Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở Việt Nam

Qua những gì đã được phân tích ở trên, chúng ta một lần nữa cần phải nhìn thẳng vào thực trạng tình hình tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở nước ta, thấy được những hậu quả mà chúng tác động ra tới đời sống người lao động, gia đình họ và xã hội cũng như thấy được tầm quan trọng trong việc sớm đề ra các biện pháp phòng tránh TNLĐ&BNN cho người lao động. Thông qua đây, chúng ta cũng thấy được những điều còn bất cập trong việc thực hiện chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN ở nước ta. Hoàn thiện chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN đã và đang là vấn đề bức xúc thu hút được sự quan tâm không chỉ từ phía người lao động, người sử dụng lao động mà còn thu hút được sự quan tâm của các ngành, các cấp có liên quan. Làm thế nào để có được một chế độ trợ cấp công bằng, hợp lí vẫn là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Do những hạn chế về thời gian cũng như việc còn thiếu các kiến thực thực tế, đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở Việt Nam” không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để có thể hoàn thiện đề tài hơn nữa. Với những kiến nghị và giải pháp đã được trình bày, em hi vọng đề tài sẽ được góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN ở Việt Nam . Hi vọng rằng, trong tương lai không xa, cùng với sự phát triển của đất nước, sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, các ban ngành, chúng ta sẽ sớm có được một hệ thống các chế độ BHXH nói chung và chế độ trợ cấp TNLĐ& BNN nói riêng hoàn thiện, sớm đáp ứng được những mong mỏi, nguyện vọng chính đáng của đông đảo người lao động. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng các cô chú công tác tại trung tâm NCKH-BHXH đã giúp cho em có thể hoàn thành đề tài này.

doc94 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1770 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c điều trị tai nạn lao động ổn định. - Biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động của Hội đồng giám định y khoa. ã Hồ sơ chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp: Ngoài những yêu cầu về công văn đề nghị giải quyết chế độ và biên bản giám định mức suy giảm khả năng lao động như đối với chế độ tai nạn lao động thì hồ sơ cho chế độ bệnh nghề nghiệp còn bao gồm: - Biên bản đo đạc môi trường lao động có yếu tố độc hại gây bệnh nghề nghiệp của cấp có thẩm quyền theo quy định của Bộ y tế. Trường hợp biên bản xác định cho nhiều người trong cùng một tập thể thì hồ sơ của mỗi người lao động có bản trích sao về biên bản đo đặc môi trường có yếu tố độc hại gây bệnh. Biên bản đo đặc môi trường có giá trị trong một năm (theo quy định tại Thông tư số 13/BYT_TT ngày 21/10/1996 của bộ y tế). - Giấy ra viện sau khi điều trị bệnh (trong trường hợp, người lao động không điều trị tại bệnh viện thì phải có giấy khám bệnh nghề nghiệp). b) Quy trình tiếp nhận hồ sơ và giải quyết chế độ: Sơ đồ: Quy trình tiếp nhận hồ sơ và giải quyết chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố Người lao động Người sử dụng lao động Cơ quan BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Phòng Kế hoạch tài chính BHXH quận, huyện 1 2 3 (1) 9 5 5 4 6 7 10 8 Qua sơ đồ trên ta có thể thấy quy trình tiếp nhận hồ sơ và giải quyết chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN được thực hiện qua các bước sau: Bước 1: Người lao động tiến hành cung cấp các giấy tờ liên quan tới việc được xét hưởng chế độ của mình như: Giấy ra viện sau khi đã được điều trị ổn định; biên bản giảm định mức suy giảm khả năng lao động do Hội đồng giám định y khoa chững nhận… và một số giấy tờ cá nhân khác. Bước 2: Người sử dụng lao động tiến hành tiếp nhận các giấy tờ của người lao động chuyển tới theo bước 1 và tiến hành bổ sung một số giấy tờ khác nhằm hoàn thiện hồ sơ như: công văn đề nghị giải quyết chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN cho người lao động; biên bản điều tra tai nạn lao động; biên bản đo đạc môi trường lao động có yếu tố độc hại gây bệnh nghề nghiệp… sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ lên cơ quan BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để xem xét, giải quyết. Bước 3: Trên cơ sở tiếp nhận hồ sơ của chủ sử dụng lao động chuyển lên, cơ quan BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tiến hành soạn thảo dự thảo quyết định về hưởng chế độ và các giấy tờ chứng nhận khác và trình lên Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố xét duyệt. Bước 4: Giám đốc BHXH tỉnh, thành phố ký và chuyển quyết định tới cơ quan BHXH tỉnh, thành phố. Bước 5: Cơ quan BHXH tỉnh thành phố tiến hành trả lại 2 bộ hồ sơ cho đơn vị sử dụng lao động (trong đó có kèm theo giấy chứng nhận và giấy trợ cấp hưởng chế độ). (Ở đây, ta cũng cần chú ý rằng toàn bộ thời gian xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH nói trên không quá 30 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do người sử dụng lao động chuyển đến). Bước 6: Cơ quan BHXH chuyển danh sách người được hưởng chế độ sang phòng Kế hoạch tài chính để phòng có kế hoạch chuyển kinh phí chi trả trợ cấp. Bước 7: Phòng Kế hoạch tài chính chuyển kinh phí chi trả trợ cấp cho người sử dụng lao động và người sử dụng lao động tiến hành chi trả cho người lao động được hưởng trợ cấp theo bước 9. Bước 8 : Phòng Kế hoạch tài chính chuyển kinh phí chi trả trợ cấp chế độ xuống cho BHXH quận huyện. Tại đây, BHXH quận huyện tiến hành chi trả cho người lao động thông qua bước 10. Ở các khâu mắt xích trong quy trình trên, ta có thể thấy vị trí quan trọng của chủ sử dụng lao động trong việc đảm bảo quyền được hưởng trợ cấp cho người lao động, bởi vì: Để đảm bảo việc xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH cho người lao động có tham gia BHXH được kịp thời thì trước hết người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng đủ BHXH cho người lao động thuộc đơn vị mình cho đến thời điểm giải quyết chế độ chính sách BHXH. Sau đó, đơn vị sử dụng lao động cần phải nhanh chóng lập đầy đủ hồ sơ và kịp thời gửi tới cơ quan BHXH tỉnh hoặc thành phố trực thuộc Trung ương để cơ quan BHXH có thể giải quyết việc trợ cấp đúng thời gian mà đối tượng được hưởng. Chỉ khi đơn vị sử dụng lao động thực hiện đúng hai trách nhiệm và nghĩa vụ trên thì quyền lợi được hưởng trợ cấp của người lao động mới được đảm bảo. Trường hợp việc lập hồ sơ gửi đến cơ quan BHXH bị chậm thì cơ quan chỉ giải quyết trợ cấp khi đã nhận đầy đủ hồ sơ và không thực hiện việc truy trả trong thời gian chưa nhận đủ hồ sơ. Vì vậy, khi người lao động đã có đủ điểu kiện hưởng trợ cấp thì người sử dụng lao động phải