mới hoàn thành, làm chậm thời gian đi vào phục vụ sản xuất của các công trình, giảm hiệu quả sử dụng vốn. Thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm còn có những tồn tại như có những công trình thuỷ nông lớn cần phải huy động nhiều vốn nguồn vốn đầu tư nhưng trong thực tế phần đầu tư của nhà nước đã thực hiện xong các hạng mục, công trình đầu mối, nhưng các nguồn vốn khác (vốn của các Xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi, vốn huy động từ nhân dân các địa phương) chưa huy động kịp thời để đầu tư cải tạo các hạng mục còn lại dẫn đến tình trạng manh mún hao mòn, hiệu quả sử dụng thấp.
Trong quá trình thực hiện quản lý đầu tư, vẫn còn nhiều chủ đầu tư chưa thực hiện đúng quy trình quản lý đầu tư và xây dựng theo sự quản lý của Nhà nước. Nhiều công trình chuẩn bị thủ tục đầu tư chậm (các trạm bơm thường phải mất 8-10 tháng) dẫn đến thời gian thi công hoàn thành công trình kéo dài. Trong thực hiện đấu thầu, giao thầu ở một số công trình đã có nhiều phát sinh làm tăng vốn đầu tư cho công trình. Một số công trình đấu thầu còn mang tính hình thức, đó là hiện tượng các nhà thầu liên kết với nhau trong đấu thầu, vì vậy việc tiết kiệm vốn đầu tư trong đấu thầu còn thấp.
Trong thực hiện dự án đầu tư, do trình độ, năng lực quản lý đầu tư của nhiều công trình còn kém và thiếu sự kiểm tra đôn đốc của các cơ quan chức năng dẫn đến chất lượng của công trình kém khi mới đưa vào sử dụng đã xảy ra những sự cố hư hỏng nặng (trạm bơm Kinh Trung- Chí Linh, trạm bơm Bỉnh Di- huyện Tứ Kỳ…). Một số trạm bơm do khảo sát tính toán ban đầu chưa kỹ cùng với đó là công tác thẩm định không tốt dẫn đến những phát sinh lớn trong quá trình xây dựng, làm tăng vốn đầu tư, kéo dài thời gian thi công (trạm bơm Ngọc Châu- thành phố Hải Dương, trạm bơm Du Tái- Thanh Hà…). Đặc biệt là những công trình đầu tư bằng vốn tự có của nhân dân, việc huy động và sử dụng vốn đầu tư chưa theo đúng quy chế dân chủ ở cơ sở và những quy định của Chính phủ nên nhiều công trình thất thoát vốn lớn, làm mất lòng tin với dân, làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp. Nhiều địa phương do thiếu vốn đầu tư đã bán đất trái thẩm quyền để đầu tư xây dựng, tình trạng này diễn ra phổ biến ở nhiều xã, phường. Theo báo cáo của Sở địa chính thì tính đến năm 2001 có 165/263 xã phường đã bán đất trái thẩm quyền để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đã được UBDN tỉnh xem xét và xử lý.
Tóm lại, Sản xuất nông nghiệp của tỉnh hiện nay, xuất phát điểm còn thấp, tốc độ tăng trưởng chưa ổn định, sức cạnh tranh của các sản phẩm còn kém, nhất là sản phẩm xuất khẩu. Nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp tuy đã được cải thiện trong những năm gần đây, song còn thiếu nhiều so với nhu cầu để có thể triển khai đồng bộ, tiếp cận phương thức sản xuất tiên tiến. Đất sử dụng cho nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, dân số ngày càng đông dẫn đến diện tích canh tác bình quân đầu người thấp gây khó khăn cho tập trung hoá sản xuất. Sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên thời tiết, rủi ro trong sản xuất nông nghiệp còn lớn trong khi đó cơ sở vật chất kỹ thuật còn nhiều yếu kém và phân tán, thiết bị công nghệ lạc hậu, nhất là trong công nghiệp chế biến mà trong thời gian ngắn không thể khắc phục được.
Những khó khăn và tồn tại trên còn mang tính phổ biến và chi phối tới quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp của Hải Dương trong những giai đoạn tới.
Chương III
Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
I. Phương hướng phát triển nông nghiệp Hải Dương đến 2010.
1. Phương hướng phát triển nông nghiệp.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn với thị trường và chế biến nông sản thực phẩm trên cơ sở áp dụng rộng rãi những thành tựu khoa học, công nghệ sinh học như lai tạo giống mới có năng suất và chất lượng cao phù hợp với điều kiện khí hậu của tỉnh. Chuyển dịch cơ cấu theo hướng sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, khai thác lợi thế so sánh, phát triển mạnh cây ăn quả và chăn nuôi, các ngành nghề dịch vị ở nông thôn. Phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại. Huy động mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như tiếp tục nâng cấp cải tạo, xây dựng các công trình thuỷ lợi, kiên cố hoá kênh mương, cải tạo đất…
Bảng 20: Dự báo dịch chuyển cơ cấu nông nghiệp
tỉnh Hải Dương đến năm 2010.
Đơnvị: %.
Ngành
Cơ cấu
Tốc độ tăng bình quân
1. Trồng trọt
60
4- 4,5
2. Chăn nuôi, thuỷ sản
35
6- 6,5
3. Dịch vụ nông nghiệp
5
10 -12
Nguồn: Báo cáo rà soát, bổ sung quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn
Hải Dương đến năm 2010.
Như vậy, có thể thấy việc đề ra phương hướng chung phát triển nông nghiệp là phù hợp với vị trí, tiềm năng và tình hình chung của tỉnh Hải Dương.
2. Mục tiêu phát triển các ngành, lĩnh vực trong nông nghiệp.
2.1. Trồng trọt.
Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, trồng trọt vẫn được coi là ngành có tỷ trọng cao và tăng trưởng ổn định. Đảm bảo mục tiêu tăng trưởng ngành trồng trọt, phải tăng cường thâm canh tăng vụ, bố trí mùa vụ hợp lý, áp dụng các giống lúa mới có năng suất và chất lượng cao và chuyển đổi mạnh cơ cấu cây trồng, tăng hệ số sử dụng đất lên 2,7 vào năm 2010.
- Cây lương thực: Dự kiến ổn định diện tích lúa khoảng 6,5 vạn ha, bố trí cơ cấu giống và mùa hợp lý, tăng tỷ lệ lúa lai để đến năm 2010 đạt năng suất 13,5 tấn/năm/ha. Sản lượng lương thực năm 2005 khoảng 90 vạn tấn và đến năm 2010 đạt khoảng 92 vạn tấn.
- Cây thực phẩm: Phát triển mạnh các loại rau có thị trường ổn định như hành, tỏi, dưa chuột, rau đậu, bầu bí các loại. Năm 2010 diện tích cây thực phẩm dự kiến 35 ngàn ha, sản lượng đạt khoảng 520 ngàn tấn.
- Cây công nghiệp ngắn ngày: Tập trung phát triển mạnh cây đậu tương và lạc, chủ yếu thâm canh, tăng năng suất thôngqua áp dụng giống mới dưa sản lượng lạc lên khoảng 3.200 tấn (diện tích khoảng 1500 ha, tập trung ở Chí Linh) và đậu tương 6.300 tấn (3.700 ha).
- Cây ăn quả: Cây ăn quả là một trong những thế mạnh của tỉnh, nhất là vải thiều và nhãn. Trong những năm tới tiếp tục cải tạo vườn tạp, đất đồi rừng theo quy hoạch mở rộng diện tích cây ăn quả lên khoảng 18.000 ha năm 2010, tăng khoảng 5.000 ha so với năm 2002, trong đó vải, nhãn khoảng 15.000 ha tập trung ở Thanh Hà, Chí Linh, sản lượng từ 60- 65 ngàn tấn.
