* Chuyển giao rủi ro: Mục đích nhằm chuyển bớt một số rủi ro nhất định nào đó sang người khác, thường là khách hàng. Ví dụ:
- Nên bán theo điều kiện FOB hơn là CIF, như vậy tất cả rủi ro trong quá trình vận chuyển là do khách hàng gánh chịu.
- Rút ngắn thời gian bảo hành đối với các mặt hàng bán ở nước ngoài.
* Giải quyết rủi ro qua bảo hiểm:
- Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: chịu trách nhiệm về những rủi ro có tính thương mại hoặc chính trị của hàng hoá theo hình thức cấp tín dụng xuất khẩu.
- Bảo hiểm về độ tin cậy: Bảo hiểm trong trường hợp có sự kiện cáo về độ tin cậy của mặt hàng đến người sản xuất.
Có hai nguyên tắc cơ bản để xử lý rủi ro trong công tác xuất khẩu:
- Trước hết, khai thác tất cả những khả năng có thể giảm bớt được hoặc tránh nguy hiểm bằng cách tránh rủi ro, hạn chế rủi ro, san xẻ hoặc chuyển rủi ro sang chỗ khác.
- Nếu rủi ro đã xảy ra rồi thì cố gắng đến mức tối đa thực hiện những bảo hiểm có thể được. Đối với những rủi ro lớn, nhất thiết phải có bảo hiểm thì tốt nhất nên có những lời mời chào của nhiều nhà bảo hiểm và phaỉ có sự so sánh thận trọng để chọn được những lời chào hàng tối ưu nhất.
80 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1563 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của công ty cổ phần xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ường cạnh tranh. Về cơ bản hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả .
Hiệu quả đó được thể hiện ở một số mặt sau:
Thứ nhất , quy mô và tốc độ xuất khẩu liên tục được mở rộng và gia tăng . Kim ngạch xuất khẩu 3 năm 1999-2001 bình quân tăng 20,12%/năm . Riêng năm 2001 kim ngạch xuất khẩu đạt 34.561.050 USD, tăng 23,78%so với năm 2000
Thứ hai, các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của công ty đều đạt ở mức cao .Xét về mức thực hiện năm 2001 so với năm 2000 trên các mặt thì hiệu quả kinh doanh của công ty tăng đáng kể lợi nhuận sau thuế của công ty đạt 3,912 tỷ đồng ,tăng 20,33%, vòng quay vốn lưu động tăng 3 vòng , tổng doanh thu tăng 66,48%, các tỷ suất lợi nhuận củng đạt mức khá cao. Điều đó cho ta thấy hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả về mặt kinh tế .
Thứ ba, danh mục hàng kinh doanh ngày càng được mở rộng theo hướng đa dạng hoá mặt hàng . Trong những năm qua , thực hiên chủ trương lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu , công ty đã chú trọng quan tâm đến công tác tiếp thị khai thác mặt hàng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước nên đã đã xuất khẩu được trên 20 mặt hàng bao gồm hàng nông sản ,hải sản , thủ công mỹ nghệ , thục phẩm chế biến …Tất cả các mặt hàng này được sản xuất bằng nguồn ngyên liệu có sẳn trong nước với chi phí về lao động rất rẻ lại đang được ưa chuộng trên thị trường thế giới nên kim ngạch xuất khẩu ngày càng cao, doanh thu và lợi nhuận của công ty ngày càng lớn và do đó hiệu quả kinh doanh xuất khẩu đang được nâng cao.
Thứ tư, thị trường của công ty không ngừng được mở rộng . Công ty có quan hệ bạn hàng với nhiều công ty ở các nước trên thế giới, không chỉ ở khu vục Châu á mà còn mỏ rộng sang Châu Âu, Châu Mỹ …Đây là xu hướng đa dạng hoá và đa phương hoá các mối quan hệ phù họp với tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay.
Thứ năm , uy tính của công ty ngày càng được củng cố và nâng cao trên thương trường quốc tế. Bằng cách thực hiện nghiêm túc các hợp đồng xuất nhập khẩu đã ký kết ,không ngừng cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu , công ty đã gây được thiện cảm và tạo dựng lòng tinh với khách hàng . Ngày càng có nhiều khách hàng tìm đến để xây dựng các mối quan hệ làm ăn với công ty. Nhờ vậy công ty đã đứng vững trong môi trường cạnh tranh và có những dấu hiệu tăng trưởng thuận lợi .
Thứ sáu ,thu nhập của cán bộ công nhân viên trong công ty ngày càng được nâng cao .Năm 2001, thu nhập bình quân đầu người là 2.383.000 đồng/tháng .
Có được kết quả này là do công ty đã thực hiện tốt các mặt công tác sau:
Một là , công ty rất quan tâm đến việc bồi dưởng đào tạo , nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn , tao điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi học bổ túc ngoại ngữ , nghiệp vụ ngoại thương …Hỗu hết cán bộ nhân viên của công ty đều được ra nước ngoài , tiếp cận thị truờng , tham dự hội thảo chuyên đề về các mặt quản lý doanh nghiệp do Thành phố và Phòng thương mại tổ chức. Chính vì thế mà việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu diển ra nhanh chống, chính xác,đúng chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Hai là, tổ chức lao động , bộ máy quản lý của công ty khá gọn nhẹ ,mổi người được bố trí những công việc phù hợp với trình độ và năng lực của mình do đó làm việc có hiêu quả , nang suất lao động năm sau cao hơn năm trước.
Ba là , công ty đã thực hành chính sách tiết kiệm , giảm chi phí trong kinh doanh ở các khâu như vận tãi, bóc xếp bảo quản hàng hoá , các chi phí về quản lý hành chính , cáckhoản vi phạm hợp đồng …Do vậy lợi nhuận thu được ngày càng cao . Bên cạnh đó công ty còn thực hiện chế độ khuyến khích vật chất và trách nhiệm vật chất nên mỗi thành viên của công ty đều có ý thức trách nhiệm hơn với tài sản của công ty từ đó làm giảm chi phí về hao hụt, mất mát, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2. Những tồn tại
Bên cạnh những thành tựu đạt được , hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty vẫn còn tồn tại những nhược điểm sau:
Một là, các chỉ tiêu hiệu quả đạt được chưa cao, chư tương xứng với quy mô kinh doanh của công ty như tỷ suất lợi nhuận chi phí, tỷ suất lợi nhuận doanh thu.
Hai là, giá cả mặt hàng xuất khẩu của công ty còn thấp so với giá cả quốc tế làm cho doanh thu xuất khẩu giảm xuống .
Ba là , công ty chưa thiết lập được các mối quan hệ rộng lớn với các cơ sở kinh doanh , các đơn vị nguồn hàng xuất khẩu . Việc thu gom hàng của công ty phần nhiều còn theo kiểu thu gom hàng của từng hộ gia đình và công ty chỉ thực hiện việc thu gom hàng khi khách hàng có nhu cầu . Vì vậy trong nhiều trường hợp công ty bị động về nguồn hàng hoặc tạo nguồn hàng không đảm bảo chất lượng .
