Trong quá trình đổi mới và phát triển, vốn được coi là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Đối với nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, hiện nay đang diễn ra một tình trạng là nhu cầu về vốn lớn hơn nhiều so với khả năng đáp ứng. Chính vì vậy, nguyên tắc an toàn và hiệu quả của đồng vốn phải được đưa lên hàng đầu. Để đạt được điều này thì một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc nói riêng và Quỹ HTPT nói chung là không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Chỉ có trên cơ sở thẩm định dự án một cách thực sự khách quan, khoa học và toàn diện thì mới đưa được nguồn vốn tín dụng ưu đãi này đến đúng đối tượng được hưởng ưu đãi, khuyến khích sự phát triển những lĩnh vực, ngành nghề, vùng lãnh thổ theo định hướng của nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH.
Hiện nay, chất lượng thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc tuy đã dần được chú trọng và nâng cao song vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định đang là một vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng, quyết định hiệu quả sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Để góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc, Luận văn đã cố gắng xây dựng, trình bày những vấn đề từ lý luận đến thực tiễn qua 3 chương như sau:
Chương 1 chủ yếu làm rõ những khái niệm cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư, thẩm định dự án đầu tư; khái quát về nhiệm vụ, quan điểm, mục đích, quy trình thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển để làm cơ sở nghiên cứu cho các chương sau.
Chương 2 đi sâu nghiên cứu những vấn đề: Sự hình thành và tình hình hoạt động của Chi nhánh Quỹ, khái quát bức tranh chung về tình hình thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ qua 3 năm hoạt động; tập trung phân tích quy trình, nội dung thẩm định dự án vay vốn tại Chi nhánh Quỹ với một ví dụ minh hoạ cụ thể;trên cơ sở đó phát hiện và đánh giá về thực trạng công tác thẩm định, những kết quả tích cực đã đạt được, những mặt hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó.
Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân đã nêu trong chương 2, chương 3 đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ, trong đó có phân chia thành các nhóm giải pháp riêng cho Chi nhánh Quỹ, cho hệ thống Quỹ HTPT và một số kiến nghị đối với Nhà nước để cải thiện môi trường kinh tế, pháp lý; đổi mới quy chế quản lý đầu tư, XDCB, tăng cường sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong hoạt động thẩm định.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và thực hiện đề tài nhưng Luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định do thời gian không cho phép, do trình độ, nhận thức của người viết còn hạn chế. Những vấn đề nêu trong luận văn dù ít dù nhiều vẫn còn nghiêng nhiều về mặt lý thuyết, xuất phát từ cách nhìn nhận, đánh giá của một sinh viên còn ít kinh nghiệm thực tế. Vì vậy, người viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng của các thầy cô giáo và các bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn.
108 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1350 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng Đầu tư phát triển của Nhà nước tại Chi nhánh Quỹ Hỗ trợ phát triển Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà nước đầu tư chiều sâu.
+ Có một số trường hợp chủ đầu tư tính tổng mức đầu tư thiên cao (không áp dụng đúng định mức, đơn giá hoặc khối lượng không hợp lý). Điều này thường xảy ra đối với dự án của các doanh nghiệp nhà nước thuộc các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến thuỷ sản. Một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng áp dụng tình huống này nhằm sử dụng mức vốn vay lớn, giảm thiểu mức vốn tự có tham gia đầu tư.
Chương 3
Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng
công tác thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước tại Chi nhánh Quỹ HTPT vĩnh phúc
Bước sang năm 2003, với nhiệm vụ tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động tín dụng ĐTPT trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc, Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc đã đăng ký kế hoạch tín dụng ĐTPT 2003 với Quỹ HTPT như sau:
Tổng số : 195.306 triệu đồng
Chia ra các hình thức
1- Cho vay đầu tư : 164.306 triệu đồng.
2- Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư : 1.000 triệu đồng.
Trong đó: - Các dự án chuyển tiếp : 771 triệu đồng.
- Cho vay các dự án mới : 99 triệu đồng.
- Dự phòng : 130 triệu đồng.
3- Bảo lãnh tín dụng đầu tư : 30.000 triệu đồng
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, Chi nhánh Quỹ sẽ phải thực hiện đồng bộ nhiều hoạt động nghiệp vụ khác nhau, trong đó không thể thiếu những định hướng, giải pháp cho công tác thẩm định dự án bởi thẩm định là khâu đầu tiên trong một chu kỳ tín dụng nhằm xét duyệt, đánh giá tính khả thi, hiệu quả của dự án. Kết quả thẩm định là căn cứ để quyết định cho vay. Vì vậy chất lượng thẩm định có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Quỹ.
Với thực trạng như hiện nay, nâng cao chất lượng thẩm định dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong phương hướng hoạt động của Chi nhánh Quỹ. Trên cơ sở những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân đã đề cập trong chương 2, có thể đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chất lượng thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ như sau:
Quan điểm, nhận thức về công tác thẩm định:
Việc nhận thức sâu về vai trò, yêu cầu của công tác thẩm định dự án trong hoạt động chung của Chi nhánh Quỹ có một ý nghĩa rất quan trọng nhằm thống nhất về quan điểm, nhận thức của đội ngũ cán bộ thẩm định, giúp cho họ có một định hướng đúng đắn trước khi tiến hành hoạt động thẩm định cụ thể. Theo tinh thần đó, để thực hiện tốt công tác thẩm định trong thời gian tới, các cán bộ thẩm định tại Chi nhánh Quỹ cần quán triệt một số quan điểm như sau:
Nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước là nguồn vốn dùng để cho vay ưu đãi đối với các dự án, chương trình thuộc diện được khuyến khích đầu tư của nhà nước. Tuy nhiên đây không phải là nguồn vốn cấp phát trực tiếp từ ngân sách mà là một nguồn vốn tín dụng, có sự vay - trả và phải đảm bảo yêu cầu bảo toàn và phát triển nguồn vốn. Là cơ quan đầu mối quản lý nguồn vốn này, Quỹ HTPT phải đứng trên giác độ của người cho vay, của cơ quan tài trợ vốn khi thẩm định các dự án xin vay. Cần quan tâm trước hết đến hiệu quả kinh tế, tài chính và khả năng trả nợ của dự án nhằm xác định khả năng thu hồi vốn khi cấp tín dụng, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro khi cho vay.
Công tác thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ phải được quy chuẩn hoá. Việc thẩm định, phân tích, đánh giá các dự án để ra quyết định cho vay phải xuất phát từ và phù hợp với tình hình thực tiễn phát triển các ngành nghề, vùng lãnh thổ, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và địa phương trong từng thời kỳ.
Công tác thẩm định phải do đông đảo cán bộ trong Chi nhánh Quỹ thực hiện với sự phân công và phối hợp hợp lý. Đồng thời phải có sự chỉ đạo từ Quỹ Trung ương xuống các Chi nhánh để ban hành những quy định, hướng dẫn cụ thể; kịp thời điều chỉnh những thay đổi phát sinh trong quá trình thực hiện; xây dựng và ban hành Quy chế thẩm định mới hợp lý hơn để thống nhất chỉ đạo, thực hiện trong toàn hệ thống.
Công tác thẩm định phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, toàn diện đối với tất cả các dự án trong suốt quá trình vay vốn.
Công tác thẩm định phải đảm bảo tính chủ động, sáng tạo, tổng hợp, phân tích và tổng kết thực tiễn để tìm ra những yếu kém còn tồn tại, từ đó có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng.
Các kết quả thẩm định phải phát huy vai trò tham mưu có hiệu quả cho Ban lãnh đạo Quỹ HTPT Trung ương và Ban Giám đốc Chi nhánh ra quyết định đúng đắn trong việc cho vay hay không cho vay đối với dự án.
