Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư vô cùng quan trọng, tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội; là tiền đề cơ bản để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được thể hiện trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội, đó là hiệu quả tài chính, công ăn việc làm, trình độ cán bộ, công nghệ quốc gia và vấn đề bảo vệ môi trường. Trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có rất nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn cần phải xem xét.
Do đó, để đạt được mục tiêu của Đảng đã đề ra nhằm đưa đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá; tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội trong khi đó tỷ lệ huy động vốn cho hoạt động đầu tư còn rất thấp mà hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, tình trạng lãng phí, thất thoát đặc biệt là trong lĩnh vực sử dụng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đang là vấn đề nổi cộm. Do đó, nhiệm vụ cấp thiết là phải tìm ra được những biện pháp nhằm ngăn chặn hiện tượng thất thoát; lãng phí và việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Bên cạnh đó là tìm ra những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước.
Em hy vọng rằng qua việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước” sẽ góp phần nào vào việc nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước nói riêng
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị ái Liên đã trực tiếp hướng dẫn để em hoàn thành bài viết này.
110 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1560 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân cấp cho các Bộ, địa phương ngày càng nhiều, nhưng do thiếu quy định cụ thể, thiếu chế tài ràng buộc trách nhiệm đảm bảo vốn, phê duyệt dự án đầu tư không dựa vào khả năng cân đối vốn, nên đầu tư phân tán, dàn trải, nhiều công trình dở dang chưa có vốn nhưng đã bố trí hàng loạt công trình mới.
Tình trạng khép kín trong các khâu lập, thẩm định, phê duyệt, thi công... trong một Bộ, ngành, địa phương như hiện nay đã cản trở công tác thanh tra, kiểm tra của Nhà nước và các cơ quan chức năng dẫn đến khó phát hiện những sai phạm, khi phát hiện thì khó xử lý.
Chưa quy định rõ trách nhiệm của các đối tượng liên quan trong các khâu của quá trình đầu tư hoặc đã quy định nhưng chưa đầy đủ. Các quy định phân cấp trong quản lý đầu tư bị chi phối bởi nhiều quy định khác nhau của pháp luật, nhưng lại mâu thuẫn với nhau, nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời, chưa phù hợp với xu thế cải cách hành chính hiện nay.
6. Yếu tố con người.
Nguyên nhân của những tồn tại trên phải kể đến yếu tố con người. Yếu tố con người bao gồm con người trong bộ máy quản lý (vai trò là giám sát) và con người trong mối quan hệ với các bên liên quan dự án. Chỉ cần một trong hai mắt xích này bị hỏng thì việc quản lý đầu tư sẽ không đạt được kết quả như mong muốn. Có thể kể đến một số nguyên nhân cơ bản sau:
6.1. Làm việc thiếu trách nhiệm
Trách nhiệm của chủ đầu tư từ chủ đầu tư cao nhất là nhà nước đến các bộ ngành và chính quyền các cấp chưa được thực thi đúng mức, bên cạnh đó những lề lối làm việc từ thời kế hoạch hoá tập trung vẫn tồn tại ở mọi lúc, mọi nơi. Biểu hiện:
Tinh thần trách nhiệm yếu kém của người lãnh đạo, của công chức, của các chủ thể thị trường: Đối với người lãnh đạo, đó là bệnh chạy theo hình thức, bệnh cục bộ địa phương, bệnh quan liêu mệnh lệnh, coi thường pháp luật; Đối với công chức, đó là bệnh xu nịnh cấp trên, là thói quen xin- cho, hạch sách, thiếu ý thức trách nhiệm; Đối với chủ thể thị trường, đó là bệnh coi thường trách nhiệm đối với hợp đồng kinh tế, lẩn lách pháp luật, chạy theo lợi nhuận không chính đáng.
Con người bị sa sút về đạo đức thể hiện dưới dạng đòi hối lộ, đưa đút lót, thông đồng móc ngoặc, gian lận...
6.2. Thiếu năng lực
Năng lực của các tổ chức tư vấn lập dự án và thiết kế kỹ thuật thấp dẫn tới chất lượng hồ sơ dự án thấp, nănglực quản lý của các chủ đầu tư ban quan lý dự án còn hạn chế, thiếu kinh nghiệm, tổ chức thẩm định mang tính hình thức hành chính, chưa huy động được lực lượng khoa học tham gia nên chất lượng công tác thẩm định, phê duyệt dự án chưa cao, quyết định đầu tư khi chưa có đầy đủ căn cứ để xác định tính khả thi và hiệu quả của dự án đầu tư, vì vậy hiệu quả đầu tư chưa cao. Công tác tư vấn giám sát, thi công nhiều dự án chất lượng thấp, không đúng chuyên môn. Giám sát chưa chặt chẽ, chưa trung thực, dễ dãi trong kiểm tra, nghiệm thu làm ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Quản lý công tác đấu thầu chưa tốt (còn phổ biến tình trạng “quân xanh, quân đỏ” trong đấu thầu) dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, gây lãng phí, thất thoát vốn đầu tư.
6.3. Phẩm chất đạo đức.
Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ quản lý đầu tư và xây dựng còn kém, thậm chí thường lợi dụng những kẽ hở của cơ chế chính sách, lợi dụng chức quyền, vị trí công tác để trục lợi bất chính, sự thất thoát vốn đầu tư còn nhiều, gắn liền với tình trạng tham nhũng hiện nay.
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VĐT XÂY DỰNG CƠ BẢN TỪ NSNN
Tiếp tục tiến trình đổi mới đất nước, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong xu thế hội nhập, đường lối kinh tế của Việt Nam được chỉ rõ trong văn kiện đại hội Đảng lần IX là: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và côngbằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng trưởng quốc phòng- an ninh”.
Theo đó mục tiêu tổng quát của chiến lược là: “ Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX. NXB Chính trị quốc gia, 2001- trang 89)
Việt Nam chuẩn bị bước vào những năm cuối cùng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội năm (2000- 2005) khi kinh tế thế giới và khu vực đang trong giai đoạn phục hồi và có chiều hướng tăng trưởng khá; bên cạnh đó vẫn tồn tại nguy cơ mất ổn định về an ninh chính trị và kinh tế cùng với nhiều vấn đề bức xúc về chống khủng bố, về khắc phục đói nghèo và khoảng cách phát triển ngày càng tăng giữa các nhóm nước, về bảo vệ môi trường, chống dịch bệnh... Xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đang thúc đẩy sự phát triển ngày càng sâu rộng các quan hệ liên kết kinh tế đa phương và song phương. Giá cả trên thị trường thế giới biến động khó dự báo, ảnh hưởng tới nhịp độ tăng trưởng kinh tế của nhiều nước và tác động đến nền kinh tế nước ta, đặc biệt là giá dầu lửa và một số nguyên liệu mà ta phải nhập khẩu, giá nông sản xuất khẩu.
Trong điều kiện mới của thế giới và trong nước để thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế xã hội theo mục tiêu Đại hội Đảng IX đề ra, việc huy động triệt để các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Định hướng cụ thể về đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước trong thời gian tới:
- Đảm bảo chi đầu tư phát triển đạt mức bình quân khoảng 8% GDP, trong đó nguồn tích luỹ từ ngân sách nhà nước (thặng dư chi thường xuyên) từ 4-5% GDP. Vay ưu đãi nước ngoài và vay đầu tư 3-4% GDP.