Bốn là , nguồn vốn kinh doanh của công ty còn hạn chế nên công ty không có điều kiện đầu tư một cách sâu rộng cho các đơn vị nguồn hàng và đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại . chính vì vậy đã làm giảm khối lượng hàng xuất khẩu của công ty.
Năm là ,thị trường của công ty phát triển theo chiều rộng nhưng hạn chế về chiều sâu .Kim ngạch xuất khâu trên mổi thị trường còn ở mức thấp, chưa tương xứng với quy mô của nó.
Sáu là , trình độ của CBCNV kinh doanh của công ty vẫn chưa đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc . Điều này đã làm chậm tiến trình giao dịch đàm phán ,ký kết hợp dồng xuất khẩu của công ty.
Bảy là , cơ sở vật chất của công ty còn thiếu nên công ty phải thuê mướn kho tàng, phương tiện vận tải và cácphương tiện khác phục vụ cho quá trình kinh doanh. Vì vậy công ty đã không chủ động được trong việc thu mua, vận chuyển , bảo quản hàng hoá làm ảnh hưởng đến kết quả củng như hiệu quẩ kinh doanh.
3. Nguyên nhân .
qua phân tích tình hình hoạt động của công ty trong thời gian qua ta thấy việc tồn tại những yếu điểm trên là do những nguyên nhân sau đây:
Một là , công ty chưa chú trọng và ưu tiên đúng mức cho hoạt động nghiên cứu thị trường nên ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu của công ty. Thị trường quốc tế rất khác biệt về cung cầu, thị hiếu , văn hoá , phong tục tập quán …nên công việc nghiên cứu thị trường phải được coi trọng . Vì thiếu thông tin thị trường nên công ty chưa dám mạnh dạn ký kết các hợp đồng có giá trị lớn . Điều này làm ảnh hưởng lớn đến khôi lượng hàng hoá xuất khẩu của công ty nên làm giảm hiệu quả kinh doanh . Củng vì không nắm vững thị trừơng nên công ty không nắm bắt các thông số giá cả quốc tế , chưa dự doán được một cách chính xác sự biến động của giá cả để có các biện pháp điều chỉ kịp thời hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho phù hợp , do đó không tận dụng được các cơ hội kinh doanh , bị chèn ép giá cả làm giảm giá hàng xuất khẩu .
Hai là , công ty chưa xác định được chiến lược kinh doanh của công ty mang tính thời vụ . Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu được thực hiện theo những kế hoạch ngắn hạn và thay đổi liên tục làm ảnh hưởng đến việc chủ động thực hiện các hoạt động thực hiện các hoạt động xuất khẩu và cản trở khả năng tăng trưởng quy mô kinh doanh của công ty.
Ba là , trình độ của công nhân viên củng như sự hiểu biết về pháp luật , về văn hoá quốc tế còn hạn chế nên đã làm châm trể quá trình giao dịch , đàm phán, ký kết các hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu . Việc lưa chọn phương thứcgiao dịch không hợp lý làm nãy sinh các chi phí kinh doanh không cần thiết, tổ chức thực hiện hợp đồng kinh doanh với tiến độ còn chậm , việc thanh toáncòn gặp nhiều rủi ro.
Thư tư, ban lãnh đạo của công ty chưa có kinh nghiệm trong việc tổ chức quản lý công ty theo mô hình công ty cổ phần , một loại hình doanh nghiệp còn mới mẽ nên đã gặp lúng túng trong công tác tổ chức kinh doanh . Hoạt động của các bộ phận chưa ăn khớp nhịp nhàng ảnh hưởng đến hiệu kinh doanh của công ty.
Những khiếm khuyết trên cần phải được giải quyết nhanh chống để hoạt động kinh doanh của công ty dần đi vào ổn định . Công ty phải tìm ra các biện pháp thích hợp để giải quyết khó khăn, tận dụng cơ hội để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của công ty. Đây là một bài toán khó đặt ra cho ban lãnh đạo của công ty phải tìm lời giải đáp . Bài toán này được giải quyết sẽ giúp cho công ty ngày càng tăng trưởng , Phát huy thế và lực của mình trên thương trường quốc tế.
Chương III
một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ỏ công ty xnk nam hà nội
I. Quan điểm và định hướng phát triển Thương mại Quốc tế ở Việt Nam
1. Hệ thống quan điểm cơ bản phát triển Thương mại quốc tế ở Việt Nam.
Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc giá nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó Thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, khả năng của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, khả năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của văn hoá nhân loại.
Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước là mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng lỹ thuật cao. Chính vì vậy, trong công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, đặc biệt là sau khi tiến hành đổi mới kinh tế xã hội. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Bởi vậy, ta thấy hội nghị giữa nhiệm kỳ (khoá VII) của Đảng củng đưa ra tư tưởng "giữ vưỡng độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế , đa phương hoá , đa dạng hoá quan hệ đối ngoại ",Đại hội VIII tiếp tục khẳng định quan điểm chỉ đạo ấy , và hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương khoá VIII nêu quan điểm "...kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ , rộng mở ...",đến Đại hội IX, lần đầu tiên Đảng ta đưa ra chủ trương xây dựng nền kinh tế độc lập , tự chủ trong quá trình tiến hành đổi mới, hội nhập , mở rộng quan hệ đối ngoại . Độc lập tự chủ không có nghĩa là đống cửa, khép kín, bài ngoại mà là chủ động hội nhập ngày càng nhiều hơn, hiệu quả hơn vào kinh tế quốc tế, không phụ thuộc vào sức ép từ bên ngoài. Với định hướng phát triển kinh tế của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chinh sách quan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển Thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nước, vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu. Chính vì lẽ đó, quan điểm phát triển Thương mại quốc tế ở Việt Nam là:
Khắc phục tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế, mở cửa, từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Qúa trìnhkhu vực hoá và toàn cầu hoá đang làm cho các nước, nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển , đứng trước nhiều thời cơ mới đi đôi với nhiều thách thức gay gắt , mà cách ứng xử thích hợp nhất là không tự cô lập mình và đứng ngoài xu thế ấy . Thực tế cho thấy , nước nào có chiến lược kinh tế đối ngoại thích hợp , sẻ vừa tranh thủ được ngoại lực, vừa phát huy được nội lực để phát triển nhanh và bền vững.
Dưa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiển của 15 năm đổi mới , tại Đại hội IX, Đảng ta lần đầu tiên nêu rỏ quan điểm và chủ trương chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Điều đáng lưu ý là trong hội nhập kinh tế quốc tế viêc sử dụng hiệu quả nguồn ngoại lực lại rất tuỳ thuộc vào năng lực hấp thụ ở trong nước,trong đó yếu tố quyết định là con người , kết cấu kinh tế hạ tầng kinh tế- xã hội và năng lực quản lý. Nhiều nước do năng lực hấp thụ ở mức thấp , lại thêm nạn tham nhủng làm thất thoát, lãng phí ...,nên kết cục là ngày càng vay nhiều càng thêm nghèo , ghánh nặng nợ nần ngày một chồng chất.
Ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng , mặc dù lúc đó viện trợ và vốn vay bên ngoài chủ yếu từ các nước trong phe XHCN, Chủ Tịch Hồ Chi Minh đã căn dặn : sự dúp đở từ bên ngoài chỉ như thêm vốn cho ta. "Ta phải khéo dùng cái vốn ấyđể bồi bổ lực lượng cho ta, phát triển khả năng của ta. Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối chớ vì bạn giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại ". Hiểu một cách thấu đáo là có phát huy cao độ nội lực mới sử dụng hiệu quả ngoại lực, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển nhanh và bền vững.
1.2. Coi trọng hiệu quả kinh doanh Thương mại quốc tế trong hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả là mục tiêu theo đuổi của tất cả các doanh nghiệp. ở đây phải xác định và phân biệt hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả thể hiện quan hệ giữa kết quả và chi phí bỏ ra. Trước hết phải xác định hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế. Hiệu quả kinh doanh Thương mại quốc tế là thước đo để cân nhắc, lựa chọn các giải pháp đầu tư, quyết định đầu tư phát triển hay ngừng kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của phần định tính và định hướng. Các chỉ tiêu định lượng như lợi nhuận, mức doanh lợi nhuận, mức doanh lợi, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh... Chỉ tiêu hiệu quả định tính như khả năng cạnh tranh củng cố niềm tin của khách hàng vị thế của doanh nghiệp ... Không đạt được hiệu quả kinh doanh thì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận không đạt được, không có hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp không thể tồn tại được, hoạt động kinh doanh sẽ bị ngừng trệ.
Bên cạnh đó phải tính hiệu quả kinh tế - xã hội. Vấn đề giải quyết mặt xã hội của Thương mại quốc tế trong cơ chế thị trường không giản đơn. ở đây, phải tính đến vấn đề môi sinh, môi trường, sự phát triển đồng đều giữa các vùng, các khu vực... Có nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quốc tế phải làm sao đạt hiệu quả cao cho bản thân doanh nghiệp nhưng không ảnh hưởng đến các lợi ích xã hội đặc biệt là văn hoá, môi trường, đóng góp vào việc thực hiện cac mục tiêu kinh tế - xã hội như góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng quốc gia, nâng cao thu nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cải thiện cán cán thanh toán.
Suy đến cùng muốn có hiệu quả thì phải bảo đảm lợi ích vật chất cho các đối tượng tham gia hoạt động Thương mại quốc tế. Lợi ích là chất kết dính các hoạt động theo mục đích chung. Vì vậy để các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động phấn đấu vì hiệu quả kinh tế xã hội nói chung, của toàn kinh tế quốc dân thì Nhà nước phải có chính sách kết hợp hài hoà giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích tập thể với lợi ích của Nhà nước, trong đó lợi ích cá nhân phải được coi trọng và xem như là động lực. Nguyên tắc các bên tham gia đều có lợi là nguyên tắc tối cao, ai vi phạm sẽ không thể tổ chức các hoạt động Thương mại quốc tế có hiệu quả trước mắt và lâu dài.
1.3. Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước.
Quan điểm này được áp dụng trong lĩnh vực Thương mại quốc tế đã mang lại cho lĩnh vực hoạt động này những màu sắc sinh động hơn. Ngày nay kinh doanh xuất nhập khẩu không còn là độc quyền của các Công ty quốc doanh nữa, đặc biệt với nghị định 57/NĐ- CP ngày 31/7/1998 , nghị định 44/ND-CP ngày 02/08/2001(sữa đổi và bổ sung nghị định 57CP) của Chính phủ thì không chỉ riêng các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu mới được phép kinh doanh xuất nhập khẩu.Một bước tiến trong công tác quản lý xuất nhập khẩu là nghị định 46/NĐ-CP ra ngày 04/04/2001 thực hiện công tác kế hoạch cho 5 năm thay vì một năm như trước đây. Quy luật cạnh tranh buộc các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải tìm ra các biện pháp thích hợp để từng bước có hiệu quả kinh doanh. Đồng thời sự hợp tác giữa các tổ chức kinh tế các thành phần kinh tế khác nhau trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ làm cho hiệu quả kinh tế xã hội được chú trọng. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ mang lại nhiều lợi ích, song cũng có một số điểm bất lợi. Bởi vì cạnh tranh sẽ dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng xuất nhập khẩu. Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ kịp thời sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về xã hội như buôn lậu, trốn thuế, ép giá.... dễ phát triển. Mặt khác cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa các chủ thể kinh tế bằng các biện pháp không lành mạnh như phá hoại, cản trở công việc của nhau. Việc quản lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá và đạo đức xã hội.
1.4. Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ Thương mại
Đa dạng hoá quan hệ Thương mại là con đường dẫn tới Thương mại hoá toàn cầu, mở rộng quan hệ buôn bán với tất cả các nước, các khu vực không phân biệt chế độ chính trị cũng như thành phần kinh tế đảm bảo việc lựa chọn những đối tượng, bạn hàng, xây dựng mối quan hệ buôn bán lâu dài, tạo dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau. Trong điều kiện kinh tế kém phát triển như ở Việt Nam, việc đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu phải hết sức chú trọng đến việc phát huy, từng bước tạo vị thế mới trên thị trường thế giới, hình thành các mối quan hệ cùng có lợi với các nước khác trên thị trường.
Trên đây là một số quan điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động kinh doanh Thương mại quốc tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải hiểu và nắm vững những quan điểm này trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược kinh doanh dài hạn nhằm đạt được mục tiêu của mình, đồng thời có các giải pháp thích hợp từng bước nâng cao hiệu qủa kinh doanh.
2. Định hướng phát triển Thương mại quốc tế ở nước ta trong giai đoạn 2001 - 2010.
Thực hiện chủ trương mở cửa nền kinh tế thực hiện theo Đại hội IX của Đảng, trong giai đoạn Thương mại quốc tế phát triển theo những định hướng sau đây.
Một là, khuyến khích mọi thương nhân tham gia xuất khẩu và hướng về xuất khẩu, đẩy mạng xuất khẩu các hàng hoá chế biến sâu và có hàm lượng kỹ thuật cao.
Xuất khẩu là một cơ sở nhập khẩu là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Bước vào thập kỷ 2001 - 2010, nguồn lực của nước ta đã khác trước nhiều, các nguồn lực như lao động, kể cả chất xám, đất đai, tài nguyên, thị trường trong nước còn khá dồi dào và có khả năng khai thác để phát triển kinh tế, trong đó có Thương mại quốc tế. Một số ngành sản xuất trong nước phát triển với tốc độ cao, tạo ra được khối lượng lớn về sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, ổn định, giá thành hạ, có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Chính vì vậy mà hướng chính xuất khẩu trước mắt là xuất khẩu các mặt hàng được chế biến từ những nguồn nguyên liệu có sẵn là xuất khẩu sử dụng nguồn lao động dồi dào trong nước như mặt hàng nông, lâm sản nhiệt đới và thuỷ sản, hàng công nghệp nhẹ, hàng tiểu thủ công nghiệp và mỹ nghệ, hàng gia công và một số sản phẩm công nghệ cơ khí. Đồng thời " cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, công nghệ hiện đại, đủ sức cạnh tranh trong xuất khẩu".