2.2. Chăn nuôi.
Là ngành mũi nhọn thứ hai trong phát triển nông nghiệp. tiếp tục đẩy mạnh chăn nuôi theo hướng công nghiệp, quy mô hộ gia đình là chính, từng bước hình thành vùng chăn nuôi tập trung để cung cấp cho công nghiệp chế biến xuất khẩu và nhu cầu trong nước. Mục tiêu phát triển một số loại chủ yếu như sau:
-Đàn lợn: Đưa quy mô tổng đàn lên 800.000 con vào năm 2005 va khoảng 1 triệu con vào năm 2010. Tiếp tục triển khai chương trình "nạc hoá đàn lợn" hình thành các vùng chăn nuôi lợn nái cung cấp giống và lợn sữa cho chế biến và lợn thịt có tỷ lệ nạc cao. Đến năm 2005, sản lượng thịt hơi đạt khoảng 65.000 tấn và 75.000 tấn vào năm 2010.
- Đàn bò: Đẩy mạnh chương trình "sind hoá đàn bò"để nâng cao chất lượng đàn, tăng sản lượng thịt, sữa, đưa quy mô đàn bò lên 45.000 con vào năm 2010, trong đó có 50-60% là bò lai sind.
Ngoài việc phát triển đàn lợn, đàn bò, cần chú trọng các loại gia cầm như ngan, gà, vịt… để cung cấp sản phẩm hàng hoá cho thành thị và tăng thu nhập cho nông dân, thay đổi cơ cấu thực phẩm trong bữa ăn.
- Thuỷ sản: Là lĩnh vực đem lại hiệu quả khá cao cho người sản xuất, trong những năm tới cần đẩy mạnh cải tạo, khai thác đất, mặt nước hoang hoá, chuyển đổi những vũng trũng cấy lúa bấp bênh để mở rộng diện tích nuôi trồng thuỷ sản, diện tích thuỷ sản năm 2005 khoảng 8.500 ha và ổn định dần đến năm 2010, sản lượng cá thu hoạch khoảng 25.000 tấn. Chú trọng ứng dụng các giống mới vào sản xuất như: cá chim trắng, cá rô phi đơn tính và đặc biệt là các giống thuỷ đặc sản như baba, lươn, ếch…
2.3. Lâm nghiệp.
Tiếp tục thực hiện chương trình 5 triệu ha rừng của Nhà nước, trồng mới rừng phòng hộ trên đất đồi núi chưa có rừng, mở rộng vườn thực vật ở khu di tích lịch sử văn hoá An Phụ, Côn Sơn- Kiếp Bạc. Phát trinể các vùng cây ăn quả, cây đặc sản trên vùng đất đồi rừng, từng bước cải thiện đời sống nhân dân khu vực miền núi.
3. Mục tiêu đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương.
3.1. Nhu cầu đầu tư:
Để sản xuất nông nghiệp của tỉnh tiếp tục phát triển ổn định trong giai đoạn tới và đạt được mục tiêu đề ra, cần phải có dự tính được nhu cầu đầu tư cho nông nghiệp để từ đó có kế hoạch huy động và phân bổ sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả cao nhất. Thông thường tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế và của các ngành sản xuất có quan hệ rất chặt chẽ với tỷ lệ tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế và các ngành trong đó có nông nghiệp. Trong khuôn khổ của các dự báo, quy hoạch của ngành nông nghiệp, vốn đầu tư chủ yếu xem xét trong nội bộ các phân ngành nông nghiệp của Hải Dương gồm: Vốn đầu tư cho cây trồng vật nuôi, đầu tư thuỷ sản, lâm nghiệp, hệ thống trạm trại nông nghiệp, khuyến nông lâm ngư, vốn đầu tư cho thuỷ lợi và nước sinh hoạt, vệ sinh môi truờng nông thôn. Tuy nhiên, nếu xem xét nhu cầu đầu tư dựa trên cơ cấu nguồn vốn và mức tăng trưởng bình quân của ngành nông nghiệp, cùng với khả năng đầu tư cho nông nghiệp của tỉnh Hải Dương, ước tính vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp, dựa trên khả năng huy động của từng nguồn ta thấy: Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách vẫn chiếm vai trò chủ đạo trong cơ cấu đầu tư, tiếp đến là nguồn vốn tín dụng đầu tư và vốn đầu tư của dân có khả năng sẽ tăng mạnh (bảng 17).
Bảng 21: Dự kiến vốn đầu tư cho nông nghiệp Hải Dương
giai đoạn 2002- 2010.
Đơn vị: tỷ đồng.
Hạng mục
Thực hiện 2002
Kế hoạch 2003-2005
Kế hoạch 2006-2010
Tổng
Tổng số:
162,5
375
915
1.452, 5
1. Vốn ngân sách
-Trung ương quản lý
-Địa phương quản lý
78,3
32,3
46
135
78
57
350
160
190
563,3
270,3
293
2. Tín dụng đầu tư
40,8
85
215
340,8
3. Vốn doanh nghiệp
7,4
25
60
92,4
4. Vốn của dân cư
19,7
80
180
279,7
5. Vốn nước ngoài
16,3
50
110
176,3
Nguồn: Báo cáo rà soát bổ sung quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn
Hải Dương đến năm 2010.
3.2. Mục tiêu đầu tư.
3.2.1. Đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi:
Trong giai đoạn từ nay đế năm 2010, hướng đầu tư cho lĩnh vực thuỷ lợi tập trung vào hai lĩnh vực lớn là: Tu bổ đê điều và nâng cấp và cải tạo các công trình thuỷ nông.
- Về đầu tư cho tu bổ đê điều: Đắp các tuyến đê thuộc hệ thống sông Luộc và sông Thái Bình còn thấp, mảnh so với yêu cầu thiết kế, lấp các đầm ao sát chân đê, cải tạo mặt đê và khoan phụt gia cố đê: Đào đắp khoảng 11,6 triệu m3 đất, cải tạo giải vật liệu cứng cho 330 km mặt, khoan phụt vữa 120 km, với tổng vốn đầu tư 190 tỷ đồng, dự kiến mỗi năm đầu tư khoảng 30 tỷ đồng. Đến năm 2010 tu sửa, củng cố và hoàn thiện 16 tuyến kè, xây dựng 6 kè mới, tổng khối lượng dự kiến là 78.000 m3 đá với vốn đầu tư khoảng 25 tỷ đồng. Đầu tư tu sửa các cống dưới đê đã bị hư hỏng, chỉ xây mới khi đã hư quá nặng, quá ngắn so với mặt cắt đê đảm bảo yêu cầu chống lũ và phục vụ tưới tiêu: Tập trung tu sửa lại 52 cống, tổng vốn đầu tư dự kiến 11 tỷ đồng. Xây dựng và hoàn thành 151 điếm canh để đảm tổng số điếm canh đê theo quy định, tích cực trồng và bảo vệ tre chắn sóng ở những tuyến đê xung yếu.
- Đầu tư cải tạo, nâng cấp các công trình thuỷ nông:
Mục tiêu đến năm 2010, các công trình thuỷ nông phải đảm bảo tưới chủ động cho 100% đất canh tác, tiêu chủ động cho 95% diện tích trong lưu vực.