có trách nhiệm: nhanh chóng lập đầy đủ hồ sơ để chuyển đến cơ quan BHXH và nhận lại hồ sơ sau khi BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xét duyệt để nhanh chóng chuyển giao cho người lao động về đăng kí nhận trợ cấp ở nơi cư trú (cho loại trợ cấp hàng tháng) hoặc tiếp nhận kinh phí và chi trả đối với người hưởng trợ cấp một lần. Có thể thấy việc quy định quy trình giải quyết trợ cấp cho chế độ như trên là khá chặt chẽ và đầy đủ, tuy nhiên việc yêu cầu nhiều giấy tờ xác minh với những kí nhận của nhiều cơ quan đã gây phiền phức không ít cho người lao động nhất là khi ở Việt Nam ta công tác hành chính vẫn còn mang tính quan liêu, phiền hà đối khi đã gây ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của người lao động. Việc quy định thời gian xét hưởng trợ cấp không quá 30 ngày như trên là quá dài và cần được rút ngắn trong thời gian tới. Hi vọng cùng với sự chuyển biến trong công tác cải cách hành chính tới đây thì việc lập hồ sơ và giải quyết hồ sơ cho những ngưòi lao động nói chung và những ngưòi lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp nói riêng sớm được giải quyết. 3 Công tác thanh tra và kiểm tra: Trong những năm vừa qua, Thanh tra bộ Lao động Thương binh xã hội đã tích cực chỉ đạo hướng dẫn Thanh tra các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện tốt công tác điều tra, xử lí, thông kê báo cáo về TNLĐ& BNN. Tuy nhiên, số vụ tai nạn lao động nói chung và số vụ tai nạn lao động chết người nói riêng vẫn chưa được điều tra kịp thời. Lấy ví dụ như trong năm 2004 cả nước ta có 561 vụ tai nạn lao động có người chết song mãi tới tận ngày 17/02/2004 chúng ta mới có được biên bản của 270 vụ tức là được khoảng 1/2 số vụ. Chưa kể tới việc tình trạng các doanh nghiệp không báo cáo theo quy định ngày càng nhiều chỉ tính riêng trong năm 2005 cả nước ta mới chỉ có 3400 đơn vị tham gia báo cáo trên tổng số hơn 160.000 cơ sở chiếm khoảng 2,1%. Hà Nội có 97 cơ sở báo cáo chiếm 0.28% trên tổng số 35.150 cơ sở; Đà nẵng có 28 cơ sở có báo cáo chiếm 0.10 % trên tổng số 28.733 cơ sở, thành phố Hồ Chí Minh có 350 cơ sở có báo cáo, còn Quảng Ninh là nơi có báo cáo về tai nạn lao động nhiều nhất tuy nhiên cũng chỉ có 130 cơ sở báo cáo trên tổng số 748 cơ sở chiếm 17,38% ... Số liệu báo cáo của các doanh nghiệp đã không đầy đủ là vậy mà một số địa phương lại xảy ra tình trạng báo cáo số liệu thiếu chính xác giữa các chỉ tiêu trong báo cáo và một số địa phương lại không thực hiện báo cáo theo quy định. Với tình hình này cho thấy trên thực tế tình trạng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp của chúng ta vẫn còn khó kiểm soát và con số thực tế về tình trạng TNLĐ&BNN còn cao hơn so với con số được báo cáo đến mức nào. Thêm vào đó chất lượng điều tra của chúng ta còn yếu kém. Một số vụ xác định nguyên nhân chưa chính xác, không quy kết nguyên nhân cụ thể, còn mang tính xuê xoa do đó chưa nêu được đầy đủ các biện pháp phòng ngừa. Một số vụ tai nạn lao động đã xác định được nguyên nhân trực tiếp do người bị nạn vi phạm tuy nhiên lại không quy trách nhiệm (với người đã chết) hoặc không quy trách nhiệm với những người có lỗi liên đới gây ra tai nạn lao động. Một số vụ khác đã xác định nguyên nhân do điều kiện làm việc không đảm bảo an toàn nhưng lại quy trách nhiệm cho người lao động (tức là người bị nạn). Một số vụ nêu diễn biến không đầy đủ và rõ rằng, có những biên bản còn sơ sài hoặc không đúng theo mẫu quy định. Nhiều vụ tai nạn lao động chết người xảy ra ở khu cực sản xuất kinh doanh tư nhân vẫn chưa đuợc tiến hành điều tra nhất là những tai nạn lao động chết người (do điện giật, ngã cao) xảy ra ở các công trình xây dựng nhà ở của dân…. 4 Đánh giá chung: Nhìn chung qua chặng đường hơn 10 năm đi vào hoạt động, tình hình thực hiện chế độ TNLĐ&BNN ở nước ta cũng đã có nhiều bước chuyển biến tích cực. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại một số mặt còn hạn chế: đó là việc quản lí còn chưa tốt đối với đối tượng tham gia BHXH, chưa có những biện pháp thực sự hiệu quả để có thể thu hồi số nợ đọng của các doanh nghiệp… Công tác chi trả đôi lúc chưa thực sự nhanh chóng để có thể thực hiện tốt vai trò hỗ trợ giúp người lao động nhanh chóng ổn định sản xuất… thủ tục giải quyết hồ sơ cho người lao động còn chưa thực sự hiệu quả, nhiều khi còn gây khó khăn cho người lao động. CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ TNLĐ&BNN Ở VIỆT NAM I KIẾN NGHỊ: 1 Về nội dung chế độ TNLĐ&BNN: 1.1 Về đối tượng tham gia chế độ TNLĐ&BNN: TNLĐ&BNN là một trong những nguy cơ thường trực đe doạ tới tính mạng, sức khoẻ, khả năng lao động của người lao động. Bất kì người lao động nào cũng đều có nguy cơ bị TNLĐ&BNN trong môi trường làm việc của mình. Vì vây, nhu cầu được bảo vệ trước những rủi ro trong công việc là rất lớn và họ đều có nguyện vọng được tham gia chế độ TNLĐ&BNN nhất là đối với những lao động thủ công, bán thủ công, làng nghề… Đối với những lao động này, đa phần họ đều phải làm việc trong những môi trường lao động độc hại, trang thiết bị, máy móc lạc hậu cũ kĩ, trang bị bảo hộ gần như không có và nếu có thì đa phần lại không đảm bảo được về chất lượng…vì vậy, nguy cơ xảy ra TNLĐ&BNN là rất cao. Mặc dù theo quy định của điều lệ BHXH ban hành kèm theo nghị định 12/CP của Chính phủ thì đối tượng tham gia BHXH bắt buộc đã được mở rộng so với thời gian đầu (nếu như năm 1995 chúng ta chỉ có 2,8 triệu người tham gia BHXH bắt buộc thì tính tới cuối năm 2005 đã có hơn 5.7 triệu người) Tuy nhiên, với những quy định trên sẽ còn có rất nhiều người lao động không thuộc diện được bảo hiểm như lao động trong các ngành: ngư nghiệp, diêm nghiệp, các hợp tác xã tiểu thủ công nghiêp … Như vậy, có thể thấy hiện nay BHXH mới chỉ điều chỉnh được gần 20% lực lượng lao động toàn xã hội và còn hơn 80% người lao động không thuộc đối tượng tham gia BHXH. Nhiều người trong số họ bị tai nạn lao động nặng không có đủ sức khoẻ để tiếp tục làm công việ của mình cũng như không còn có khả năng tìm được công việc khác phù hợp, họ đã trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Đây cũng chính là một trong những hạn chế lớn nhất của chế độ BHXH đối với người lao động hiện nay. Do vậy, trong thời gian tới chúng ta cần sớm nghiên cứu để sớm có thể mở rộng hơn nữa phạm vi những đối tượng lao động được tham gia BHXH TNLĐ&BNN tiến tới trong tương lai không xa tất cả mọi người lao động đều có quyền tham gia chế độ này và được bảo vệ trước nguy cơ TNLĐ & BNN. Có như vậy, người lao động mới có thể cảm thấy yên tâm gắn bó và làm việc hết sức vì công việc và nếu không may bị tai nạn lao động hay mắc phải các bệnh nghề nghiệp thì cuộc sống của họ và gia đình cũng bớt được phần nào khó khăn. 