Một số giải pháp, kiến nghị đối với Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh phúc và hệ thống Quỹ HTPT:
Tổ chức nâng cao, bồi dưỡng kiến thức, trình độ cho đội ngũ cán bộ thẩm định:
Trong công tác thẩm định, đội ngũ cán bộ thẩm định là những người chịu trách nhiệm chính và quyết định đến chất lượng thẩm định.
Để đảm bảo chất lượng công tác thẩm định dự án, yêu cầu đối với cán bộ thẩm định là phải có trình độ từ đại học trở lên, có kiến thức cơ bản về kinh tế - xã hội, về thị trường, hoạt động tín dụng, tài chính doanh nghiệp, tài chính dự án; có khả năng tính toán, phân tích các chỉ tiêu kinh tế tài chính và khả năng trả nợ của dự án; am hiểu những kiến thức, phương pháp thẩm định hiện đại để ứng dụng vào thực tế các dự án cụ thể. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định phải có khả năng đánh giá, tổng hợp nhạy bén, có kỹ năng ứng dụng các phần mềm hỗ trợ hiện đại phục vụ công tác thẩm định. Cán bộ thẩm định phải có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, trung thực, có tinh thần trách nhiệm và kỷ luật nghề nghiệp cao.
Với thực trạng như hiện nay, để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong công tác thẩm định, Ban Kinh tế Kỹ thuật và thẩm định của Quỹ Trung ương phải chủ trì và phối hợp với các Chi nhánh Quỹ để xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ thẩm định cả về quy mô lẫn trình độ, tổ chức bồi dưỡng nâng cao kiến thức nghiệp vụ thẩm định cho cán bộ theo một số phương hướng chủ yếu sau:
Xây dựng một đội ngũ chuyên viên thẩm định giỏi trên cơ sở rà soát lại đội ngũ cán bộ thẩm định, xem xét và chuyển các cán bộ không đáp ứng được yêu cầu sang làm nhiệm vụ khác, bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao, có ý thức tự học tập rèn luyện nâng cao kiến thức vào các khâu chủ chốt trong quá trình thẩm định dự án.
Có chính sách ưu đãi để tăng cường trách nhiệm, ý thức và tinh thần vươn lên tự hoàn thiện của mỗi cán bộ. Gắn liền trách nhiệm vật chất với hiệu quả của hoạt động thẩm định. Khuyến khích phát huy sáng kiến, tổ chức phát động các đợt thi đua trong từng năm như các cuộc thi liên quan đến nghiệp vụ thẩm định. Tổng kết khen thưởng thoả đáng, kịp thời từng đợt.
Khuyến khích sự năng động sáng tạo của đội ngũ cán bộ trẻ vào công tác thẩm định vì đây là lực lượng sẽ đóng góp lâu dài cho Chi nhánh Quỹ. Tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp tục học tập, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn như: bố trí công việc, sắp xếp thời gian, trợ cấp học phí, trợ cấp tiền mua tài liệu, cử cán bộ đi học các lớp bằng 2, học tin học, ngoại ngữ, các khoá học ngoài giờ v.v...Phân công các cán bộ vững vàng về nghiệp vụ và có kinh nghiệm để kèm cặp, hướng dẫn cán bộ trẻ ít kinh nghiệm, giúp đội ngũ cán bộ trẻ dần trưởng thành, đồng thời góp phần nâng cao mặt bằng về trình độ chung của các cán bộ thẩm định trong Chi nhánh Quỹ.
Thực hiện công tác bổ sung, tuyển mới theo đúng quy trình, quy chế thi tuyển công khai, nghiêm túc nhằm tuyển dụng được những người có đủ năng lực trình độ vào làm việc, bố trí dàn xếp đủ cán bộ cho những khâu thẩm định còn sơ sài. Có chính sách ưu đãi để thu hút đội ngũ chuyên gia giỏi, mời làm cố vấn hoặc cộng tác viên.
Định kỳ tổ chức những lớp học đào tạo và đào tạo lại cho các cán bộ thẩm định theo các chuyên đề khác nhau: chuyên đề về phân tích tài chính doanh nghiệp, chuyên đề về xác định phương án vay vốn và trả nợ vốn vay, chuyên đề về tính toán hiệu quả đầu tư dự án... Các lớp học nên được tổ chức tập trung, có kiểm tra, đánh giá kết quả cụ thể và nên tổ chức vào thời gian ít công việc (đầu năm). Bên cạnh đó cần cử các cán bộ có năng lực theo học những khóa đào tạo chuyên nghành về thẩm định ở trong nước và nước ngoài.
Tập hợp các sáng kiến, đề xuất, đề án nghiên cứu có giá trị để phổ biến cho cán bộ thẩm định trong toàn hệ thống.
Tất nhiên, để thực hiện triệt để các biện pháp trên cần có sự chỉ đạo, hướng dẫn của Ban Kinh tế Kỹ thuật & Thẩm định và sự phối hợp thực hiện trong toàn hệ thống Quỹ trong thời gian lâu dài. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn, Chi nhánh Quỹ cũng có thể phát huy tinh thần vượt khó, chủ động tự thực hiện một số biện pháp trong một chừng mực nhất định. Hơn nữa, thực tế hiện nay ở nước ta cũng chưa có một trường lớp nào đào tạo chính quy về nghiệp vụ thẩm định. Vì vậy, ngay cả khi các cán bộ thẩm định của Chi nhánh Quỹ đã được đào tạo nâng cao và đào tạo lại về nghiệp vụ thẩm định thì đó mới chỉ là sự trang bị thuần túy về mặt kiến thức, lý luận. Để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án, cán bộ thẩm định phải biết kết hợp giữa lý thuyết với kinh nghiệm và thực tiễn. Đây là yếu tố quyết định.
Thiết lập hệ thống thông tin và đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cho công tác thẩm định:
Trong thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay, với sự đa dạng của các nguồn thông tin, với cách thức xử lý thông tin ngày càng hiện đại, việc thu thập đầy đủ, chính xác, kịp thời thông tin để phục vụ cho công tác thẩm định là khá phức tạp song vô cùng cần thiết.
Thông thường, các thông tin cần thiết phải thu thập để phục vụ công tác thẩm định bao gồm:
+ Số liệu thống kê chính thức về thị trường tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, giá cả thực tế của các yếu tố đầu vào.
+ Định mức, đơn giá và các tài liệu do nhà nước ban hành.
+ Thông tin từ các nhà cung cấp thiết bị, dịch vụ cho dự án.
+ Số liệu thống kê và đúc rút kinh nghiệm từ công tác thẩm định các dự án tương tự trước đó.
+ Xu hướng biến động của các yếu tố bất ổn định ở Việt Nam và trên thế giới v.v...
Để có đầy đủ thông tin phục vụ cho thẩm định dự án, cán bộ thẩm định cần đặc biệt lưu ý thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác. Từ đó có những kết luận thẩm định một cách khách quan, toàn diện về các nội dung của dự án. Mặc dù việc phối hợp với các cơ quan chức năng để thu thập thêm thông tin hiện nay còn có nhiều khó khăn, vướng mắc song như thế không có nghĩa là Chi nhánh Quỹ chỉ chấp nhận những thông tin do chủ đầu tư cung cấp như là nguồn thông tin duy nhất cho thẩm định dự án. Để đảm bảo độ tin cậy, tính xác thực của thông tin, đảm bảo chất lượng thẩm định, Chi nhánh Quỹ có thể tập trung vào một số hướng giải quyết như sau:
2.1. Tiếp tục chủ động đa dạng hoá các nguồn thu thập thông tin, tích cực khai thác các nguồn tin có nhiều tiềm năng khác.