- Những năm trước mắt ngân sách tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng, khắc phục một bước tình trạng lạc hậu, yếu kém về cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội. Các khoản thu từ cơ sở hạ tầng hay có liên quan đến cơ sở hạ tầng được đầu tư trở lại cho việc duy tu, bảo dưỡng và phát triển hạ tầng.
- Đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước tiếp tục hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp nhà nước có hiệu quả để giữ được vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước, bên cạnh đó cần tiếp tục sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước. Xúc tiến 10-15% tổng mức chi đầu tư của ngân sách nhà nước cho một số ngành mũi nhọn có vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế, những công trình quan trọng dưới hình thức cho vay ưu đãi của Chính phủ, hoặc Chính phủ đầu tư dưới hình thức tham gia cổ phần vào các doanh nghiệp này. Nhà nước khuyến khích các hình thức tín dụng nhà nước theo phương châm lấy tín dụng nuôi tín dụng để tạo thành vốn lớn hơn cho đầu tư. Nguồn vốn đầu tư tập trung của Nhà nước qua ngân sách phải được bố trí có trọng tâm, trọng điểm, quản lý chặt chẽ phù hợp với khả năng về nguồn vốn, bảo đảm sử dụng có hiệu quả.
- Tập trung nguồn lực phát triển kinh tế Nhà nước trong những ngành, những khu vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, hệ thống tài chính ngân hàng, bảo hiểm....
- Rà soát, đánh giá lại hiệu quả kinh tế của các chương trình mục tiêu quốc gia, kiên quyết cắt giảm các chương trình không có hiệu quả.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế, định hướng đầu tư được Đại hội Đảng IX đề ra, bên cạnh việc khai thác triệt để mọi nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý các nguồn vốn đầu tư đặc biệt là nguồn vốn từ ngân sách nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực tiễn về đầu tư và quản lý vốn đầu tư cho thấy khai thác, tìm kiếm được các nguồn vốn cho đầu tư là quan trọng, song quan trọng hơn, mang tính chất quyết định hơn là quản lý các nguồn vốn đó nhằm một mặt nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư thúc đẩy phát triển kinh tế, mặt khác chống thất thoát, tiêu cực, tham nhũng trong đầu tư. Đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước đổi mới quản lý một cách hiệu quả còn có ý nghĩa chính trị xã hội vô cùng to lớn Một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
1. Đổi mới cơ chế quản lý nâng cao hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn NSNN
Hàng năm nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước tiếp tục tăng, điều đó đã tạo nên nhân tố rất quan trọng để phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đất nước. Nhưng điều quan trọng và bức bách hiện nay là nâng cao được hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước, tạo niềm tin cho dân. Với mục tiêu đó trong thời gian tới cần tập trung thực hiện những vấn đề sau:
Hạn chế tới mức thấp nhất những sai sót về chủ trương đầu tư. Hạn chế sai sót ngay từ khâu quy hoạch, thiết kế, đến mục tiêu, địa điểm, quy mô đầu tư và lựa chọn công nghệ. Cần có sự rà soát, phân tích, đánh giá đúng hiệu quả của các công trình dự án đã và đang xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước để rút kinh nghiệm. Qua đó chấn chỉnh ngay từ khi có sáng kiến đầu tư, lập, xét duyệt và quyết định dự án đầu tư. Đây là vấn đề liên quan đến toàn bộ hệ thống quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Rà soát và giám sát chặt chẽ các công trình, dự án đang thực hiện và dự định thực hiện đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước đảm bảo hiệu quả đầu tư. Kiên quyết khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, có chế tài nghiêm khắc đối với các trường hợp đầu tư dàn trải kể cả trong quyết định đầu tư và trong cấp phát vốn đầu tư. Chấm dứt tình trạng quyết định đâu tư cho các dự án, công trình chưa chắc chắn về nguồn vốn, chưa có tính khả thi cao về thị trường. Nói một cách khác phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc:
- Không có thị trường, không đầu tư (kể cả có thị trường song căn cứ xác định chưa cao, tính khả thi thấp).
- Không có nguồn vốn chắc chắn không đầu tư.
Đây là vấn đề rất quan trọng, cho phép khắc phục tình trạng đầu tư dở dang, các công trình kéo dài hoặc không phát huy hiệu quả đầu tư, giảm, lãng phí vốn nhà nước. Đồng thời góp phần giảm phát trong điều kiện chỉ số giá tiêu dùng đang có xu hướng biến động tăng.
Vốn ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển phải được các cơ quan dân cử bàn, quyết định, tập trung chủ yếu cho việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và thực hiện các chương trình quốc gia, đặc biệt là chương trình hỗ trợ cho sự phát triển các vùng có nhiều khó khăn cần có quy định cụ thể những loại dự án đầu tư cần trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp xét duyệt chủ trương đầu tư theo một quy trình chặt chẽ.
Tích cực giải quyết nợ tồn đọng trong đầu tư xây dựng cơ bản; chính quyền địa phương đã khởi công xây dựng công trình khi dự án chưa được duyệt, dựa vào huy động vốn của nhà thầu, nay phải dành một phần ngân sách hàng năm để trả nợ và không được tái diễn cách đầu tư tuỳ tiện này. Nghiêm cấm các ngành, các cấp ra quyết định đầu tư bằng vốn nhà nước khi chưa xác định rõ nguồn vốn để thực hiện. Riêng về những công trình dựa vào huy động bằng trái phiếu, phải có dự án sẵn sàng, đích đáng rồi mới phát hành trái phiếu.
Nhanh chóng bổ sung quy chế đấu thầu, chuẩn bị trình pháp lệnh đấu thầu mua sắm tài sản công, ban hành quy chế kiểm tra, giám sát việc thực hiện dự án đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước và sẽ cùng với các cơ quan của Quốc hội xây dựng quy chế đảm bảo cho các cơ quan dân cử và nhân dân giám sát công trình đầu tư của nhà nước một cách thiết thực, có hiệu quả, ngăn chặn và đẩy lùi tệ tham nhũng, rút ruột công trình. Chỉ đạo thực hiện các quy định đã ban hành một cách nghiêm ngặt với chế độ trách nhiệm rõ ràng. Tăng cường các cơ quan làm nhiệm vụ thanh tra, điều tra, kết luận những trường hợp sai phạm để xử lý nghiêm minh.
2. Đổi mới công tác quy hoạch đầu tư, bảo đảm nguồn vốn NSNN được đầu tư đúng, phù hợp với kế hoạch, quy hoạch phát triển KTXH của đất nước.
Trong hoạt động đầu tư nói chung, đầu tư từ nguồn ngân sách nhà nước nói riêng, công tác quy hoạch có vai trò là cơ sở, là yếu tố bảo đảm đầu tư đúng, phù hợp. Tình trạng đầu tư dàn trải, đầu tư không đúng .... dẫn đến các công trình dở dang, lãng phí vốn, nguyên nhân đầu tiên là do quy hoạch chưa chính xác. Nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong công tác quản lý cần đổi mới, hoàn thiện công tác quy hoạch. Những giải pháp chủ yếu đổi mới công tác quy hoạch xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước:
Nhanh chóng tạo khung pháp lý cho công tác quy hoạch, sớm ban hành các văn bản về quản lý nhà nước đối với quy hoạch, trước hết là nghị định về quản lý quy hoạch, phân biệt rõ giữa quy hoạch có hiệu lực pháp lý “quy hoạch cứng” và quy hoạch có tính định hướng “quy hoạch mềm”; quyết định của Thủ tướng chính phủ về các ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu của nền kinh tế quốc dân cần được lập và phê duyệt quy hoạch.