1.2 Về điều kiện hưởng trợ cấp chế độ TNLĐ&BNN : Khi người lao động bị TNLĐ&BNN theo quy định họ chỉ cần có điều kiện là có tham gia BHXH và có giám định của Hội đồng Giám định y khoa là họ đã có quyền được nhận trợ cấp TNLĐ&BNN. Việc quy định như trên là hoàn toàn hợp lí vì bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp hoàn toàn nằm ngoài ý muốn của người lao động nên không thể qui định thời gian tối thiểu tham gia đóng BHXH như các chế độ khác (kể cả trong trường hợp người lao động chưa có tích luỹ cho cho quỹ BHXH). Còn việc cần phải có giám định của hội đồng Giám định y khoa sẽ cung cấp cho chúng ta cơ sở để tính mức trợ cấp phù hợp. Tuy nhiên, vấn đề đáng lưu tâm ở đây là việc xác định những trường hợp nào là tai nạn lao động trường hợp nào là không phải. Theo Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 đã quy định 3 trường hợp dưới đây được coi là tai nạn lao động - Bị tai nạn trong giờ làm việc, tại nơi làm việc kể cả làm việc ngoài giờ theo yêu cầu của chủ sử dụng lao động. - Bị tai nạn ngoài giờ khi thực hiện công việc theo yêu cầu của người sử dụng lao động. - Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc. Có thể thấy, những quy định trên là hợp lí, tuy nhiên chúng ta lại thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể phân biệt trường hợp nào được coi là tai nạn lao động trường hợp nào không được coi là tai nạn lao động. Có thể lấy ví dụ như: thoả mãn điều kiện bị tai nạn trong giờ làm việc song nguyên nhân gây ra tai nạn lại do việc tự ý làm những công việc không đúng với công việc được giao, hay thậm chí là do đùa nghịch, đánh nhau gây ra tai nạn… thì liệu những trường hợp này có thể được coi là tai nạn lao động hay không? Hay như với việc xác định tai nạn trên tuyến đường đi và về cũng vậy, ai sẽ là người đứng ra chứng minh đó là tai nạn trên đường đang đi làm? nhất là với những vụ tai nạn nhẹ, không có sự can thiệp của cảnh sát giao thông, hay xảy ra trên quãng đường vắng vẻ, những tai nạn bất ngờ…? dẫn tới việc xác định địa điểm và thời gian là rất khó khăn để có thể giải quyết việc xét hưởng chế độ và không loại trừ việc trục lợi bảo hiểm có thể có thể xảy ra từ chính sự quy định thiếu chặt chẽ này. Đối với việc xác định thời điểm xảy ra sự kiện được hưởng chế độ BHXH cho bệnh nghề nghiệp cũng đáng được lưu tâm. Bởi bệnh nghề nghiệp là bệnh xảy ra bởi quá trình dài làm việc trong môi trường độc hại, hay nói cách khác là người lao động bị nhiễm bệnh nghề nghiệp trong quá trình lao động của mình. Tuy nhiên, thời điểm bệnh phát ra cũng khó có thể xác định trước được vì điều này còn tuỳ thuộc vào tình hình sức khoẻ, điều kiện sống của từng người lao động mà bệnh phát ra sớm hay muộn. Do vậy, trên thực tế có rất nhiều trường hợp sau khi người lao động chấm dứt quan hệ BHXH (nhận chế độ một lần) bệnh nghề nghiệp mới xuất hiện. Thời điểm phát hiện bệnh có thể cách khá xa so với thời điểm chấm dứt quan hệ BHXH. Trong những trường hợp này, hiện nay, các văn bản pháp luật về BHXH chưa có quy định giải quyết nhất là với những trường hợp tại thời điểm phát bệnh doanh nghiệp cũng không còn tồn tại. Trong khi đó, đối với những người lao động được hưởng chế độ BHXH hàng tháng nếu phát hiện bệnh nghề nghiệp thì được giải quyết chế độ trợ cấp tuỳ thuộc theo mức độ suy giảm sức khoẻ (theo kết luận của Hội đồng giám định y khoa). Hoặc những người đã được đã được khám xác định bệnh nghề nghiệp 1 lần, khi bệnh tái phát thì được quy định chế độ tái khám để giải quyết chế độ trợ cấp phù hợp với mức suy giảm sức khoẻ sau khi khám lại. Xét tất cả các trường hợp trên chúng ta có thể thấy: nguyên nhân gây ra bệnh nghề nghiệp là giống nhau (do làm việc trong môi trường độc hại trong thời gian dài) nhưng thời điểm phát bệnh khác nhau, nên xảy ra tình trạng thường hợp này được hưởng, trường hợp khác lại không. Đây chính là điểm còn bất hợp lí trong các quy định cho chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp. Đề khắc phục những điểm còn bất hợp lí trên, đề tài xin được đưa ra một số kiến nghị sau: - Trên cơ sở nắm chắc những tư tưởng về các trường hợp được coi là TNLĐ&BNN theo Nghị định 12/CP thì để bảo đảm thực hiện chế độ được chặt chẽ chúng ta cần có những văn bản quy định cụ thể hơn về hoàn cảnh xảy ra tai nạn lao động như : khẳng định chỉ với những tai nạn lao động xảy ra do việc thực hiện đúng chuyên môn của mình thì mới đựoc coi là tai nạn lao động còn các trường hợp để xảy ra tai nạn nhưng do thiếu ý thức trách nhiệm, làm việc không đúng phận sự, đùa nghịch gây tai nạn thì không được hưởng quyền lợi nhận trợ cấp bảo hiểm. Còn đối với các tai nạn trên đường đi cần giả định các nhóm trường hợp xảy ra tai nạn như: tai nạn giao thông, tai nạn do ngoại cảnh, tai nạn do yếu tố bệnh lí… từ những quy định chi tiết trên để đưa ra kết luận trường hợp nào là tai nạn lao động trườn hợp nào không. Còn với bệnh nghề nghiệp, chúng ta cần phải xem xét lại. Chúng ta không thể coi thời điểm phát bệnh là thời điểm xảy ra sự kiện bảo hiểm, bởi nguyên nhân gây bệnh đã được xác định là do điều kiện lao động có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người lao động, còn thời điểm phát bệnh có tính ngẫu nhiên. Do vậy, thiết nghĩ chỉ cần xác định được nguồn gốc của bệnh có nguyên nhân từ quá trình lao động trong môi trường độc hại gây ra là đủ cơ sở để giải quyết chế độ trợ cấp bệnh nghề nghiệp cho người lao động. 1.3 Kiến nghị về mức đóng và mức hưởng: a) Về mức đóng: Theo quy định tại khoản 1 điều 36 của Điều lệ BHXH ban hành cùng Nghị định 12/CP của Chính phủ ngày 26/01/1995 thì mức đóng góp BHXH đối với chế độ TNLĐ&BNN được tính cũng với các chế độ ngắn hạn khác như: ốm đau, thai sản là 5% tổng quỹ lương mà không có có quy định cụ thể mức đóng góp riêng cho chế độ này. Bên cạnh đó, vấn đề về nguồn kinh phí cho loại hình trợ cấp hàng tháng TNLĐ&BNN và trang cấp các thiết bị, bộ phận phục hồi chức năng lại chưa có quy định cụ thể nguồn thực hiện vì vậy, trong thực tế việc trợ cấp này được tính chung trong nguồn quỹ BHXH để thực hiện chế độ hưu trí và trợ cấp tử tuất. Từ thực tế trên, cho thấy rằng: quỹ TNLĐ&BNN cần được tính toán, được quản lí riêng và được coi là quỹ thành phần của quỹ BHXH. Quỹ này được hình thành bởi sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và được xác định bằng một tỷ lệ % so với tổng quỹ lương của người lao động. Tuy nhiên, thực tế cho thấy TNLĐ&BNN phát sinh không đồng đều giữa các ngành nghề và còn phụ thuộc theo tính chất công việc. Có những ngành nghề, công việc có xác suất xảy ra TNLĐ&BNN lớn song lại có những ngành nghề xác suất xảy ra nhỏ. Vì vậy, nếu tỷ lệ % này bị cố định sẽ không có tác dụng khuyến khích nguời sử dụng lao