Luận văn Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản và các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu

Trong nhiều năm qua Nhật Bản hiện là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn thứ hai của Việt Nam. Việc duy trì và phát triển xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản nằm trong chương trình xúc tiến xuất khẩu trọng điểm quốc gia nhằm thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ 2001-2010. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong nhiều năm qua đã đạt được những thành công đáng kể trên thị trường này tuy nhiên cũng bộc lộ một số mặt hạn chế về vệ sinh an toàn thực phẩm, nguồn nguyên liệu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường Nhật còn thấp. Và trong thời gian tới, cũng như các nước nông nghiệp khác, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các nước sản xuất và yêu cầu ngày càng cao ở các thị trường. Ngoài những biện pháp tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản như nâng cao kỹ thuật chế biến, đa dạng hoá các mặt hàng, mở rộng thị trường còn cần phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn nguyên liệu thuỷ sản đảm bảo sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của các thị trường tiêu thụ như an toàn vệ sinh thực phẩm, có chứng nhận xuất xứ, bảo vệ môi trường. Đồng thời không thể không chú trọng đến việc phát triển theo quy hoạch có tính đến các tác động kinh tế xã hội đối với các cộng đồng dân cư. Do trình độ lý luận cũng như khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự đóng góp quý báu từ phía các thầy cô và các bạn để luận văn có thể hoàn chỉnh hơn.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1967 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Thực trạng xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào Nhật Bản và các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyên nhân của tình trạng trên một phần do nền kinh tế suy yếu, thu nhập của các hộ gia đình người Nhật giảm nhưng một nguyên nhân chính dẫn đến xu hướng này tại Nhật Bản là do người Nhật đang thay đổi sở thích tiêu dùng của họ từ ăn thuỷ sản sang ăn thịt. Tuy nhiên tiêu thụ thuỷ sản ở Nhật chỉ giảm đối với một số loại chứ không phải với tất cả. Nếu xét theo nhóm sản phẩm nhập khẩu chính, nhóm các sản phẩm tươi, ướp đá hoặc đông lạnh được xếp hàng cao nhất cả về khối lượng và giá trị; sau đó là nhóm các sản phẩm chế biến hoặc bảo quản đứng thứ hai và nhóm các sản phẩm tươi sống đứng thứ ba. Sau cùng là nhóm các sản phảm muối khô và xông khói. Nhóm mặt hàng tươi ướp đá hoặc đông lạnh nhập khẩu vào Nhật Bản bao gồm các nhóm sản phẩm chính là tôm, cá ngừ, cá hồi, cua, nhuyễn thể đầu chân mực... Trong đó đứng đầu nhóm sản phẩm thuỷ sản tươi sống được nhập khẩu nhiều nhất là tôm, trong đó tôm đông lạnh chiếm tỷ trọng 80% (trong tôm đông lạnh tôm sú chiếm 30%), đạt 239.935 tấn, giá trị 228,96 tỷ yên (xấp xỉ 1,92 tỷ USD), chiếm 13,72 tổng giá trị nhập khẩu năm 2005. Đứng thứ hai về giá trị nhập khẩu thuỷ sản tươi ướp đá hoặc đông lạnh nhập khẩu vào Nhật Bản là cá ngừ với 12,99% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản. Năm 2005, nhập khẩu cá ngừ tươi, ướp đá đông lạnh cũng đạt 216,77 tỷ yên (1,8 tỷ USD). Trong mấy năm gần đây khối lượng nhập khẩu cũng dao động và không có xu hướng rõ rệt trong 3 năm (2003-2005). Trong tổng khối lượng nhập khẩu, nhiều nhất là cá ngừ vây vàng, tiếp theo là cá ngừ mắt to và vây dài. Cá Hồi là mặt hàng đứng thứ 3 về giá trị nhập khẩu sau tôm và cá ngừ, chiếm khoảng 6,49% tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản, đạt 108,35 tỷ yên năm 2005 (906,72 triệu USD), có xu hướng tăng về giá trị trong 3 năm gần đây, tăng 4,2% so với năm 2004. Cua là mặt hàng đứng thứ 4 về giá trị nhập khẩu, chiếm 4,12 % tổng