Về cải tạo các trạm bơm: đầu tư thay đổi thiết bị máy bơm cho cho 46 trạm bơm tưới tiêu với tổng vốn đầu tư 30 tỷ đồng, xây dựng mới 37 trạm bơm tiêu úng cho các vùng có hệ số tiêu chưa đảm bảo yêu cầu, trong đó có các trạm bơm lớn như Thanh Thuỷ, Ngọc Trì, Cầu Dừa, Cầu Xe. . . để đảm bảo tiêu úng và lấy phù sa cho hệ thống Bắc Hưng Hải, vốn đầu tư khoảng 105 tỷ đồng.
Cải tạo một số hồ, đập để nâng cao năng lực tước tiêu, tập trung vào một số hồ, đập lớn như: Bến Tắm, Láng Trẽ, Mật Sơn và một số hồ, đập nhỏ khác thuộc huyện Chí Linh, tổng vốn đầu tư khoảng 25 tỷ đồng. Đến năm 2005, tập trung cải tạo các cống lớn đang có sự cố hư hỏng nặng, không bảo đảm vận hành tưới tiêu như các cống Cầu Xe, An Thổ, An Bài, Sông Hương, Bá Thuỷ, Neo, tổng vốn đầu tư cho tu sửa các cống này khoảng70 tỷ đồng và xây dựng lại một số cống điều tiết lớn như cống Bằng Lai, cống Quảng Đạt với tổng vốn đầu tư khoảng 40 tỷ đồng. Giai đoạn từ 2006- 2010 sẽ xây dựng tiếp 5 cống (Đoàn Thượng, Bá Hiếu, Ngọc Lặc, Hồng Đức, Đông Thành) khoảng 45 tỷ đồng; xây dựng mới hệ thống kênh tưới Phả Lại II lấy nước từ kênh xả của nhà máy nhiệt điện Phả Lại cung cấp nước tưới cho một số xã miền núi huyện Chí Linh, tổng vốn đầu tư 80 tỷ đồng, bắt đầu thực hiện từ năm 2003.
Tập trung tiếp tục nạo vét hệ thống kênh trục chính nội đồng do bị bồi lắp nhiều, khả năng dẫn nước hạn chế, tu bổ các bờ kênh Bắc Hưng Hải thuộc các huyện Tứ Kỳ, Gia Lộc, Ninh Giang, Thanh Miện với vốn đầu tư khoảng 16 tỷ đồng; bờ vùng An Kim Hải và bờ sông Hương vốn đầu tư khoảng 4 tỷ đồng.
Thực hiện kiên cố hoá toàn bộ hệ thống kênh tưới từ kênh chính đến kênh cấp III, theo đề án kiên cố hoá kênh mương của tỉnh Hải Dương thì đến năm 2010 toàn tỉnh phải hoàn thành kiên cố hoá 1.700 km kênh mương các loại, tổng vốn đầu tư dự kiến 530 tỷ đồng, bình quân mối năm phải đầu tư hơn 70 tỷ đồng bằng nhiều nguồn vốn.
3.2.2. Đầu tư phát triển trồng trọt:
- Cải tạo thêm 1.100 ha đất hoang hoá để bổ sung quỹ đất trồng trọt, giữ ổn định diện tích trồng lúa và rau mầu thực phẩm, bình quân mỗi năm khoảng 2,5 tỷ đồng, chủ yếu là vốn, công lao động của dân và có một phần hỗ trợ của Nhà nước.
- Hệ thống giống và bảo vệ sản xuất: Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho Công ty giống cây trồng, Trung tâm khảo nghiệm giống của tỉnh, hỗ trợ đầu tư ban đầu cho các cơ sở sản xuất giống trong nhân dân, vùng sản xuất lúa chất lượng cao và ứng dụng rộng rãi các giống cây mới vào sản xuất, tổng vốn đầu tư cho các chương trình này khoảng 30 tỷ đồng; Trạng bị thêm trang thiết bị cho các trạm trại bảo vệ thực vật phục vụ cho công tác dự báo, dự đoán, phong và dập dịch cho cây trồng, dự kiến vốn khoảng 5 tỷ đồng.
3.2.3. Đầu tư phát triển chăn nuôi, thuỷ sản:
- Tiếp tục đầu tư theo chương trình "Sind hoá đàn bò" và "nạc hoá đàn lợn" nâng nhanh tỷ lệ đàn bò lai sind và đàn lợn có tỷ lệ nạc cao, đầu tư cho các cơ sở sản xuất giống: xây dựng trại giống lợn ông bà thuộc Trung tâm truyền giống gia súc, nhập giống tại các cơ sở nghiên cứu sản xuất giống của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn; đầu tư các trang thiết bị cho Trung tâm truyền giống gia súc để đẩy nhanh công tác thụ tinh nhân tạo, hỗ trợ tiền vốn mua giống nhập ngoại. Phát triển mạnh sản xuất giống gia cầm ngay tại cơ sở trong các hộ gia đình theo quy mô công nghiệp hoặc bán công nghiệp, tổng vốn đầu tư cho công tác giống gia súc, gia cầm trong giai đoạn này khoảng 10 tỷ đồng.
- Tiếp tục đầu tư xây dựng lại trung tâm nghiên cứu, lai tạo, sản xuất giống tại Trung tâm nghiên cứu giống thuỷ sản đã được triển khai thực hiện từ năm 2002, khôi phục một số cơ sở sản xuất giống cá truyền thống.
- Duy trì 3 cấp thú y như hiện nay trong tỉnh (tỉnh, huyện, xã). Tập trung đầu tư đủ trang thiết bị tiêm phòng gia súc, gia cầm cho 263 xã, phường, thị trấn với tổng vốn 1,5 tỷ đồng, đầu tư cho 12 trạm thú y các huyện, thành phố các thiết bị chuẩn đoán bệnh khoảng 1,2 tỷ đồng và trang thiết bị kiểm dịch động vật cho 2 trạm kiểm dịch động vật khoảng 1 tỷ đồng.
3.2 4. Đầu tư cho lĩnh vực lâm nghiệp:
Hiện nay, tỉnh Hải Dương đã cơ bản phủ xanh đất trống đồi núi trọc, vì vậy đầu tư cho lâm nghiệp trong giai đoạn tới sẽ tập trung vào: Bảo vệ rừng phòng hộ và rừng đặc dụng (2,5 tỷ đồng); làm giàu rừng tự nhiên, khoanh nuôi tái sinh rừng và bổ sung cây lâm nghiệp (1,5 tỷ đồng), đầu tư trồng mới 350 ha rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, nâng cấp 1500 ha rừng thuần loại, mở rộng, nâng cấp vườn thực vật An Phụ, Côn Sơn (10 tỷ đồng); đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, vườn ươm giống phục vụ cho trồng và bảo vệ rừng.
Tóm lại, trong giai đoạn từ năm nay đến năm 2010, các mục tiêu đầu tư cho phát triển nông nghiệp tập trung chủ yếu ở các lĩnh vực: Xây dựng cơ sở vật chất; nghiên cứu, ứng dụng, đưa giống mới vào sản xuất, đầu tư phát triển, nâng cấp hệ thống bảo vệ sản xuất; trồng chăm sóc và bảo về rừng.
II. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh đầu tư phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương trong thời gian tới.
Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu sản xuất và đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương đến năm 2010, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX, một trong những nhiệm vụ quan trọng là phải phát huy mọi nguồn lực, sử dụng hợp lý và có hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp. Vì vậy từ nay đến năm 2010, cần tổ chức thực hiện tốt những biện pháp chủ yếu trong đầu tư phát triển nông nghiệp như sau:
1. Giải pháp về hoàn thiện công tác quy hoạch sản xuất nông ngiệp.
Thực hiện rà soát, bổ sung và hoàn thiện quy hoạch tổng hợp phát triển kinh tế-xã hội toàn tỉnh và quy hoạch chi tiết từng ngành, từng lĩnh vực, trong đó có quy hoạch phát triển nông nghiệp, quy hoạch sử dụng đất đai, quy hoạch phát triển thuỷ lợi.
- Quy hoạch phát triển sản xuất nông nghiệp: Từ đặc điểm lớn của sản xuất nông nghiệp Hải Dương là dựa trên nền canh tác lúa nước, sản xuất nông nghiệp đã đi vào định hình, vì vậy chuyển dịch cơ cấu kinh tế các ngành trong sản xuất nông nghiệp sẽ ở tốc độ không lớn. Trồng trọt và trong đó là sản xuất lúa nước vẫn có tỷ trọng lớn và chiếm ưu thế. Hướng có bản là phải đi vào sản xuất theo chiều sâu, để tăng sản lượng và chất lượng nông sản, nhất là nông sản xuất khẩu. Đẩy nhanh công tác quy hoạch các vùng chuyên môn hoá sản xuất lương thực, thực phẩm chủ yếu ở tiểu vùng phía nam, cây ăn quả ở tiểu vùng dọc đường 18 và dọc quốc lộ 5, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm chất lượng cao ở tiểu vùng dọc quốc lộ 5.
- Quy hoạch đất đai: Xác định cụ thể quy hoạch sử dụng đất cho các ngành, lĩnh vực như: đất nông nghiệp, đất chuyên dùng, đất xây dựng cơ bản… Trong quy hoạch sử dụng nông nghiệp, cần thực hiện quán triệt quan điểm sử dụng có hiệu quả và tiết kiệm đất đai, đồng thời hạn chế giảm quỹ đất lúa để đảm bảo quỹ đất cho an ninh lương thực. Khả năng mở rộng diện tích là rất nhỏ trong khi nhu cầu đất cho đô thị hoá, xâng dựng cơ sở hạ tầng, phát triển công nghiệp… rất lớn. Vì vậy, hướng sử dụng đất nông nghiệp là đi vào tăng vụ trên diện tích cây hàng năm để tăng diện tích giao trồng hay tăng hệ số sử dụng đất.
- Quy hoạch phát triển thuỷ lợi:
Cần tiếp tục đẩy nhanh hoàn thiện quy hoạch phát triển thuỷ lợi đến năm 2010 theo hướng: Tận dụng khai thác triệt để hệ thống các công trình cũ, kết hợp với đầu tư xây dựng mới, hiện đại hoá hệ thống các công trình bao gồm: Kiên cố hoá kênh mương, nâng cấp thiết bị trạm bơm và hệ thống công. Hệ thống công trình được đầu tư xây dựng phải đảm bảo tưới tiêu khoa học, phù hợp với đặc điểm địa hình từng vùng, đặc điểm sinh lý cây trồng và tiết kiệm nước. Kết hợp tốt tưới tiêu tự chảy và động lực, giữa công trình lớn và nhỏ, giữa Nhà nước và nhân dân cùng làm.
Tóm lại, trong công tác quy hoạch cần phải xác định được hướng trọng tâm phát triển các ngành, lĩnh vực mang tính đột phá để tập trung đầu tư đẩy nhanh tốc độ phát triển nông nghiệp của tỉnh. Quy hoạch phải thể hiện được tính chiến lược, mục tiêu phát triển lâu dài. Cùng với công tác cũng cần phải tăng cường công tác quản lý quy hoạch một cách chặt chẽ, tránh tình trạng đầu tư bừa bãi, tràn lan. Theo dõi sát tình hình thực hiện các công trình, dự án trong vùng quy hoạch để có những điều chỉnh cho phù hợp. Tuy nhiên, quy hoạch phát triển một ngành nào đó phải đạt được sự ổn định cần thiết, nếu không nó sẽ không còn là quy hoạch nữa, điều này đòi hỏi các nhà lập quy hoạch, kế hoạch phải có tầm nhìn chiến lược, lâu dài. Các dự án đầu tư phát triển nông nghiệp được xây dựng và thực hiện phải phù hợp với quy hoạch tránh tình trạng "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược" đã diễn ra ở một số nơi, đồng thời phải coi trọng công tác bảo vệ môi trường và phát triển bền vững trong việc xét các yếu tố liên quan đến công tác quy hoạch.
2. Nâng mức đầu tư vốn cho phát triển nông nghiệp tương xứng với vai trò sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
Yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi một mặt tăng vốn đầu tư cả về số lượng và tỷ trọng, mặt khác phải điều chỉnh cơ cấu đầu tư. Nội dung của điều chỉnh cơ cấu đầu tư là tăng số lượng và tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp sao cho hàng hoá có chất lượng cao, chi phí thấp, có sức cạnh tranh trên thị trường và phát triển toàn diện kinh tế nông thôn tỉnh, cơ cấu nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ hợp lý.
2.1. Đầu tư hình thành và phát triển các vùng sản xuất nông sản hàng hoá.
Ưu tiên cho các vùng sản xuất hàng hoá tập trung (các huyện đồng bằng), có chất lượng cao đảm bảo nhu cầu lương thực trong tỉnh và xuất khẩu, hình thành các vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến (tiểu vùng ven quốc lộ 5), điều chỉnh diện tích đất trồng lúa nhằm sử dụng có hiệu quả.
Tập trung đầu tư cho các loại cây trồng, vật nuôi mà tỉnh có nhiều lợi thế so sánh, có thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh tốt như: Các loại rau màu, cây thực phẩm, gia vị (dưa chuột, ớt, cà chua, hành, tỏi…); cây ăn quả (vải, nhãn) và các loại thuỷ đặc sản: lươn, ếch, baba… Chú trọng đầu tư cho các sản phẩm có nhiều tiềm năng xuất khẩu như: lạc, vừng, đậu tương, tơ tằm… góp phần chuyển từ một nền kinh tế phát triển theo số lượng sang chất lượng.
Đầu tư thoả đáng cho chăn nuôi gia súc, gia cầm từ quy mô lớn đến vừa và nhỏ với chất lượng cao (từ thủ công, bán công nghiệp của hộ nông dân đến công nghiệp của các trang trại), gắn liền với công nghiệp chế biến thức ăn gia súc, chế biến sản phẩm phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Dành vốn thoả đáng cho công tác nghiên cứu và áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nhất là giống cây, giống con, phân bón, bảo vệ thực vật, khuyến nông.
2.2. Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản trở thành ngành chính trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh.
Tập trung đầu tư phát triển đưa thuỷ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Điều chỉnh lại và tăng cơ cấu Ngân sách đầu tư cho thuỷ sản, hỗ trợ tích cựu cơ sở hạ tầng phục vụ ngành này. Ưu tiên đầu tư cho các loại thuỷ sản nước ngọt, nước lợ (ở các vùng cửa sông) mà Hải Dương có tiềm năng lớn như cá, tôm, các loại thuỷ đặc sản… để tăng tích luỹ tái đầu tư mở rộng của ngành. Thực hiện xoá đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu kinh tế bãi bồi ven sông. Đầu tư đồng bộ hình thành các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, vùng sản xuất giống cùng các cơ sở chế biến… tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ khai thác, nuôi trồng và chế biến tiêu thụ nông sản.