động tăng cường công tác bảo hộ để giảm thiểu tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trong đơn vị mình. Thiết nghĩ trong tương lai chúng ta cần có những tính toán quy định tỷ lệ đóng góp này phù hợp với đặc điểm của từng ngành nghề, công việc theo chiều hướng: những ngành nghề, công việc có nguy cơ rủi ro cao thì phải đóng góp và quỹ nhiều hơn và ngược lại. Việc quy định này cũng cần phải được điều chỉnh thường xuyên theo tình hình TNLĐ&BNN cũng như xác suất nảy sinh rủi ro, và tỷ lệ % cũng không nên quy định cứng trong Luật mà nên để quyền cho Chính phủ quy định, điều này cũng là phù hợp với thông lệ các nước trên thế giới. b) Về mức hưởng trợ cấp TNLĐ&BNN : Theo quy định hiện nay, khi người lao động không may bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp thì việc hưởng trợ cấp TNLĐ&BNN sẽ được căn cứ theo tỷ lệ suy giảm khả năng lao động mà không tính đến thời gian người lao động tham gia vào quỹ BHXH cũng như tiền lương của họ ngay trước khi bị tai lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp. Việc lấy tiền lương tối thiều làm cơ sở cho việc tính toán sẽ đảm bảo cho sự công bằng giữa những người lao động với nhau. Bởi là người lao động, thì ai cũng có nguy cơ bị TNLĐ&BNN và khi điều đó xảy ra họ đều có nhu cầu như nhau. Việc sử dụng tiền lương tối thiểu và thang trợ cấp theo tỷ lệ suy giảm khả năng lao động có ưu điểm lớn là dễ tính toán và dễ điều chỉnh cho phù hợp vớii điều kiện kinh tế - xã hội ở mỗi thời kì. Tuy nhiên hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng với mức trợ cấp như trên sẽ không bù đắp được phần thu nhập bị mất do bị TNLĐ&BNN gây ra và mức lương làm căn cứ trợ cấp nên lấy là một bội số của mức tiền lương tối thiểu. Một vấn đề khác đáng lưu tâm ở đây là chúng ta có nên tiếp tục duy trì khung suy giảm sức lao động để làm căn cứ trợ cấp hay không? Bởi ưu diểm lớn nhất của khung là việc dễ tính toán, tuy nhiên cùng với sự phát triển của các phương tiện kĩ thuật và trình độ như hiện nay thì việc tính toán trở lên không khó thực hiện và ưu điểm này cũng sẽ bị mất dần. Tuy nhiên, hạn chế lớn nhất của việc duy trì theo khung là tạo ra sự chênh lệch giữa các mức trợ cấp của khung lại không được cải thiện. Với mức suy giảm khả năng lao động chỉ cách biệt 1% nhưng đã có thể nằm ở hai khung khác nhau với mức trợ cấp khác nhau. Ở nước ta, mỗi khung được quy định là 10% tỷ lệ suy giảm khả năng lao động, nên những người lao động có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động trong cùng một khung thì có mức trợ cấp như nhau cho dù những người này có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động lệch nhau tới 10%. Ngược lại, có những người lao động chỉ chênh lệch nhau 1% mức suy giảm khả năng lao động nhưng lại nằm ở hai khung liền kề nhau và đương nhiên mức trợ cấp cũng khác nhau. Với những quy định trên, một mặt sẽ gây ra tình trạng thiếu công bằng trong hưởng thụ của người lao động, mặt khác lại dẫn tới việc các kết quả giám định về tỷ lệ thương tật của của Hội đồng giám định y khoa có thể bị bóp méo, sai lệch so với thực tế và đây cũng chính là khẽ hở để thực hiện việc trục lợi bảo hiểm. Một vấn đề khác cũng cần được xem xét là mức trợ cấp giữa hai khung. Chúng ta có thể thấy rằng hiện nay, mức trợ cấp giữa hai khung chênh lệch nhau là 4 tháng tiền lương tối thiểu cho trợ cấp một lần và 0,2 tháng tiền lương tối thiểu cho trợ cấp hàng tháng. Việc thực hiện như trên chưa thật thuyết phục và còn mang tính bình quân. Bởi ta biết rằng: cứ tăng 1% tỷ lệ suy giảm khả năng lao động thì sức khoẻ của người lao động lại bị suy giảm nhiều hơn so với 1% suy giảm trước. Ví dụ như: suy giảm khả năng lao động từ 79% lên 80% khác rất nhiều so với việc suy giảm từ 31% lên 32%, có nghiã là “ giá trị sức khoẻ” của 1% suy giảm từ 79% lên 80% lớn hơn nhiều so với “giá trị sức khoẻ” của 1% suy giảm từ 31% lên 32%. Vì thế có lẽ cách tốt nhất là chúng ta nên tính mức hưởng luỹ tiến theo tỷ lệ tăng của sự suy giảm khả năng lao động. 1.4 Kiến nghị về kết cấu của chế độ: Hiện nay ở nước ta, những người lao động khi không may bị tai nạn lao động hay mắc bệnh nghề nghiệp đều được hưởng trợ cấp theo chế độ TNLĐ & BNN. Những người lao động có cùng tỷ lệ suy giảm sức lao động do TNLĐ hoặc mắc bệnh BNN đều được tính chung cho cùng một mức hưởng. Điều này trên thực tế đã bộ lộ nhiều hạn chế và đã tạo ra sự bất công bằng tương đối trong mức hưởng giữa những người bị tai nạn lao động và những người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp. Bởi TNLĐ&BNN tuy có những đặc điểm giống nhau song chúng lại có những đặc trưng khác nhau điều này xuất phát từ chính nguyên nhân gây ra tai nạn lao động và bệnh nghề ngiệp. Tai nạn lao động là những tai nạn bất ngờ xảy ra trong quá trình lao động, nó có thể xảy ra với bất cứ người lao động nào từ những người trẻ tuổi mới đi vào làm việc cho tới những người lao động đã làm việc lâu năm. Tai nạn lao động chỉ là những tai nạn xảy ra trong thời gian ngắn và gây tỷ lệ thương tật cho người lao động, do vậy, những người lao động bị tai nạn lao động sau khi được điều trị ổn định thì đa phần sức khoẻ của họ ngày càng được cải thiện, ngày càng tốt hơn kéo theo mức suy giảm khả năng lao động so với lúc giám định ban đầu giảm xuống, nhu cầu về các trang thiết bị trợ giúp sinh hoạt nhằm để phục hồi chức năng cũng như nhu cầu về người phục vụ giảm đi. Điều này càng được thể hiện rõ ở những người lao động trẻ tuổi. Còn đối với bệnh nghề nghiệp thì lại khác hẳn (từ nguyên nhân gây ra bệnh cho tới chiều hướng phát triển của bệnh). Nguyên nhân gây ra mắc bệnh nghề nghiệp ở người lao động là do môi trường độc hại tác động một cách từ từ, liên tục lên người lao động gây tổn hại sức khoẻ của người lao động theo chiều hướng từ nhẹ tới nặng dần. Nếu như đối với TNLĐ chúng ta khó có thể xác định số lượng cũng như mức độ thương tật của người bị nạn thì ở BNN chúng ta lại có thể dự đoán tương đối về số người bị mắc bệnh cũng như mức độ nhiễm bệnh, do đó công tác đề phòng cũng có nhiều thuận lợi hơn. Ở bệnh nghề nghiệp do thời gian nhiễm bệnh lâu dài nên những người bị mắc bệnh nghề nghiệp sau khi đã được điểu trị ổn định thì sức khoẻ của người lao động nhìn chung vẫn có xu hướng bị giảm sút kéo theo mức suy giảm khả năng lao động của họ tăng lên, điều này cũng đồng nghĩa với nhu cầu được trợ cấp của họ ngày càng tăng. Từ những điều trái ngược trên cho thấy việc thực hiện hai chế độ này ở nước ta lại được xếp chung vào cùng một chế độ BHXH với những quy định về điều kiện hưởng, thời điểm hưởng, mức hưởng giống nhau là chưa hợp lý, nhất là khi chúng ta đề cập tới vấn đề tình trạng sức khoẻ sau khi điều trị thương tật ổn định. Từ lý do