Việt Nam và một số quốc gia thuộc châu Phi đã có mối quan hệ chính trị, đối ngoại từ lâu, song Việt Nam và châu Phi mới chỉ thực sự thiết lập quan hệ kinh tế-thương mại vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, thời cơ đến với hai bên và để thúc đẩy và tận dụng mọi lợi ích có được từ quá trình hôi nhập Việt Nam và châu Phi đã có những việc làm thiết thực để tăng cường, giữ vững quan hệ thương mại tốt đẹp. Hai bên đã có những chuyến thăm cấp chính phủ, những hội nghị, hội thảo giới thiệu về tiềm năng thị trường của mỗi bên. Đi kèm theo đó là những hiệp định thương mại được ký kết và dành cho nhau những ưu đãi trong quan hệ thương mại.
122 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1399 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và giải pháp xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường châu Phi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của mình. Nhiều mục tiêu mà các tổ chức này đặt ra không sát với thực tế và do vậy không đạt được như dự kiến. Tình trạng một quốc gia cùng tham gia nhiều tổ chức khu vực dẫn đến sự không đồng bộ trong định hướng và cơ cấu phát triển, làm xói mòn các nguồn lực trong nước.
Cơ sở hạ tầng lạc hậu, hệ thông giao thông kém phát triển, đặc biệt ở những vùng sâu trong lục địa, đang cản trở nhiều hoạt động buôn bán thông thương.
Các doanh nghiệp châu Phi nhìn chung đều có khả năng tài chính kém, buôn bán thường qua trung gian một công ty thứ ba, hoặc buôn bán với hình thức trả chậm, gây khó khăn cho đối tác nước ngoài muốn triển khai hợp tác kinh doanh.
Đó là chưa kể những vấn đề gay cấn trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động thương mại như các tệ nạn xã hội (đặc biệt là tệ tham nhũng), đại dịch AIDS và các dịch bệnh khác, các băng nhóm mafia, tình trạng suy thoái môi trường….
1.2.2.Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-châu Phi
Nhìn lại thời kỳ 1991-2005, có thể khẳng định sự phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước châu Phi không tách rời khỏi quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bước vào thập kỷ 90, trong bối cảnh cục diện thế giới có nhiều thay đổi, tại Đại hội Đảng lần thứ VII tháng 7/1991, Đảng xác định chủ trương “ mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc giữ vững độc lập, chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi, thu hút các nguồn lực bên ngoài để phát huy mạnh mẽ các lợi thế và nguồn lực bên trong”. Cùng với chủ trương đó, quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước châu Phi, sau nhiều thập kỷ ở mức độ không đáng kể, đã thật sự bắt đầu được khởi động trong giai đoạn 1991-1995. Như số liệu thống kê cho thấy, chỉ trong 4 năm từ 1991 đến 1995, khối lượng buôn bán giữa nước ta và châu Phi đã tăng gấp 3 lần từ 15,5 triệu USD lên 45,9 triệu USD, góp phần vào sự tăng trưởng chung của thương mại nước ta.
Đại đội Đảng lần VIII vào tháng 6/1996 tiếp tục xác định những nhiệm vụ đặt ra cho công tác phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta là:” củng cố vị trí ở các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một vài thị trường”. Giai đoạn 1996-2005, Việt Nam tiếp tục chủ động hội nhập kinh tế quốc tế với tinh thần sẵn sàng là bạn và mong muốn hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, tôn trọng độc lập chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Thời gian này,cơ cấu bạn hàng của Việt Nam đã có sự thay đổi lớn. Thay thế cho Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, những bạn hàng chủ yếu của nước ta là các nước châu Á-Thái Bình Dương, Liên minh châu Âu, ASEAN và gần đây nhất là Mỹ. Bên cạnh đó, nước ta đẩy mạnh khai phá và mở rộng buôn bán với mọi khu vực thị trường trên thế giới, trong đó có châu Phi. Buôn bán hai chiều Việt Nam-châu Phi tiếp tục tăng nhanh trong các năm tiếp theo. Có thể nói bước vào thời kỳ 2005-2010, mối quan hệ thương mại Việt Nam-châu Phi đã thật sự có được nền tảng cơ bản cho những bước phát triển tiếp theo.
Đại hội Đảng lần thứ IX vào tháng 4/2001 một lần nữa khẳng định chủ trương mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá:”chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, duy trì và mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội mở thị trường mới”.
Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của công tác xuất nhập khẩu trong sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta những năm đầu thế kỷ 21, tháng 9/2000 chính phủ đã thông qua “chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010”. Mục tiêu chung của hoạt động xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 được xác định trong chiến lược là: “nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tế; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ; về nhập khẩu chú trọng thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhất là công nghệ tiên tiến, bảo đảm cán cân thương mại ở mức hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất nhập khẩu; mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh; hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới”. Về thị trường xuất nhập khẩu, một trong những quan điểm chủ đạo đã được chiến lược khẳng đinh là:”tìm kiếm các thị trường mới ở châu Mỹ-Latinh và châu Phi”.
Nghị quyết TW07 của bộ chính trị ngày 27/11/2001 về hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã xác định một số nhiệm vụ cụ thể trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, trong đó nêu rõ: ”cũng như trong lĩnh vực chính trị đối ngoại, trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế cần giữ vững đường lối độc lập tự chủ, thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá thị trường và đối tác, tham gia rộng rãi các tổ chức quốc tế”.
Tóm lại, bước vào thập kỷ này, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là rất rõ ràng: tiếp tục chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong quá trình đó, châu Phi là một khu vực thị trường tiềm năng nhất thiết phải được khai phá và phát triển để đảm bảo đầu ra cho sản phẩm và đầu vào cho nguyên, nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất, góp phần duy trì sự tăng trưởng bền vững cho nền thương mại cũng như nền kinh tế đất nước.
1.2.3.Dự báo triển vọng phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với một số nước châu Phi đến năm 2010
Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang châu Phi tăng dần qua từng năm. Hai bên tích cực tham gia hợp tác cùng nhau phát triển, đều dành cho nhau những ưu đãi trong thương mại. Chắc chắn trong tương lai quan hệ về mọi mặt của Việt Nam-châu Phi sẽ có cải thiện đáng kể, nhất là trong quan hệ thương mại. Đặc biệt, với mong muốn mở rộng thị trường cho hàng hoá thế mạnh của Việt Nam, chính phủ và các doanh nghiệp Việt Nam đã và đang tích cực tìm biện pháp thâm nhập, tiếp cận thị trường châu Phi, nỗ lực nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu trong những năm tới.
Bảng 11: Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010 Đơn vị:%
Thị trường
Cơ cấu năm 2006
Tăng kim ngạch bình quân2006-2010
Cơ cấu năm 2010
Châu Á
48,7
14,1
45,5
ASEAN
16,5
12,0
11,5
Trung Quốc
9,7
14,5
10,7
Nhật Bản
14,2
9,2
12,4
Châu Âu
18,2
18,9
21,0
EU-25
16,9
15,0
20,5
Châu Mỹ
21,5
19,4
23,0
Hoa Kỳ
20,4
19,0
23,1
Châu Phi
2,2
23,3
2,8
Châu Đại Dương
7,8
15,7
7,7
(Nguồn: Bộ thương mại)
Biểu đồ 4: Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam năm 2010
(Nguồn: Bộ thương mại)
Dự kiến, trong giai đoạn 2006-2010 tỷ trọng xuất khẩu vào khu vực thị trường châu Phi tăng khá từ 2,2% năm 2006 lên 2,8% năm 2010. Phấn đầu tăng trưởng xuất khẩu vào khu vực này đạt mức 23,3%/năm, đến năm 2010 đạt kim ngạch khoảng 2,8 tỷ USD và chiếm tỷ trọng khoảng 2,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Tập trung ưu tiên phát triển một số thị trường trọng điểm có sự ổn định cao và còn nhiều tiềm năng như Nam Phi, Ai Cập, Marốc, Tanzania. Trong đó, Nam Phi vẫn là thị trường trọng tâm của khu vực này để từ đây xâm nhập sang các quốc gia khác. Một số mặt hàng cần tập trung khai thác trong thời gian tới là thuỷ sản, đồ gỗ, hàng cơ khí, máy móc động cơ điện, thủ công mỹ nghệ hoá mỹ phẩm, nông sản, cà phê, hạt tiêu... Những khó khăn về vận chuyển và thanh toán vẫn là rào cản lớn nhất ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực thị trường này.