Các nguồn thông tin mà Chi nhánh Quỹ có thể khai thác thêm bao gồm:
a) Thông tin do điều tra trực tiếp doanh nghiệp vay vốn:
Những thông tin, số liệu do chủ đầu tư cung cấp trong báo cáo tài chính và báo cáo nghiên cứu khả thi của dự án thường có nhiều thiếu sót. Họ thường dấu những thông tin bất lợi cho phía doanh nghiệp. Vì vậy, để đảm bảo chất lượng thẩm định dự án, Chi nhánh Quỹ không thể thụ động trong việc tiếp nhận những thông tin này mà phải kết hợp với việc cử cán bộ đi điều tra tình hình thực tế tại nơi sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông qua các cuộc phỏng vấn trực tiếp ban lãnh đạo doanh nghiệp, nhờ tính chất linh hoạt của việc phỏng vấn, cán bộ thẩm định có thể tìm ra những thông tin cần thiết phục vụ cho công tác thẩm định mà trong hồ sơ vay vốn của doanh nghiệp không đề cập đến hay có thể phát hiện ra những thông tin thiếu chính xác để có biện pháp xử lý. Đây là một hình thức thu thập thông tin cần thiết, nếu biết cách khai thác thì cán bộ thẩm định sẽ có được những thông tin cơ bản, chính xác về tình hình hoạt động thực tế, về năng lực của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, trước khi tìm hiểu thông tin qua tiếp xúc trực tiếp với lãnh đạo doanh nghiệp, cán bộ thẩm định phải chuẩn bị sẵn một chương trình chi tiết, bao gồm một loạt những vấn đề cần được tìm hiểu hoặc cần được giải đáp về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Cán bộ thẩm định phải hướng người được hỏi trả lời theo ý mình, thông qua đó nắm bắt được những thông tin mà mình cần thu thập. Từ đó nhanh chóng tập hợp, phân tích các thông tin để đánh giá đúng thực tế về tình hình của doanh nghiệp.
b) Thông tin thu thập từ bên ngoài:
Bao gồm: thông tin từ các công ty kiểm toán - nguồn số liệu chính xác về hoạt động tài chính của doanh nghiệp giúp cán bộ thẩm định đánh giá đúng về khả năng tài chính trong việc vay, trả, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai - thông tin từ cơ quan thuế, từ báo chí, phát thanh, truyền hình, mạng thông tin điện tử...Đây là những nguồn cung cấp thông tin hàng ngày rất quan trọng và có giá trị đối với công tác thẩm định.
2.2. Nâng cấp, hiện đại hoá hệ thống máy tính, thiết bị viễn thông để phân loại, tổng hợp, xử lý thông tin phục vụ cho công tác thẩm định:
Bên cạnh việc thu thập, cập nhật thông tin, một vấn đề cũng cần phải tính đến là làm thế nào để phân loại, xử lý và đánh giá được tính đúng đắn của từng loại thông tin? Nếu không làm được điều này sẽ dẫn đến tình trạng nhiễu thông tin do có nhiều nguồn thông tin trái ngược nhau.
Để giải quyết vấn đề này, Chi nhánh cần mạnh dạn đầu tư đổi mới hệ thống thông tin liên lạc (điện thoại, fax...), trang thiết bị tin học theo hướng hiện đại, áp dụng những kỹ thuật phân tích, tính toán hiện đại để truy cập, xử lý thông tin một cách kịp thời, chính xác và hiệu quả. Chi nhánh có thể tự xây dựng hoặc mua một số phần mềm ứng dụng trong công tác thẩm định các dự án đầu tư, phần mềm quản lý trao đổi thông tin kinh tế kỹ thuật; sử dụng rộng rãi máy vi tính và các phần mềm ứng dụng trong phân tích đánh giá dự án để ngoài chức năng lưu trữ, cập nhật, truy nhập thông tin còn xử lý tính toán, kiểm tra và phân tích các dự án.
Thông qua việc nối mạng vi tính trong nội bộ Chi nhánh, giữa chi nhánh với các Ban trên Quỹ Trung ương và với bên ngoài, các cán bộ thẩm định có thể trao đổi, tìm kiếm thông tin trong hệ thống Quỹ HTPT một cách nhanh chóng. Ngoài ra, với sự trợ giúp của hệ thống này, các cán bộ thẩm định có thể trực tiếp liên hệ với các nguồn cung cấp thông tin để yêu cầu giúp đỡ, trực tiếp tìm kiếm thông tin mà không phải đến tận nơi, nhờ đó giảm bớt được thời gian đi lại và rút ngắn thời gian thẩm định.
Nói chung, vấn đề thiếu thông tin không chỉ có ở nội bộ Chi nhánh Quỹ mà còn là một thực trạng phổ biến trong toàn hệ thống Quỹ. Chính vì vậy Quỹ Trung ương phải đóng vai trò đầu tàu trong việc chỉ đạo, hướng dẫn các Chi nhánh xây dựng một hệ thống thông tin phong phú, đầy đủ, chính xác để cung cấp cho công tác thẩm định trong toàn hệ thống. Cụ thể là: định kỳ hàng tháng hàng quý, các Chi nhánh Quỹ phải báo cáo cụ thể và đầy đủ về tình hình thẩm định tại Chi nhánh mình để Quỹ Trung ương tổng hợp tình hình thẩm định trong toàn hệ thống. Trên cơ sở đó, đến cuối năm hoặc sang đầu năm sau, Quỹ Trung ương có thể tổ chức các buổi thảo luận, tổng kết, dánh giá và rút kinh nghiệm trong công tác thẩm định. Bên cạnh đó, Quỹ Trung ương phải yêu cầu các Chi nhánh Quỹ tích cực tham gia thẩm tra báo cáo quyết toán vốn vay (thẩm định trong giai đoạn kết thúc xây dựng, đưa dự án vào khai thác) để có cơ sở thống kê, đúc kết số liệu, kinh nghiệm cần thiết, tích luỹ thông tin phục vụ cho công tác thẩm định dự án.
2.3. Chú trọng hơn về việc xác minh lại các số liệu trong dự án:
Cùng với các biện pháp nhằm đa dạng hoá các nguồn thu thập thông tin, cải tiến hệ thống máy tính trang thiết bị để lưu giữ, phân loại, xử lý, tổng hợp thông tin như đã đề cập ở trên thì việc xác minh lại tính đúng đắn, độ tin cậy của các số liệu, thông tin do chủ đầu tư cung cấp là hoàn toàn có cơ sở để thực hiện.
Trong quá trình thẩm định cần có sự quan tâm đúng mức đến việc xác định chi phí sản xuất hợp lý đối với từng loại dự án, đặc biệt là các khoản chi phí theo định mức hoặc tương đương để sản xuất ra sản phẩm. Để giải quyết vấn đề này cần quan tâm thu thập đầy đủ luận cứ pháp lý, các thông tin về đơn giá, định mức, thị trường... để áp dụng cho phù hợp với từng loại ngành nghề.
Trong một số trường hợp khi xác định giá nguyên liệu đầu vào đối với các dự án cần cân nhắc đến các điều kiện khách quan có liên quan trong quá trình hội nhập và sự biến động của giá cả theo thời gian. Chẳng hạn như: cùng với quá trình Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới thì thuế suất nhập khẩu một số nguyên liệu đầu vào của dự án sẽ thay đổi ra sao, từ đó có ảnh hưởng như thế nào đến chi phí của dự án. Chú ý trong quá trình tính toán, để giảm thiểu rủi ro tăng độ an toàn đối với dự án nên tính toán tăng giá đầu vào, hạ giá bán đầu ra (áp dụng nguyên tắc giảm thiểu rủi ro).
Thành lập phòng Thẩm định riêng tại Chi nhánh Quỹ:
Trên cơ sở công tác thẩm định ngày càng hoàn thiện, cùng với sự phát triển và mở rộng phạm vi hoạt động, Chi nhánh Quỹ nên nghiên cứu để thành lập phòng Thẩm định riêng hoạt động như một phòng chức năng độc lập, chuyên trách về nghiệp vụ thẩm định các dự án. Phòng Thẩm định sẽ là đầu mối tổ chức, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, tổng hợp, thống kê số liệu, tích luỹ thông tin để phục vụ công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ cũng như tiến hành thẩm định các nội dung cụ thể. Phòng Thẩm định sẽ chịu trách nhiệm trước Ban lãnh đạo Chi nhánh về nội dung và chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Các phòng nghiệp vụ khác chỉ nên tham gia, phối hợp thực hiện các nghiệp vụ cụ thể trong quá trình quản lý, điều hành về vốn, cho vay, thu hồi nợ vay và quyết toán vốn vay.