trên thiết nghĩ chúng ta cần tách chế độ TNLĐ&BNN thành hai chế độ : một cho tai nạn lao động và một cho bệnh nghề nghiệp với những quy định về mức hưởng, điều kiện hưởng và thời gian hưởng phù hợp với đặc điểm của từng chế độ cụ thể. Ví dụ như: Với đặc điểm người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp có thời gian nhiễm bệnh dài, kéo theo độ tuổi trung bình bị mắc bệnh bệnh (tức là độ tuổi bệnh biểu hiện ra bên ngoài) cao song họ lại có tuổi thọ trung bình thấp hơn (do sức khoẻ ngày càng bị giảm sút) do vậy thời gian được hưởng trợ cấp của họ cũng ngắn hơn so với người lao động bị tai nạn lao động. Từ đặc điểm này, chúng ta nên thay đối nội dung trợ cấp như sau: cùng một tỷ lệ suy giảm khả năng lao động như nhau thì mức hưởng của những người lao động bị mắc BNN nên dược quy định cao hơn so với những người bị tai nạn lao động và việc nâng cao mức trợ cấp này cũng cần được thực hiện đối với cả loại hình trợ cấp một lần và cả trợ cấp hàng tháng Theo quy định, người lao động sẽ được nhận trợ cấp một lần từ người dụng lao động nếu như có mức độ suy giảm khả năng lao động là 81%. Tuy nhiên, những nghiên cứu trên thực tế cũng chỉ ra rằng tỷ lệ người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp có mức độ suy giảm khả năng lao động là 81% l à bằng 0. Điều này đồng nghĩa rằng: trên thực tế sẽ không có bất kì người lao động bị mắc bệnh nghề nghiệp nào có thể được hưởng trợ cấp này. Nên chăng, trong thực tế chúng ta cần xem xét lại mức quy định này để có được sự điều chỉnh phù hợp hơn. Một điểm nữa cũng cần được sửa đổi đó là việc quy định với mức độ suy giảm khả năng lao động là bao nhiêu thì sẽ được nhận trợ cấp hàng tháng? Theo quy định hiện nay, với mức suy giảm khả năng lao động từ 31% đến 100% được hưởng trợ cấp hàng tháng từ 0,4 đến 1,6 tháng tiền lương tối thiểu cho cả hai đối tượng hưởng trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp như nhau là chưa hợp lí. Các chuyên gia cho rằng khi mắc bệnh nghề nghiệp thì người lao động khó có cơ may để phục hồi mà phải chịu suốt đời, vì vậy, nên quy định đối với trường hợp bị mắc bệnh nghề chỉ cần suy giảm khả năng lao động 21% là đựơc hưởng trợ cấp hàng tháng. Trong trường hợp nếu như chúng ta không muốn tách hai chế độ này ra thành hai chế độ độc lập mà vẫn muốn duy trì là một chế độ trong hệ thống các chế độ BHXH thì chúng ta cần có những quy định riêng, cụ thể cho từng chế độ với những tư tưởng chung đã trình bày ở trên. Và chúng ta cũng cần nghiên cứu tên gọi của chế độ sao cho ngắn gọn và dễ hiểu, thể hiện rõ nội dung và thống nhất chung với quốc tế. Chúng ta có thể tham khảo tên gọi chế độ “ Thương tật trong lao động” như theo khuyến nghị của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) đã sử dụng để chỉ các tai nạn trong khi làm việc và các bệnh nghề nghiệp. 1.5 Vấn đề chăm sóc y tế đối với người lao động bị tai nạn lao động hoặc mắc bệnh nghề nghiệp: Như đã đề cập tới phần trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động theo điều 107 của Bộ luật lao động, các Nghị định 06/CP ngày 20/01/1995, Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995…thì khi người lao động không may bị tai nạn lao động hay mắc phải bệnh nghề nghiệp thì người sử dụng lao động có trách nhiệm phải chịu toàn bộ các chi phí về chăm sóc y tế từ khi người lao động bị nạn cho tới khi điều trị ổn định thương tật. Tuy nhiên trên thực tế chúng ta lại thiếu tiêu chuẩn chung trong việc chăm sóc này như ( tiêu chuẩn về thuốc men, trình độ của cán bộ y tế …) cũng như chưa có được sự quản lí thống nhất tập chung về chế độ TNLĐ&BNN từ đó tuỳ thuộc vào khả tài chính của đơn vị sử dụng lao động mà người lao động bị nạn được chăm sóc, điều trị với mức độ quan tâm khác nhau. Điều này tạo ra sự bất công bằng tương đối giữa những người lao động bị nạn. Để đảm bảo quyền lợi cho người lao động bị nạn được chăm sóc y tế đầy đủ hơn và cũng nhằm thực hiện sự công bằng giữa những người lao động, trong thời gian tới, một hệ thống các văn bản quy định những tiêu chuẩn chung về chăm sóc y tế đối với những trường hợp bị TNLĐ&BNN quy định chi tiết từ khâu cấp cứu, khám chữa, điều trị cho tới khi đã được điều trị ổn định hoặc tái phát cũng như những quy định về nội dung trợ cấp (thuốc men, cán bộ y tế..) là rất cần thiết và cần sớm được nghiên cứu và triển khai trên thực tế. 1.6 Các vấn đề khác: Ngoài những vấn đề trọng tâm dã được trình bày ở trên, đề tài cũng xin được đưa ra một vài kiến nghị khác có liên qua như: - Về chế độ trang cấp phương tiện nhằm trợ giúp sinh hoạt cho những người lao động chúng ta cũng cần có những quy định cụ thể hơn, không nên trang bị theo kiểu thiếu bộ phận nào thì được trang cấp bộ phận đó mà cần phải căn cứ theo mức độ tàn tật của từng bộ phận của cơ thể để trang cấp những phương tiện trợ giúp phù hợp. Chúng ta cũng cần quy định thời hạn sửa đổi trang cấp hoặc thay thế của từng bộ phận cho phù hợp hơn. - Đối với bệnh nghề nghiệp: với tốc độ kinh tế phát triển như hiện nay, càng ngày chúng ta lại càng có thêm nhiều nhân tố gây hại tới sức khoẻ của người lao động vì vậy các cơ quan chức năng nên nghiên cứu để có thể bổ sung kịp thời những bệnh nghề nghiệp mới vào hệ thống bệnh nghề nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện tốt hơn nữa quyền lợi của người lao động và cũng là tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện chế độ. 1.7 Kiến nghị về tổ chức thực hiện quản lí và chi trả các khoản trợ cấp: Để bù đắp những thiệt hại do TNLĐ&BNN gây ra cho người lao động, nhà nước đã có nhiều chính sách chế độ tập trung vào hai nhóm chính là: chính sách bồi thường TNLĐ&BNN do chủ dử dụng lao động đảm nhận và chính sách trợ cấp do cơ quan BHXH đảm nhận. Theo quy định thì người sử dụng lao động ngoài trách nhiệm phải chịu toàn bộ các chi phí y tế liên quan thì còn phải trả tiền lương đầy đủ cho người lao động trong suốt quá trình điều trị thương tật, có trách nhiệm sắp xếp lại công việc phù hợp cho người lao động sau khi họ bị tai nạn lao động, kể cả chi phí đào tạo lại cho người lao động nếu họ phải chuyển sang nghề khác ngoài ra đơn vị sử dụng lao động còn phải chịu trách nhiệm bồi thường một lần cho người lao động khi họ bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên. Có thể thấy với quy định như trên các doanh nghiệp để xảy ra tai nạn lao động hay bệnh nghề nghiệp sẽ phải chịu sức ép rất lớn về tâm lý và phải chịu những chi phí rất cao mà không có sự chia sẻ từ các doanh nghiệp khác trong khi đó họ lại vẫn phải đóng BHXH đều đặn. Điều này càng đáng được quan tâm đối với các đơn vị sản xuất mà ở đó nguy cơ xảy ra TNLĐ&BNN cao và tất nhiên điều này cũng tác động không nhỏ tới giá thành sản phẩm, dẫn