1.2.4.Nhu cầu nhập khẩu của thị trường các nước châu Phi và khả năng đáp ứng của Việt Nam
Ta sẽ xem xét tiềm năng của 7 thị trường lớn nhất của Việt Nam tại châu Phi đối với các mặt hàng của doanh nghiệp Việt Nam đó là: Nam Phi, Ai Cập, Maroc, Nigieria, Cotdivoa, Xênêgan, Tandania.
1.2.4.1.Nhóm hàng nông lâm thuỷ sản
Qua phân tích trên ta thấy rằng mặt hàng nông sản chiếm vị trí quan trọng nhất của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang thị trường châu Phi. Và trong tương lai các mặt hàng này vẫn là các mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất sang thị trường châu Phi. Ta có thể thấy được triển vọng của ngành hàng này qua phân tích một số mặt hàng chủ yếu sau:
Gạo
Tổng khối lượng nhập khẩu gạo của 7 nước châu Phi tăng từ 1,4 triệu tấn năm 1990 lên 2,2 triệu tấn năm 2000, còn nhập khẩu của toàn châu Phi tăng từ 3,2 triệu tấn lên 5 triệu tấn. Như vậy, bảy nước này chiếm bình quân 45-50% khối lượng nhập khẩu gạo của toàn châu Phi. Dự báo đến năm 2010, nhập khẩu của 7 nước này tăng lên khoảng 3,5-4 triệu tấn/năm, trong đó trừ hai nước Bắc Phi là Ai Cập và Maroc, cả 5 nước còn lại đều có nhu cầu nhập khẩu lớn, khoảng 500-700 nghìn tấn/năm, riêng Nigiêria nhập khoảng 1,5-2 triệu tấn/năm.
Trong khi đó, dự báo xuất khẩu gạo của nước ta đến năm 2010, có thể đạt mức 4,5-5 triệu tấn/năm. Xét nhu cầu nhập khẩu gạo trên thế giới đến năm 2010(khoảng 27-28 triệu tấn/năm) so với khả năng xuất khẩu gạo của nước ta thì thị trường đầu ra của gạo là không quá khó khăn. nhưng châu Phi vẫn là thị trường nhập khẩu gạo lớn thứ hai của Việt Nam sau châu Á và gạo vẫn là một mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của Việt Nam sang châu Phi. Trong số 7 nước trên, những thị trường lớn nhất vẫn là Xênêgan, Nigiêria và Nam Phi.
Cà phê
Nhập khẩu cà phê của 7 nước tăng lên từ 52 ngàn tấn năm 1990 lên 67 ngàn tấn năm 2000 (nhập khẩu của toàn châu Phi tăng từ 136 ngàn tấn lên 213 ngàn tấn). Có thể dự đoán nhập khẩu cà phê của 7 nước này sẽ tăng lên khoảng 80-85 ngà tấn/năm. Nhập khẩu chỉ tập trung vào Maroc và Nam Phi (khoảng 30-40 ngàn tấn/năm).
Do nhu cầu của 7 nước châu Phi này là rất nhỏ so với khả năng xuất khẩu của chúng ta, trong khi đó Cotdivoa lại là một trong những nước xuất khẩu cà phê quan trọng, thì khả năng đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường này là ít khả thi. Nước ta chỉ tập trung khai thác thị trường Nam Phi.
Hạt tiêu
Dự báo đến năm 2010, nhu cầu nhập khẩu của 7 nước châu Phi chỉ tăng lên khoảng 10 ngàn tấn/năm, trong đó Ai Cập chiếm khoảng 50% (khoảng 5 ngàn tấn/năm), Nam Phi chiếm khoảng 20% (khoảng 2 ngàn tấn/năm).
Vì nhìn chung là nhu cầu hạt tiêu của các nước châu Phi là không lớn nên nước ta chỉ tập trung đẩy mạnh khai thác thị trường Ai Cập (hiện nay hạt tiêu nước ta bước đầu đã tạo được chỗ đứng ở thị trường này) và Nam Phi.
Cao su
Nhập khẩu cao su của châu Phi tăng nhanh trong thập kỷ 90, từ 90 ngàn tấn năm 1990 lên gần 160 ngàn tấn năm 2000, trong đó nhập khẩu của 7 nước châu Phi tăng từ 66 ngàn tấn lên 144 ngàn tấn (chiếm 90% nhập khẩu của toàn châu Phi năm 2000). Riêng Nam Phi nhập khẩu 122 ngàn tấn năm 2000, chiếm gần 80% nhập khẩu của toàn châu Phi. Dự báo nhu cầu nhập khẩu của 7 nước này sẽ đạt khoảng 200 ngàn tấn năm 2010, trong đó thị trường Nam Phi vẫn chiếm tỷ trọng tuyệt đối.
Xuất khẩu cao su của Việt Nam dự kiến tăng từ 308 ngàn tấn năm 2001 lên 500 ngàn tấn năm 2010. Xét nhu cầu thực tế của Nam Phi, đây là thị trường tiềm năng cho xuất khẩu cao su của nước ta.
Chè
Nhập khẩu chè của châu Phi tăng không nhiều trong thập kỷ 90, từ 180 ngàn tấn năm 1990 lên 210 ngàn tấn năm 2001, trong đó nhập khẩu của 7 nước tăng từ 120 ngàn tấn lên 145 ngàn tấn (bình quân chiếm 65-70% nhập khẩu toàn châu Phi). Dự báo nhập khẩu chè của 7 nước châu Phi năm 2010 khoảng 170-180 ngàn tấn/năm, tập trung vào Ai Cập (khoảng 80 ngàn tấn/năm), Maroc(khoảng 50 ngàn tấn/năm) và Nam Phi (khoảng 20 ngàn tấn/năm).
Dự báo xuất khẩu chè của Việt Nam tăng từ 68 ngàn tấn năm 2001 lên 100 ngàn tấn năm 2010. Thị trường xuất khẩu chủ yếu hiện nay là Irắc (chiếm khoảng 50-60% xuất khẩu chè của nước ta), Nga, EU…Trong bối cảnh thị trường có nhiều biến động, nhất là tình hình Irắc khó dự đoán, việc xúc tiến xuất khẩu chè sang các nước châu Phi là rất cần thiết.
Thuỷ sản
Nhập khẩu thuỷ sản của châu Phi trong thập kỷ 90 bình quân chỉ chiếm 5% khối lượng nhập khẩu thủy sản toàn cầu. Năm 2000, nhập khẩu thuỷ sản toàn cầu đạt 55 tỷ USD thì châu Phi chỉ đạt 2,5 tỷ USD. Riêng nhập khẩu của 7 nước châu Phi đạt 1,5 tỷ USD. Dự báo giai đoạn 2001-2010, buôn bán thuỷ sản tăng với tốc độ 2,65%/năm, đạt khoảng 70 tỷ USD năm 2010. Tỷ trọng nhập khẩu của các nước châu Phi vẫn chỉ ở mức 5%, tức chỉ đạt khoảng 3,5 tỷ USD/năm, trong đó nhập khẩu của 7 nước chiếm 2-2,2 tỷ USD.