Sự ra đời của phòng Thẩm định sẽ tập trung các cán bộ có đủ trình độ nghiệp vụ, kinh nghiệm; tập trung phương tiện, trang bị, thời gian cho công tác thẩm định, vì vậy sẽ giải quyết được những khó khăn trong việc phân công thẩm định, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định.
Để đảm bảo duy trì hoạt động trong điều kiện nguồn nhân lực còn hạn hẹp, cơ cấu phòng Thẩm định có thể bao gồm:
+ 01 Trưởng phòng có trách nhiệm quản lý chung hoạt động của phòng, nhận hồ sơ dự án cần thẩm định phân bổ cho các cán bộ thẩm định chuyên môn, sau đó kiểm tra, tổng hợp kết quả thẩm định trình Ban Lãnh đạo Chi nhánh Quỹ để ra quyết định.
+ 01 Phó phòng có kiến thức chuyên môn riêng về kỹ thuật - tài chính, trợ giúp Trưởng phòng giám sát hoạt động của các Nhân viên trong phòng.
+ Các cán bộ có chức năng thẩm định.
Phân công lại công tác thẩm định trong hệ thống Quỹ HTPT theo hướng giao quyền chủ động nhiều hơn cho các Chi nhánh Quỹ:
Với tư cách là một chi nhánh, một bộ phận hữu cơ trong hệ thống Quỹ HTPT, chất lượng thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc không khỏi chịu ảnh hưởng từ cơ chế phân công, phân cấp thẩm định trong hệ thống Quỹ. Để nâng cao chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ nói riêng và trong toàn hệ thống Quỹ nói chung thì việc phân công thẩm định trong hệ thống phải được tổ chức lại cho hợp lý hơn. Cần phân công, phân cấp rõ hơn về trách nhiệm giữa các phòng tại Chi nhánh Quỹ, giữa Chi nhánh Quỹ và các Ban Quỹ Trung ương trong việc thẩm định cho vay các dự án.
Trong thời gian qua, công tác thẩm định trong hệ thống Quỹ HTPT đã ổn định, trình độ, chất lượng thẩm định ở đa số các Chi nhánh Quỹ đã được nâng lên. Mặt khác, để giảm bớt các thủ tục hành chính trong cơ chế thẩm định 2 cấp, đồng thời tăng cường trách nhiệm cho các Chi nhánh Quỹ, Quỹ HTPT Trung ương nên mở rộng phạm vi các dự án phân cấp thẩm định cho các Chi nhánh Quỹ. Quỹ Trung ương nên mở rộng danh sách các Chi nhánh Quỹ được phân cấp thẩm định và ra quyết định cho vay toàn bộ các dự án nhóm C (thay vì các dự án nhóm C có tổng mức đầu tư không quá 50% mức vốn của các nhóm C tương ứng trong Quy chế quản lý đầu tư xây dựng như hiện nay), trong đó có Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc. Quỹ Trung ương chỉ nên trực tiếp thẩm định các dự án lớn ngoài tầm kiểm soát trong phạm vi ngành, địa phương, các dự án có ảnh hưởng liên ngành, liên vùng.
Đối với các dự án không phân cấp cho Chi nhánh Quỹ: theo Quy chế thẩm định của Quỹ HTPT, các dự án này là do Quỹ Trung ương chủ trì thẩm định và giao cho Chi nhánh Quỹ kiểm tra lại một số nội dung của dự án như: địa điểm xây dựng, cơ sở hạ tầng phục vụ cho dự án sau khi xây dựng xong, các yếu tố đầu vào cung cấp cho dự án vận hành... Để hạn chế trường hợp các Chi nhánh Quỹ đã thẩm định sơ sài rổi đẩy trách nhiệm thẩm định dự án lên Trung ương, cần quy định rõ ràng hơn về quyền và trách nhiệm của Chi nhánh Quỹ đối với các dự án này. Nên quy định toàn bộ nội dung thẩm định sẽ do Chi nhánh Quỹ thực hiện và báo cáo lên Trung ương. Quỹ Trung ương sẽ chỉ thẩm tra lại báo cáo thẩm định của Chi nhánh Quỹ.
Tóm lại, cần phân công lại công tác thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ theo hướng giao quyền chủ động, tự chịu trách nhiệm nhiều hơn cho các Chi nhánh Quỹ. Quỹ Trung ương chỉ quản lý, kiểm tra ở tầm vĩ mô còn những nội dung thẩm định cụ thể phải giao cho các Chi nhánh Quỹ nhằm góp phần chuyên môn hoá hoạt động thẩm định trong hệ thống Quỹ.
Giải pháp về phương pháp thẩm định:
5.1. Đặt các số liệu tính toán tài chính của dự án trong một môi trường động, có tính đến các yếu tố lạm phát, trượt giá; tăng cường công tác dự đoán, dự báo để phòng ngừa rủi ro.
Nhằm nâng cao tính thuyết phục của kết quả thẩm định, mọi tính toán tài chính đều phải được đặt trong một môi trường động, trong đó phải phản ánh đúng giá trị thực của các con số về doanh thu, chi phí, lợi nhuận... trong trường hợp chúng chịu ảnh hưởng của các yếu tố biến động như giá trị thời gian của tiền, lạm phát, trượt giá... Trong điều kiện dự án kéo dài trong nhiều năm thì ảnh hưởng của những yếu tố này là không thể tránh khỏi và có thể gây sai lệch trong kết quả phân tích tài chính. Để loại bỏ ảnh hưởng của những yếu tố này, cán bộ thẩm định có thể tham khảo các bước sau:
Xây dựng các hệ số trượt giá doanh thu, hệ số trượt giá chi phí, hệ số khử lạm phát:
Hệ số trượt giá doanh thu năm i = Hệ số trượt giá doanh thu năm (i-1) x (1+ Tỷ lệ trượt giá doanh thu).
Hệ số trượt giá chi phí năm i = Hệ số trượt giá chi phí năm (i-1) x (1+ Tỷ lệ trượt giá chi phí).
Hệ số khử lạm phát năm i = Hệ số khử lạm phát năm (i-1)/ (1+ tỷ lệ lạm phát).
(Trong đó i là một năm bất kỳ trong vòng đời dự án)
Xác định lại các dòng tiền trong trường hợp có lạm phát, trượt giá:
+ Doanh thu hàng năm (có tính trượt giá) = Doanh thu năm x Hệ số trượt giá doanh thu.
+ Chi phí hàng năm (có tính trượt giá) = Chi phí năm x Hệ số trượt giá chi phí.
+ Dòng tiền khử lạm phát = Dòng tiền sau thuế x Hệ số khử lạm phát.
+ Tỷ suất chiết khấu dùng để tính NPV trong trường hợp có lạm phát (rlf):
1+ Lãi suất danh nghĩa
rlf = _____________________________________ - 1
1+ Tỷ lệ lạm phát
Sử dụng dòng tiền khử lạm phát và rlf để xác định các chỉ tiêu hiệu quả tài chính (NPV,IRR) trong trường hợp có lạm phát, như vậy mới phản ánh chính xác hiệu quả thực sự của dự án.
Dự án được kết luận là có hiệu quả tài chính trong trường hợp có lạm phát khi:
NPV > 0
IRR > rlf
Bên cạnh đó, công tác thẩm định của Chi nhánh Quỹ cũng cần chú trọng hơn đến việc phân loại và quản trị các rủi ro có thể xảy đến đối với dự án như rủi ro tài chính, rủi ro chính trị, rủi ro về thị trường (cầu không đủ, giá bán sản phẩm thấp), rủi ro trong giai đoạn thực hiện đầu tư (tiến độ thi công chậm, chi phí vượt dự toán...) v.v... Đây là những rủi ro ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi và hiệu quả của dự án, do đó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn và trả nợ cho Chi nhánh Quỹ. Để làm tốt công tác quản trị rủi ro, cán bộ thẩm định cần nâng cao khả năng dự đoán, dự báo, phân tích diễn biến tình hình, phát huy kinh nghiệm của bản thân, tăng cường sử dụng các phần mềm kinh tế lượng, các phương pháp thống kê dự báo, toán xác xuất, mô hình toán kinh tế...