Bên cạnh đó việc tập trung đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn phải đi trước một bước. Thuỷ lợi vẫn tiếp tục được coi trọng nhưng cần điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư cho phù hợp hơn. Củng cố hệ thống đê sông Thái Bình, sông Luộc. Đồng thời cũng cần tập trung đầu tư các kết cấu hạ tầng khác như giao thông nông thôn, điện, thông tin liên lạc…
3. Cơ cấu lại nguồn vốn đầu tư.
Song song với việc tích cực huy động các nguồn, cần phải coi trọng việc sử dụng vốn đầu tư để đảm bảo cho các nguồn vốn đầu tư cho phát triển nông nghiệp được quản lý và sử dụng có hiệu quả. Trong đầu tư cho phát triển nông nghiệp của tỉnh Hải Dương từ nay đến năm 2010, việc sử dụng các nguồn vốn đầu tư, cần tuân thủ theo đúng mục tiêu kế hoạch đặt ra trong các chương trình, dự án. Sử dụng vốn đồng thời phải kết hợp với việc cơ cấu lại các nguồn vốn đầu tư cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển cụ thể. Các nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực trong nông nghiệp cần được cơ cấu lại như sau:
3.1. Với nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Nguồn vốn này cần được tập trung đầu tư cho xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ sản xuất: đầu tư xây dựng những công trình đầu mối thuỷ lợi, các công trình thuộc hệ thống giống cây con, trồng mới chăm sóc bảo vệ rừng, nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
- Với nguồn vốn ngân sách do địa phương quản lý: tập trung tu bổ các tuyến đê địa phương quản lý, nâng cấp cải tạo xây dựng các công trình thuỷ nông, xây dựng cơ sở vật chất cho các cơ sở sản xuất giống cây con của tỉnh, hỗ trợ đầu tư kiên cố hoá kênh mương cho các hợp tác xã.
- Nguồn vốn do các Bộ, ngành Trung ương quản lý: Tập trung tu bổ các tuyến đê do Trung ương quản lý, đầu tư cho các công trình thuỷ lợi lớn đảm bảo tưới tiêu cho các vùng, khu vực rộng liên huyện hoặc liện tỉnh.
- Nguồn vốn Ngân sách đầu tư theo các chương trình mục tiêu: cần tập trung cho trồng mới, bảo vệ rừng phòng hộ và rừng đặc dụng, hỗ trợ cho đầu tư cải tạo đất hoang hoá. Ngoài ra, vốn ngân sách cung cần đầu tư hỗ trợ cho một số ngành, lĩnh vực tác động đến phát triển sản xuất nông nghiệp: Công nghiệp chế biến nông sản, thực phẩm, xây dựng cơ sở hạ tầng cho giao thông, nước sạch nông thôn.
3.2. Nguồn vốn tín dụng.
-Với nguồn tín dụng ưu đãi: Hướng sử dụng nguồn vốn này là đầu tư cho kiên cố hoá hệ thống kênh mương, hỗ trợ đầu tư cho cơ sở hạ tầng, phát triển các làng nghề, phát triển nuôi trồng thuỷ sản.
-Với nguồn vốn tín dụng: Cho các thành phần kinh tế vay để đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh trong trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ như: Cho các hộ vay để phát triển sản xuất, phát triển kinh tế trang trại, cho các hợp tác xã vay vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh dịch vụ nông nghiệp…
3.3. Nguồn vốn các doanh nghiệp:
Đặc điểm của nguồn vốn này trên địa bàn tỉnh đạt thấp, vì vậy trong giai đoạn tới cần tập trung cho đầu tư sửa chữa, xây dựng các cống tưới, tiêu nhỏ, kiên có hoá kênh mương cấp II, thay đổi thiết bị cho một số trạm bơm nhỏ, mua sắm các thiết bị nhỏ khác phục vụ sản xuất v.v…
3.4. Nguồn vốn huy động từ nhân dân:
Nguồn vốn này trong giai đoạn tới cần huy động để sử dụng cho xây dựng các công trình sau đầu mối các trạm bơm, nạo vét kênh mương nhỏ nội đồng, kênh tưới cấp III; đầu tư cho cải tạo đất hoang hoá, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, mở rộng quy mô sản xuất… Việc quản lý nguồn vốn này phải thực hiện đúng quy chế dân chủ ở cơ sở và các quy định của Nhà nước theo mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội của từng địa phương, theo từng đề án, dự án cụ thể cho từng lĩnh vực.
3.5. Nguồn vốn nước ngoài.
Nguồn vốn ODA: Sẽ tập trung xây dựng các công trình thuỷ lợi lớn ở các vùng còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế-xã hội như xây dựng hệ thống thuỷ lợi, hồ đập ở miền núi, các tuyến kênh tưới tiêu lớn cho khu vực vùng sâu, vùng xa. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cho sản xuất giống cây, con (gia súc, gia cầm, thủy sản), đầu tư vào các dự án chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất chế biến thức ăn gia súc, sản xuất máy nông cụ, nông nghiệp.
4. Nâng cao chất lượng lập, thẩm định dự án và quản lý vốn đầu tư phát triển nông nghiệp.
Tiếp tục tổ chức thực hiện tốt các quy định hiện hành của Nhà nước về quản lý đầu tư và xây dựng. Công tác này phải được thường xuyên đổi mới cho phù hợp với tình hình thực tế.
- Tập trung rà soát, sắp xếp lại các dự án đầu tư cho nông nghiệp theo hướng tập trung vốn cho các ngành lĩnh vực như: thuỷ lợi, cây con giống, các chương trình mục tiêu quốc gia (327, 135, 773…). Công tác xây dựng kế hoạch đầu tư phải đi trước một bước, đây là vấn đề quan trọng trong việc đảm bảo chủ động trong lập các dự án đầu tư, tiến độ thực hiện các dự án và phát huy hiệu quả vốn đầu tư trong nông nghiệp. Bố trí kế hoạch chuẩn bị đầu tư cho các dự án ngay từ quý II năm trước. Kế hoạch vốn đầu tư cho xây dựng các công trình phục vụ cho phát triển sản xuất nông nghiệp phải được ưu tiên, bố trí vốn ngân sách đầy đủ theo đúng tiến độ thực hiện công trình. Tăng cường công tác quản lý vốn đầu tư, tập trung cho những công trình trọng điểm phục vụ ngay cho yêu cầu sản xuất (phòng chống lụt bão, úng hạn, dịch bệnh). Việc bố trí vốn đầu tư phải tập trung theo thứ tự ưu tiên, tránh tình trạng đầu tư dàn trải, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, đảm bảo đúng tiến độ được giao theo kế hoạch.
- Đối với các dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn chủ yếu thuộc loại dự án phát triển với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách. Do vậy tình trạng lập dự án với mục đích xin vốn diễn ra một cách phổ biến, trong nhiều trường hợp, tính đối phó, sự hình thức trong lập dự án đã làm cho dự án thiếu sự khoa học tính khả thi thấp. Do vậy công tác thẩm định dự án là hết sức quan trọng trong việc đánh giá, xem xét lại dự án dựa theo tính khả thi, tình hiệu quả và sự phù hợp với quy hoạch, kế hoạch chung. Cần tiến hành phân cấp và uỷ quyền thực hiện quản lý đầu tư và xây dựng trên địa bàn tỉnh, gắn trách nhiệm cụ thể cho cơ quan thực hiện công tác thẩm định về chất lượng, tính khả thi thực sự của dự án. Để đảm bảo được chất lượng và tiến độ thẩm định, trong thời gian tới phải cần sự nỗ lực, đổi mới cơ chế làm việc của các cơ quan chịu trách nhiệm thẩm định, nâng cao trình độ và kỹ năng làm việc của các chuyên viên và nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đầu tư.