Dự báo xuất khẩu thuỷ sản của nước ta năm 2010 đạt khoảng 3-3,5 tỷ USD. Xét nhu cầu nhập khẩu của 7 nước châu Phi so với khả năng xuất khẩu của Việt Nam, có thể thấy dung lượng của các thị trường này là tương đối nhỏ. Việc đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường châu Phi chỉ có thể hướng đến hai thị trường là Nam Phi và Ai Cập (bình quân chiếm khoảng 50% nhập khẩu toàn châu Phi).
Các mặt hàng khác
Ngoài ra, đối với một số mặt hàng như hạt điều, lạc nhân, rau quả, thịt…có thể dự báo khả năng đẩy mạnh xuất khẩu sang các nước châu Phi từ năm đến 2010 là khó thực hiện. Vì những mặt hàng này là thế mạnh xuất khẩu của một số nước thuộc châu Phi, hoặc là không có nhu cầu lớn.
1.2.4.2.Nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản
Hiện nay, với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, nhóm hàng này chiếm khoảng trên 20% xuất khẩu của nước ta. Nhưng sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động, lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm dần. Tới năm 2010 dự kiến khả năng xuất khẩu dầu thô chỉ vào khoảng 4-8 triệu tấn. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Autralia, Singgapo, Nhật Bản và Trung Quốc.
Về than đá, xuất khẩu đến năm 2010 dự kiến chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD. Một số thị trường xuất khẩu chính là Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Âu.
Xét khả năng xuất khẩu hạn chế của nước ta cũng như nhu cầu nhập khẩu của các nước châu Phi đối với nhóm hàng này không cao do nhìn chung các nước này đều giàu tài nguyên khoáng sản, việc xuất khẩu các mặt hàng khoáng sản nhiên liệu sang châu Phi khó có điều kiện phát triển trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, ngoài việc duy trì xuất khẩu than đá sang Nam Phi ở mức vài triệu USD/năm như thời gian vừa qua.
1.2.5.Dự báo quan hệ thương mại với một số nước châu Phi
Ai Cập
Mối quan hệ chính trị ngoại giao giữa nước ta và Ai Cập dự báo sẽ tiếp tục phát triển trong thời gian tới. Chính phủ Ai Cập ngày càng quan tâm thúc đẩy quan hệ nhiều mặt với các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Ngược lại, Đảng và Nhà nước ta cũng đánh giá cao vai trò của Ai Cập ở châu Phi. Nền kinh tế Ai Cập đang dần hồi phục, tình hình chính trị xã hội về cơ bản sẽ tiếp tục ổn định. Vì vậy, quan hệ thương mại hai chiều có những điều kiện thuận lợi để phát triển trong giai đoạn 2005-2010. Xuất khẩu của Việt Nam sang Ai Cập đến năm 2010 có thể lên trên 90 triệu USD. Những mặt hàng mà nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Ai Cập là gạo (chủ yếu để tái xuất sang Trung Đông và Tây Phi), hạt tiêu, cà phê, sản phẩm cơ khí, điện, điện tử. Ngoài ra có thể phát triển một số mặt hàng mới như thủ công mỹ nghệ, thực phẩm, đồ nhựa…
Maroc
Quan hệ chính trị ngoại giao giữa Việt Nam và Maroc dự báo sẽ tiếp tục phát triển theo chiều hướng tích cực. Các cơ quan quản lý Nhà nước của hai bên sẽ tăng cường hợp tác với nhau. Việt Nam cũng đang nghiên cứu khả năng chọn Maroc để mở thêm một thương vụ ở khu vực Bắc Phi.
Về cơ bản, tình hình chính trị xã hội Maroc sẽ ổn định trong thập kỷ năy. Nền kinh tế Maroc tiếp tục cải cách, mở cửa và phát triển với tốc độ nhanh hơn thập niên 90. Nhu cầu về các loại hàng hoá phục vụ phát triển đất nước và đời sống nhân dân là rất lớn. Do vậy, quan hệ thương mại Việt Nam-Maroc có điều kiện thuận lợi để phát triển trong giai đoạn 2006-2010. Tuy nhiên, do khối lượng buôn bán hiện nay còn ở mức thấp nên đến năm 2010 đưa được xuất khẩu của Việt Nam sang Maroc lên khoảng 15-20 triệu USD/năm đã là một thành công (bình quân tăng khoảng 20%/năm). Những mặt hàng mà chúng ta cần khai thác để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường Maroc là cà phê, hạt tiêu, máy móc thiệt bị, thủ công mỹ nghệ, giấy, cao su và sản phẩm cao su…
Nigiêria
Tuy còn nhiều khó khăn, nhưng nhìn về lâu dài Nigiêria là thị trường đầy triển vọng. Tình hình chính trị xã hội quốc gia này sẽ theo xu hướng chung của châu Phi là dần đi vào ổn định. Từ thực tế thời gian qua, có thể dự báo trong thời gian tới quan hệ chính trị ngoại giao cũng như kinh tế thương mại Việt Nam và Nigiêria sẽ tiếp tục được củng cố. Nếu duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 15%/năm, kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đến năm 2010 có thể đạt 55-60 triệu USD, trong đó Việt Nam xuất khẩu khoảng 30-35 triệu USD. Những mặt hàng Việt Nam có thể xuất khẩu sang Nigiêria với trị giá lớn là gạo, hàng dệt may, thuỷ sản, cao su, chè, hạt tiêu, săm lốp, sản phẩm nhựa, hàng điện, điện tử…
Xênêgan
Mối quan hệ chính trị ngoại giao Việt Nam với Xênêgan dự báo sẽ tiếp tục được tăng cường. Đặc biệt sự hợp tác chuyên gia trong khuôn khổ ba bên Việt Nam-FAO-Xênêgan mang lại nhiều kết quả tích cực và sẽ tiếp tục phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ trên các lĩnh vực khác.
Trong quan hệ buôn bán song phương, gạo tiếp tục là mặt hàng trọng điểm. Những năm tới, các mặt hàng như giầy dép, dệt may, thủ công mỹ nghệ, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng, thực phẩm…cũng có nhiều triển vọng xuất khẩu vào thị trường này và qua đó thâm nhập vào các thị trường khác trong khu vực Tây Phi. Với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 15%/năm, xuất khẩu của Việt Nam sang Xênêgan năm 2010 có thể lên tới 60-65 triệu USD.