Đổi mới nội dung và phương pháp lập quy hoạch phát triển phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác dự báo và cung cấp thông tin cho các ngành, các địa phương phục vụ công tác quy hoạch (nhất là dự báo và cung cấp thông tin kinh tế, thị trường, khoa học và công nghệ...). Bảo đảm quy hoạch sẽ là văn bản định hướng cho đầu tư và kinh doanh của mọi thành phần kinh tế. Kết hợp giữa quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quy hoạch phát triển ngành với quy hoạch sử dụng đất.
Rà soát các quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm để loại bỏ những trường hợp lợi dụng quy hoạch để độc quyền đầu tư; bảo đảm sản xuất gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm; sản xuất hàng hoá chất lượng cao và có khả năng cạnh tranh, đáp ứng yêu cầu hội nhập.
Các quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng bảo đảm các căn cứ khoa học, đầy đủ và vững chắc; quy hoạch có tầm nhìn xa, dài hạn, giảm thiểu những thay đổi, điều chỉnh lớn, gây lãng phí...
Chấn chỉnh công tác lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các ngành, các cấp. Bộ Xây dựng cần thực hiện nghiêm túc chỉ thị số 29/2003/CT-TTg ngày 23/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về chấn chỉnh quản lý đầu tư và xây dựng bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước. Theo chỉ thị này, bộ Xây dựng cần triển khai phân bổ vốn đầu tư và giao cho các cơ sở thực hiện theo các nguyên tắc:
- Các dự án được ghi vốn trong kế hoạch hàng năm phải tuân thủ các quy định hiện hành về quản lý đầu tư và xây dựng theo các Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999; số 12/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000; số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 của Chính phủ về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng; Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999; số 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000; số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/06/2003 của Chính phủ về quy chế đấu thầu và các văn bản có liên quan. Bộ Xây dựng cần rà soát và kiểm tra điều kiện của các dự án đầu tư XDCB được đầu tư bằng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước.
Nâng cao trình độ, năng lực cán bộ lập, duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các cấp.
Tổ chức tốt việc thẩm định các dự án quy hoạch nhằm từng bước nâng cao chất lượng các quy hoạch. Trước hết, cần nâng cao hơn nữa tính kết nối giữa các loại quy hoạch ngành và vùng, quy hoạch các tỉnh trong một vùng.
Rà soát, chấn chỉnh công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai, nhất là sử dụng đất ven đô thị, ven đường giao thông, đất khu công nghiệp, nhanh chóng khắc phục tình trạng “quy hoạch treo”.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát cộng đồng đối với các công tác quy hoạch, nhất là đối với việc công khai và tổ chức thực hiện các dự án quy hoạch. Tiếp tục kiểm tra, thanh tra quản lý xây dựng và kế hoạch sử dụng đất đai ở một số địa phương. Tăng cường giám sát thực hiện quy hoạch các khu công nghiệp, cụm công nghiệp gẵn với kế hoạch sử dụngđất ở các địa phương. Có hình thức chế tài tương ứng đối với các vi phạm trong công tác quy hoạch.
Xây dựng đội ngũ cán bộ lập, phê duyệt và quản lý quy hoạch ở tất cả các cấp, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như ý thức trách nhiệm thực hiện chức trách một cách tốt nhất.
- Tổ chức thường xuyên các lớp đào tạo lại, bồi dưỡng cán bộ lập, phê duyệt quản lý quy hoạch cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ trong điều kiện mới.
- Nâng cao chất lượng công tác tư vấn về quy hoạch, đầu tư.
- Xây dựng chế tài gắn trách nhiệm của từng cán bộ, cũng như tổ chức liên quan đến công tác quy hoach xây dựng.
Đây là những vấn đề rất cơ bản bảo đảm cho công tác quy hoạch thật sự là căn cứ đúng đắn, hợp lý cho hoạt động đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ ngân sách nhà nước có hiệu quả, hạn chế được các hiện tượng dàn trải, chồng chéo, dở dang trong đầu tư.
3. Đổi mới cơ chế quản lý công tác giải ngân, xử lý nợ tồn đọng trong đầu tư từ nguồn vốn NSNN
Vấn đề giải ngân khó khăn đối với vốn đầu tư, đặc biệt là nợ tồn đọng trong đầu tư đang là bức xúc hiện nay. Nhiều công trình bỏ dở vì thiếu vốn, các công ty nhà thầu xây dựng gặp nhiều khó khăn và không thanh toán được các công trình đã hoàn thành.
Việc xử lý nợ đọng, giải toả bế tắc trong giải ngân đối với các dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nướclà vấn đề được quan tâm hiện nay đối với Chính phủ cũng như các ngành, các cấp.
Thứ nhất: Nguyên tắc chung để xử lý nợ tồn đọng trong đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước bao gồm:
Một là: Phần nợ của các Bộ, Ngành trung ương chủ yếu là của Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn do Ngân sách của Trung ương cân đối để thanh toán
Hai là: Phần nợ của các tỉnh, thành phố do ngân sách địa phương cân đối để thanh toán; riêng dự toán ngân sách năm 2004 địa phương đã bố trí 1.980 tỷ đồng để thanh toán nợ xây dựng cơ bản từ năm 2003 trở về trước. Số nợ còn lại, địa phương phấn đấu tăng thu và sử dụng một phần tăng thu ngân sách địa phương năm 2004 để xử lý nợ xây dựng cơ bản. Đồng thời tiếp tục bố trí dự toán ngân sách các năm sau để xử lý theo đúng nghị quyết của Quốc hội.
Ba là: Cho phép ứng ngân sách để thanh toán nợ đọng xây dựng cơ bản, trả nợ vốn vay tín dụng đến hạn và trả nợ vốn ứng trước đến hạn phải trả của các dự án theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Ngân sách Trung ương sẽ bố trí hoàn trả vào dự toán hàng năm từ năm 2005 đến năm 2008
Thứ hai: Để xử lý một bước tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 910/2004/QĐ-TTg ngày 17-8-2004, trong đó cho phép tạm ứng ngân sách 4.278,8 tỷ đồng để:
- Thanh toán nợ xây dựng cơ bản từ năm 2003 trở về trước cho các dự án do Bộ Giao thông vận tải quản lý 1.761,9 tỷ đồng.
- Thanh toán nợ xây dựng cơ bản từ năm 2003 trở về trước cho các dự án do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý 1.012,1 tỷ đồng.
- Trả nợ vốn vay tín dụng đến hạn cho các dự án giao thông theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ 362,3 tỷ đồng.
- Hỗ trợ cho các địa phương thực hiện các dự án đầu tư quan trọng do ngân sách Trung ương đã ứng chi theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ 833,8 tỷ đồng.
Thứ ba: Đối với nợ xây dựng cơ bản của địa phương, phải phân loại nợ (làm rõ những nợ xây dựng cơ bản nào có lý do chính đáng, hợp lý và là đối tượng được ngân sách nhà nước đầu tư, đối tượng nào thuộc diện phải vay để đầu tư, đối tượng nào không đúng thủ tục quy định, sai quy chế quản lý đầu tư xây dựng...). Từ đó xử lý theo hướng:
Một là: Các địa phương phải có kế hoạch trả nợ xây dựng cơ bản cho từng năm (kể từ năm 2005 về sau), theo nguyên tắc: Ngân sách địa phương cần dành một phần vốn trong dự toán ngân sách năm 2005 để bố trí trả nợ trong vòng 2-3 năm. Đồng thời tìm thêm các nguồn vốn hợp pháp khác, nhất là phấn đấu tăng thu ngân sách để trả nợ dần.