- Cải tiến các thủ tục hành chính theo cơ chế "một cửa, một dấu", rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư. Giao cho từng ngành giải quyết và chịu trách nhiệm cụ thể về kết quả công việc, dần tiến tới hạn chế chế độ làm việc theo liên ngành như hiện nay. Thực hiện cấp phép đầu tư, giải phóng mặt bằng nhanh nhất có thể , tạo điều kiện cho các nhà đầu tư triển khai nhanh các dự án. Tăng cường công tác giám sát từ khâu lập dự án đến khi kết thúc dự án đưa vào sử dụng để đảm bảo đầu tư có hiệu quả, tránh thất thoát và lãng phí vốn.
- Tiếp tục đổi mới, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp: Nghiên cứu, sửa đổi cơ chế quản lý với các xí nghiệp khai thác công trình thuỷ lợi; phân loại rõ ràng các tồn tại về tài chính để trên cơ sở đó xử lý các tồn tại theo nguyên nhân khách quan và quy trách nhiệm theo các nguyên nhân chủ quan, rà soát lại hệ thống định mức, xây dựng mức thu thuỷ lợi phí bằng tiền để thực hiện cơ chế khoán thu chi cho các doanh nghiệp…
5. Giải pháp về huy động vốn đầu tư phát triển nông nghiệp.
Do yêu cầu đầu tư cho các lĩnh vực nông nghiệp và căn cư vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế của tỉnh trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, cần có biện pháp huy động vốn đầu tư theo mô hình tổng lực, tức là phải huy động tất cả mọi nguồn vốn đầu tư như nguồn vốn trong nước, nguồn nước ngoài, nguồn vốn tại chỗ, nguồn vốn tự có, nguồn nơi khác, trong đó nguồn vốn trong nước có vai trò quyết định, nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài là quan trọng. Đồng thời, cũng phải nhấn mạnh rằng, nguồn vốn từ ngân sách là nhân tố dẫn đường và là mọi nền tảng cho mọi kế hoạch đầu tư trong nông nghiệp, cụ thể:
5.1. Đối với nguồn vốn trong nước.
5.1.1. Tăng cường vốn đầu tư từ ngân sách cho nông nghiệp:
Nhiệm vụ trước mắt của nông nghiệp tỉnh Hải Dương là phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà bản thân nông nghiệp còn nghèo, tự nó không thể giải quyết được. Vì vậy, vai trò của Nhà nước trong chính sách đầu tư cho nông nghiệp có tính quyết định. Trong những năm gần đây, vốn đầu tư từ ngân sách cho phát triển nông nghiệp không ngừng được tăng lên, song so với yêu cầu tăng trưởng kinh tế và vị trí của ngành trong nền kinh tế của tỉnh thì đầu tư cho nông nghiệp vẫn chưa thoả đáng. Do vậy, cần thay đổi một cách cơ bản chính sách trong đầu tư, trong đó tăng tỷ trọng vốn đầu tư từ nguồn vốn ngân sách cho phát triển nông nghiệp cho tương ứng với tỷ lệ nông nghiệp trong GDP của tỉnh.
5.1.2. Đa dạng hoá các hình thức thu hút vốn nhàn rỗi trong dân vào nông nghiệp:
Thông qua các kênh huy động vốn khác nhau như: tiền gửi tiết kiệm, công trái, trái phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng ghi thu bằng đồng nội tệ, vang, ngoại tệ… với các loại thời gian huy động khác nhau. Nhà nước cần có các chính sách như bảo hiểm tiền gửi ưu đãi đối với các dự án đầu tư dài hạn vào sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Ưu tiên các hình thức thu hút vốn trung và dài hạn nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển nông nghiệp dịch vụ và dịch vụ ngành nghề trong nông nghiệp, nông thốn của vùng. Tăng lãi suất tiền gửi để thu hút lượng tiền nhàn rỗi trong dân cư. Đây là giải pháp thu hút vốn khá mạnh, vì vậy cần hỗ trợ các ngân hàng và các tổ chức tín dụng ở các cơ sở để thực hiện giải pháp này.
Thực tế cho thấy, mặc dù các khoản tiết kiệm trong dân thường nhỏ nhưng tổng lượng vốn này lại rất lớn do đó chính sách thu hút tiền gửi phải rất linh hoạt, đảm bảo niềm tin, sự thuận lợi và lợi ích của nông dân. Ngoài ra, cũng cần có cơ chế để các tổ chức tín dụng ở các lĩnh vực khác có thể sử dụng hình thức tín dụng triết khấu của các tổ chức tín dụng ở nông thôn để tái đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.
5.1.3. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống tài chính tín dụng để nông dân có thể tiếp cận nhanh nhất nguồn vốn đầu tư:
Hiện nay, thiếu vốn là vấn đề rất nan giải trong sản xuất nông nghiệp vì thu nhập của người nông dân còn thấp, khả năng tích luỹ rất hạn chế. Vậy làm thế nào để người nông dân có thể tiếp cận nhanh nhất nguồn vốn đầu tư là vấn đề cấp bách. Vốn đầu tư cho nông nghiệp được hình thành từ nhiều kênh, nhưng trong những năm gần đây của Hải Dương ta thấy, nguồn vốn tín dụng ngày càng gia tăng. Vì vậy, tỉnh nên tăng cường các biện pháp tài chính, tín dụng đi sâu nghiên cứu thoái gỡ những vướng mắc hiện tại trong huy động vốn tín dụng nhằm tăng cường vốn đầu tư cho nông nghiệp.
- Tín dụng ngân hàng: Để nông dân có thể vay được vốn của ngân hàng, các quy chế và thủ tục vay vốn của ngân hàng tiếp tục phải được cải thiện:
+ Về mức vay: xây dựng định mức cho vay thích hợp với nhu cầu vay của người nông dân căn cứ theo loại hình sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư (mở rộng hay đầu tư chiều sâu).
+ Về lãi suất vay: Theo quy định chung, lãi suất vay của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông đối với vùng nông hiện nay là 1%. Thực tế thì đây là mức lại suất sàn, không thể hạ thấp hơn được nữa. Tuy nhiên, lãi suất này vẫn là cao đối với các hộ sản xuất nhỏ, vùng sâu vùng xa, có điều kiện tự nhiên và cơ sở hạ tầng không thuận lợi. Vì vậy, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các hộ nông dân ở các vùng này trong thời hạn nhất định từ 3 đến 5 năm từ khi bắt đầu vay vốn.
+ Về thời hạn vay: Tạo điều kiện cho nông dân vay vốn dài hạn, nhất là đối với các hộ trồng rừng, cây công nghiệp dài ngày, cây ăn quả lâu năm. Có thể cho vay kết hợp cả cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn để các hộ có thể thực hiện chủ trương lấy ngắn nuôi dài.
+ Về phương thức vay: Ngân hàng nên cải tiến và đa dạng hoá các phương thức cho vay đối với các hộ nông dân trong đó mở thêm các phương thức vay - trả linh hoạt đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nông dân.
+ Về thủ tục: Giảm tối đa các thủ tục cho vay của ngân hàng, loại bỏ các giấy tờ gây chồng chéo không cần thiết.