Trong một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn là phổ biến như nước ta, để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, chúng ta không thể chỉ trông chờ vào khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng như không thể chỉ dựa vào việc thu mua những sản phẩm thừa nhưng rất bấp bênh của nền sản xuất nhỏ, phân tán, hoặc bằng lòng với năng lực sản xuất của các cơ sở công nghiệp hiện có, mà phải xây dựng thêm nhiều các cơ sở sản xuất mới để tạo nhiều hàng xuất khẩu dồi dào, tập trung, có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩnh quốc tế. Do đó, đầu tư vốn là biện pháp cần ưu tiên để gia tăng xuất khẩu.
Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay gồm: vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư ngoài nước.
Tuy nguồn vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng, nhưng đầu tư cho sản khẩu cần khai thác từ các nguồn vốn trong nước là chủ yếu. Do đó, cần khai thác nguồn vốn trong nội bộ nền kinh tế bao gồm vốn Nhà nước và vốn của nhân dân.
Cần coi trọng việc thu hút vốn của nhân dân vào việc đầu tư cho xuất khẩu. Đây là việc lâu nay chưa được coi trọng. Việc Nhà nước ban hành luật đầu tư trong nước sẽ là cơ sở pháp lý để có thành phần kinh tế hăng hái và an tâm bỏ vốn ra đầu tư, nhất là đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu.
Để khuyến khích bỏ vốn đầu tư làm ra hàng xuất khẩu, Nhà nước cần có các chính sách ưu tiên cho lĩnh vực này như: Cho phép vay vốn lãi suất ưu đãi thấp, giảm hoặc miễn nộp thuế lợi tức một số năm đối với những sản phẩm làm ra trong những năm đầu chưa có lãi hoặc thấp (so với kinh doanh trong nước), Nhà nước có thể áp dụng chính sách trợ cấp có điều kiện...
Hai là, hoàn thiện cơ chế xuất khẩu ổn định và phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp với chính sách bảo hộ sản xuất có chọn lọc, có điều kiện và có thời gian. Theo đó, cơ chế xuất khẩu năm 2001 - 2010 đã được nới lỏng rất nhiều thể hiện ở các nội dung sau:
- Doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu mọi loại hàng hoá trừ những mặt hàng nhà nước cấm.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xuất khẩu như các doanh nghiệp trong nước cả về thủ tục xuất khẩu và mặt hàng kinh doanh nhưng vẫn phải thực hiện theo quy định của luật Đầu tư nước ngoài.
Từ năm 2001 trở đi, danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của bộ Thương mại, quy định chỉ có mặt hàng dệt may sang thị trường có hạn ngạch, còn nhập khẩu chỉ còn 15 mặt hàng phải có giấy phép.
Kế hoạch xuất khẩu được áp dụng cho 5 năm chứ không phải một năm như trước đây (theo nghị định 46NĐ-CP ra ngày 04/04/2001).
- Không còn giấy phép chuyển, doanh nghiệp chỉ cần đăng ký là được xuất hàng.
- Tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều hưởng thuế suất khẩu 0%.
- Cắt giảm dần việc cấm, tạm ngừng, hạn ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu và giá thành thuế tối thiểu, tiến tới xoá bỏ trong đàm phán Thương mại quốc tế.
- Các biện pháp quản lý chuyên ngành sẽ dần được xoá bỏ để theo hướng quản lý theo hình thức quy định tiêu chuẩn, điều kiện để doanh nghiệp có cơ sở làm thủ tục xuất nhập khẩu Hải quan, không cấp giấy phép hoặc duyệt mặt hàng số lượng, giá trị.
- Bộ Thương mại sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp xâm nhập thị trường nước ngoài bằng các biện pháp xúc tiến Thương mại.
Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay tuy đã có nhiều tiến bộ về chất lượng vẫn chưa đạt so với tiêu chuẩn quốc tế vì vậy, giá hàng xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn các mặt cùng loại các mặt cùng loại của các nước khác. Nâng cao chất lượng là điều kiện để tăng nhanh khối lượng xuất khẩu đồng thời nâng cao uy tín về chất lượng hàng Việt Nam trên thị trường thế giới.
Mục tiêu phát triển xuất khẩu ở nước ta trong giai đoạn 2001-2010.
Trong 10 năm qua, lĩnh vực xuất nhập khẩu đã đạt được những thành tưu to lớn và đạt được những mục tiêu đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế –xã hội thời kỳ 1991-2000.Kim nghạch xuất nhập khẩu năm 2000 đạt 16,5 tỷ USD tăng 25,5% so với năm 1999 .Trong đó xuất nhập khẩu hàng hoá đạt 14,3 tỷ USD, tăng 23,9% so với năm 1999 và tăng gấp 5,6 lần năm 1990 đạt mức tăng trưởng bình quân 18,4%/năm , đóng góp vào tăng trưởng GDP, giúp nền kinh tế vượt qua thời kỳ khủng hoảng vào đầu những năm 1990. Xuất khẩu đang là đầu ra quan trọng cho nhiều ngành kinh tế, góp phần quan trọng vào công cuộc CNH,HĐH đất nước. Trong năm 2001 nền kinh tế thế giới trì trệ nhất là sau sự kiện 11/9, tăng trưởng kinh tế còn 1,3%bằng 1/3của năm 2000 Trong đó tăng trưởng kinh tế của mỹ đạt 1,1% so với 4,1% năm 2000, Nhật bản :-0,8%so với 1,5% năm trước , hai nền kinh tế này chiếm 46%tổng sản lượng kinh tế thế giới , khu vực đồng euro chỉ đạt 1,5% so với 3,5% năm 2000, làm cho tâưng trửởng của các nước có thu nhập cao giảm còn 0,9%, bằng 1/4 so với năm trước . Trong tình hình đó tăng truởng kinh tế năm 2001của nước ta vẫn đạt 6,8% so với 6,7% năm 2000là một cố gắng cao , song về thương mại củng bị ảnh hưởng nhiều của xu thế trên .Xuất khẩu đạt tổng kim ngạch 15,1 tỷ USD tăng 4,5% là mức thấp nhất trong 3 năm lại đây , tụt xuống một con số, tuy có tăng về lượng nhưng tăng chậm về kim ngạch do giá cả thế giới giảm , giá trị gia tăng trong hàng xuất khẩu chưa có cải thiện đáng kể tương xứng với gia tăng giá trị sản xuất do chúng ta còn lệ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu nước ngoài, công nghệ chưa vượt trội, chịu khấu hao lớn do ở giai đoạn đầu của dự án, bị cạnh tranh về giá cả và xuất khẩu qua trung gian quốc tế.
Vì vậy Đảng và nhà nước ta đã đề ra mục tiêu phát triển năm 2002 là:
Dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 của nước ta đạt 16,6 tỷ USD tăng 10% so với năm 2001, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài tăng 14,7% chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu: Nông lâm thuỷ sản đạt 5 tỷ USD tăng 11% công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 5 tỷ USD, giảm 2% (do giá dầu thô giảm), hàng công nghiệp chế biến đạt 6,6 tỷ USD tăng 20%.