Cộng hoà Nam Phi
Nền kinh tế Nam Phi, sau tác động của suy thoái chung của nền kinh tế thế giới, đang dần dần phục hồi. Nhận thức rõ tầm quan trọng của thị trường Nam Phi ở lục địa châu Phi, bên cạnh cố gắng từ phía Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục quyết tâm thâm nhập thị trường này thông qua nhiều hình thức xúc tiến thương mại như tham gia hội chợ, triển lãm, tổ chức đoàn đi khảo sát thị trường… Quan hệ bạn hàng bước đầu đã được thiết lập giữa doanh nghiệp hai nước. Với đà này, xuất khẩu sang Nam Phi sẽ tiếp tục tăng, có thể đạt bình quân 15%/năm. Như vậy, xuất khẩu của Việt Nam sang Nam Phi đến năm 2010 có thể đạt 100-105 triệu USD, đưa Nam Phi trở thành thị trường châu Phi đầu tiên mà xuất khẩu của nước ta vượt ngưỡng 100 triệu USD. Những mặt hàng Việt Nam xuất sang Nam Phi trong thời gian tới sẽ vẫn là nông sản (gạo, cà phê…) than đá, thủ công mỹ nghệ, hàng điện, điện tử…cùng với việc chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu các sản phẩm chế biến, chế tạo sẽ ngày càng có mặt tại thị trường này như các loại máy móc, thiệt bị phụ tùng ôtô, xe máy, thực phẩm chế biến…
1.2.6.Dự báo chung
Qua những phân tích như trên về triển vọng phát triển quan hệ hợp tác với từng nước, buôn bán giữa nước ta với 7 nước châu Phi đến năm 2010 có thể dự kiến ở mức sau:
Bảng 12: Dự báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào 7 thị trường châu Phi đến năm 2010
Stt
Thị trường
Giá trị xuất khẩu(triệu USD)
Giá trị nhập khẩu(triệu USD)
1
Nam Phi
100--105
20--25
2
Ai Cập
90--95
5--10
3
Maroc
15--20
25--30
4
Nigiêria
30--35
10--15
5
Cotdivoa
10--15
5--10
6
Xênêgan
60--65
50--55
7
Tandania
35--40
10--15
7 thị trường
340--370
125--150
Toàn châu Phi
600--650
220--250
(Nguồn: Tạp chí Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương số 29)
Với bảng số liệu trên ta có thể thấy, Nam Phi vẫn là bạn hàng chủ yếu của Việt Nam, tiếp theo là các bạn hàng truyền thống khác như Ai Cập, Maroc, Nigiêria. Những bạn hàng này đã có quan hệ buôn bán trao đổi với chúng ta từ lâu và còn nhiều tiềm năng mà các doanh nghiệp Việt Nam phải khai thác.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của nước ta sang 7 nước châu Phi đến năm 2010, như đã phân tích ở trên, vẫn sẽ tập trung trước hết vào các mặt hàng nông sản như gạo, hạt tiêu, chè, cà phê, cao su… và các sản phẩm của nhóm hàng chế biến, chế tạo như hàng dệt may, giầy dép, sản phẩm cơ khí, đồ điện, điện tử, đồ gỗ, đồ nhựa, thực phẩm chế biến…Riêng gạo vẫn sẽ là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất, chiếm 50-55% tổng giá trị xuất khẩu. Dự báo kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chính đến năm 2010 như sau:
Bảng 13: Dự báo xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực sang châu Phi
năm 2010
Stt
Mặt hàng
Châu Phi(triệu USD)
7 thị trường(triệu USD)
Thị trường chính(trong 7 thị trường)
1
Gạo
300
180
Nam Phi, Xênêgan, Nigiêria, Tandania, Ai Cập
2
Sản phẩm điện điện tử
40
30
Ai Cập, Nam Phi, Nigiêria
3
Giầy dép
30
25
Nam Phi, Maroc, Ai Cập
4
Hạt tiêu
25
20
Ai Cập, Xênêgan, Maroc, Nam Phi
5
Cao su và sản phẩm cao su
25
20
Nigiêria, Nam Phi, Maroc
6
Hàng dệt may
50
10
Nam Phi, Ai Cập, Tandania, Nigiêria
7
Sản phẩm nhựa
10
7
Nam Phi, Ai Cập, Nigiêria
8
Sản phẩm cơ khí
10
5
Nam Phi, Ai Cập
9
Cà phê
10
5
Nam Phi, Ai Cập
10
Than
5
5
Nam Phi
Ngoài ra, còn một số mặt hàng khác mà kim ngạch xuất khẩu sang 7 nước châu Phi đến năm 2010 có thể đạt từ 1 đến vài triệu USD như thực phẩm chế biến (bột gia vị, mỳ ăn liền, bánh kẹo…), thủ công mỹ nghệ, đồ gỗ, đồ gia dụng, thủy sản…
2.Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường châu Phi
2.1.Các giải pháp ở cấp độ vĩ mô
Để tăng khả năng xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang châu Phi không thể không có sự tham gia cùa Nhà nước. Để có thể đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp sang thị trường châu Phi, Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp như:
2.1.1.Cụ thể hoá chủ trương phát triển quan hệ thương mại với các nước châu Phi
Phát triển quan hệ thương mại với châu Phi là một chủ trương đã được Đảng và Nhà nước ta xác định rõ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại của đất nước. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải có những biện pháp để cụ thể hoá chủ trương đó. Theo tôi, một số biện pháp dưới đây sẽ tạo bước đột phá cho sự phát triển quan hệ thương mại với lục địa này.
Chính phủ cần đề ra một chiến lược phát triển kinh tế thương mại với châu Phi giai đoạn 2006-2010, được xây dựng với sự phối hợp của các bộ, ngành hữu quan. Chiến lược này tập trung vào những nội dung chủ yếu là những biện pháp, chính sách và lộ trình thực hiện chiến lược.
Đặc biệt, để cụ thể hoá chủ trương phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước châu Phi, nhất thiết phải sớm tăng cường mạng lưới các cơ quan đại diện ngoại giao, đại diện thương mại của nước ta tại châu lục này giảm bớt tình trạng vừa thiếu vừa theo chế độ kiêm nhiệm như hiện nay.
Đồng thời cần phải củng cố các cơ quan đại diện ngoại giao đã có theo hướng chuyên sâu, đủ về số lượng, cao về chất lượng và đảm bảo các phương tiện cần thiết chuẩn bị cho việc tìm hiểu, xúc tiến và mở rộng quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực.
Hầu hết các nước châu Phi đã có quan hệ ngoại giao và kinh tế với nước ta đều cử cơ quan đại diện ngoại giao tại Trung Quốc, Thái Lan…kiêm nhiệm Việt Nam. Hiện nay, mới có 5 nước châu Phi có cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam. Việc thiếu cơ quan đại diện của các nước châu Phi tại Hà Nội gây không ít khó khăn cho các cơ quan chức năng cũng như các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại với thị trường châu Phi(thiếu thông tin, thủ tục đi lại khó khăn…). vì vậy, qua con đường ngoại giao, Bộ ngoại giao cần sớm đề nghị và tạo điều kiện cho các nước châu Phi mở thêm cơ quan đại diện ngoại giao và thương vụ tại Hà Nội.
Chủ trương phát triển quan hệ thương mại với châu Phi cũng cần phải được cụ thể hoá thông qua việc thường xuyên trao đổi các đoàn lãnh đạo cao cấp. Từ các chuyến thăm của lãnh đạo hai bên, rất nhiều vấn đề trong quan hệ song phương được khai thông. ngoài ra qua những chuyến thăm này, chúng ta có thể ký được các hiệp định, các biên bản ghi nhớ hoặc các hợp đồng cầp chính phủ, mở đường cho hoạt động thương mại hai chiều.
2.1.2.Củng cố khung pháp lý cho quan hệ thương mại
Trên thực tế, trong số 7 nước châu Phi, nước ta mới hoàn tất việc tạo lập khung pháp lý tạm đủ cho các hoạt động thương mại và đầu tư với Nam Phi và Ai Cập( đã ký hiệp định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hiệp định hợp tác về du lịch). Với các nước khác, về cơ bản mới chỉ dừng lại ở hiệp định thương mại.
Vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước cần đẩy nhanh việc đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, hiệp định tránh đánh thuế hai lần, hiệp định về bảo hộ sỡ hữu trí tuệ…với từng nước châu Phi trên cơ sở có tính đến những quy định của WTO cũng như các nguyên tắc thoả thuận của các tổ chức liên kết kinh tế khu vực, để tạo ra những điều kiện có lợi nhất cho tiến trình thâm nhập, mở rộng thị trường và phát triển buôn bán của nước ta trong thời gian tới.
2.1.3.Hỗ trợ về tài chính
Hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước là biện pháp mang tính quyết định nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại giữa nước ta với các nước châu Phi. Đặc biệt trong giai đoạn đầu có tính khai phá thị trường như hiện nay, điều kiện yếu kém về tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam còn đòi hỏi phải có sự hỗ trợ của Nhà nước với tư cách là “người mở đường” và người “bảo trợ”. Theo tôi cần có một số giải pháp sau:
Quỹ hỗ trợ phát triển là đơn vị đang được chính phủ giao thực hiện nhiệm vụ tín dụng hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, để khuyến khích doanh nghiệp tận dụng hỗ trợ của quỹ trong việc xuất khẩu sang châu Phi, quỹ cần có quy định riêng ưu tiên cho các hợp đồng xuất khẩu sang châu Phi giống như quy định đã có dành cho xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Đồng thời quỹ cần có các hình thức hỗ trợ khác mà nhiều nước vẫn làm như cung cấp tín dụng cho người mua, bảo đảm rủi ro thanh toán…đặc biệt trong hoàn cảnh doanh nghiệp các nước châu Phi thanh toán chủ yếu bằng hình thức trả chậm.