tới khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm và làm giảm sức cạnh tranh trên thị trường… Thêm vào đó các đơn vị lại tốn nhiều thời gian làm việc với các đoàn thanh tra nên đã làm giảm thời gian để tập trung vào sản xuất. Ngoài ra, đối với các đơn vị có khả năng tài chính eo hẹp, không có khả năng nộp BHXH kịp thời theo quy định hoặc cố tình không nộp đã gây ra tình trạng chậm thanh toán cả trợ cấp BHXH và khoản bồi thường của đơn vị sử dụng lao động, chi phí cho công tác sơ cứu, điều trị không được thực hiện đầy đủ, thiếu chu đáo gây khó khăn về kinh tế cũng như tâm lí cho người lao động khi bị TNLĐ hoặc mắc BNN. Mặt khác, do chỉ quy định trách nhiệm bồi thường của chủ sử dụng lao động cho người lao động bị mất khả năng lao động từ 81% trở lên nên những người lao động có tỷ lệ suy giảm khả năng lao động thấp hơn sẽ rất thiệt thòi trong khi thu nhập của họ cũng bị ảnh hưởng bởi khả năng lao động giảm sút. Hơn nữa, thủ tục để nhận được tiền bồi thường từ chủ doanh nghiệp rất phức tạp. Nó đòi hỏi phải có biên bản điều tra tai nạn lao động, trong khi đó để có được biên bản phải mất tới 10 ngày, thậm chí có những vụ nghiêm trọng phải kéo dài đến 5-6 tháng nên người lao động bị nạn không có được khoản hỗ trợ kịp thời. Đây chính là hạn chế lớn nhất của chế độ chi trả trực tiếp từ người sử dụng lao động. Còn đối với chính sách trợ cấp TNLĐ&BNN từ BHXH, khi người lao động tham gia BHXH bị TNLĐ&BNN thì tuỳ theo mức suy giảm khả năng lao động mà được hưởng trợ cấp một lần (với mức suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 30%) hoặc trợ cấp hàng tháng (với mức suy giảm khả năng lao động từ 31% trở lên), ngoài ra còn được trang cấp thêm các phương tiện trợ giúp phục hồi chức năng khác.... Với cơ chế đóng góp chung như hiện nay và tỷ lệ đóng góp còn thấp, đồng đều nên mức hưởng trợ cấp của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của họ. Mặt khác, hiện nay cơ chế chi trả bồi thường TNLĐ&BNN còn rất phức tạp và không kịp thời nên cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới quyền lợi của người lao động. Có thể thấy rằng với cơ chế hai nguồn như hiện nay có ưu điểm là gắn trách nhiệm vật chất của người sử dụng lao động đối với tình trạng TNLĐ&BNN ở đơn vị mình, từ đó buộc người sử dụng lao động phải quan tâm hơn nữa tới việc tăng cường công tác phòng ngừa TNLĐ&BNN. Tuy nhiên, cơ chế này lại có nhược điểm rất lớn là không đạt được hiệu quả tối ưu cho người lao động và cho xã hội vì nó không tập trung được nguồn lực. Cơ quan BHXH chủ yếu chi trả các khoản trợ cấp về BHXH mà chưa có chức năng hỗ trợ bồi dưỡng, đào tạo lại nghề cho người lao động sau khi đã điều trị ổn định thương tật. Hơn nữa, trong hệ thống BHXH của Việt Nam, chế độ TNLĐ&BNN thuộc các chế độ ngắn hạn với mức đóng góp được quy định chung là 5% tổng quỹ lương của người lao động và do người sử dụng đóng góp và tỷ lệ đóng góp là như nhau nên không khuyến khích các doanh nghiệp cải thiện môi trường lao động cũng như thực hiện các quy định về bảo hộ và an toàn lao động. Vì vậy, một giải pháp đươc đưa ra là nên thành lập quỹ bồi thường TNLĐ&BNN nằm trong hệ thống BHXH Việt Nam và được quản lí theo quy định chung của pháp luật BHXH. Quỹ này sẽ đứng ra thanh toán thay cho người sử dụng lao động các chi phí y tế, tiền lương trong quá trình điều trị TNLĐ&BNN, trả trợ cấp thương tật cho tất cả các mức thương tật (không hạn chế ở mức 5% trở lên như hiện nay), đảm bảo các chi phí phục hồi chức năng và hỗ trợ kinh phí để bồi dưỡng, đào tạo lại nghề cho người lao động khi họ không còn có khả năng tiếp tục làm nghề cũ… Việc thành lập quỹ này sẽ tránh được sự e ngại về tâm lý và những vấn đề khác giữa người lao động và người sử dụng lao động khi xảy ra TNL hoặc BNN. Đồng thời khi bị tai nạn lao động hay mắc bệnh nghề nghiệp người lao động sẽ tới thẳng quỹ để nhận tiền trợ cấp, do vậy mà công tác thống kê các số liệu về tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp cũng trở lên dễ dàng, chính xác và đầy đủ hơn. Tham gia vào quỹ này, người sử dụng lao động có thể chia sẻ rủi ro với nhau, họ có thể được nhận khoản hỗ trợ từ quỹ để nhanh chóng ổn định sản xuất (vì các vụ tai nạn lao động xảy ra có thể làm ngưng trệ quá trình sản xuất do máy móc thiết bị bị hư hỏng…). Hơn nữa viêc tham gia vào quỹ sẽ giúp các doanh nghiệp sẽ nhận được sự hỗ trợ nhằm thực hiện tốt hơn nữa công tác ATVSLĐ của mình. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong cơ chế và việc sử dụng các biện pháp kinh tế để tác động trực tiếp váo các doanh nghiệp tỏ ra có hiệu quả. Kinh ngiệm các nước khi thực hiện theo mô hình này cho thấy: bằng việc quy định đóng góp vào quỹ là bắt buộc song mức đóng góp lại được dựa trên cơ sở tần xuất TNLĐ&BNN xảy ra ở từng ngành nghề, công việc, nên nó đã tạo ra sự chủ động trong việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa TNLĐ&BNN. Đây cũng chính là thước đo về trách nhiệm đối với xã hội của người sử dụng lao động và thể hiện sự công bằng xã hội. Có thể thấy rằng, hiện nay ở Việt Nam đã có khá nhiều doanh nghiệp doanh bảo hiểm tiến hành triển khai loại hình bảo hiểm bồi thường trách nhiệm chi trả TNLĐ&BNN cho người sử dụng lao động tuy nhiên các loại hình này không thể thay thế được việc thực hiện chế độ này khi xét tới tính công bằng và tính xã hội. Nhà nước nên đứng ra để thành lập quỹ nhằm tránh tình trạng tản mác, và tăng cường độ chính xác trong thống kê TNLĐ&BNN đồng thời tái đầu tư trở lại cho doanh nghiệp.Và theo quan điểm đề tài thì Bộ Lao động nên là người đứng ra thành lập quỹ vì: thứ nhất là: quỹ bồi thường TNLĐ & BNN được hình thành nhằm phục vụ cho công tác ngăn ngừa TNLĐ&BNN gắn với chính sách lao động. Thứ hai là: việc Bộ Lao động quản lý sẽ thuận lợi hơn trong công tác điều tra, ngăn ngừa tai nạn nhanh chóng, xác định tỷ lệ đóng góp cho quỹ được chính xác đồng thời sẽ hạn chế đáng kể những phí tổn, sai lệch trong công tác truyền đạt thông tin. Để việc xây dựng quỹ bồi thường TNLĐ&BNN sớm trở thành hiện thực hi vọng rằng chương trình Quốc gia về ANVSLĐ sẽ đạt mực tiêu và lộ trình cụ thể cho vấn đề này. Và với những ưu điểm và lợi ích đã phân tích hi vọng việc thành lập quỹ bồi thường TNLĐ&BNN sẽ chỉ còn là vấn đề về thời gian. 2 Kiến nghị về công tác quản lý chế độ: 2.1 Về công tác thu: Có thể nói công tác thu của chúng ta sau hơn mười năm đi vào hoạt động đã đi vào nề nếp và hoạt động tương đối hiệu quả, tuy nhiên để năng cao hiệu quả công tác thu hơn nữa chúng ta cần: - Sớm nghiên cứu và thông nhất biện pháp hướng dẫn trong việc giải quyết những vướng mắc, tồn tại đối với các trường hợp chưa có đủ hồ sơ, căn cứ để ghi chép và cấp sổ BHXH, đảm bảo cho 100% số người lao động hiện đang tham gia BHXH được cấp sổ BHXH cho những đói tượng mới tham gia BHXH được kịp thời, chính xác. - Nghiên cứu việc sử dụng công nghệ tin học để có thể theo dõi, quản lí đối tượng tham gia BHXH, số thu BHXH, đối với các đơn vị thường xuyên chậm nộp BHXH để tìm ra nguyên nhân và biên pháp khắc phục cũng như có được chế tài xử phạt hiệu quả. - Tăng cường công tác tuyên truyền để mọi người có thể hiểu rõ về quyền và nghĩa vụ tham gia BHXH . 