Hai là: Dành phần vượt thu ngân sách năm 2004 của các địa phương để thanh toán nợ xây dựng cơ bản.
Ba là: Ngân sách Trung ương chỉ dành một phần vượt thu hàng năm để hỗ trợ thêm cho các địa phương nghèo, không có khả năng trả hết các khoản nợ.
Bốn là: Đối với nợ ngoài kế hoạch, các công ty xây dựng không được thi công các công trình, dự án khi chưa có nguồn vốn.
Thứ tư: Cần có sự phân tích, rà soát, xem xét đánh giá từng khoản nợ; xác định rõ nguyên nhân và trách nhiệm từng cá nhân, tập thể đối với từng khoản nợ từ đó xác định cách xử lý.
- Rà soát lại các khoản nợ, xác định đúng thực tế vốn đang nợ.
- Xác định nguyên nhân chậm giải ngân, thanh toán để dư nợ.
- Xác định cá nhân, tập thể và trách nhiệm của họ trực tiếp, gián tiếp đến phần nợ.
- Kiên quyết thực hiện nguyên tắc mà Chính phủ đề ra trong báo cáo của Chính phủ trước kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XI ngày 25-10-2004 “từ nay về sau, những tập thể, cá nhân để xẩy ra tình trạng nợ đọng phải có trách nhiệm bố trí nguồn vốn để trả nợ”.
Thứ năm: Trên cơ sở phân tích, xem xét từng khoản nợ, cần có biện pháp nhanh chóng giải ngân, thanh toán bảo đảm cho hoạt động của các công ty xây dựng, nhà thầu được liên tục giải quyết ách tắc cho các doanh nghiệp về vốn. Đây là mong đợi của không chỉ các nhà thầu mà hàng vạn người lao động tại các doanh nghiệp trong ngành xây dựng.
4. Nghiên cứu bổ sung cơ chế, chính sách, nâng cao trách nhiệm các nghành, các cấp trong quản lý đầu tư từ nguồn vốn NSNN
Để góp phần khắc phục được những tồn tại đã nêu phần trên thì cần có sự nghiên cứu bổ sung các cơ chế chính sách liên quan đến đầu tư cũng như nâng cao trách nhiệm của các ngành, các cấp trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất: Tiếp tục rà soát, nghiên cứu bổ sung, hoàn chỉnh đồng bộ các cơ chế chính sách trong quản lý đầu tư đặc biệt là vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Trước hết, cần tổ chức nghiên cứu, bổ sung cơ chế chính sách theo hướng loại bỏ dần tình trạng khép kín, tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng quản lý xây dựng trong từng Bộ, Ngành, tỉnh, thành phố... ở tất cả các khâu.
Hai là: Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng vơi các Bộ, Ngành liên quan nhanh chóng dự thảo quy chế quản lý đầu tư sử dụng vốn ngân sách nhà nước trình Chính phủ theo hướng:
- Người ra quyết định đầu tư không kiêm nhiệm chủ đầu tư; thực hiện đấu thầu chọn chủ đầu tư, tư vấn quản lý dự án; xây dựng và ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn làm chủ đầu tư, ban quản lý dự án kèm theo chức năng và trách nhiệm cụ thể cho từng chức danh công việc; tăng cường sử dụng các tổ chức tư vấn giám sát độc lập trong quá trình thực hiện dự án, đặc biệt đối với các dự án lớn.
- Các tổ chức tư vấn thiết kế, các nhà thầu xây dựng, các tư vấn giám sát không thuộc cùng Bộ, tỉnh, thành phố.
- Từng bước hình thành tổ chức tư vấn độc lập.
- Xây dựng lộ trình xoá bỏ tình trạng khép kín hiện nay.
Thứ hai: Kiên quyết tập trung đầu tư cho các công trình, dự án trọng điểm để nhanh chóng đưa vào sử dụng, phát huy hiệu quả kinh tế. Các Bộ, Ngành, địa phương cần rà soát và xây dựng chương trình đầu tư bằng vốn ngân sách cho thật hiệu quả, đúng đối tượng; vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước và nguồn vốn tín dụng ưu đãi sẽ tập trung hỗ trợ cho chương trình giống cây con, cho việc đổi mới và áp dụng các công nghệ hiện đại vào chuyển dịch cơ cấu sản xuất; ưu tiên cân đối vốn cho các cơ sở hạ tầng cần thiết thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong từng vùng, từng ngành.
Thứ ba: Nâng cao trách nhiệm của các Bộ, các ngành các cấp trong việc xây dựng và điều hành thực hiện kế hoạch đầu tư phát triển từ nguồn vốn ngân sách nhà nứơc.
Một là: Trên tầm vĩ mô, Chính phủ chỉ đạo xây dựng chương trình đầu tư dài hạn (5 năm) dựa vào bảng cân đối tổng hợp về nguồn vốn huy động tron kỳ kế hoạch. Chương trình đầu tư đó được cụ thể hoá từng năm, dựa vào cân đối nguồn vốn hàng năm; đặc biệt là nguồn vốn nhà nước, để xác định mục tiêu đầu tư; tránh tình trạng mục tiêu thì nhiều trong khi khả năng nguồn vốn hạn chế, làm mất cân đối ngay từ khâu kế hoạch.
Chính phủ chỉ đạo các Bộ, Ngành và địa phương cần thực hiện có hiệu quả các giải pháp chống dàn trải, thất thoát, lãng phí vốn đầu tư; hoàn thiện các chế tài để xử lý nghiêm khắc những người lợi dụng chức vụ; quyền hạn để tư lợi trong công tác quản lý đầu tư; đôn đốc các Bộ, Ngành và địa phương thực hiện các kiến nghị do các cơ quan thanh tra nêu ra và đã được cấp có thẩm quyền kết luận để thực hiện.
Hai là: Đối với các Bộ tham mưu tổng hợp (như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài Chính, Ngân hàng Nhà nước) cần tăng cường dự báo về khả năng huy động nguồn vốn, xây dựng định hướng các cơ chế chính sách đầu tư; tổ chức kiểm tra, giám sát chặt chẽ quy trình đầu tư xây dựng, quy trình và thủ tục giải ngân, nhất là nguồn vốn ngân sách và có nguồn gốc từ ngân sách. Có trách nhiệm bảo đảm nguồn vốn của ngân sách theo tiến độ đầu tư trong kế hoạch được duyệt
Ba là: Đối với các Bộ, Ngành và Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố; theo sự phân cấp quản lý về đầu tư và xây dựng hiện hành, cần đảm bảo thực hiện đầy đủ chức năng quản lý ngành trong lĩnh vực đầu tư phát triển; chịu trách nhiệm về quy hoạch, về chủ trương đầu tư; phân cấp cho các cơ sở trong Bộ, trong ngành, trong tỉnh, thành phố quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước và các nguồn vốn của Nhà nước.