- Các tổ chức tín dụng khác:
Ngoài ngân hàng, cung cấp vốn tín dụng trong nông nghiệp còn nhiều tổ chức khác như: quỹ tín dụng nhân dân, quỹ quốc gia giải quyết việc làm, các hội phụ nữ đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ của nước ngoài. Tuy nhiên, với các tổ chức này chỉ dừng lại ở các hộ nghèo với nguồn vốn vay hạn chế. Trong thời gian tới, Nhà nước cần tìm cách khuyến khích các tổ chức này mở rộng đối tượng cho vay với quy mô vốn lớn hơn.
Nguồn vốn tín dụng là nguồn vốn rất quan trọng trong dân, vì vậy tỉnh cần tập trung quản lý các nguồn vốn đầu tư, các nguồn tài trợ cho các định chế tài chính này, tránh phân tán, chồng chéo trong việc bố trí vốn đầu tư thông qua phát triển thị trường vốn ở nông thôn, có sự cạnh tranh và tham gia cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng của mọi thành viên. Kiện toàn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động đầu tư tín dụng trong nông nghiệp, nông thôn.
5.2. Thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Khuyến khích đầu tư nước ngoài, coi đầu tư nước ngoài là một bộ phận kinh tế lâu dài của tỉnh.
5.2.1. Đối với nguồn vốn ODA:
Tích cực chủ động trong việc tiếp cận nguồn vốn ODA cho nông nghiệp. Cần tập trung thu hút vốn ODA cho xoá đói giảm nghèo, cơ sở hạ tầng nông thôn, thuỷ lợi. Cần có biện pháp đồng bộ để nâng cao tốc độ giải ngân. Hài hoà thủ tục từ khâu lập dự án cho đến khâu xét thầu, có chính sách và biện pháp hữu hiệu đối với công tác di dân, tái định cư, giải phóng mặt bằng cho việc thực hiện dự án. Kiện toàn nâng cao năng lực quản lý của các Ban quản lý dự án. Cần đối thoại thường xuyên với các nhà tài trợ, đồng thời cũng cần nâng cao năng lực của bên tiếp nhận như tăng vốn đối ứng lên một tỷ lệ nhất định, nắm bắt rõ các thông lệ và quy định quốc tế của nhà tài trợ.
5.2.2. Đối với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI:
Tiếp tục triển khai việc thực hiện Nghị định 09/2001/NĐ - CP của Chính phủ về tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2001-2005.
Cần tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp và nông thôn của tỉnh, chủ yếu tập trung vào công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ hải sản.
Để thu hút được đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành nông nghiệp, tỉnh cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: Cải thiện môi trường đầu tư, nhất là hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng (giao thông, điện, thông tin liên lạc…), xoá bỏ cơ chế 2 giá với sản phẩm và dịch vụ. Tháo gỡ các khó khăn cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đang triển khai hoạt động trong nông nghiệp. Tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu tư nước ngoài. Công bố rộng rãi các danh mục dự án, chương trình kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp.
6. Hoàn thiện hệ thống chính sách phát triển sản xuất nông nghiệp.
Xuất phát từ thực trạng khó khăn và đi tìm định hướng để thúc đẩy hoạt động đầu tư phát triển ngành nông nghiệp Hải Dương thì cùng với công tác quản lý và quy hoạch thì định hướng mới phải bao quát được chủ trương chính sách liên quan đến đầu tư, có sự tập trung thống nhất quản lý của Nhà nước đối với mọi nguồn vốn đầu tư trong nông nghiệp, áp dụng cơ chế một cửa đối với các hoạt động đầu tư, đồng thời tuân thủ các định chế tài chính thích ứng với cơ chế thị trường để thu hut các nguồn vốn đầu tư vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Như vậy, ngoài các chính sách tổng hợp cần thực hiện tốt những chính sách mang tính cụ thể hơn như sau:
6.1. Chính sách ruộng đất.
Với hoạt động sản xuất nông nghiệp đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu không thể thay thế được, vì vậy cần phải đề ra chính sách ruộng đất phù hợp hơn, tạo điều kiện cho người dân phát huy năng lực sản xuất. Cụ thể là tiếp tục giao khoán ruộng đất lâu dài cho người nông dân, cũng như quyền thừa kế chuyển nhượng trong thời gian Nhà nước quy định, để từ đó nông dân hăng hái và an tâm bỏ vốn vào đầu tư thâm canh, mở rộng diện tích sản xuất chú trọng đến việc quy hoạch đất đai, cây trồng.
Đối với đất nông nghiệp thường gồm 2 loại: Đất canh tác và đất khai hoang, do đó đối với mỗi loại đất này phải có những chính sách khác nhau. Với đất canh tác cần có chủ trương nhất quán từ Trung ương đến cơ sở quy định thời gian sử dụng đất hợp lý để người dân có sự lựa kế hoạch đầu tư cho mình. Trong thời gian sử dụng, không được chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp mà không có giấy phép, tạo điều kiện thuận lợi để nông dân có thể chuyển quyền sử dụng ruộng đất để kích thích những người có kinh nghiệm tham gia sản xuất, đồng thời cũng cần hạn chế tình trạng mua bán đất nông nghiệp tràn lan xảy ra ở một số nơi hiện nay.
Với đất khai hoang thì thời gian giao quyền sử dụng đất phải kéo dài hơn 2-3 lần so với đất canh tác và phải có sự phân biệt với từng vùng, từng loại cây trồng, vật nuôi. Đối với các vùng đất làm trang trại thì thời gian giao đất cần thông qua hợp đồng sử dụng đất, trong đó cần có những quy định có tính chất pháp lý chặt chẽ vừa đảm bảo được quyền lợi vừa đảm bảo được nghĩa vụ với người sử dụng đất theo Nghị định 22/ CP của Chính phủ.
6.2. Chính sách thuế nông nghiệp.
- Xây dựng biểu thuế sử dụng đất nông nghiệp sao cho đảm bảo trong điều kiện bình thường, người sản xuất có một phần lãi để tái sản xuất, thực hiện động viên hợp lý với những người sử dụng đất có hiệu quả, ưu đãi thuế với những vùng có điều kiện sản xuất khó khăn, trình độ canh tác thấp.
- Tiếp tục thực hiện chính sách miễm giảm thuế nông nghiệp trong hạn điền để các hộ nông nghiệp có điều kiện bỏ thêm vốn để đầu tư vào sản xuất. Cần thực hiện miễn giảm đối với việc sử dụng đất khai hoang, sử dụng đất chuyên dùng sang sản xuất nông nghiệp, hay miễm giảm với các hộ gặp nhiều khó khăn hoặc những khu vực gặp thiên tai, hạn hán. Hiện nay, ngoài khoản thuế phải nộp cho Nhà nước, người nông dân còn phải nộp nhiều loại lệ phí khác ở địa phương. Vì vậy, cần rà soát lại và xoá bỏ những loại lệ phí bất hợp lý, tổ chức lại việc thu thuế đúng chính sách.Việc thu thuế nông nghiệp hàng năm của tỉnh không nhiều (khoảng 2% tổng thu), nên cần giảm thiểu thuế sử dụng đất nông nghiệp cho nông dân mà trước hết là bộ phận trồng lúa để người dân đỡ đi một khoản đóng góp, có điều kiện tập trung sản xuất, cần khuyến khích người dân sử dụng nguồn này để đầu tư cho cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Nếu giải pháp này được thực hiện thì mặc dù Nhà nước mất đi một phần nhỏ trong tổng thu ngân sách nhưng lại khơi dậy được vốn đầu tư trong khu vực dân cư. Hơn nữa ta có thể thấy trong khi Nhà nước có chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển nông nghiệp một cách tối đa, trong khi hàng năm Nhà nước phải bỏ ra hàng nghìn tỷ đồng (lớn hơn rất nhiều so với thuế sử dụng đất nông nghiệp) để đầu tư cho thuỷ lợi, trợ giá nông sản, phân bón… thì tại sao không giảm các khoản đóng góp của nông dân để họ tự đầu tư cải tạo mở rộng sản xuất.