5.2. Lựa chọn những yếu tố phù hợp để đưa vào phân tích độ nhạy dự án:
Thông qua bảng phân tích độ nhạy, nếu dự án vẫn đảm bảo hiệu quả ngay cả trong những trường hợp không thuận lợi (giá bán giảm, chi phí tăng...) thì chứng tỏ hiệu quả dự án là vững chắc. Khi đó Chi nhánh Quỹ có thể dễ dàng đưa ra quyết định cho vay. Tuy nhiên, trên thực tế có rất ít những dự án như vậy. Do đó, việc phân tích độ nhạy còn có nhiệm vụ xác định những yếu tố nào là rất nhạy cảm với hiệu quả dự án, trên cơ sở đó cán bộ thẩm định có phương án cùng với chủ đầu tư kiểm soát chặt chẽ những yếu tố này nhằm đảm bảo hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Trong kỹ thuật phân tích độ nhạy của Chi nhánh Quỹ hiện nay, vấn đề quan trọng nhất cần giải quyết là nên lựa chọn những yếu tố nào để đưa vào phân tích độ nhạy?
Mặc dù việc đưa nhiều yếu tố khác nhau vào phân tích độ nhạy sẽ giúp cán bộ thẩm định có cái nhìn đầy đủ về hiệu quả dự án nhưng không phải lúc nào có nhiều thông tin cũng là cần thiết. Nếu có quá nhiều kết quả từ vô số các tình huống thì việc đánh giá sẽ khó khăn. Do đó, trong quá trình phân tích độ nhạy, cán bộ thẩm định chỉ nên lựa chọn những yếu tố nào có độ nhạy cảm lớn đối với hiệu quả dự án (chỉ một sự thay đổi nhỏ của các yếu tố này sẽ làm cho hiệu quả dự án thay đổi lớn, có thể đưa dự án từ trạng thái hiệu quả sang không hiệu quả). Việc lựa chọn các yếu tố để phân tích độ nhạy cần chú ý những vấn đề sau:
Những yếu tố mang tính chủ quan có thể kiểm soát được bằng các biện pháp quản lý như tỷ lệ hao hụt, chi phí quảng cáo, chi phí gián tiếp... thì có thể bỏ qua không tính độ nhạy mà chọn một giá trị bình quân, sau khi cân nhắc trên nhiều mặt.
Những yếu tố mang tính khách quan, nằm ngoài tầm kiểm soát của dự án như giá mua, giá bán, sản lượng tiêu thụ, công suất huy động (phụ thuộc vào thị trường), tổng mức đầu tư, giá nguyên liệu chính (phụ thuộc vào nguồn cung ứng)... thì cần phân tích độ nhạy.
Việc áp dụng 3 yếu tố: giá bán sản phẩm, chi phí nguyên liệu chính và chi phí đầu tư vào việc phân tích độ nhạy trong tất cả các dự án là không hợp lý, vì mỗi dự án có đặc thù kinh tế kỹ thuật khác nhau sẽ đặc biệt nhạy cảm hoặc không nhạy cảm với các yếu tố khác nhau. Để giải quyết vấn đề này, có thể phân loại các dự án theo các nhóm ngành nghề, trong đó mỗi loại dự án sẽ đặc biệt nhạy với một vài yếu tố nhất định và bảng phân tích độ nhạy sẽ được xây dựng chủ yếu dựa trên các yếu tố này. Bằng thực tiễn công tác của mình, cán bộ thẩm định có thể có nhiều cách phân loại khác nhau. Sau đây là một ví dụ:
+ Đối với các dự án công nghiệp có thời gian xây dựng nhanh, thiết bị lắp ráp và vận hành không phức tạp, thị trường tự do thì độ nhạy về giá bán và sản lượng tiêu thụ là đặc biệt quan trọng. Bởi vì với các dự án loại này, các đối thủ có thể nhanh chóng và dễ dàng triển khai dự án cùng loại tạo ra sự cạnh tranh mạnh làm giá cả và sản lượng tiêu thụ giảm.
+ Đối với các dự án mà việc tiêu thụ mang tính độc quyền hoặc đã được bao tiêu sản phẩm đầu ra thì không cần tính quá nhiều độ nhạy về giá cả, sản lượng mà nên tập trung phân tích độ nhạy về tỷ giá, lãi suất cho vay...
Hoàn thiện quy chế, quy trình thẩm định của hệ thống Quỹ HTPT:
Trước đòi hỏi yêu cầu của thực tiễn, việc sửa đổi bổ sung quy chế quy trình thẩm định là việc làm tất yếu. Mục tiêu của việc sửa đổi này là tổ chức nghiên cứu, soạn thảo một quy trình mới phù hợp với cơ chế, chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ và chức năng, nhiệm vụ được giao của Quỹ HTPT. Quy chế thẩm định của Quỹ HTPT phải được sửa đổi bổ sung theo chiều hướng đơn giản, phổ cập với những nội dung thiết thực. Tuy nhiên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa Ban Kinh tế Kỹ thuật & Thẩm định với Ban Tín dụng và các Chi nhánh Quỹ tại các địa phương để tiếp thu những ý kiến đóng góp, xây dựng, sửa đổi, bổ sung quy chế, sớm thực hiện triển khai quy chế thẩm định mới nhằm phục vụ kịp thời các dự án, các chương trình mục tiêu kinh tế của Chính phủ.
Để đạt được những yêu cầu trên, việc sửa đổi, bổ sung quy chế thẩm định của Quỹ HTPT nên tập trung giải quyết những vấn đề sau:
6.1. Quy định cụ thể hơn về việc phân tích, đánh giá năng lực, uy tín của chủ đầu tư:
Việc phân tích, đánh giá năng lực, uy tín về tài chính chủ đầu tư là một nội dung rất quan trọng trong thẩm định dự án. Cùng với phân tích tài chính dự án, đây là một cơ sở quan trọng để ra quyết định cho vay. Tuy nhiên trên thực tế như hiện nay, nội dung phân tích này còn tương đối sơ sài, thiếu những chỉ tiêu cần thiết để đánh giá. Trên cơ sở những tồn tại đã nêu, có thể kiến nghị Quỹ HTPT Trung ương về một số vấn đề như sau:
Đề nghị bổ sung vào quy chế mới một số chỉ tiêu định lượng để có thể đánh giá, phân tích cụ thể về năng lực tài chính, năng lực SXKD của chủ đầu tư. Có thể lượng hoá một số chỉ tiêu như: tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu phải bằng lãi suất của các ngân hàng thương mại, tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tối thiểu phải bằng tốc độ phát triển GDP bình quân chung của cả nước.
Theo quy chế thẩm định hiện nay, đối với các dự án mở rộng sản xuất hay dự án đổi mới công nghệ, chủ đầu tư phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh trong 2 năm liên tục gần nhất để Chi nhánh có cơ sở để đánh giá uy tín, năng lực chủ đầu tư. Tuy nhiên, đối với những dự án mới của những chủ đầu tư mới thành lập pháp nhân, chưa đi vào hoạt động, chưa có báo cáo tài chính và kết quả SXKD hàng năm thì Chi nhánh lại không có cơ sở nào để đánh giá uy tín, năng lực của họ. Vì vậy, dự án của những doanh nghiệp này thường gắn liền với những rủi ro không thể lường trước, rất dễ có nguy cơ bị đổ bể. Trong điều kiện nguồn vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước hạn hẹp như hiện nay, để đảm bảo an toàn về vốn, Chi nhánh chỉ nên xem xét cho vay đối với những dự án đầu tư chiều sâu, mở rộng sản xuất của những doanh nghiệp có kết quả SXKD tốt, có tiềm năng tăng trưởng và tình hình tài chính lành mạnh. Nên có những quy định mới chặt chẽ hơn nhằm hạn chế cho vay đối với các dự án thuộc các doanh nghiệp mới thành lập, đặc biệt là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Bên cạnh đó trong Quy chế mới cần có những quy định bắt buộc báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán để đảm bảo độ tin cậy, chính xác của các số liệu trong báo cáo, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định và đảm bảo chất lượng thẩm định.