Thứ tư: Qui định trách nhiệm cụ thể về vai trò tham ưu cũng như quản lý của các cơ quan từ Chính phủ đến các doanh nghiệp trong việc quản lý đầu tư và vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
Để khắc phục được những tồn tại đã nêu ở trên, một số giải pháp sau cần được thực hiện:
Một là: Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan đến quản lý đầu tư. Sớm chuẩn bị nghị định về quản lý đầu tư thống nhất và ban hành trong đầu năm 2005 thay cho các văn bản cũ còn có điểm chưa phù hợp hoặc chồng chéo với các văn bản khác để thích ứng với cơ chế mới. Chính phủ sớm thông qua nghị định về lập và quản lý quy hoạch để làm căn cứ cho việc nâng cao chất lượng của công tác xây dựng và quản lý quy hoạch phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch vùng lãnh thổ, địa phương và quy hoạch ngành, lĩnh vực và quy hoạch sản phẩm, dịch vụ quan trọng nhất.
Hai là: Nâng cao ý thức trách nhiệm và phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ công chức, kết hợp với việc đẩy mạnh sinh hoạt công khai, dân chủ ở cơ sở và công tác thanh tra, giám sát của cả hệ thống chính trị, của cơ quan quản lý, của nhân dân, cũng như thực thi các chế tài đủ mạnh để đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng.
Ba là: Nhanh chóng hình thành quy trình chặt chẽ và công khai về xây dựng, phê duyệt và quản lý các quy hoạch, dự án đầu tư, phân bổ kế hoạch đầu tư, quản lý nguồn vốn trong các ngành, các cấp từ trung ương đến các Bộ, Ngành, địa phương, các ban quản lý dự án; tăng cường tính công khai dân chủ với sự tham gia giám sát của cộng đồng.
Bốn là: Thường xuyên và công khai báo cáo về quá trình thực hiện đầu tư trong tất cả các giai đoạn, ở tất cả các ngành, các cấp để nhân dân, các cơ quan dân cử, các tổ chức chính trị xã hội có điều kiện giám sát, kiểm tra chéo, để xử lý kịp thời và đúng mức theo pháp luật các sai phạm và biểu dương thích đáng các gương tốt trong việc thực thi nhiệm vụ đầu tư ở các ngành, các cấp.
5. Đổi mới cơ chế giám sát, thanh tra kiểm toán đối với hoạt động đầu tư từ nguồn vốn NSNN.
Luật ngân sách nhà nước cũng như các văn bản pháp quy liên quan đến đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước đã quy định rất chặt chẽ quy trình, cơ chế quản lý từ khâu sáng kiến dự án, lập kế hoạch, xét duyệt, thẩm định kế hoạch, dự án đến khâu cấp phát quản lý vốn và quyết toán. Nói chung về quy trình thủ tục đại bộ phận các cơ quan đơn vị liên quan đều tuân thủ một cách nghiêm túc. Tuy nhiên như trong báo cáo của Chính phủ về quản lý đầu tư do Bộ trưởng Võ Hồng Phúc trình bày trước kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá XII ngày 25-10-2004 nhiều khi còn mang tính hình thức, đầu tư còn dàn trải, theo cảm tính, thất thoát còn lớn, hiện tượng tiêu cực, tham nhũng xảy ra, nguồn vốn ngân sách nhà nước chưa được sử dụng có hiệu quả.... Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn nhiều bất cập, chưa đủ chủ động trong việc phát hiện, ngăn ngừa các hiệntượng tiêu cực trong đầu tư, sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Vì vậy, trong hoàn thiện cơ chế quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cần thiết phải đổi mới cơ chế giám sát, kiểm tra, kiểm toán đối với hoạt động này.
Thứ nhất: Đổi mới công tác kiểm tra đối với hoạt động đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Kiểm tra là chức năng chủ yếu của quản lý, đặc biệt là đối với quản lý tài chính. Nó có vai trò đặc biệt quan trọng:
- Là vũ khí để đảm bảo chất lượng công việc, chống tiêu cực thất thoát trong đầu tư.
- Ngăn ngừa, phát hiện các sai sót trong lập kế hoạch dự toán đầu tư, bảo đảm chất lượng đầu tư, chống tiêu cực, tham nhũng.
- Thúc đẩy việc khai thác, sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn ngân sách nhà nước thực hiện mục tiêu nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
- Bảo đảm thi hành đúng đắn, nghiêm túc các quy định của nhà nước trong đầu tư, sử dụng vốn ngân sách nhà nước.
- Góp phần thúc đầy việc thực hiện kỷ cương, trật tự trong đầu tư và sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, làm lành mạnh hoá các quan hệ tài chính.
Theo tinh thần nghị định 07/2003/NĐ-CP của Chính phủ và Thông tư 03/2003/TT-BKH của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cơ chế kiểm tra về vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được đổi mới theo các nội dung sau đây:
Một là: Thực hiện kiểm tra ngay từ khâu sáng kiến dự án đầu tư, lập kế hoạch đầu tư.
Dự án đầu tư phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hộ của Ngành, địa phương, đơn vị, phải có thị trường. Trong khâu này cần kiểm tra tính cần thiết cũng như phân tích, xem xét thị trường của dự án. Điều đó hạn chế được việc đầu tư không phù hợp, đầu tư không có thị trường.
Phương thức thực hiện kiểm tra ở đây:
- Cơ quan kiểm tra cơ sở, nơi phát sinh sáng kiến dự án, tiến hành kiểm tra khi đưa vào kế hoạch.
- Dân kiểm tra. Những dự án xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, xã hội, thực hiện dịch vụ công cần có sự công khai cho dân biết, thực hiện dân kiểm tra tính cần thiết, khả thi của dự án, của vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. Quy chế dân chủ cơ sở phải được thực hiện ngay từ khâu này.
Bảo đảm sự kiểm tra của dân cần thiết thực hiện trưng cầu dân ý qua thăm dò bỏ phiếu kín... Nhờ vậy, cơ chế “dân biết,dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được bảo đảm thực hiện đối với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước.
Hai là: Thực hiện kiểm tra trong suốt quy trình kế hoạch hóa.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước được thực hiện theo quy trình kế hoạch hoá nghiêm ngặt. Trong quá trình lập dự toán kế hoạch, xét duyệt, thẩm định, phê duyệt kế hoạch cần phải có sự kiểm tra chặt chẽ. Việc kiểm tra trên khâu này được xem xét trên các khía cạnh:
- Khối lượng công việc được đầu tư
- Định mức chi phí. Định mức chi phí là vấn đề nhạy cảm, dễ lợi dụng để tiêu cực. Trong thực tế đầu tư, định mức quy định, và thực tiễn nhiều khi không thống nhất. Sự không thống nhất này thường bị lợi dụng để vụ lợi. Do vậy cần có sự kiểm tra chặt chẽ nhằm bảo đảm định mức đúng, phù hợp với điều kiện từng thời điểm. Nó bảo đảm cho việc chống tiêu cực trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
- Giá cả vật tư, thiết bị khi lập dự toán, kế hoạch đầu tư.
Các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước thường xuyên thay đổi, điều chỉnh, bổ sung. Trong nhiều nguyên nhân có sự thay đổi giá cả thực tế và trong dự toán kế hoạch. Do vậy cần có sự kiểm tra chặt chẽ nội dung này. Nhằm hạn chế sự điều chỉnh, bổ sung gây khó khăn cho cả chủ đầu tư lẫn nhà thầu.
Ba là: Thực hiện kiểm tra trong khâu thi công, kiểm tra chất lượng vật liệu, công trình theo thiết kế, kiểm tra quyết toán.
Bốn là: Kết hợp, phối hợp kiểm tra tất cả các khâu trong quy trình đầu tư, từ cơ sở đến các cơ quan có liên quan.