7.3. Chính sách thị trường.
Mở rộng thị trường là vấn đề hết sức quan trọng để thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng cường đầu tư tái sản xuất mở rộng. Muốn mở rộng được thị trường phải giải quyết tổng hợp nhiều vấn đề quan trọng sau đây:
- Phát triển cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông đường sá, phương tiện vận chuyển, hệ thống chợ nông thôn, các tụ điểm dân cư, các cửa hàng buôn bán vật tư và nông sản phẩm.
- Đầu tư phát triển hệ thống thông tin và dự báo về thị trường, giá cả hàng hoá đến tận các thôn xóm, hộ gia đình, mở rộng các dịch vụ tư vấn mua bán ở các vùng.
- Đảm bảo thị thị trường nội tỉnh và trong vùng thông suốt. Thực hiện một giá, giá thị trường theo quy luật cung cầu, tránh mọi trường hợp độc quyền về giá, đặc biệt là những mặt hàng do Nhà nước quản lý. Cần điều tiết thị trường dựa trên quy luật cung cầu để tránh những biến động lớn về giá cả, đặc biệt với các sản phẩm thiết yếu.
7.4. Chính sách khoa học và công nghệ.
Trước mắt tỉnh cần tập trung vào các hướng chủ yếu sau đây:
- Nghiên cứu và áp dụng hệ thống giống cây trồng có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt, thời gian sinh trưởng ngắn thích hợp với nhiều vùng khác nhau.
- Nghiên cứu và áp dụng hệ thống bảo vệ thực vật, thú y cho từng loại cây con, hệ thống các biện pháp cải tạo đất và bón phân phù hợp với từng loại cây trồng; nghiên cứu, áp dụng các quy trình sản xuất trồng trọt, chăn nuôi thích hợp với từng loại cây con, từng vùng để đảm bảo hiệu quả cao.
- Đầu tư nâng cao trình độ công nghệ chế biến và bảo quản nông, lâm, thuỷ sản thích hợp với điều kiện từng vùng, kết hợp tốt giữa sơ chế và tinh chế; Cải tiến hệ thống công cụ lao động nhằm tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người lao động
- Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho người lao động, mở rộng hệ thống thông tin khoa học kỹ thuật và quản lý, đặc biệt chú ý thông tin kịp thời tình hình thị trường và giá cả, tạo điều kiện cho nông dân tiếp cận thị trường và trao đổi hàng hoá. Mở rộng mạng lưới khuyến nông đến từng cơ sở xã, phường, đến từng hộ nông dân, đặc biệt quan tâm đến vùng sản xuất chuyên môn hoá và xuất khẩu.
Tóm lại, nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh hay chậm phụ thuộc rất lớn vào sự đầu tư của Nhà nước, cũng như các cơ chế, chính sách. Vì vậy, để nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững thì giải pháp với các cơ chế chính sách là hết sức quan trọng. Cần hiểu rằng, cơ chế chính sách ở đây là một hệ thống các chính sách đồng bộ, có ảnh hưởng lẫn nhau và mục đích tác động cuối cùng là thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Hệ thống chính sách bao gồm: chính sách ruộng đất, chính sách thuế, chính sách đầu tư, chính sách hỗ trợ sản xuất… một hệ thống chính sách đồng bộ và thiết thực là điều kiện cơ bản thúc đẩy sản xuất có hiệu quả hơn.
Kết luận
Trong nhiều năm qua, nhất là trong giai đoạn 1996- 2002, tỉnh Hải Dương đã huy động nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước để đầu tư cho phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh trong đó có ngành nông nghiệp. Những kết quả đầu tư trong nhiều năm qua đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển nhanh và ổn định. Bước đầu đã hình thành các vùng chuyên canh sản xuất cây lương thực, rau màu, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn ngày. Sản xuất nông nghiệp hiện nay trong tỉnh đã cung cấp đủ nhu cầu của người dân về lương thực, thực phẩm và có một phần cung cấp cho thị trường trong nước và phục vụ xuất khẩu. Những kết quả quan trọng đã đạt được trong sản xuất nông nghiệp trong những năm qua đã góp phần thực hiện thắng lợi toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh, làm thay đổi cơ bản đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, trong những năm qua do khả năng kinh tế của tỉnh còn có hạn, nguồn thu chi ngân sách trên địa bàn còn thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu thu chi, nguồn vốn ngân sách dành cho đầu tư phát triển chưa nhiều, nhất là đầu tư sản xuất nông nghiệp, Mặt khác, một số giải pháp chính sách đã thực hiện trong đầu tư cho phát triển nông nghiệp nhưng còn nhiều thiếu sót tồn tại. Điều đó dẫn đến vốn đầu tư cho nông nghiệp rất thấp so với nhu cầu, nhiều công trình lớn và quan trọng chưa có vốn để triển khai xây dựng. Cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn còn yếu kém. Trong nông nghiệp hiện nay, sản xuất nhỏ và lao động thủ công vẫn là phổ biến, năng suất, chất lượng sản phẩm thấp, hiệu quả sản xuất không cao đã làm hạn chế quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Từ phân tích về thực trạng đầu tư cho phát triển nông nghiệp trong những năm qua của tỉnh Hải Dương trên cơ sở những điều kiện tự nhiện, kinh tế-xã hội của tỉnh, luận văn đã dưa ra một số giải pháp đầu tư cho phát triển nông nghiệp tỉnh Hải Dương đến năm 2010 nhằm khắc phục khó khăn hiện nay để tăng cường đầu tư cho phát triển nông nghiệp. Huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn vốn phục vụ cho yêu cầu phát triển của nông nghiệp, tạo ra động lực mạnh mẽ để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn toàn diện và vững chắc nhằm chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Trên đây là toàn bộ nội dung của đề tài "Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương hiện nay". Nhằm góp phần nhận thức được các vấn đề lý luận về đầu tư và đầu tư phát triển nói chung và đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp nói riêng, phân tích, đánh giá tình hình thực trạng đầu tư cho phát triển sản xuất nông nghiệp trong giai đoạn 1996- 2002 của tỉnh Hải Dương và đề xuất các giải pháp đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp của tỉnh Hải Dương đến 2010. Do nhận thức còn nhiều hạn chế, những nội dung đưa ra trong đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được các thầy cô giáo và bạn đọc tham gia đóng góp ý kiến và tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ hoàn thiện ./.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Kinh tế phát triển, Khoa kinh tế phát triển, trường ĐHKTQD Hà nội, NXB Thống Kê 3/2001.
2. Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI.
3. Đầu tư trong nông nghiệp, thực trạng và phát triển- NXB CTQG 1995.
4. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, NXB Thống Kê- Hà Nội 1998.
5. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001-2010. NXB CTQG Hà Nội 2002.
6. Tạp chí kinh tế dự báo số 342 tháng 1/ 2002 của Bộ Kế hoạch và đầu tư.
7. Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2002.
8. Quy hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn tỉnh Hải Dương đến năm 2010.
9. Nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh Hải Dương, thời kỳ 2001-2005.
10.Chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá đến năm 2010 của tỉnh Hải Dương.
11. Chương trình hành động của tỉnh Hải Dương về thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001- 2010.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37049.doc