Cơ cấu thị trường : Tăng thị phần vào Mỹ, EU khôi phục thị trường SNG và Đông Âu, dự kiến tỷ trọng: Châu á 55% châu âu 24% Bắc mỹ 11% Châu Đại Dương 6%.
Dự kiến kim ngạch xuất khẩu năm 2010 đạt 62,7 tỷ USD, gấp hơn 4 lần kết quả năm 2000, trong đó xuất khẩu hàng hoá dự kiến đạt 54,6 tỷ USD,xuất khẩu dịch vụ dự kiến đạt 8,1 tỷ USD. Mục tiêu xuất khẩu hàng hoá dịch vụ thời kỳ 2001-2010phải đạt mức tăng trưởng bình quân tư 15% trở lên.
II. mục tiêu và Phương hướng phát triển xuất khẩu của Công ty SIMEX..
1. Phương hướng phát triển :
Để đạt được những mục tiêu trên, Công ty SIMEX tiếp tục định hướng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các năm qua, khắc phục những khó khăn còn tồn tại. Nhằm đạt được những hiệu quả xuất khẩu cao, Công ty xác định phương hướng phát triển xuất khẩu sau:
* Củng cố và phát triển thị trường tiêu thụ. Tăng cường các mối quan hệ hợp tác với bạn hàng, tạo lập uy tín trong kinh doanh xuất khẩu.
*Nâng cao hiệu quả nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng danh mục mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả kinh tế. Cải biến cơ cấu hàng hoá theo hướng tiên tiến.
*Nâng cao hiệu quả của các hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu đặc biệt là nghiệp vụ giao dịch và đàm phán, tạo nguồn hàng, ký kết và thực hiện hợp đồng.
2. Mục tiêu phát triển:
Trong quá trình kinh doanh,mọi doanh nghiệp đều phải xác định cho mình những mục tiêu để phấn đấu. Các mục tiêu này có thể coi như kim chỉ nam hướng dẫn mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các mục tiêu này không cố định trong suốt quá trình kinh doanh mà tuỳ từng điều kiện, từng giai đoạn phát triển cụ thể doanh nghiệp phải xác địnhđược mục tiêu nào là chủ yếu trong mỗi giai đoạn để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất cũng như đạt được mục tiêu chung của công ty là phát triển công ty không ngừng. Để đạt được điều này, công ty phải căn cứ vào khả năng, tiềm lực của mình căn cứ vào môi trường kinh doanh cụ thể nghĩa là doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh và trên cơ sở đó tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể để đề ra các mục tiêu cho từng thời kỳ kinh doanh nhất định một cách phù hợp và hiệu quả nhất.
Đối với công ty cổ phần XNK Nam Hà Nội-SIMEX, là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu do đó mục tiêu trước mắt thường xuyên và lâu dài của công ty là lợi nhuận. Mọi hoạt động kinh doanh của công ty nhằm vào tìm kiếm lợi nhuận tối đa, trên cơ sở ngày càng nâng cao hiệu quả kinh doanh với các chỉ tiêu doanh lợi cao, vòng quay vốn nhanh, tỷ xuất ngoại tệ xuất khẩu cao…Đi đôi với việc mở rộng quy mô xuất khẩu cả về khối lượng lẫn chất lượng, phát triển thị trường truyền thống và thâm nhập những thị trường mới. Trong dài hạn công ty đặt ra mục tiêu là tăng cường thế lực của mình như là mở rộng quy mô kinh doanh, tiến hành liên doanh liên kết, thiết lập các mối quan hệ kinh tế với nhiều đối tác trong và ngoài nước. Bên cạnh các mục tiêu đó, công ty còn chú trọng vào nhiều mục tiêu khác nữa tuỳ vào từng giai đoạn cụ thể của quá trình kinh doanh như : Bảo vệ môi trường, phúc lợi xã hội, an toàn…để phát triển một cách bền vững.
Trước mắt trong vài năm tới mục tiêu của công ty là cố gắng khai thác tạo ra các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới nhằm tăng lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu cũng như thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng có lợi làm tăng doanh thu và tăng lơị nhuận. Đối với hoạt động xuất khẩu, công ty đưa ra những mục tiêu cụ thể sau :
Chỉ tiêu
2002
2003
Kim nghạch XK(Tr.USD)
49,2
59,0
Lợi nhuận XK(TỷđồngVN)
3,85
4,43
Tổng doanh thu(TỷđồngVN)
876
1000
iII. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động XK của công ty.
1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường.
Đối với nghiên cứu thị trường có hai phương pháp là nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Thông qua hai phương pháp này để tìm hiểu và xác định nhu cầu của thị trường, hàng hoá, dịch vụ, sức cạnh tranh trên thị trường.
Nghiên cứu thị trường thông qua hai bước đó là bước thu thập thông tin và bước xử lý thông tin. Đối với bước thu thập, tuỳ vào đặc điểm của thị trường, nguồn lực của công ty và đặc biệt là tuỳ thuộc vào chiến lược của công ty mà thu thập theo phương pháp trực tiếp hay phương pháp gián tiếp. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó.
Tuy nhiên, dù theo phương pháp nào đi chăng nữa, hoạt động nghiên cứu thị trường đòi hỏi thông tin phải chính xác, kịp thời và phục vụ cho các quyết định của công ty. Ngược lại, thông tin không chính xác , không đầy đủ thì thông tin đó sẽ trở nên vô nghĩa, không phục vụ được gì cho các kế hoạch của doanh nghiệp. Đối với bước xử lý thông tin đòi hỏi cán bộ làm công tác phân tích phải có một số kiến thức nhất định về thị trường cần phân tích, có kinh nghiệm trong phân tích và xử lý thông tin. Để làm được điều này, công ty mỗi năm phải có kế hoạch bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân viên chức, tổ chức các lớp đào tạo nâng cao chuyên môn, đào tạo và đào tạo lại, tuyển dụng và bổ xung thêm cán bộ công nhan viên chức có trình độ.
Giữa hai khâu thu thập và xử lý thông tin có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, mỗi khâu đều phải làm tốt thì mới phát huy hết vai trò của việc nghiên cứu thị trường được.
Hoạt động nghiên cứu thị trường có một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh cuả công ty. Nó là cơ sở khoa học để hướng dẫn toàn bộ quá trình kinh doanh của công ty. Hoạt động đem lại hiệu quả tối đa chỉ khi phục vụ tốt khách hàng, bởi vì khách hàng lag người trả tiền và mang lại lợi nhuận cho công ty. Để thúc đẩy quá trình nhận “ sự phục vụ của công ty dành cho họ” cần thiết phải nghiên cứu thi trường. Khó hăn hơn khi kinh doanh xuất khẩu còn có sự di chuỷen các nguồn hàng và tiền tệ từ quốc gia naỳ sang quốc gia khác.