Thứ hai: Đổi mới công tác giám sát quá trình thi công thực hiện đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Một là: Thực hiện giám sát ngay từ khâu bố trí đầu tư và bảo đảm tuân thủ theo quy hoạch, kế hoạch được duyệt.
Hai là: Giám sát khi chuẩn bị đầu tư. Sự giám sát này bảo đảm quá trình thi công được liên tục, không ứ đọng vốn, vốn được sử dụng linh hoạt.
Ba là: Giám sát quá trình thực hiện đầu tư. ở đây cần lưu ý:
- Giám sát vật tư thiết bị thi công.
- Giám sát thực hiện quy trình kỹ thuật đầu tư, thi công, bảo đảm chất lượng công trình.
- Giám sát quá trình giải ngân theo tiến độ thi công thực hiện công trình. Bảo đảm sự giải ngân vốn phù hợp với tiến độ thi công, chống ứ đọng vốn, chống bỏ dở công trình.
- Giám sát và đánh giá sau thực hiện đầu tư. ở đây cần xem xem việc khai thác, vận hành dự án để đánh giá hiệu quả dự án, hiệu quả vốn đầu tư.
Bốn là: Trong cơ chế giám sát cần kiên quyết thực hiện:
- Khi dự án chưa làm rõ hiệu quả và tính khả thi. Không phê duyệt.
- Không điều chỉnh dự án, nội dung đầu tư khi chưa có sự giám sát chặt chẽ và phân tích kỹ các yếu tố, điều kiện thay đổi.
- Không cấp phát vốn tuỳ tiện khi chưa có sự phân tích, giám sát chặt chẽ nghiêm sự tuân thủ quy chế.
Thứ ba: Đổi mới hoạt động thanh tra trong đầu tư xây dựng từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Chống thất thoát, tham nhũng đặc biệt là trong đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước đòi hỏi chính quyền các cấp, các ngành phải kiên quyết trong việc xử lý tập thể và cá nhân sai phạm. Theo đó một số giải pháp cần thực hiện.
Một là: Thực hiện tốt kế hoạch 05-KH/TW ngày 10-9-2003 của Bộ Chính trị về quản lý, sử dụng đất đai và theo ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại công văn số 12/CVCP-VI ngày 12-01-2004 cần kết hợp tốt thanh tra với chống tham nhũng, chống lãng phí thực hành tiết kiệm. ở đây thanh tra về quản lý sử dụng đất đai cần lưu ý những nội dung chủ yếu sau:
- Xem xét về quy hoạch đất.
- Xem xét về việc đền bù, giải toả cho dân. Hiện tượng công trình đang thi công, dân cản trở, gây khó khăn khiếu kiện về công việc đền bù, giải toả chưa thoả đáng làm ảnh hưởng đến tiến độ thi công, hiệu quả vốn đầu tư.... đang thường xuyên xảy ra, trở thành vấn đề bức xúc hiện nay.
Hai là: Phát huy vai trò thanh tra nhân dân, trong hoạt động đầu tư từ quyết định đầu tư đến phê duyệt, kế hoạch đầu tư, thực hiện dự án đầu tư.
Ba là: Kết hợp cơ quan thanh tra các cấp, các loại hình thanh tra đối với hoạt động đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Bốn là: Cần thay đổi nhận thức đối với công tác thanh tra. Coi đây là công việc quản lý nhằm chống tiêu cực, tham nhũng, chống thất thoát, lãng phí tài sản nhà nước. Do vậy nó phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Tuy nhiên không làm ảnh hưởng đến tiến độ cũng như chất lượng công trình thi công kết hợp thanh tra thường xuyên với thanh tra đột xuất, thanh tra toàn diện với thanh tra cục bộ.
Cần phải có thái độ cương quyết, nghiêm túc trung thực, thẳng thắn trong công tác thanh tra.
Thứ tư: Tăng cường hoạt động kiểm toán đối với đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Để mở rộng quy mô và nâng cao chất lương công tác kiểm toán, phát huy tốt vai trò của kiểm toán Nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả quản lý tài chính, đặc biệt là quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cần thực hiện một số vấn đề sau:
Một là: Cần nhanh chóng hoàn thiện cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của kiểm toán nhà nước cũng như xác lập địa vị pháp lý thích đáng của cơ quan kiểm toán nhà nước. Theo hướng này đề nghị Quốc hội sớm xây dựng Luật Kiểm toán nhà nước.
Hai là: Tạo điều kiện thuận lợi để kiểm toán Nhà nước được báo cáo quyết toán các dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước. Nếu có thể thực hiện kiểm toán cả dự toán kế hoạch và quyết toán.
Ba là: Nâng cao nhận thức và thực hiện đầy đủ, nghiêm túc quy chế lập, thẩm tra, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách Trung ương và phê chuẩn quyết toán NSNN ban hành theo Nghị quyết 387/2003/NQ-UBTVQH ngày 17-3-2003 và quy chế xem xét, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương ban hành theo Nghị định 73/2003/NĐ-CP ngày 23-6-2003 của Chính phủ.
6. Đổi mới thủ tục hành chính, cơ chế đấu thầu, công tác cán bộ trong quản lý đầu tư và VĐT từ NSNN.
Thứ nhất: Đổi mới thủ tục hành chính trong quản lý đầu tư và vốn đầu tư ngân sách Nhà nước.
Nhằm quản lý chặt chẽ hoạt động đầu tư cũng như vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp quy quy định trình tự thủ tục lập kế hoạch, thẩm định, quyết định đầu tư. Đặc biệt trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước thủ tục về xét duyệt vốn, cấp phát vốn, hoàn trả, thu hồi, quyết toán... được quy định rất chặt chẽ. Tuy nhiên, theo yêu cầu cải cách thủ tục hành chính trong thực tế còn nhiều bất cập
Thực hiện chương trình cải cách nền hành chính quốc gia, thủ tục hành chính trong đầu tư và quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước đã được đổi mới, hoàn thiện ở nhiều khâu, nhiều cấp. Tuy nhiên để đáp ứng yêu cầu mới cần thiết phải tiếp tục đổi mới thủ tục hành chính trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Trước mắt theo tôi cần tập trung đổi mới thủ tục hành chính ở một số khâu chủ yếu sau:
Một là: Đổi mới thủ tục trong khâu đề xuất sáng kiến dự án đầu tư, lập kế hoạch đầu tư.
Hiện nay, từ khi địa phương, cơ sỏ.... có sáng kiến đầu tư để được quyết định đưa vào kế hoạch đầu tư còn nhiều thủ tục. Tôi cho rằng để gọn nhẹ, đơn giản về thủ tục, các đơn vị có sáng kiến đầu tư, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế- xã hội chủ động ghi vào kế hoạch kinh tế quốc dân theo quy trình kế hoạch quy định.
Hai là: Nghiêm chỉnh chấp hành quy trình kế hoạch Ngân sách Nhà nước. ở đây cần chống các khuynh hướng:
- ỷ lại, trông chờ cấp trên.
- Bao biện, làm thay cấp dưới.
Qua đó bảo đảm cho công tác kế hoạch hoá ngân sách nhà nước được chính xác, xát thực.
Ba là: Đổi mới thủ tục trong khâu cấp phát vốn.