Đối với thưởng xuất khẩu, phải có chế độ thưởng cho các doanh nghiệp có sản phẩm mới, thị trường mới, có mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng cao hơn mức bình quân của mặt hàng đó.
Chính phủ có thể thành lập quỹ hỗ trợ đặc biệt có nhiệm vụ hỗ trợ riêng cho các hoạt động xúc tiến, thâm nhập và phát triển quan hệ thương mại và hợp tác với châu Phi. Về cách thức, tuỳ theo từng hoạt động cụ thể mà quỹ có thể hỗ trợ 100%; đối với hoạt động xuất khẩu thì có thể hỗ trợ vốn và lãi suất với mức ưu đãi cao hơn quy định của cơ chế hỗ trợ xuất khẩu hiện nay. Với hoạt động xúc tiến thương mại trực tiếp hỗ trợ từ 30-70% tuỳ theo từng hoạt động và từng nước. Với hoạt động nghiên cứu thị trường của doanh nghiệp thì hỗ trợ thêm kinh phí đi lại ăn ở…
(Cần lưu ý là các hình thức hỗ trợ tài chính nói trên không âp dụng một cách lâu dài, vì khi nước ta gia nhập WTO thì những hình thức hỗ trợ tài chính này sẽ chịu ràng buộc bởi các quy định của WTO và sẽ dần bị thu hẹp lại).
2.1.4.Phát triển công tác thông tin, thương mại điện tử và nguồn nhân lực
Về công tác thông tin
Vấn đề thông tin có vai trò to lớn trong việc xúc tiến các hoạt động thương mại. Thực tế là hiện nay, thông tin hai chiều giữa nước ta với các nước châu Phi còn rất thiếu, hơn nữa nếu có thông tin thì chủ yếu dừng ở cấp lãnh đạo và các cơ quan quản lý Nhà nước, chứ chưa xuống đến các doanh nghiệp. Vì vậy, các cơ quan quản lý Nhà nước phải quan tâm phát triển công tác thông tin nhằm bảo đảm có sự hợp tác chặt chẽ giữa các bộ, ngành, tạo ra nguồn thông tin phong phú đáng tin cậy về thị trường các nước châu Phi, từ đó nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp và các đơn vị có liên quan về tiềm năng to lớn của thị trường này. Khi mà doanh nghiệp chưa có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về thị trường châu Phi do thiếu thông tin thì mọi chủ trương của Nhà nước đều rất khó phát huy hiệu quả.
Về thương mại điện tử
Mặc dù mới ra đời cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin và Internet, thương mại điện tử đang ngày càng phổ biến ở khắp nơi trên thế giới bởi những ưu thế của nó, đặc biệt là trên các phương diện thời gian, không gian và chi phí. Về phát triển thương mại điện tử ở nước ta hiện nay đang ở giai đoạn sơ khai cho nên tận dụng được những ưu thế của thương mại điện tử để góp phần thúc đẩy buôn bán với châu Phi là một giải pháp về mặt dài hạn, chưa thể hy vọng sớm thành hiện thực trong vài năm tới. Dưới đây là những giải pháp mang tính khái quát liên quan đến phát triển thương mại điện tử ở nước ta trong những năm tới:
Về môi trường pháp lý: các quy định của pháp luật trong lĩnh vực thương mại điện tử còn sơ sài, không đủ để cung cấp một khuôn khổ pháp lý cần thiết để có thể theo kịp sự phát triển của lĩnh vực này. Vì vậy, cần sớm hoàn chỉnh và ban hành các pháp lệnh về thương mại điện tử.
Về cơ sở hạ tầng kỹ thuật: thương mại điện tử ở nước ta chưa phát triển một phần là do cước truy cập Internet cao so với các nước trong khu vực và thu nhập của đa số người dân. Trong khi đó, tốc độ truy cập lại thấp. Vì vậy, trước mắt cần phải đầu tư tăng độ rộng băng thông và tạo ra dung lượng lớn để hỗ trợ truyền thông đa phương tiện và thương mại điện tử.
Về phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là một công việc thường xuyên liên tục trong suốt quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào nhưng ở đây tôi muốn nhấn mạnh về công tác đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho công tác xúc tiến thương mại và hợp tác với các nước châu Phi và trước hết tập trung vào 7 thị trường trọng điểm. Việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển quan hệ kinh tế thương mại với các nước châu Phi cần phải được thực hiện một cách có hệ thống, mang tính ổn định. Hình thức đào tạo có thể là đào tạo tại chỗ thông qua các khoá huấn luyện, các buổi hội thảo có mời các chuyên gia nước ngoài hoặc cũng có thể gửi các lưu học sinh sang các nước châu Phi.
2.1.5.Thành lập trung tâm thương mại
Với ý nghĩa là một cơ cấu thương mại hiện đại, trung tâm thương mại Việt Nam ở nước ngoài sẽ hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ta, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao khả năng thâm nhập trực tiếp vào thị trường. Do việc thành lập trung tâm thương mại ở châu Phi sẽ đòi hỏi vốn đầu tư và kinh phí hoạt động lớn sự hỗ trợ ban đầu từ phía Nhà nước là hêt sức cần thiết. Về lâu dài, Nhà nước cần có các chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia hoặc từ mình thành lập trung tâm thương mại.
2.1.6.Phát triển quan hệ thương mại với các nước châu Phi thông qua quan hệ với Việt kiều, các tổ chức quốc tế và các nước khác
Quan hệ với Việt kiều
Cộng đồng Việt kiều ở các nước châu Phi, tuy không đông đảo như ở các châu lục khác, nhưng cũng đã hình thành từ lâu đời, bám dễ sâu sắc và có đóng góp đáng kể vào đời sống chính trị xã hội cũng như kinh tế thương mại của nước sở tại. Tính đến nay, cộng động Việt kiều ở châu Phi khoảng trên 3500 người, chủ yếu tập trung ở các trung tâm kinh tế lớn của châu Phi, nhiều người có vị trí cao trong xã hội và cũng có nhiều người thành đạt trong kinh doanh. Họ đều nắm vững phong tục tập quán và pháp luật nước sở tại, am hiểu những khía cạnh nhất định của thị trường và đặc biệt luôn có trong mình cái tâm hướng về đất nước. Vì vậy, giữ quan hệ chặt chẽ với cộng đồng người Việt sẽ có cơ hội thúc đẩy buôn bán với các nước châu Phi theo nhiều cách. Việt kiều có thể đứng ra làm trung gian môi giới bán sản phẩm Việt Nam sang châu Phi và ngược lại. Làm cố vấn cho doanh nghiệp trong kinh doanh với châu Phi và cung cấp thông tin bổ ích.
Quan hệ với các tổ chức quốc tế
Nhiều tổ chức quốc tế hàng năm vẫn duy trì cơ chế viện trợ, cho vay vốn hoặc tài trợ bằng hàng hoá và dịch vụ cho các nước châu Phi. Duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các tổ chức này sẽ tạo điều kiện nắm bắt các thông tin và cơ hội, để khi họ có nhu cầu hàng hoá và dịch vụ viện trợ cho các nước châu Phi thì ngay lập tức các doanh nghiệp nước ta có thể tham gia đấu thầu hoặc chào hàng. Theo tôi đây là một cách thức đáng quan tâm để gián tiếp thúc đẩy xuất khẩu sang châu Phi.