Hiện nay, công ty còn chưa quan tâm đúng mức cho hoạt động này, một phần do phạm vi thị trường quá lớn trong khi đó, nguồn vốn của công ty còn hạn chế mà hoạt động này cần một khoản chi phí nhất định. Do đó, còn tốn tại nhiều hạn chế trong tiếp cận, mở rộng thị trường và nâng cao thị phần trên thị trường. Để khắc phục những hạn chế đó trong điều kiện công ty có thể thành lập một số bộ phận chuyên trách thực hiện cong tác nghiên cứu thị trường.
Để đạt được mục đích hiểu sâu sắc về khách hàng, hàng hoá dịch vụ mà họ cần thì bộ phận này cần xác định rõ các vấn đề sau:
- Khách hàng là ai ? Nhu cầu, thị hiếu, thu nhập và nức độ tiêu dùng của họ.
-Hàng hóa của nước nào? Loại hàng gì? Hiện nay có bán trên thị trường không? Có bán cùng thị trường với công ty không? Mức độ thay thế hàng hoá của họ với hàng hoá của công ty, giá cả và điều kiện thanh toán của họ như thế nào.
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh của công ty qua các mặt sau:
Sức mạnh tài chính.
Dự trữ nguồn cung cấp ( nguyên vật liệu, hàng hoá ... )
- Tình trạng thiết bị hiện có có khả năng thay thế,các bằng phát minh sáng chế hiện đang làm chủ.
- Nhãn hiệu hàng hoá và uy tín của đối thủ.
- Hệ thống tổ chức của đối thủ và quan điểm quản lý.
- Trình độ quản lý, kỹ năng của con người trong hoạt động kinh doanh của đối thủ.
- Giá cả cả hàng hoá trên thị trường quốc tế, các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ra sao và nhân tố nào nhân tố chính?
- Xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái trên thị trường.
2. Hoàn thiện công tác thu gom tạo nguồn hàng XK.
Nâng cao hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Simex.
Hiệu quả của tác thu mua tạo nguồn hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, và chủng loại hàng hoá, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp cũng như khả năng cạnh tranh, khả năng mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Trong những năm tới, để đạt được hiệu quả tốt hơn trong công tác này, Công ty có thể sử dụng một số giải pháp như sau:
* Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thu mua và tạo nguồn hàng. Đầu tư mạnh vào việc mua sắm các phương tiện vận tải, các thiết bị xếp dỡ, hệ thống bến bãi, kho tàng nhằm tạo ra sự cơ động linh hoạt trước những biến động của nguồn hàng, của thị trường nếu có.
* Tăng cường cung cấp tín dụng cho người sản xuất nuôi trồng và chế biến hàng nông, lâm, thuỷ hải sản.
Đây thực chất là hình thức đầu tư tài chính của doanh nghiệp cho nhà cung cấp hàng hoá. Mặc dù phương pháp này không phải là mới nhưng nó vẫn phát huy được hiệu quả khá cao. Cung cáp tín dụng cho người sản xuất, nuôi trồng và chế biến hàng hoá sã đảm bảo cho công ty chủ động có được nguồn hàng ổn định, giành được ưu đãi từ phía nhà cung cấp và đặc biệt công ty có thể thông qua họ để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu.
* Tiếp tục đầu tư liên doanh liên kết với các doanh nghiệp thuộc cácthành phần kinh tế trong việc sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.
* Thiết lập hệ thống đại lý thu mua hàng hoá ở các tỉnh thành phố trong cả nước, đặc biệt là vùng sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt nông, lâm, thuỷ, hải sản.
3. Hoàn thiện công tác chào hàng, bán hàng trực tiếp:
Nhìn chung chất lượng công tác chào hàng của công ty hiện nay còn chưa đem lại hiệu quả cao, số lượng hợp đồng được ký kết so với số đơn chào hàng là rất ít. Trong thời gian tới công ty cần chú trọng đến việc đào tạo đội ngũ đại diện thương mại, cung cấp các điều kiện cần thiết cho đội ngũ này để họ có thể giao dịch với bạn hàng một cách thuận lợi.
Đội ngũ đại diện của công ty phần lớn không được đào tạo một cách chính quy bài bản vè các nghiệp vụ có liên quan đến công tác chào hàng, mặt khác do còn nặng tư tưởng quan liêu bao cấp do đó họ vẫn còn lúng túng khi gặp phải những tình huóng bất ngờ xảy ra, chưa thông thạo về các kỹ năng soạn thảo một đơn chào hàng, không xác định được phạm vi các bạn hàng mà họ định chào hàng.
Để giải quyết vấn đề trên công ty cần tăng cường hơn nữa ngân sách cho hoạt động đào tạo đội ngũ đại diện thương mại, cử những nhân viên có năng lực đi học tập và trao đổi kinh nghiệm ở nước ngoài. Ngoài ra, công ty có thể tham khảo ý kiến của tư vấn hoặc mời những chuyên gia trong lĩnh vực này hợp tác. Khi soạn thảo các đơn chào hàng cần căn cứ vào mục tiêu của công ty cũng như đặc tính riêng, thông lệ kinh doanh của mặt hàng đó để xác định đối tượng cần chào hàng và nội dung đơn chào hàng.
Về công tác bán hàng trực tiếp công ty cần chú trọng đến những vấn đề sau:
Đầu tiên cần phải chú trọng đội ngũ cán bộ đàm phán giao dịch của công ty bằng cách nâng cao trình độ đàm phán, thuyết phục trong quá trình đàm phán để có thể thoả thuận và ký kết được hợp đồng với bạn hàng. Để làm được điều đó, trước tiên đội ngũ giao dịch phải có kỹ năng giao tiếp tốt đồng thời phải có trình độ hiểu biết ngôn ngữ, trong quá trình giao dịch tuỳ từng đối tượng giao dịch mà có cách xử lý riêng, đem lại hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, họ phải có vốn hiểu biết về văn hoá của bạn hàng, tuân thủ các nguyên tắc cũng như thông lệ quốc tế về đàm phán. Ngoài ra, khả năng ứng biến tốt, sức thuyết phục cao, mềm mại trong đàm phán cũng là yêu cầu đối với đội ngũ này.
Do vậy, ngay từ khâu tuyển chộn công ty cần phải chú trọng tới những ngưòi có khả năng, đào tạo và đào tạo lại trong quá trình làm việc. Khi đã có đội ngũ cán bộ đàm phán tốt, công ty có thể mở các văn phòng đại diện của mình ở các thị trường lớn nơi công ty có khối lượng hàng hoá xuất khẩu lớn, có khả năng xâm nhập và nâng cao thị phần.
4. Hoàn thiện công tác quảng cáo, giới thiệu các mặt hàng của công ty ra thị trường nước ngoài.
Ngày nay, quảng cáo đã thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu cho Công ty trong việc mở rộng kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao khối lượng sản phẩm bán ra gây dựng uy tín trên thị trường.