2.2 Về công tác chi: - Cần có các quy định cụ thể, rõ ràng về thủ tục hành chính, có hệ thống tập trung từ Trung ương tới địa phương trong tổ chức thực hiện. - Đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp - Việc áp dụng công nghệ tin học cũng rất cần thiết trong công tác chi trả, nó sẽ rút ngắn thời gian hoàn thành hồ sơ xét hưởng nhất là khi mọi giấy tờ có liên quan đều được lưu chuyển trong mạng máy tính, điều này cũng giúp cho việc thẩm định lại hồ sơ được nhanh chóng hạn chế được việc trục lợi BHXH . - Chúng ta cũng cần quan tâm hơn nữa tới vấn đề đảm bảo an toàn tiền mặt trong chi trả. 2.3 Kiến nghị trong quản lí chế tài thực hiện: Một hệ thống BHXH tốt không chỉ cần tới việc xây dựng nội dung và cơ chế quản lí phù hợp mà nó cũng cần tới một chế tài xử phạt công bằng, nghiêm minh và có hiệu quả. Tuy nhiên, ở nước ta vấn đề chế tài sử phạt về trách nhiệm hành chính đối với các trường hợp vi phạm trong việc thực hiện BHXH vẫn chưa đầy đủ, cụ thể và còn ở mức quá thấp chưa đủ để rằng buộc về trách nhiệm vật chất làm cho chủ sử dụng lao động chấp hành. Thêm và đó, việc quy định các cơ quan có quyết định xử phạt chưa gắn với thực tế nên hiệu quả rất thấp và thiếu tính khả thi. Vì vậy, trong thời gian tới chúng ta cần xem xét nghiên cứu để có thể đưa ra một mức xử phạt hành chính hiệu quả vừa có tác dụng răn đe vừa có tác dụng hạn chế phòng ngừa đối với những hành vi trốn đóng BHXH hay cố tình không nộp và thiếu trung thực trong việc lập hồ sơ giải quyết chế độ. Về cơ quan có quyền xử phạt, đề tài kiến nghị nên được giao cho bên cơ quan BHXH thực hiện chức năng này. Bởi thông qua cac hoạt động chuyên môn của mình, cơ quan BHXH sẽ dễ dàng phát hiện ra dấu hiệu của các hành vi vi phạm trên. Còn mức xử phạt thì cần được thiết kế trên nguyên tắc: tiền phạt phải nộp phải cao hơn tiền lãi ngân hàng và thường được xác định bằng một tỷ lệ % so với số phí nợ đọng còn thiếu và tính theo lãi gộp. Đối với số tiền xử phạt thu được, thì cách sử dụng tốt nhất là cho bổ sung vào quỹ BHXH. Chỉ khi chúng ta có được một chế tài đủ mạnh, quy định rõ rằng về mức xử phạt thì công tác thu - chi - quản lí BHXH mới thực sự có hiệu quả và khi đó những quyền lợi chính đáng của người lao động mới có thực sự được đảm bảo và những lợi ích mà BHXH đem lại mới thực sự phát huy được tác dụng. II GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ: 1 Đối với cơ quan BHXH: - Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra trong các doanh nghiệp các cơ quan trên các lĩnh vực: môi trường lao động; quá trình tham gia đóng góp vào quỹ BHXH và tình hình TNLĐ&BNN trong các đơn vị này. - Đẩy nhanh tiến độ xây dựng bộ luật BHXH để làm cho hệ thống BHXH của chúng ta sớm có được cơ sở pháp lý và hoạt động có hiệu quả. - Xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật một cách hợp lí và khoa học hơn, tránh hiện tượng chồng chéo, đan xen, thậm chí có những văn bản có nội dung mâu thuẫn nhau. - Củng cố và hoàn thiện hệ thống tổ chức quản lí nhà nước về ATVSLĐ từ Trung ương tới địa phương. Cần ưu tiên trước hết cho hệ thống thanh tra lao động. Với hệ thống Thanh tra lao động như hiện nay thì vấn đề cấp thiết là xây dựng tổ chức Thanh tra lao động hợp nhất với chức năng thanh tra chính sách lao động, ATLĐ và VSLĐ. - Cần làm chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa nhận thức và ý thức trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức xã hội, người sử dụng lao động và người lao động với công tác AT-VSLĐ. Đây là vấn đề cốt lõi, mang tính quyết định đến hiệu quả thực hiện công tác này. Muốn vậy, chúng ta cần phải tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, huấn luyện; tăng cường vai trò tư vấn của Thanh tra lao động; phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lí nhà nước các cấp với các tổ chức đại diện quyền lợi của người sử dụng lao động và người lao động. - Hoàn thiện cơ sở pháp lí về quản lí nhà nước về ATVSLĐ trên cơ sở quy định của Bộ luật Lao động đã được sửa đổi, bổ sung năm 2002 và các văn bản dưới luật để đưa đến tận tay người sử dụng lao động. - Tăng cường công tác tự kiểm tra của doanh nghiệp, phát huy vai trò tổ chức Công đoàn cơ sở trong kiểm tra, giám sát thực hiện luật pháp về ALVSLĐ; duy trì, củng cố và tăng cường hoạt động một cách có hiệu quả mạng lưới an toàn vệ sinh viên. - Phải tiến hành sửa đổi bổ sung, ban hành mới các văn bản quy phạm quy định về ATVSLĐ đảm bảo cho các văn bản này phù hợp với điều kiện cũng như sự phát triển sản xuất. Hiện nay, chúng ta đang áp dụng hàng trăm tiêu chuẩn kỹ thuật, trong đó có những tiêu chuẩn đã quá cũ, không còn phù hợp với tình hình sản xuất, mặt khác, do kinh tế xã hội ngày càng phát triển nên nhiều lĩnh vực sản xuất với những công nghệ mới ra đời lại thiếu các quy phạm, tiêu chuẩn về ATVSLĐ đây là vấn đề bất cập cần được giải quyết sớm trong thời gian tới đây. - Nhà nước cũng cần nghiên cứu để ban hành các văn bản quy định về các chế tài xử phạt đối với các doanh nghiệp, cơ quan vi phạm ATVSLĐ cũng như các đơn vị nợ đọng, trốn đóng BHXH, gây tổn hại tới lợi ích của người lao động để tránh tình trạng các doanh nghiệp tuy đã bị xử phạt những vẫn tiếp tục tái diễn các sai phạm. Vì vậy chúng ta cần có một hệ thống chế tài xử phạt công bằng, nghiêm minh, có tác dụng răn đe. - Nhà nước cũng cần đẩy mạnh việc tham khảo, trao đổi kinh nghiệm tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, kể cả khoa học quản lí cũng như khoa học công nghệ để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ATVSLĐ để có thể áp dụng kinh nghiệm của các nước công nghiệp phát triển và tạo thêm nguồn lực để năng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lí nhà nước về ATVSLĐ, của hệ thống Thanh tra lao động, tạo điều kiện để Việt Nam sớm hoà nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, sớm nghiên cứu việc hình thành quỹ BHXH TNLĐ&BNN . - Các cơ quan, đơn vị BHXH cần phối hợp với các cơ quan, các ban ngành có chức năng thông tin nhằm đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức tới mọi người lao động để họ hiểu biết về các chính sách của Đảng và Nhà nước từ đó thực hiện theo. 2 Đối với các doanh nghiệp: - Cần chú ý quan tâm đến công tác đào tạo nghề cho người