Quan hệ với các nước khác
Chúng ta biết rằng các nước Tây Âu hiện là những nước có ảnh hưởng lớn nhất tại châu Phi. Chính vì thế, bất cứ một quốc gia nào muốn thâm nhập thị trường này đều phải đặt vấn đề hợp tác với các công ty mẹ ở chính quốc sau đó mới tính chuyện kinh doanh ở thị trường châu lục này, từ thực tế này, nước ta cần tận dụng mối quan hệ hợp tác sẵn có giữa Việt Nam với các nước Tây Âu để đặt vấn đề thông qua họ mở đường cho doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường châu Phi.
2.2.Các giải pháp ở cấp độ vi mô
Ở cấp độ vi mô, đa số các doanh nghiệp nước ta vẫn còn nhiều hạn chế cản trở việc mở rộng hoạt động kinh doanh với thế giới bên ngoài. Những hạn chế này tất nhiên cũng gây khó khăn không nhỏ cho các doanh nghiệp nước ta khi muốn mở rộng buôn bán với thị trường châu Phi. Tuy là một thị trường gồm các nước đang và chậm phát triển, nhưng thị trường châu Phi lại có tính cạnh tranh quyết liệt vì nhiều nước và khu vực trên thế giới đang rất quan tâm đến thị trường này và tranh giành ảnh hưởng. Các nước trong khu vực như Trung Quốc, Thái Lan,..với cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nhìn chung giống nước ta nhưng đã có mặt tại châu Phi từ trước, ít nhiều tạo được chỗ đứng vững chắc. Giá bán các sản phẩm xuất khẩu của những nước này cũng thấp hơn Việt Nam, họ lại có năng lực tài chính, công tác tiếp thị, phân phối sản phẩm tốt hơn các doanh nghiệp nước ta, nên dễ dàng đáp ứng được các yêu cầu của đối tác châu Phi. Vì vậy, để phát triển buôn bán với khu vực này, ngoài những nỗ lực dẫn đường từ phía chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải có những bước đi riêng cho mình. Ở đây tôi xin kiến nghị một số giải pháp sau:
2.2.1.Phát triển ngành hàng xuất khẩu
Thực tế thập kỷ 90 cho thấy, trong khi tiềm năng nhập khẩu của các nước châu Phi rất đa dạng phong phú, thì chủng loại mặt hàng mà nước ta xuất khẩu sang thị trường này vẫn còn đơn điệu, tập trung quá nhiều vào một số nông sản và hàng công nghiệp nhẹ. Vì vậy, để duy trì tăng trưởng xuất khẩu ổn định sang các nước châu Phi, doanh nghiệp nước ta phải chủ động phát triển ngành hàng xuất khẩu theo hai hướng. Thứ nhất, phải đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu, vì các nước châu Phi là thị trường tiềm năng cho mọi loại hàng hoá. Thứ hai, phải nâng cao tính cạnh tranh của từng sản phẩm xuất khẩu về giá cả, mẫu mã, chất lượng. Nhìn chung với các nước châu Phi, thị trường không đòi hỏi sản phẩm chất lượng quá cao nhưng phải có tính ổn định và đặc biệt giá phải rẻ. Cạnh tranh về giá thành sản phẩm đang là điểm yếu của các doanh nghiệp Việt Nam trước các đối thủ trong khu vực, đặc biệt là Trung Quốc, trên thị trường châu Phi. Để làm được điều đó doanh nghiệp nhất thiết phải nâng cao trình độ công nghệ và đổi mới trang thiệt bị sản xuất. Bên cạnh đó, doanh nghiệp nên trú trọng khâu thiết kế sản phẩm, gia tăng giá trị sử dụng của sản phẩm. Song song với việc đưa vào thị trường châu Phi các sản phẩm có tính cạnh tranh, các doanh nghiệp cần chú ý xây dựng thương hiệu sản phẩm. Đây là một giá trị đặc biệt tạo nên chỗ đứng lâu dài cho doanh nghiệp trên thị trường.
2.2.2.Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại
Có thể nói công tác xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp chúng ta sang thị trường châu Phi chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù thời gian qua, một số doanh nghiệp đã tham gia tháp tùng lãnh đạo tại các chuyến thăm chính thức, hoặc tự tổ chức đi nghiên cứu thị trường, tham gia hội chợ, triển lãm quốc tế tổ chức tại một số nước châu Phi…nhưng nhìn chung các hoạt động này còn mang tính tự phát và thời vụ, chưa phát huy được hiệu quả như mong đợi.
Về thu thập và xử lý thông tin
Không thể nói đến xúc tiến thương mại khi không giải quyết tốt khâu thông tin. Tình trạng thiếu thông tin đang là trở ngại lớn trong việc phát triển buôn bán giữa nước ta với các nước châu Phi. Đa số doanh nghiệp chỉ biết đến châu Phi như một thị trường đầy rủi ro, đầy bất trắc nên thường ít chịu tìm hiểu tiềm năng, những cơ hội hợp tác kinh doanh tại thị trường này, cũng như các chính sách thương mại, các phong tục tập quán bản địa….Vì vậy, muốn mở rộng buôn bán sang châu Phi nhất thiết các doanh nghiệp phải nâng cao khả năng thu thập và xử lý thông tin.
Về quảng bá sản phẩm và thương hiệu
Mặc dù đến này đã có nhiều ấn phẩm giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam, nhưng vẫn còn quá ít ấn phẩm về ngành hàng, về sản phẩm xuất khẩu có thể mạnh của nước ta, về thương hiệu Việt Nam được giới thiệu ở nước ngoài, và ở châu Phi thì lại càng ít. Thời gian tới thông qua các thương vụ hoặc cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam tại các nước châu Phi, các doanh nghiệp cần chủ động đẩy mạnh công tác quảng bá sản phẩm và thương hiệu của mình trên thị trường sở tại nhiều hơn nữa, dưới nhiều hình thức khác nhau, cho đối tượng là các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như các doanh nghiệp châu Phi. Cần lưu ý là đối với các sản phẩm ít nhiều đã tạo được chỗ đứng trên thị trường các nước châu Phi, doanh nghiệp nước ta cần sớm đăng ký thương hiệu và các nội dung có liên quan khác với cơ quan có thẩm quyền của nước sở tại để tránh những rắc rối không cần thiết về sau.
Tham dự hội chợ, triển lãm
Nhìn chung, các doanh nghiệp Việt Nam đều đã nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế. Tuy nhiên, thực tế thời gian qua cho thấy, do không xác định rõ mục tiêu tham gia hội chợ, triển lãm do chưa gắn mục tiêu tham gia với chính sách mặt hàng và chiến lược phát triển của doanh nghiệp hoặc do những hạn chế về mặt kinh phí nên hoạt động quảng bá sản phẩm, tìm kiếm đối tác thông qua hội chợ, triển lãm quốc tế của doanh nghiệp nước ta còn nhiều bất cập chưa đạt được hiệu quả như mong muốn.
Thành lập trung tâm thương mại
Các doanh nghiệp nước ta có thể tự mình mở các trung tâm thương mại hoặc các showroom với quy mô nhỏ, để giới thiệu sản phẩm và làm địa điểm giao dịch. Đây là một hình thức xúc tiến thương mại còn tương đối mới đối với doanh nghiệp, nhưng lại có hiệu quả cao nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng.
2.2.3.Có chiến lược kinh doanh phù hợp
Đối với thị trường châu Phi, các doanh nghiệp cần phải kiên trì xây dựng cho mình những chiến lược kinh doanh phù hợp, cần hết sức tránh tình trạng buôn bán theo kiểu chụp giật làm mất uy tín cho cả giới doanh nghiệp Việt Nam.