Trong thời gian qua, công tác quảng cáo giới thiệu sản phẩm hay đúng hơn là lợi ích của quảng cáo giới thiệu sản phẩm chưa được công ty chú trọng và quan tâm khai thác. do vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng của công ty trong những năm tới, công ty cần phải xây dựng một kế hoạch quảng cáo lâu dài, phù hợp với khả năng tài chính và đặc điểm mặt hàng kinh doanh của công ty. Trước mắt công ty có thể áp dụng một số biện pháp quảng cáo sau:
+ Quảng cáo thông qua hình thức gửi một số thư chào hàng có kèm theo CATALO giới thiệu hàng hoá.
+ Quảng cáo bằng cách tham dự các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài.
+ Quảng cáo thông qua mạng Internet..
Tuy nhiên, để thu được hiệu quả cao trong hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm, công ty cần thực hiện nghiêm chỉnh những yêu cầu sau:
- Xác định mục đích quảng cáo.
Khi tiến hành một chương trình quảng cáo, công ty phải xác định được mục đích cho hoạt động này. mục đích của quảng cáo có thể là tìm thị trường cho mặt hàng mới, phát triển thị phần cho hàng hoá đã có mặt ở thị trường, hoặc có thể là tăng khối lượng hàng hoá bán ra, thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá.
Dự kiến ngân sách tài chính quảng cáo.
Đây là công việc hết sức quan trọng cần thiết trước khi tiến hành một trương trình quảng cáo. công ty chỉ có thể đánh giá được tính hiện thực của một chương trình quảng cáo khi tính được những chi phí bỏ ra để thực hiện nó. Một chương trình quảng cáo có tính hiện thực phải phù hợp với khả năng tài chính của công ty, ngược lại nó sẽ là một chương trình không có tính hiện thực.
- Đánh giá hoạt động quảng cáo.
Sau khi tiến hành quảng cáo, công ty phải thực hiện việc đánh giá kết quả của hoạt động quảng cáo đem lại. Phương pháp phổ thông sử dụng để đánh giá hiệu quả của hoạt động quảng cáo hiện nay là dựa vào chi phí của quảng cáo bỏ ra với với kết quả do việc quảng cáo mang lại. Nội dung phân tích đánh giá hiệu quả của quảng cáo cần tập trung vào khối lượng sản phẩm bán ra, lợi nhuận thu được số lượng và giá trị các hợp đồng dặt hàng trước và sau quảng cáo.
* Tóm lại, quảng cáo giới thiệu sản phẩm là công việc đòi hỏi rất công phu và tốn kém, song để thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu ra thị trường các nước thì đây là một công việc mà SIMEX không thể bỏ qua.
5.Nâng cao hơn nữa trình độ của cán bộ công nhân viên.
Để hoạt động kinh doanh xuất khẩu ngày càng thu được hiệu quả cao, công ty phải có một đội ngũ kinh doanh giỏi, bởi con người là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh doanh. Yêu cầu đối với cán bộ nhân viên là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy tốt, linh hoạt và phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ được những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng.
Hơn nữa, trong những năm tới, dự đoán quy mô hoạt động xuất khẩu của công ty sẽ tăng lên, do đó, nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty trở thành một yêu cầu khách quan cần được ưu tiên thực hiện ngay bây giờ.
Nhằm nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty nên:
- Tổ chức những cuộc hội thảo khoa học có sự tham gia của nhiều cán bộ công nhân viên trong công ty với các chuyên gia về lĩnh vực ngoại thương và các lĩnh vực có liên quan.
- Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên của công ty đi học tập và nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín trong nước.
- Mở các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính cho cán bộ công nhân viên.
- Có chế độ khen thưởng kịp thời cho những sáng kiến, giải pháp đem lại hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu, cho những cán bộ hoàn thành tốt công tác, đem lại lợi nhuận cho công ty...
6. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh.
Vốn là yêu cầu cấp thiết của tất cả các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp, việc huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất luôn là bài toán đặt ra cho mọi doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình.
Qua nghiên cứu tình hình kinh doanh của Simex, chúng ta có thể nhận xét rằng: hoạt động huy động và sử dụng vốn của công ty trong thời gian qua chưa đạt được hiệu quả cao như mong muốn. Công ty vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn vốn, vẫn còn lãng phí trong việc sử dụng vốn, một số mặt hàng được đầu tư khai thác nhưng đem lại hiệu quả thấp. Tất cả những yéu điểm đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của Công ty.
- Nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp sau:
* Về huy động vốn:
Công ty cần phải chú trọng khai thác triệt đẻ các nguồn vốn sẵn có, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng và nguồn vốn tín dụng từ khách hàng.
- Tìm kiếm và thu hút đối tác đầu tư liên doanh liên kết kinh tế trong và ngoài nước.
- Có thể phát hành cổ phiếu mới nhằm thu hút nguồn vốn nhà rỗi ở bên ngoài hoặc nâng mênh giá cổ phiếu thông qua hình thức cộng cổ tức hàng năm.
* Về sử dụng vốn:
- Tích cực đầu tư vào kinh doanh các mặt hàng tinh chế có giá trị thương phẩm cao trên thị trường.
- Cắt giảm mọi chi phí không cần thiết, tiến hành thực hiện phương châm tiết kiệm trong mọi hoạt động của quá trình kinh doanh.
- Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng, thực hiện tốt công tác thanh toán với người mua dựa trên nguyên tăc: thu đủ về giá trị, nhanh về thời gian để đảm bảo quá trình thu hồi vốn, tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn.
7. Một số biện pháp giảm rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, Công ty thường gặp những rủi ro nhất định như: bạn hàng không đủ khả năng thanh toán, hoặc việc thanh toán chậm, hàng trong quá trình xuất khẩu bị mất mát, hư hại, việc chuẩn bị các loại chứng từ cũng có thể thiếu sót... Những điều này có thể dẫn đến các tranh chấp, khiếu nại đáng tiếc.
Vậy thì, Công ty cần làm gì để tránh được hoặc ít nhất là hạn chế những rủi ro xẩy ra? Có thể giải quyết điều này theo các cách thức sau:
* Tránh toàn bộ rủi ro: Công ty có thể quyết định không bán ở thị trường sẽ có nhiều rủi ro, không chấp nhận đơn hàng của khách hàng, có nhiều nghi hoặc về khâu tín dụng, không bán sản phẩm đối với những nước có nhiều luật lệ quá nghiêm ngặt đối với độ tin cậy của sản phẩm Công ty.
* Những biện pháp hạn chế rủi ro: Có nhiều biện pháp để hạn chế những rủi ro về xuất khẩu xuống mức có thể chấp nhận được. Ví dụ: bán hàng theo hình thức thư tín dụng đã được xác nhận và không thể huỷ ngang hơn là hình thức "thanh toán bằng tiền mặt khi nhìn thấy chứng từ" thì phải bao gồm cả điều khoản điều chỉnh giá trong hợp đồng giao hạn kỳ hạn, cải tiến chất lượng sản phẩm và giám sát chất lượng phải được đảm bảo tốt hơn trước những lời phàn nàn về độ tin cậy đối với sản phẩm đó.