Mặt khác, để nâng cao chất lượng thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, trong quy chế mới cần có những yêu cầu bắt buộc về tìm hiểu, điều tra tình hình thực tế của doanh nghiệp. Yêu cầu cán bộ nghiệp vụ phân tích lịch sử tín dụng của chủ đầu tư, nhận xét về uy tín của chủ đầu tư đối với Quỹ HTPT và các tổ chức tín dụng khác, từ đó khẳng định quan hệ tín dụng giữa chủ đầu tư với các tổ chức tín dụng là sòng phẳng, đúng hạn hay dây dưa, không sòng phẳng, không đúng hạn. Đối với những khoản dư nợ quá hạn phải được giải trình lý do và phương án khắc phục khả thi. Ngoài ra, nên quy định cán bộ thẩm định phải phối hợp với cán bộ tín dụng đi thực tế tại nơi SXKD của chủ đầu tư để tìm hiểu thêm thông tin về:
+ Tình trạng nhà xưởng máy móc thiết bị, quy trình công nghệ hiện có của chủ đầu tư.
+ Tình hình SXKD và năng lực thực tế của chủ đầu tư.
+ Thực trạng địa điểm thực hiện dự án.
+ Tài sản thế chấp.
+ Các vấn đề khác có liên quan.
6.2. Quy định thời hạn thẩm định hợp lý hơn:
Như trong phần tồn tại, nguyên nhân đã đề cập, với thời gian thẩm định theo quy chế như hiện nay thì có lẽ là hơi ngắn để tiến hành một công tác thẩm định chi tiết, toàn diện về mọi vấn đề của dự án, ảnh hưởng đến chất lượng, kết quả thẩm định. Song thời gian thẩm định dự án cũng không thể tuỳ tiện kéo dài vì điều đó sẽ cản trở dự án đi vào giai đoạn triển khai, bỏ lỡ mất cơ hội đầu tư, làm nản lòng các chủ đầu tư, làm mất khách hàng của Chi nhánh.
Để đưa ra một thời hạn thẩm định hợp lý, các Chi nhánh phải có trách nhiệm báo cáo đầy đủ lên Quỹ trung ương về thời gian thẩm định tại chi nhánh mình, trên cơ sở đó, Ban Kinh tế Kỹ thuật & thẩm định sẽ tổng hợp lại và xác định một thời hạn thẩm định phù hợp với tình hình chung trong toàn hệ thống Quỹ.
Hiện nay, để đảm bảo chất lượng thẩm định, theo kinh nghiệm của các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước, thời gian thẩm định vào khoảng 3 - 5 tháng đối với một dự án nhóm B và không quá 20 ngày đối với một dự án nhóm C. Trong tương lai, cùng với sự phát triển cuả hệ thống thông tin trang thiết bị phục vụ thẩm định, thời gian thẩm định sẽ được rút ngắn hơn để đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
6.3. Xác định chính xác thời hạn trả nợ của dự án:
Việc xác định thời hạn trả nợ của dự án phải căn cứ vào kết quả tính toán của phương án tài chính, căn cứ vào nguồn trả nợ thực tế trong phương án tài chính của dự án cùng với khả năng trả nợ bằng các nguồn vốn hợp pháp khác của chủ đầu tư.
Trong quá trình thẩm định phương án trả nợ cũng như giám sát, theo dõi tình hình trả nợ về sau này, cần xác minh, giám sát, theo dõi những nguồn trả nợ sau của chủ đầu tư:
+ Nguồn trả nợ được hình thành từ khấu hao TSCĐ.
+ Nguồn trả nợ từ lợi nhuận ròng của dự án.
+ Lãi vay vốn cố định trích trước vào giá thành.
+ Các khoản lợi nhuận hợp pháp khác của doanh nghiệp.
Đối với các dự án được hưởng thời hạn ân hạn ưu đãi theo quy định của nhà nước (không phải trả nợ gốc và lãi trong thời gian này) thì các cán bộ thẩm định và tín dụng phải hết sức chú ý công tác kiểm soát việc sử dụng các nguồn trả nợ của chủ đầu tư nhằm kịp thời đôn đốc chủ đầu tư trả nợ đúng hạn. Trên thực tế đã có những trường hợp do được hưởng thời gian ân hạn mà chủ đầu tư sử dụng nguồn để trả nợ vào những mục đích khác, dẫn đến khả năng trả nợ của những năm sau (khi đã hết thời gian ân hạn) không được đảm bảo.
Mặt khác, bằng việc thường xuyên kiểm soát nguồn trả nợ của chủ đầu tư, cán bộ thẩm định mới có thể theo dõi toàn bộ quá trình thực hiện và vận hành dự án; từ đó mới có cơ sở giám sát và đánh giá dự án, nắm và phân tích được kết quả hoạt động SXKD của doanh nghiệp, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến sự sai lệch giữa kết quả thẩm định với tình hình thực tế khi triển khai dự án; qua đó điều chỉnh, rút kinh nghiệm để phục vụ công tác thẩm định những dự án khác, góp phần nâng cao chất lượng thẩm định.
Làm tốt công tác kiểm tra nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh:
Cho đến nay, trải qua 3 năm hoạt động, công tác thẩm định dự án tại Chi nhánh nhìn chung vẫn đảm bảo được các yêu cầu về tính khách quan, khoa học và toàn diện, chưa có một dự án nào để xảy ra tình trạng thất thoát nghiêm trọng nguồn vốn của nhà nước. Tuy nhiên, vì phòng bệnh hơn chữa bệnh nên để phòng ngừa những rủi ro đạo đức có thể xảy ra, Chi nhánh cần phối hợp với Ban kiểm soát của Quỹ Trung ương xây dựng kế hoạch kiểm tra toàn diện, thường xuyên, định kỳ về nghiệp vụ thẩm định tại Chi nhánh nhằm kịp thời uốn nắn, khắc phục những tồn tại; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ thẩm định cả về trình độ, kiến thức nghiệp vụ lẫn phẩm chất đạo đức, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thẩm định nói riêng và công tác quản lý nguồn vốn tín dụng đầu tư của nhà nước nói chung trên địa bàn.
Một số kiến nghị đối với nhà nước:
Thực tế cho thấy chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc trong những năm qua còn hạn chế một phần là do những nguyên nhân từ bản thân Chi nhánh Quỹ và hệ thống Quỹ HTPT, ngoài ra còn có một số nguyên nhân xuất phát từ điều kiện chung của nền kinh tế như: chất lượng quy hoạch kém, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng của nhà nước còn nhiều bất cập... (đã trình bày ở phần 3.1, IV, Chương 2). Đây là những tồn tại nổi cộm trong cơ chế chung của nước ta hiện nay. Trong phạm vi nghiên cứu có hạn của đề tài, em chỉ xin đưa ra một số kiến nghị nhằm khắc phục những tồn tại này, góp phần cải thiện chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ nói riêng và thực trạng hoạt động lập - thẩm định dự án đầu tư ở nước ta nói chung.