Việc cấp phát vốn đầu tư liên quan đến nhiề cơ quan đơn vị. Để vốn được cấp phát phải có thủ tục xác nhận khối lượng, chất lượng thi công của đơn vị thi công (nhà thầu), của chủ đầu tư, của cơ quan quản lý đầu tư phát triển. Vì vậy cần đơn giản hoá thủ tục giữa cơ quan quản lý đầu tư phát triển với chủ đầu tư và nhà thầu theo hướng:
- Tiền vốn được đi thẳng từ Kho bạc Nhà nước về cơ quan thực hiện đầu tư (Nhà thầu).
- Thủ tục xác nhận giữa nhà thầu và cơ quan quản lý được thực hiện theo phương thức “một cửa”.
Bốn là: Đổi mới thủ tục trong khâu thanh quyết toán khi dự án đầu tư được hoàn thành. Đây đang là điểm bức xúc hiện nay. Nhiều công trình đã hoàn thành, có vốn song không thanh quyết toán được. Nguyên nhân là do thủ tục chưa hoàn tất.
ở đây cần lưu ý trong công tác quản lý vốn đầu tư, theo dõi, giám sát công trình, thủ tục đối chiếu, đánh giá phải được thực hiện thường xuyên, liên tục từng khâu, từng công việc, từng bộ phận. Qua đó đi đển tổng thể công trình dự án. Điều đó bảo đảm gọn nhẹ trong trong hoạt động quản lý. Các số liệu phản ánh chính xác hơn. Đặc biệt trách nhiệm của cá nhân, đơn vị được thể hiện rõ ràng, cụ thể hơn.
Thứ hai: Đổi mới cơ chế quản lý tuyển chọn nhà thầu dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Trong quản lý đầu tư, đặc biệt là đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước vấn đề tuyển chọn nhà thầu có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà thầu là đơn vị thực hiện dự án đầu tư. Chất lượng công trình, hiệu quả vốn đầu tư phần rất lớn phụ thuộc vào nhà thầu.
Nhà thầu có đủ năng lực tài chính, kỹ thuật, lao động phù hợp với yêu cầu kỹ thuật, quy mô công trình dự án sẽ tạo điều kiện cho tiến độ thi công thực hiện dự án tiến hành được liên tục, đồng vốn được sử dụng có hiệu quả. Ngược lại là nguyên nhân thất thoát vốn. Thực tiễn đã chỉ ra rằng hơn 70% dự án công trình hiệu quả thấp nguyên nhân chính là do chọn nhà thầu không hợp lý đồng thời thường dẫn đến tham nhũng, tiêu cực.
Có 2 hình thức chủ yếu để lựa chọn nhà thầu:
- Hình thức chỉ định thầu. Theo hình thức này, chủ đầu tư căn cứ vào yêu cầu, mục tiêu, điều kiện thực hiện để chỉ định nhà thầu hợp lý.
- Hình thức đấu thầu. Đây là hình thức lựa chọn theo cơ chế cạnh tranh. Nó cho phép tìm được nhà thầu phù hợp với yêu cầu, mục tiêu, điều kiện thực hiện dự án đầu tư.
Hiện nay chỉ trừ những dự án đặc biệt quan trọng, liên quan đến bí mật, an ninh quốc gia, còn tất cả đều thực hiện chọn thầu theo hình thức đấu thầu.
Nhà nước có quy định rất chặt chẽ về đấu thầu. Tuy nhiên trên thực tế, trừ những công trình dự án lớn, yêu cầu kỹ thuật cao... Còn các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước loại nhỏ việc đấu thầu mang tính chất hình thức. Nguyên nhân chủ yếu là các nhà thầu có sự thoả hiệp trong đấu thầu. Mặt khác các dự án đầu tư thường được điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện dự án. Do vậy giá bỏ thầu thấp, nhiều trường hợp thấp hơn giá dự toán, song nhà thầu vẫn thực hiện và tìm cách điều chỉnh, bổ sung.
Từ thực tế trên trong đổi mới cơ chế quản lý đấu thầu, bảo đảm khai thác triệt để yếu tố cạnh tranh, lựa chọn được nhà thầu hợp lý hạn chế tham nhũng, tiêu cực trong đấu thầu, cần thực hiện một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Một là: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu, đảm bảo tính đồng bộ của văn bản pháp quy. Để đảm bảo tính đồng bộ, cần tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh pháp lệnh đấu thầu. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu của Nhà nước đã ban hành, các Bộ tuỳ theo tình hình cụ thể cần ra các văn bản hướng dẫn thực hiện cho phù hợp (như quy định về cơ quan được uỷ quyền phê duyệt hồ sơ mời thầu thay cho người có thẩm quyền, quy trình thực hiện đấu thầu, báo cáo đánh giá, biểu mẫu....)
Hai là: Cần có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ các nhà thầu kể cả qua hồ sơ dự thầu và qua thực tế. Tránh tình trạng thoả hiệp, mua hồ sơ... của các nhà thầu.
Ba là: Khi phân tích lựa chọn nhà thầu cần có sự cân nhắc nhiều yếu tố. Thường khi chọn thầu các chủ đầu tư chỉ tập trung vào giá thầu. ở đây cần xem xét kỹ các điều kiện thực hiện đầu tư như kỹ thuật, công nghệ, lao động. Đặc biệt cần lưu ý là nếu giá thấp quá sẽ không cho phép đáp ứng được yêu cầu chất lượng công trình. Thực tế chỉ rất rõ vấn đề này. Do vậy giá chỉ là một yếu tố để chọn nhà thầu.
Bốn là: Nhằm bảo đảm cho việc đấu thầu khách quan, lựa chọn được nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu thi công thực lực dự án, kiên quyết xoá bỏ các trường hợp điều chỉnh thiết kế, bổ sung trong quá trình thực hiện dự án.
Năm là: Luật hoá các hoạt động đấu thầu theo hướng cụ thể, đồng bộ. Trong đó cần có chế tài với tính răn đe, trừng trị mạnh đối với tính răn đe, trừng trị mạnh đối với các tiêu cực, vi phạm trong đấu thầu. Điều này cho phép nâng cao trách nhiệm của các cán bộ liên quan đến đấu thầu các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, hạn chế những tiêu cực, tham nhũng trong đấu thầu.
Thứ ba: Đổi mới công tác cán bộ quản lý đầu tư từ ngân sách nhà nước.
Như đã biết, cán bộ công chức có vai trò quyết định mọi mặt. Những thất thoát, kém hiệu quả của vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước vừa qua, ngoài các nguyên nhân đã nêu, công tác cán bộ có vai trò quan trọng. Việc đổi mới công tác cán bộ nói chung và cán bộ quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước nói riêng theo tôi cần tập trung giải quyết một số điểm sau đây:
Một là: Bảo đảm yêu cầu chất lượng đối với cán bộ công chức thực hiện quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước:
- Về chuyên môn, cần bố trí cán bộ công chức được đào tạo chính quy đúng chuyên môn, phần việc đảm nhiệm.
- Về bản lĩnh chính trị phải đảm bảo yêu cầu năng động, trung thực. Những cán bộ gia đình có con em nghiện hút... tuyệt đối phải đưa ra khỏi lĩnh vực quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
Yêu cầu về “Hồng” và “Chuyên” đối với cán bộ công chức thực hiện quản lý đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước phải được nhận thức cụ thể, không lý luận chung chung.