lao động để họ có thể sử dụng thành thạo các trang thiết bị máy móc trong quá trình sản xuất, tránh những tai nạn đáng tiếc xảy ra do sự thiếu hiểu biết trong quá trình vận hành máy móc thiết bị. - Các doanh nghiệp phải quan tâm hơn nữa tới công tác cải thiện môi trường lao động của mình: như sử dụng các công cụ lao động phù hợp, đầu tư vào các hệ thống chống bụi, chống khí độc, hạn chế sử dụng các loại nguyên vật liệu không đảm bảo (dễ gây cháy nổ, phát sinh khí độc, chứa vi sinh vật gây hại…); tập trung đầu tư vào các công nghệ sạch, tiên tiến. - Hàng năm, các doanh nghiệp nên tổ chức lớp học về ATVSLĐ, về công tác bảo hộ lao động. Nhằm hạn chế sự tốn kém cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện nội dung này, cách tốt nhất là các doanh nghiệp trong cùng ngành nghề hoặc ở các ngành nghề có tính chất công việc giống nhau có thể phối hợp cùng nhau tổ chức thực hiện. - Các doanh nghiệp hàng năm nên tự mình thành lập một quỹ riêng để có thể dự phòng cho những chi phí phát sinh liên quan tới TNLĐ&BNN. Quỹ này được sử dụng để chi trả cho công tác ATVSLĐ, chi trả đền bù phần trách nhiệm của doanh nghiệp do TNLĐ&BNN gây ra và là nguồn kinh phí để tiến hành kiểm tra sức khỏe định kì cho người lao động tại đơn vị. - Quy định trang phục bảo hộ lao động phù hợp với từng công việc và nên đưa nội dung này vào nội quy của doanh nghiệp, buộc mọi người lao động trong doanh nghiệp phải nghiêm túc chấp hành - Các doanh nghiệp cũng tham gia và nộp BHXH đầy đủ theo quy định của nhà nước để người lao động có quyền được hưởng BHXH khi phát sinh sự kiện BHXH . - Khi quỹ bồi thường TNLĐ&BNN còn chưa được hình thành thì các doanh nghiệp có thể có thể kết hợp với nhau hình thành nên các tổ chức tương hỗ nhằm giúp đỡ nhau trong công tác chi trả TNLĐ&BNN . - Các doanh nghiệp cũng cần phải có sự hợp tác với các cơ quan ban ngành, tổ chức thanh tra lao động một cách đầy đủ; kịp thời cung cấp các hồ sơ có liên quan tới TNLĐ&BNN nhằm giúp cho việc điều tra được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác giúp cho người lao động bị nạn nhanh chóng được hưởng các quyền lợi BHXH để ổn định cuộc sống và khắc phục khó khăn. 3 Đối với người lao động: - Bản thân người lao động trước hết phải có ý thức tự bảo vệ mình trước những nguy cơ rủi ro về TNLĐ&BNN để tự mình có được biện pháp phòng tránh tích cực nhất. - Nghiêm túc chấp hành tốt mọi kỉ luật lao động trong quá trình làm việc. Ví dụ như: thực hiện đúng các thao tác trong quá trình sản xuất, làm việc đúng theo chức năng phận sự của mình… - Đẩy mạnh hoạt động của tổ chức Công đoàn để tổ chức Công đoàn thực sự là tiếng nói chung của người lao động, kịp thời phản ánh những sai phạm của chủ sử dụng lao động trong việc thực hiện công tác ATVSLĐ hay các vi phạm khác liên quan tới quyền lợi được hưởng BHXH của người lao động. - Người lao động thông qua tổ chức Công đoàn của mình có thể tham gia đóng góp những ý kiến của mình về chế độ TNLĐ&BNN, về những bất cập trong quá trình thực hiện và có thể đưa ra những ý kiến phản hồi quan trọng để hoàn thiện tốt hơn nữa chính sách BHXH nói chung và chế độ TNLĐ&BNN nói riêng. Như vậy, chế độ TNLĐ&BNN có được hoàn thiện hay không phụ thuộc nhiều vào sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng về BHXH, người sử dụng lao động và người lao động. Với sự nỗ lức từ các bên liên quan hi vọng chế độ TNLĐ&BNN sớm có được những bước tiến vượt bậc để ngày càng đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc nhanh chóng giúp đỡ người lao động ổn định cuộc sống, phục hồi chức năng, giúp cho quyền lợi của người lao động ngày càng được đảm bảo. C KẾT LUẬN Qua những gì đã được phân tích ở trên, chúng ta một lần nữa cần phải nhìn thẳng vào thực trạng tình hình tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp ở nước ta, thấy được những hậu quả mà chúng tác động ra tới đời sống người lao động, gia đình họ và xã hội cũng như thấy được tầm quan trọng trong việc sớm đề ra các biện pháp phòng tránh TNLĐ&BNN cho người lao động. Thông qua đây, chúng ta cũng thấy được những điều còn bất cập trong việc thực hiện chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN ở nước ta. Hoàn thiện chế độ trợ cấp TNLĐ&BNN đã và đang là vấn đề bức xúc thu hút được sự quan tâm không chỉ từ phía người lao động, người sử dụng lao động mà còn thu hút được sự quan tâm của các ngành, các cấp có liên quan. Làm thế nào để có được một chế độ trợ cấp công bằng, hợp lí vẫn là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Do những hạn chế về thời gian cũng như việc còn thiếu các kiến thực thực tế, đề tài nghiên cứu “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN cho người lao động tham gia BHXH ở Việt Nam” không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo để có thể hoàn thiện đề tài hơn nữa. Với những kiến nghị và giải pháp đã được trình bày, em hi vọng đề tài sẽ được góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện chế độ TNLĐ&BNN ở Việt Nam . Hi vọng rằng, trong tương lai không xa, cùng với sự phát triển của đất nước, sự quan tâm, chỉ đạo của các cấp, các ban ngành, chúng ta sẽ sớm có được một hệ thống các chế độ BHXH nói chung và chế độ trợ cấp TNLĐ& BNN nói riêng hoàn thiện, sớm đáp ứng được những mong mỏi, nguyện vọng chính đáng của đông đảo người lao động. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo cùng các cô chú công tác tại trung tâm NCKH-BHXH đã giúp cho em có thể hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1 . Bảo hiểm xã hội những điều cần biết- Bộ Lao động Thương binh & Xã hội – NXB Lao động – 2000 2. Bộ luật Lao động của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam – NXB Chính trị quốc gia – 1994 3. Giáo trình Bảo hiểm- TS Nguyễn Văn Định – NXB Thống kê –2004 4. Hệ thống văn bản pháp quy về Bảo hiểm xã hội- Trung tâm thông tin khoa học BHXH Việt Nam –NXB Tài chính – 2000 5. Những quy định pháp luật về chế độ Bảo hiểm xã hội hiện hành - Luật gia: Hải Đăng – NXB Lao động – 2004 6.Tạp chí Bảo hiểm xã hội: Số 4,6,7,8 năm 2000 Số 1,4,6,7,8,9,10 năm 2002 Số 4,8 năm 2003 Số 1,9,11 năm 2004 Số 1,3,8,9,12 năm 2005 Số 1 năm 2006 7. Tạp chí Lao động và Xã hội: Số: 190, 202, 211, 212, 221, 134, 258, 259, 272, 276. 8. Trang Web: - Bộ Lao động Thương binh & Xã hội: www.vubhld.netnam.vn - Bộ Y tế : www.moh.gov.vn - Cục An toàn và Vệ sinh lao động: www.dosmolisa.gov.vn - Tạp chí Lao động- Xã hội: www.molisa.gov.vn - Tiểu mạng thông tin ATVSLĐ khu vực phía Nam: www.oshvn.net - Viện nghiên cứu Khoa học kỹ thuật bảo hộ lao động của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam : www.vubhld.netnam.vn MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36378.doc
Tài liệu liên quan