Xuất khẩu qua trung gian là con đường mà phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đã áp dụng để thâm nhập thị trường châu Phi. Hình thức này phù hợp với thời kỳ khai phá thị trường khi quy mô xuất khẩu của các doanh nghiệp còn nhỏ và các mặt hàng xuất khẩu còn phân tán. Theo tôi các doanh nghiệp vẫn cần tiếp tục khai thác hình thức xuất khẩu qua trung gian sang châu Phi trong giai đoạn từ năm đến 2010. Các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tương đối mạnh có thể xem xét khả năng trở thành thành viên của các tập đoàn xuyên quốc gia của EU hoạt động tại châu Phi. Bằng cách này doanh nghiệp có thể thâm nhập trực tiếp vào các kênh phân phối chủ đạo trên thị trường châu Phi.
Một hình thức rất đáng quan tâm là thành lập công ty liên doanh một bên là doanh nghiệp Việt Nam, một bên là đối tác nước ngoài có kinh nghiệm làm ăn tại thị trường châu Phi. Phía Việt Nam đảm nhận nguồn hàng cung cấp ở trong nước, còn phía nước ngoài với kinh nghiệm và mối quan hệ của mình, chịu trách nhiệm về đầu ra ở các nước châu Phi.
Xuất khẩu trực tiếp cũng là một hình thức được các doanh nghiệp Việt Nam áp dụng, nhất là tại các quốc gia mà nước ta đã có thương vụ hoặc cơ quan đại diện ngoại giao và một số nước có hệ thống ngân hàng tương đối phát triển và khả năng tài chính tương đối mạnh. Để đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp sang châu Phi các doanh nghiệp phải chủ động có những biện pháp đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp châu Phi, đặc biệt là ở hai điểm giao hàng và thanh toán. Như chúng ta đã biết, về giao hàng, rất ít khi các đối tác châu Phi nhập những lô hàng lớn mà nhập những đơn hàng nhỏ lẻ. Điều này gây khó khăn cho doanh nghiệp nước ta, trong khi các doanh nghiệp Trung Quốc hay Thái Lan có biện pháp rất hay là trong một chuyến hàng sang châu Phi có nhiều chủng loại hàng hoá khác nhau.
Về thanh toán, để đáp ứng được yêu cầu thanh toán chậm, các doanh nghiệp phải nắm vững thông tin và xây dựng được mối quan hệ tin cậy với đối tác châu Phi, phải dựa vào sự tư vấn của các cơ quan chức năng, đặc biệt là sứ quán và thương vụ. Ngoài ra, doanh nghiệp cần phải biết phát huy những cơ chế hỗ trợ tài chính sẵn có như vay vốn qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu thuộc quỹ hỗ trợ phát triển để bán hàng trả chậm.
Trong buôn bán trực tiếp, những doanh nghiệp quyết tâm làm ăn lâu dài ở thị trường châu Phi nên xem xét lập kho ngoại quan, đặc biệt tại các nước trọng điểm mà nước ta có sứ quán và cơ quan thương vụ.
2.2.4.Nâng cao năng lực đỗi ngũ cán bộ lãnh đạo doanh nghiệp và đội ngũ người lao động
Nhìn chung trình độ của đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp nước ta còn yếu, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh tế và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Việc lựa chọn những người đứng đầu doanh nghiệp có năng lực, đáp ứng được yêu cầu công việc trong bối cảnh mới, có tầm nhìn chiến lược trong sản xuất và kinh doanh là yếu tố rất quan trọng. Đặc biệt, người lãnh đạo doanh nghiệp phải tâm huyết với công việc, có ý thức dám nghĩ, dám làm mạnh dạn mở rộng hoạt động hướng về những thị trường tuy xa lạ nhưng đầy tiềm năng như các nước châu Phi.
Về đội ngũ lao động ở nước ta, nhìn chung năng lực chưa cao. Đây thực sự là một trở ngại lớn cho các doanh nghiệp nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế. Thực tế cho thấy, có nhiều trường hợp, do cán bộ, nhân viên năng lực yếu kém, không đáp ứng được yêu cầu công tác, lại ngại khó khăn gian khổ, nên việc tiếp cận và buôn bán với những thị trường rủi ro như các nước châu Phi không thực hiện được.
Vì vậy, từng doanh nghiệp phải có ý thức tuyển chọn và đào tạo những người lao động tinh thông về nghiệp vụ, biết ngoại ngữ và phải yêu nghề, nhiệt tình trong công tác.
2.2.5.Tăng cường vai trò các hiệp hội ngành hàng và sự hợp tác giữa các doanh nghiệp
Ở nước ta đã xuất hiện rất nhiều hiệp hội ngành hàng, nhưng chỉ trong vài năm gần đây, khi khó khăn nảy sinh ngày càng nhiều đối với các doanh nghiệp, cùng với tác động của các cuộc chiến thương mại quốc tế, chúng ta mới nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò của hiệp hội, từ việc đứng ra giải quyết kiện cáo cho doanh nghiệp đến việc điều tiết thu hoạch sản phẩm, ấn định giá sàn sản phẩm, đưa ra các tiêu chuẩn sản phẩm để bảo vệ quyền lợi cho hội viên. Do hiệp hội ngày càng có vai trò quan trọng, các hiệp hội cần có những hành động cụ thể để hỗ trợ về mặt tài chính cho doanh nghiệp thâm nhập thị trường châu Phi, cần đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại trên thị trường châu Phi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là thông qua các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia.
Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp cần được đẩy mạnh trong vấn đề thông tin về các cơ hội kinh doanh, về kinh nghiệm làm ăn ở thị trường châu Phi. Đặc biệt, để thâm nhập thị trường châu Phi trong giai đoạn đầu, các doanh nghiệp cần liên kết trong việc góp vốn mở kho ngoại quan, mở showroom.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ, Việt Nam ngày càng mở rộng quan hệ chính trị ngoại giao cũng như kinh tế thương mại với khắp các quốc gia và châu lục trên thế giới. Quá trình này sẽ tác động sâu rộng đến mọi mặt của đời sống đất nước trong đầu thế kỷ 21.
Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ châu Phi nằm trong số những khu vực thị trường tiềm năng mà nước ta cần đẩy mạnh quan hệ thương mại. nhưng làm thế nào để biến tiềm năng đó thành hiện thực lại là việc không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực từ các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như từ các doanh nghiệp.
Việt Nam và một số quốc gia thuộc châu Phi đã có mối quan hệ chính trị, đối ngoại từ lâu, song Việt Nam và châu Phi mới chỉ thực sự thiết lập quan hệ kinh tế-thương mại vào đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, thời cơ đến với hai bên và để thúc đẩy và tận dụng mọi lợi ích có được từ quá trình hôi nhập Việt Nam và châu Phi đã có những việc làm thiết thực để tăng cường, giữ vững quan hệ thương mại tốt đẹp. Hai bên đã có những chuyến thăm cấp chính phủ, những hội nghị, hội thảo giới thiệu về tiềm năng thị trường của mỗi bên. Đi kèm theo đó là những hiệp định thương mại được ký kết và dành cho nhau những ưu đãi trong quan hệ thương mại.
Đề tài:“Thực trạng và giải pháp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường châu Phi” đề cập đến một khía cạnh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, đó là việc phát triển mối quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước châu Phi.
Đảng và Nhà nước đã nhận thức rõ châu Phi nằm trong số những khu vực thị trường tiềm năng mà nước ta cần đẩy mạnh quan hệ thương mại. Nhưng làm thế nào để biến tiềm năng đó thành hiện thực lại là việc không đơn giản và đòi hỏi nhiều nỗ lực từ các cơ quan quản lý Nhà nước cũng như từ các doanh nghiệp. Với tinh thần đó, đề tài này có mục tiêu chủ yếu là xây dựng cơ sở khoa học để đề ra một số giải pháp nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam và một số nước châu Phi, góp phần xây dựng chính sách phát triển quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước châu Phi từ nay đến năm 2010. Theo trình tự nội dung, trước hết đề tài đã giới thiệu tổng quan về châu Phi, tìm hiểu thị trường châu Phi và quan hệ thương mại của các nước châu Phi, cũng như khái quát tình hình quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước châu Phi trong thập kỷ 90 và đến năm 2005. Và cuối cùng, đề tài đưa ra một số kiến nghị giải pháp dưới cấp độ Nhà nước, cấp độ doanh nghiệp cũng như một số kiến nghị giải pháp khác.