Cải thiện môi trường kinh tế, môi trường pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định:
a) Hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo lập môi trường pháp lý ổn định:
Trước hết, Nhà nước cần rà soát lại toàn bộ hệ thống pháp luật về quản lý kinh tế và đầu tư để sửa đổi những quy định chồng chéo, mâu thuẫn; bổ sung những nội dung còn thiếu nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, rõ ràng nhằm đáp ứng được những đòi hỏi của thực tế. Việc tạo lập một môi trường pháp lý ổn định sẽ góp phần giảm được những biến động thất thường trong quá trình thực hiện và vận hành dự án, hạn chế những sai lệch giữa kết quả thẩm định, quyết định cho vay vốn với tình hình triển khai dự án trên thực tế.
Cho đến nay, trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, các văn bản pháp quy cao nhất mới chỉ là các Nghị định của Chính phủ (từ Nghị định 232 tới NĐ 385, NĐ 177, NĐ 42,92/CP và hiện nay là Nghị định 52,12/CP) nên tính pháp lý còn chưa cao. Trong khi đó, hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản đã có từ rất nhiều năm và là một lĩnh vực có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội ở nước ta nhưng chưa có Bộ luật tương ứng để điều chỉnh. Vì vậy, Nhà nước cần nghiên cứu, soạn thảo và sớm ban hành một văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Luật đầu tư xây dựng cơ bản để tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước trong lĩnh vực này; đồng thời các Bộ, ngành, địa phương phải nhanh chóng ban hành những văn bản hướng dẫn để phát huy tác dụng của Luật. Đặc biệt là các văn bản phải tạo được sự đồng bộ và nhất quán về mặt pháp lý trong chính sách khuyến khích đầu tư, có như vậy mới làm cho các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận với các ưu đãi đầu tư.
b) Nâng cao chất lượng quy hoạch:
Nhà nước cần đảm bảo tính hợp lý và ổn định trong việc xây dựng các quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế xã hội của cả nước cũng như của từng ngành, từng vùng. Chú trọng sự phù hợp, thống nhất giữa quy hoạch ngành với quy hoạch vùng, quy hoạch chi tiết với quy hoạch tổng thể. Chất lượng quy hoạch có được đảm bảo thì chủ trương đầu tư của các dự án mới đúng đắn và ổn định, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thẩm định sự phù hợp của mục tiêu đầu tư của dự án với quy hoạch đã được duyệt, loại bỏ ngay được những dự án mơ hồ về chủ trương đầu tư.
c) Thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán:
Nhà nước cần có văn bản chỉ đạo các doanh nghiệp thuộc các Bộ, ngành thực hiện nghiêm túc chế độ hạch toán, kế toán, thống kê, thông tin báo cáo theo đúng quy trình thủ tục của nhà nước. Bên cạnh đó cần ban hành những quy chế bắt buộc công khai tình hình tài chính của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thẩm định báo cáo tài chính, báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của chủ đầu tư.
d) Phát triển các công ty kiểm toán: Nhà nước cần có chính sách phát triển loại hình công ty kiểm toán trên cơ sở sàng lọc, lựa chọn những công ty kiểm toán có đủ năng lực và tiêu chuẩn hoạt động. Đồng thời đưa ra chế tài xử phạt nghiêm minh đối với những doanh nghiệp cố tình cung cấp thông tin sai sự thật. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc đối với báo cáo tài chính, báo cáo tình hình SXKD của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nhằm đảm bảo độ tin cậy, tính trung thực và chính xác của những số liệu trong các báo cáo này, từ đó giúp cán bộ thẩm định đánh giá chính xác về năng lực tài chính chủ đầu tư và tài chính dự án và đưa ra những quyết định đúng đắn trong hoạt động tín dụng.
Hoàn thiện quy chế thẩm định đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước:
Để khắc phục tình trạng dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước hoàn toàn do các Chi nhánh Quỹ tại địa phương thẩm định toàn bộ, không có sự tham gia của các cơ quan chức năng chuyên ngành, từ đó dẫn đến kết quả thẩm định thiếu khách quan, Nhà nước cần:
Ban hành văn bản chính thức hướng dẫn rõ ràng về sự phối hợp và trách nhiệm của các bên tham gia thẩm định dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo đó, Chi nhánh Quỹ HTPT sẽ chịu trách nhiệm thẩm định phương án tài chính và khả năng trả nợ của dự án. Còn các Sở, ban ngành chức năng ở địa phương có trách nhiệm cung cấp tài liệu, số liệu, và ý kiến thẩm định các khía cạnh kỹ thuật dự án bằng văn bản để Chi nhánh Quỹ có đủ căn cứ thẩm định, tổng hợp và ra quyết định cho vay.
Xem xét có một hình thức thích hợp hỗ trợ các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về việc lập dự án đầu tư, chẳng hạn như hình thức tư vấn lập dự án (tương tự như tư vấn về thuế cho các doanh nghiệp hiện nay), góp phần nâng cao chất lượng lập dự án của chủ đầu tư, từ đó giảm bớt những khó khăn cho Chi nhánh Quỹ trong việc hướng dẫn chủ đầu tư bổ sung, sửa đổi dự án để có đủ cơ sở thẩm định.
Quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của cơ quan kế hoạch và đầu tư là đầu mối thẩm định tất cả các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, kể cả dự án của doanh nghiệp nhà nước lẫn dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chỉ có cơ quan kế hoạch và đầu tư mới có đủ thẩm quyền và điều kiện về đội ngũ cán bộ, bộ máy chức năng trực thuộc để thẩm định tất cả các nội dung của dự án, tổng hợp ý kiến thẩm định về các khía cạnh khác nhau của các Sở, ban ngành. Về phía Chi nhánh Quỹ, Chi nhánh Quỹ chỉ nên tham gia ý kiến thẩm định về phương án tài chính, phương án trả nợ của dự án.
Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư xây dựng ở nước ta:
Hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư XDCB ở nước ta là một nhiệm vụ không hề đơn giản. Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ xem xét lại cả một hệ thống và các nguyên tắc quản lý, xuất phát từ yêu cầu và chức năng quản lý của nhà nước và chức năng, vai trò của các doanh nghiệp, vai trò của các tổ chức tài chính để cải cách cơ chế quản lý đầu tư, sớm chấm dứt cơ chế quản lý hành chính quan liêu bao biện làm cho bộ máy nhà nước nặng nề, kém hiệu lực như hiện nay. Có thể tập trung vào một số phương hướng chủ yếu như sau:
Để hạn chế những sai lệch trong quá trình lập, thẩm định dự án và ra quyết định đầu tư với quá trình triển khai thực hiện dự án trên thực tế, Nhà nước cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động đầu tư; đồng thời cần có những quy định ràng buộc quyền hạn và trách nhiệm đối với các Ban quản lý dự án để các Ban này theo dõi, giám sát, thẩm định, ra quyết định điều chỉnh liên tục nhằm giảm bớt rủi ro, giúp dự án tiệm cận với hiệu quả.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, Chính phủ cần chỉ đạo các Bộ ngành, cơ quan chức năng nghiên cứu thành lập các tổ chức, công ty chuyên thu thập, đánh giá thông tin, xếp hạng các doanh nghiệp của các ngành theo năng lực, uy tín trong sản xuất kinh doanh. Đây sẽ là một nguồn thông tin bổ sung quan trọng cho công tác thẩm định về uy tín, năng lực chủ đầu tư. Tổ chức này có thể tồn tại dưới dạng một cơ quan nhà nước do Nhà nước trực tiếp quản lý hoặc dưới dạng các công ty chuyên bán sản phẩm thông tin về doanh nghiệp theo đơn đặt hàng.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nên khuyến khích sự phát triển của các loại hình công ty tư vấn và tạo điều kiện cho các công ty này tham gia ngày càng nhiều vào quá trình lập và thẩm định các dự án đầu tư. Cụ thể như sau:
Đối với các dự án sử dụng vốn của các thành phần kinh tế phi nhà nước, nhà nước nên khuyến khích họ thuê các công ty tư vấn lập và thẩm định dự án trên các mặt công nghệ, tài chính, thị trường... Sau đó cơ quan chủ trì thẩm định của nhà nước sẽ kiểm tra lại. Điều này sẽ tăng tính chủ động cho chủ đầu tư, đồng thời san sẻ bớt gánh nặng thẩm định cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thẩm định.