Hai là: Thường xuyên đào tạo lại, đặc biệt là tập huấn, bồi dưỡng những quy định mới của pháp luật liên quan đến đầu tư và quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Cần đặc biệt cập nhật thông tin về chế độ, chính sách.... Cho cán bộ công chức thực hiện quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
Ba là: Tạo lập cơ chế hợp lý về trách nhiệm và thù lao cho cán bộ công chức quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
- Đổi mới chế độ tiền lương, thưởng nhằm bảo đảm cho cán bộ, công chức thực hiện quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước, có thu nhập hợp lý, ổn định, thoả đáng. Điều đó tạo cho họ sự yên tâm trong công tác, tâm huyết với trách nhiệm thực thi công vụ.
- Có chế tài về trách nhiệm mang tính răn đe mạnh, đặc biệt là chế tài về kinh tế. Điều đó hạn chế hành vi tiêu cực của đội ngũ cán bộ công chức quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
Bốn là: Quy định rõ trách nhiệm và nghĩa vụ của từng cán bộ công chức quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước.
Cần thiết cụ thể hoá về trách nhiệm và nghĩa vụ cho từng cán bộ công chức trong công tác quản lý vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước. Loại bỏ cơ chế xin - cho trong quản lý vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Thứ tư: Triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ cơ sở trong các cơ quan, đơn vị liên quan đến việc thực hiện đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Điều này cho phép thực hiện “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong đầu tư từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
K ẾT LUẬN
====================
Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư vô cùng quan trọng, tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội; là tiền đề cơ bản để thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản được thể hiện trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế xã hội, đó là hiệu quả tài chính, công ăn việc làm, trình độ cán bộ, công nghệ quốc gia và vấn đề bảo vệ môi trường. Trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản có rất nhiều vấn đề gây ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn cần phải xem xét.
Do đó, để đạt được mục tiêu của Đảng đã đề ra nhằm đưa đất nước đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá; tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội trong khi đó tỷ lệ huy động vốn cho hoạt động đầu tư còn rất thấp mà hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, tình trạng lãng phí, thất thoát đặc biệt là trong lĩnh vực sử dụng nguồn vốn Ngân sách Nhà nước đang là vấn đề nổi cộm. Do đó, nhiệm vụ cấp thiết là phải tìm ra được những biện pháp nhằm ngăn chặn hiện tượng thất thoát; lãng phí và việc sử dụng vốn kém hiệu quả. Bên cạnh đó là tìm ra những giải pháp nhằm sử dụng có hiệu quả hơn nữa nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước.
Em hy vọng rằng qua việc nghiên cứu đề tài: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ Ngân sách Nhà nước” sẽ góp phần nào vào việc nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư xây dựng cơ bản nói chung và đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước nói riêng
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn cô giáo Nguyễn Thị ái Liên đã trực tiếp hướng dẫn để em hoàn thành bài viết này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
====================
1.Giáo trình
10. Kinh tế Đầu tư: Trường Đại học Kinh tế quốc dân
20. Giáo trình Lập và quản lý dự án: Trường Đại học Kinh tế quốc dân
2. Sách:
10. "Quản lý chi tiêu công": Thư viện Bộ Kế hoạch và Đầu tư
20. "Quản lý tài chính trong đầu tư xây dựng cơ bản": Thái Bá Cẩn
4. Tạp chí Xây dựng
10. "Cơ quan quản lý xây dựng tại địa phương cần bám sát thực tiễn và thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ" - T.giả: Nguyễn Hồng Quân - Số 450/tháng 08/2005 - Công ty in Đường sắt.
20. "Cần tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong công tác cấp phép xây dựng" - T.giả: Hoàng Thọ Vinh - Số 450/tháng 08/2005 - Công ty in Đường sắt.
30. "Quản lý chất lượng công trình xây dựng trước hết là quản lý năng lực con người" - T.giả: Nguyễn Văn Liên - Số 448/ tháng 06/2005 - Nơi phát hành: Công ty in Đường Sắt.
40. "Tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý dự án đầu tư xây dựng" - T.giả: Trần Trịnh Tường - Số 446/tháng 04/2005 - Nơi phát hành: Công ty in Đường Sắt.
50. "Tăng cường hơn nữa công tác quản lý Nhà nước về đầu tư và xây dựng" - T.giả: Bùi Văn Yêm - Số 434/tháng 04/2004 - In tại công ty in Tiến Bộ.
60. "Nâng cao hiệu qủa quản lý nhà nước ngành xây dựng" - T.giả: Bùi Sĩ Hiển - Số 415/tháng 09/2002 - In tại xưởng in Nhà xuất bản xây dựng.
70. "Chống tiêu cực, lãng phí, thất thoát trong đầu tư xây dựng hiện nay" - T.giả: Tạ Duy Hiển - Số 409/tháng 03/2002 - In tại xưởng in nhà xuất bản xây dựng.
80. "Công tác lập, xét duyệt, quản lý và triển khai thực hiện quy hoạch xây dựng tại Đà Nẵng" - T.giả: UBND thành phố Đà Nẵng - Số 427/ tháng 09/2003 - In tại công ty in Tiến Bộ.
5. Tạp chí thanh tra
10. "Còn nhiều sai phạm trong đầu tư xây dựng cơ bản- Đâu là nguyên nhân" - T.giả: Kiều Công - số 05/2006 - Nơi phát hành: công ty in Công đoàn 167 Tây Sơn- Hà Nội.
20. "Những ghi nhận về hoạt động của thanh tra Giao thông vận tải trong 5 năm qua" - T.giả: Trần Văn Trường -Số 05/2006 - Nơi phát hành: công ty in Công Đoàn 167 Tây Sơn- Hà Nội.
30. "Phải gắn hoạt động thanh tra với công tác đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí" - T.giả: Võ Thanh Tòng - Số 06/2005 - In tại công ty in Công Đoàn 167 Tây Sơn- Hà Nội.
6. Tạp chí Thanh tra Tài chính:
10. "Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra đối với phân định nguồn thu & các khoản chi giữa các cấp của Ngân sách địa phương theo tinh thần của Luật Ngân sách 2002" - T.giả: Nguyễn Thị Chắt - Số 45/ tháng 03/2006 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình- Hà Nội.
20. "Thanh tra Bộ Kế hoạch- Đầu tư: Nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước" - T.giả: Minh Nguyệt - Số 44/ tháng 02/2006 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình- HN
30. "Con người- 2 yếu tố để hạn chế thất thoát, lãng phí vốn đầu tư của Nhà nước" - T.giả: Nguyễn Thị Chắt - Số 44/tháng 02/2006 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình- Hà nội.
40. "Một số giải pháp nâng cao công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản" - T.giả: Triệu Vũ Hoàng - Số 39/ tháng 09/2005 - Nơi phát hành: Công ty in Ba Đình.
50. "Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và vai tròn của thang tra tài chính" - T.giả: Hoài Thu - Số 42/ tháng 12/2005.
7. Báo cáo:
10. "Báo cáo nâng cao hiệu quả đầu tư" - Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD- Bộ Kế hoạch và Đầu Tư
20. Báo cáo “Tình hình triển khai nghị quyết 36/2004/QH11”- Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
8. Kế hoạch Kinh tế xã hội 5 năm 2006-2010: Nguồn: Vụ Tổng hợp KTQD- Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Viết đầy đủ
XDCB
Xây dựng cơ bản
NSNN
Ngân sách Nhà nước
UBND
Uỷ ban nhân dân
HĐBT
Hội đồng bộ trưởng
CTĐTCC
Chương trình đầu tư công cộng
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36400.doc