* * *
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH
TS. Đỗ Đức Bình, TS. Nguyễn Thường Lạng(chủ biên)-2002-Giáo trình kinh tế quốc tế-NXB lao động-xã hội,
TS. Nguyễn Thị Hường (chủ biên)-2001-Giáo trình kinh doanh quốc tế, NXB Thống kê.
PGS. Nguyễn Cao Văn, 1997, Giáo trình Marketing quốc tế, NXB giáo dục.
GS. TS. Tô Xuân Dân (chủ biên)-1998- Chính sách kinh tế đối ngoại: lý thuyết và kinh nghiệm quốc tế
Niên giám thống kê Việt Nam năm 2001, 2002, 2003, 2004.
BÁO VÀ TẠP CHÍ
Trần Thị Lan Hương, 2005: kinh tế châu Phi đã khởi sắc, thời báo kinh tế Việt Nam.
Dương Ngọc, Mười điểm vượt trội của xuất khẩu 2005, thời báo kinh tế Việt Nam.
Th,S. Nguyễn Hồng Phong, Triển vọng của việc mở cửa thị trường cho xuất khẩu mặt hàng mới của Việt Nam, tạp chí kinh tế và phát triển.
PGS.TS Hoàng Văn Hoa-Th.S. Nguyễn Hải Đạt, Giải pháp phát triển quan hệ thương mại Việt Nam-châu Phi, tập chí kinh tế và phát triển.
TS. Nguyễn Văn Du, Các nước châu Phi-Trung Đông trong quan hệ với Việt Nam thời gian qua, tạp chí Cộng sản, tháng 2/2001.
PGS.TS. Đỗ Đức Định, Quan hệ hợp tác Việt Nam-châu Phi, tạp chí Cộng Sản, số tháng 2/2005.
Nguyễn Dy Niên, Quan hệ Việt Nam-châu Phi vượt lên trên các mối quan hệ đơn thuần dựa trên lợi ích, hội thảo “Việt Nam-châu Phi: những cơ hội hợp tác và phát triển trong thế kỷ 21”, 6/2003.
Vũ Thị Thêm,-vụ trưởng vụ Tây Nam á-châu Phi, Tình hình và triển vọng hợp tác kinh tế, thương mại Việt Nam-châu Phi. Chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích doanh nghiệp châu Phi đầu tư vào Việt Nam, hội thảo:” hợp tác phát triển thương mại, đầu tư Việt Nam-châu Phi”
Nguyễn Quang Thuật, Kinh nghiệm tiếp cận thị trường lương thực đầy tiềm năng của châu Phi và kiến nghị cơ chế, chính sách, hội thảo:” hợp tác phát triển thương mại, đầu tư Việt Nam-châu Phi”
Nguyễn Thị Lợi, Một số kinh nghiệm bước đầu trong kinh doanh tại thị trường châu Phi, hội thảo:” hợp tác phát triển thương mại, đầu tư Việt Nam-châu Phi”
Bùi Tiến Huệ, Hàng Việt Nam rất thích hợp với thị trường châu Phi, tuần báo quốc tế,
Nguyễn Văn Linh, Đánh thức quan hệ hợp tác thương mại, đầu tư, tuần báo quốc tế,
Đàm ánh Tuyết, Hợp tác kinh tế Việt Nam-châu Phi: bạn bè cũ, thị trường mới, tuần báo quốc tế,
Nguyễn Hữu Đựng, Nam Phi-cửa ngõ chiến lược vào thị trường châu Phi, tuần báo quốc tế.
MỘT SỐ WEBSITE:
PHỤ LỤC
I. ĐỊA CHỈ CÁC ĐẠI SỨ QUÁN VÀ THƯƠNG VỤ VIỆT NAM TẠI CHÂU PHI
Đại sứ quán Việt Nam tại Angiêri
(Kiêm nhiệm Mali, Ghinê, Xênêgan, Mauritani và Bênanh)
Đại sứ: ông Bùi Tiến Huệ
Địa chỉ: 30, rue Chénoua, Hydra, Alger
Điện thoại: 00 213 21 692752
Fax: 00 213 21 693778
Email: spvnalger@yahoo.com
Đại sứ quán Việt Nam tại Libya
(Kiêm nhiệm Sip, Tuynidi, Ghana, Nigiênia)
Đại sứ: ông Nguyễn Văn Linh
Địa chỉ: Tripoli-Libya P.O.Box: 587 Gargaresh Road Km7, Abou Nawas
Điện thoại: 218 21 4835587
Fax: 218 21 4836962
Email: cong@mail.lttnet.net
Đại sứ quán Việt Nam tại Ai Cập
(Kiêm nhiệm Israen, Cô-oet, Syrie, Palestine và Liban)
Đại sứ: ông Dương Huỳnh Lập
Địa chỉ: 39, Jedda street, Mohandessine, Cairo
Điện thoại: 00 202 3351189
Fax: 00 202 3368612
Email: vinaemb@intouch.com
Thương vụ Việt Nam tại Ai Cập
Tham tán thương mại: ông Đinh Văn Thạch
Địa chỉ: 23, Kambez Str, Dokki, Giza O Cairo, Egypt
Điện thoại: 202 7485721
Fax: 202 7485721
Email: ndt@intouch.com tvcairo@yahoo.com
Đại sứ quán Việt Nam tại Nam Phi
(Kiêm nhiệm Mozambique, Công, Zambia)
Đại sứ: ông Nguyễn Hữu Dụng
Địa chỉ: 87 Brooks Str, Brooklyn-Pretoria
Điện thoại: 00 27 12 3626119
Fax: 00 27 12 3626115
Email: embassy@vietnam.co.za
Thương vụ Việt Nam tại Nam Phi
Tham tán thương mại: ông Trần Mạnh
Địa chỉ: 135 Brooks Str., Brooklyn, Pretoria 0181, South Africa
Điện thoại: 00 27 12 362 1179
Fax: 00 27 12 362 0553
Email: vnto@worldonline.co.za
Đại sứ quán Việt Nam tại Angola
Đại biện lâm thời: ông Đặng Giang
Địa chỉ: 100 Andar, Rua Engracia Fragoso Luanda-Angola
Điện thoại: 00 244 2 390369
Email: dsqvnangola@netangola.com
II. ĐỊA CHỈ CÁC ĐẠI SỨ QUÁN CHÂU PHI TẠI VIỆT NAM
Đại sứ quán Algierie tại Việt Nam
Đại sứ: ông NACEUR BOUCHERIT
Địa chỉ: 13 Phan Chu Trinh, Hà Nội
Điện thoại: 04 8 253865
Fax: 04 8 260830
Email: ambalghanoi@ambalgvn.org.vn
Đại sứ quán Cộng hoà ả Rập Ai Cập tại Việt Nam
Đại sứ: ông ABDALLAH ALARNOSY
Địa chỉ: 63 Tô Ngọc Vân, Hà Nội
Điện thoại: 04 8 294999
Fax: 04 8 294997
Email: arabegypt@fpt.vn
Văn phòng Nhân dân ả Rập Libya tại Việt Nam
Đại biện lâm thời: ông MUSTAFA A.A. SHABAN
Địa chỉ: A3 khu ngoại giao đoàn Vạn Phúc, Kim Mã, Hà Nội
Điện thoại: 04 8 453379
Fax: 04 8 454977
Đại sứ quán Nam Phi tại Việt Nam
Đại sứ: ông GOITSIMOLIO LEONARD PITSO
Địa chỉ: 31 Hai Bà Trưng, Hà Nội
Điện thoại: 04 9 362000, 9 361990
Fax: 04 9 361991
Email: political@saembassy-hanoi.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32376.doc