* Chia xẻ rủi ro: Nếu vận chuyển tất cả những quả trứng vào một cái giỏ sẽ là điều nguy hiểm có thể tránh được bằng cách:
- Đảm bảo hàng xuất khẩu của Công ty không phải tập trung tất cả vào một thị trường mà mỗi sản phẩm vào mỗi kênh phân phối.
- Luôn luôn tìm kiếm những thị trường mới và tìm cách đưa ra những sản phẩm mới. Phải thấy trước được những điểm mạnh của nhiều kênh phân phối khác nhau ở mỗi thị trường
* Chuyển giao rủi ro: Mục đích nhằm chuyển bớt một số rủi ro nhất định nào đó sang người khác, thường là khách hàng. Ví dụ:
- Nên bán theo điều kiện FOB hơn là CIF, như vậy tất cả rủi ro trong quá trình vận chuyển là do khách hàng gánh chịu.
- Rút ngắn thời gian bảo hành đối với các mặt hàng bán ở nước ngoài.
* Giải quyết rủi ro qua bảo hiểm:
- Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: chịu trách nhiệm về những rủi ro có tính thương mại hoặc chính trị của hàng hoá theo hình thức cấp tín dụng xuất khẩu.
- Bảo hiểm về độ tin cậy: Bảo hiểm trong trường hợp có sự kiện cáo về độ tin cậy của mặt hàng đến người sản xuất.
Có hai nguyên tắc cơ bản để xử lý rủi ro trong công tác xuất khẩu:
- Trước hết, khai thác tất cả những khả năng có thể giảm bớt được hoặc tránh nguy hiểm bằng cách tránh rủi ro, hạn chế rủi ro, san xẻ hoặc chuyển rủi ro sang chỗ khác.
- Nếu rủi ro đã xảy ra rồi thì cố gắng đến mức tối đa thực hiện những bảo hiểm có thể được. Đối với những rủi ro lớn, nhất thiết phải có bảo hiểm thì tốt nhất nên có những lời mời chào của nhiều nhà bảo hiểm và phaỉ có sự so sánh thận trọng để chọn được những lời chào hàng tối ưu nhất.
IV. Một số kiến nghị về phía Nhà nước.
1.Thuế suất.
Mặc dù Nhà nước đã thực hiện chính sách cắt giảm thuế suất đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhưng so với một số quốc gia trong khu vực, tỷ lệ thuế suất vẫn còn cao, vẫn là gánh nặng đối với hàng hoá xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc miễn giảm thuế suất còn thể hiện sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để công cụ thuế thực sự là đòn bẩy kích thích hoạt động xuất khảu của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Nhà nước nên:
- Tiến hành cắt giảm tỷ lệ thuế suất sao cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay, tỷ lệ thuế suất nên nhỏ hơn hoặc cùng lắm là bằng với tỷ lệ thuế suất cao của các quốc gia trong khu vực.
- Việc miễn giảm thuế suất đánh vào mặt hàng xuất khẩu phải được xây dựng trên nguyên tắc: mọi hàng hoá xuất khẩu đều được điều tiết theo một cơ chế thống nhất và phải được đối xử bình đẳng không kể hàng hoá đó được sản xuất từ doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đối với một số mặt hàng mang tính chủ lực của Việt Nam, Nhà nước nên áp dụng thuế suất 0%. Tỷ lệ này sẽ được điều chỉnh tăng lên khi loại hàng đó đã có vị thế vững vàng trên thị trường.
- Các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan phải được cải tiến, tránh gây phiền hà cho các doanh nghiệp vì thủ tục kéo dài, rắc rối mà làm chậm thời gian giao hàng, làm mất cơ hội của các doanh nghiệp.
2. Hoạt động trợ giúp vốn.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đầu thiếu vốn để đầu tư phát triển kinh doanh, phát triển thị trường.
Đây là một vấn đề mà để giải quyết nó bên cạnh sự cố gắng của bản thân doanh nghiệp thì Nhà nước cũng cần phải có những biện pháp hỗ trợ. Các biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước có thể bao gồm:
- Hố trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu cũng như hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại.
- Giảm tỷ lệ lãi suất tín dụng ngân hàng, giảm các quy định và điều kiện cho vay vốn của Ngân hàng để tạo sự thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn.
- Ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động liên doanh liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài.
3. Hoạt động hỗ trợ và đào tạo cán bộ quản lý.
Cán bộ quản lý kinh doanh cũng như trình độ, năng lực nghiệp vụ của họ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao, các doanh nghiệp đã liên tục đầu tư vào việc đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ quản lý của mình. Mặc dù vậy, Nhà nước cũng cần có sự quan tâm và hỗ trợ đối với các doanh nghiệp trong việc đào tạo cán bộ quản lý.
Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp thông qua một số phương pháp sau:
- Mở các trung tâm đào tạo cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước hỗ trợ từ 40 - 50% kinh phí, còn lại sẽ do các doanh nghiệp tham gia đóng góp.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thương mại cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài.
- Tiến hành mở các cuộc hội thảo, thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, nghiệp vụ ngoại thương, marketing nhằm nghiên cứu và phổ biến cho các doanh nghiệp.
Kết luận
Trong xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa giai đoạn hiện nay đã và đang mở ra cho chúng ta không ít những cơ hội mới và cả những thách thức mới. Với chiến lược chung là hướng về xuất khẩu nhằm khai thác hết những lợi thế so sánh của đất nước đã mang lại cho Việt Nam ta nhiều thành tựu to lớn trong quá trình đổi mới đất nước.
Hòa chung với không khí đó thì công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội- Simex cũng từng bước đi lên, hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu. Để đạt được điều này công ty đã có được sự đồng tâm nhất trí của tất cả các cán bộ công nhân viên, sự sáng suốt của ban lãnh đạo, sự năng động dám làm, dám chịu, thưởng phạt công minh, công ty luôn tự đánh giá lại mình tìm ra những sai sót, khai thác hết những thế mạnh mà bản thân công ty có cũng như của đất nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở rộng thị trường, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên...Đóng góp đáng kể cho quá trình tăng trưởng và phát triển của đất nước.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu rõ rệt trong kinh doanh nhưng trước những thử thách mới và cơ hội mới đòi hỏi công ty phải nỗ lực hơn nữa để trở thành một nhà cung cấp quan trọng cho thị trường trong và ngoài nước
Lời cảm ơn
Đề tài được hoàn thành là nhờ vào sự giúp đỡ tận tình của nhiều cá nhân và tập thể.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS. Đặng Đình Đào đã trực tiếp hướng dẫn em xây dựng và hoàn thiện đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trường ĐHKTQD và các thầy cô trong khoa Thương mại đã truyền đạt cho em những kiến thức cơ bản về kinh tế và xã hội trong quá trình học tập và hoàn tất đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn các cô chú cán bộ công nhân viên ở chi nhánh Hà nội Công ty cổ phần XNK Nam Hà Nội đã giúp đỡ về kỹ năng thực hành và thu nhập số liệu. Cuối cùng tôi xin chân thành cảm ơn các tác giả của những cuốn sách trích dẫn đã cung cấp những số liệu quý báu cho việc phân tích đề tài này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29750.doc