Đối với những dự án sử dụng các nguồn vốn của nhà nước (vốn Ngân sách nhà nước, vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước, vốn ĐTPT của các doanh nghiệp nhà nước) thì chủ thể thẩm định vẫn là các Bộ, Sở Kế hoạch đầu tư, các Bộ (Sở) chuyên ngành, UBND các tỉnh, thành phố... Nhưng trong trường hợp các chủ thể trên không đủ năng lực để thẩm định những nội dung kỹ thuật phức tạp của dự án (chẳng hạn như: dự án sử dụng công nghệ hiện đại lần đầu tiên có mặt tại Việt Nam, sản phẩm mới lần đầu tiên xuất hiện trên thị trường...) thì Nhà nước cũng nên tạo cơ chế cho phép họ thuê các công ty tư vấn thẩm định. Để đảm bảo chất lượng thẩm định của các công ty tư vấn, Nhà nước cũng phải xây dựng quy chế ràng buộc về trách nhiệm cụ thể đối với các công ty này. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập như hiện nay có thể cho phép các công ty tư vấn nước ngoài, liên doanh tư vấn phát triển ở Việt Nam nhằm tư vấn cho các chủ thể về những vấn đề vượt quá trình độ của tư vấn trong nước, tạo sự cạnh tranh lành mạnh và nâng cao dần trình độ tư vấn trong nước.
Kết luận
Trong quá trình đổi mới và phát triển, vốn được coi là một trong những điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế. Đối với nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước, hiện nay đang diễn ra một tình trạng là nhu cầu về vốn lớn hơn nhiều so với khả năng đáp ứng. Chính vì vậy, nguyên tắc an toàn và hiệu quả của đồng vốn phải được đưa lên hàng đầu. Để đạt được điều này thì một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc nói riêng và Quỹ HTPT nói chung là không ngừng hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thẩm định các dự án vay vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước. Chỉ có trên cơ sở thẩm định dự án một cách thực sự khách quan, khoa học và toàn diện thì mới đưa được nguồn vốn tín dụng ưu đãi này đến đúng đối tượng được hưởng ưu đãi, khuyến khích sự phát triển những lĩnh vực, ngành nghề, vùng lãnh thổ theo định hướng của nhà nước, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH - HĐH.
Hiện nay, chất lượng thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc tuy đã dần được chú trọng và nâng cao song vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thực tiễn. Do vậy, việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng thẩm định đang là một vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng, quyết định hiệu quả sử dụng nguồn vốn tín dụng ĐTPT của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc.
Để góp phần nâng cao chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc, Luận văn đã cố gắng xây dựng, trình bày những vấn đề từ lý luận đến thực tiễn qua 3 chương như sau:
Chương 1 chủ yếu làm rõ những khái niệm cơ bản về đầu tư, dự án đầu tư, thẩm định dự án đầu tư; khái quát về nhiệm vụ, quan điểm, mục đích, quy trình thẩm định dự án trong hệ thống Quỹ Hỗ trợ Phát triển để làm cơ sở nghiên cứu cho các chương sau.
Chương 2 đi sâu nghiên cứu những vấn đề: Sự hình thành và tình hình hoạt động của Chi nhánh Quỹ, khái quát bức tranh chung về tình hình thẩm định dự án tại Chi nhánh Quỹ qua 3 năm hoạt động; tập trung phân tích quy trình, nội dung thẩm định dự án vay vốn tại Chi nhánh Quỹ với một ví dụ minh hoạ cụ thể;trên cơ sở đó phát hiện và đánh giá về thực trạng công tác thẩm định, những kết quả tích cực đã đạt được, những mặt hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế đó.
Trên cơ sở những hạn chế và nguyên nhân đã nêu trong chương 2, chương 3 đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện chất lượng công tác thẩm định tại Chi nhánh Quỹ, trong đó có phân chia thành các nhóm giải pháp riêng cho Chi nhánh Quỹ, cho hệ thống Quỹ HTPT và một số kiến nghị đối với Nhà nước để cải thiện môi trường kinh tế, pháp lý; đổi mới quy chế quản lý đầu tư, XDCB, tăng cường sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong hoạt động thẩm định.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng và thực hiện đề tài nhưng Luận văn chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định do thời gian không cho phép, do trình độ, nhận thức của người viết còn hạn chế. Những vấn đề nêu trong luận văn dù ít dù nhiều vẫn còn nghiêng nhiều về mặt lý thuyết, xuất phát từ cách nhìn nhận, đánh giá của một sinh viên còn ít kinh nghiệm thực tế. Vì vậy, người viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp xây dựng của các thầy cô giáo và các bạn để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Danh mục tài liệu tham khảo
PGS - TS. Nguyễn Ngọc Mai - Giáo trình Kinh tế đầu tư - NXB Giáo dục 1998.
TS. Nguyễn Bạch Nguyệt - Giáo trình Lập & Quản lý dự án đầu tư - NXB Thống kê 2000.
ThS. Đinh Thế Hiển - Lập và thẩm định hiệu quả tài chính dự án đầu tư - NXB Thống kê 2002.
Văn phòng Thẩm định dự án (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) - Chuyên đề bồi dưỡng cán bộ về lập và thẩm định dự án đầu tư - Hà Nội 1999.
Nghị định 43/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 29/6/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước.
Quyết định số 231/1999/ QĐ-TTg ngày 17/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ HTPT.
Nghị định 52/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 08/07/1999 về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng.
Báo cáo tổng hợp tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch các năm 2000, 2001, 2002 của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc.
Thuyết minh báo cáo quyết toán tài chính Quỹ HTPT của Chi nhánh Quỹ HTPT Vĩnh Phúc năm 2000, 2001, 2002.
Các biểu thống kê về tình hình thực hiện kế hoạch tín dụng ĐTPT của Chi nhánh Quỹ các năm 2001 - 2002.
Sổ theo dõi tình hình thẩm định dự án của Chi nhánh Quỹ các năm 2001, 2002.
Quy trình công tác thẩm định trong hệ thống Quỹ HTPT (ban hành kèm theo Quyết định số 304/2000/QĐ-HTPT ngày 17/5/2000 của Tổng Giám đốc Quỹ HTPT).
Quy chế thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay các dự án sử dụng vốn tín dụng ĐTPT của nhà nước (ban hành kèm theo Quyết định số 10/2000/QĐ-HĐQL ngày 29/02/2000 của Hội đồng Quản lý Quỹ HTPT).
Báo cáo thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất sữa tiệt trùng, sữa đậu nành và nước quả (Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội) của phòng Tín dụng.
Báo cáo thẩm định kinh tế kỹ thuật dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất sữa tiệt trùng, sữa đậu nành và nước quả (Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội) của phòng Kế hoạch nguồn vốn.
Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất nhà máy sản xuất sữa tiệt trùng, sữa đậu nành và nước quả (Công ty Cổ phần Sữa Hà Nội).
Báo cáo chuyên đề về công tác thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay trong hệ thống Quỹ HTPT của Ban Kinh tế kỹ thuật & Thẩm định - Quỹ HTPT.
Mai Lan Hanh - Vấn đề thẩm định dự án của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh - TC Hỗ trợ phát triển số 4/2002.
Hoàng Liên Sơn - Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay - TC Hỗ trợ phát triển số 2/2002.
Diệu Quang Phước - Nguyễn Thị Bích Vân - Một số ý kiến về công tác thẩm định dự án đầu tư trong hệ thống Quỹ HTPT - TC Hỗ trợ phát triển số 3/2002.
Trần Duy Thọ - Đôi điều suy nghĩ về công tác thẩm định dự án đầu tư - TC Hỗ trợ phát triển số 1/2002.
Bùi Mạnh Thắng - Thẩm định là nghiệp vụ hay hành chính ? - Báo Nhân dân số 5/2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37064.doc