giá trị nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản. Năm 2005, nhập khẩu cua tươi, ướp đá hoặc đông lạnh đạt 68,83 tỷ yên (576.012 triệu USD) giảm 14,7% so với năm 2004. Đứng thứ năm về giá trị nhập khẩu là nhuyễn thể chân đầu tươi, ướp đá và đông lạnh chiếm 3,67% tổng nhập khẩu của Nhật Bản, đạt giá trị 61,27 tỷ yên (512,277 triệu USD). Cũng giống như các nhóm mặt hàng trên khối lượng nhập khẩu nhuyễn thể của Nhật Bản có xu hướng giảm trong 3 năm 2003-2005 Nếu xét theo khối lượng nhập khẩu thì bột cá là mặt hàng có khối lượng nhập khẩu cao nhất trong tổng nhập khẩu thuỷ sản của Nhật Bản. Sau khi đạt đỉnh cao 594.325 tấn năm 1995, khối lượng bột cá nhập khẩu có chiều hướng giảm xuống, giảm mạnh vào năm 1998 xuống mức 329.792 tấn. Năm 2005, nhập khẩu bột cá của Nhật Bản đạt 372.639 tấn, giá trị 28,36 tỷ yên (237,35 triệu USD), giảm 6,5% khối lượng và 6,3% về giá trị so với năm 2004. Nhìn chung cả khối lượng và giá trị mặt hàng này đều lên xuống qua các năm theo xu hướng đồ thị hình sin. Ngoài các nhóm hàng thuỷ sản nhập khẩu nêu trên hàng năm Nhật Bản cũng nhập khẩu một lượng thuỷ sản đóng hộp không nhỏ. Hàng năm Nhật Bản nhập khẩu khoảng trên dưới 25 nghìn tấn thuỷ sản đóng hộp. Năm 2000 kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này đạt 13 tỷ yên, giảm 29% so với mức 18,3 tỷ yên năm 1997. Nguyên nhân của việc sụt giảm này là do nhập khẩu quá nhiều đồ hộp cá ngừ giá rẻ chủ yếu từ Thái Lan, Inđônêxia và một số nước khác. Nhật Bản nhập khẩu thuỷ sản từ 15 nước chính sau đây, trong đó Việt Nam là nước cung cấp đứng thứ 9 với thị phần chiếm 4,65%. Các nước xuất khẩu thuỷ sản chính cho thị trường Nhật Bản. Để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản các Doanh nghiệp xuất khẩu vào thị trường này cũng cần tìm hiểu rõ hệ thống phân phối thuỷ sản tại Nhật Bản trong đó ít nhất 70% sản phẩm thuỷ sản được phân phối thông qua thị trường bán buôn nhưng hầu hết thuỷ sản đông lạnh nhập khẩu như cá ngừ, tôm, cá hồi đông lạnh được phân phối theo các kênh chuyên biệt. Có hai loại chợ buôn thuỷ sản được điều chỉnh bằng luật thị trường bán buôn thuỷ sản gồm chợ bán buôn trung ương (chợ phục vụ cho trên 20 vạn dân, do Tổng cục thuỷ sản quản lý và Chợ bán buôn địa phương (do tỉnh thành phố quản lý). Ngoài ra Nhật Bản còn có chợ cá quy mô nhỏ nhưng không thuộc phạm vi điều chỉnh của luật thuỷ sản. 2 Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản. Hàng thuỷ sản là một trong ba sản phẩm truyền thống của Việt Nam (dầu thô, hàng dệt may, hàng thuỷ sản) xuất khẩu sang Nhật Bản. Đây là các mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam. Chỉ riêng ba mặt hàng này thường xuyên chiếm trên 60% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản. 2.1 Cơ cấu sản phẩm việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản Các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản thường được chế biến dưới dạng đông lạnh, ướp đông, tươi, tẩm ướp gia vị, và một số loại ở dạng đồ hộp. Trong số các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản, các mặt hàng tôm các loại, cá ngừ các dạng, nhuyễn thể đông lạnh luôn là ba mặt hàng chính chiếm tỷ trọng lớn (trên 75% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản). Tỷ trọng của từng nhóm mặt hàng này qua từng năm chỉ tăng giảm nhỏ, dao động từ 1-2%. Có thể nói, cơ cấu xuất khẩu của các nhóm mặt hàng này là ổn định trong tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản. Đây cũng là những mặt hàng mà Việt Nam có tiềm năng xuất khẩu mạnh nhất. Trong đó, nhóm mặt hàng tôm chiếm tỷ trọng cao nhất với tỷ trọng trên 60%. Cỏc mặt hàng TS của VN xuất khẩu sang Nhật Bản, 1997-2005 Đơn vị: 1000 USD 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 Tụm ĐL 221.390 215.261 240.133 291.035 289.606 345.394 388.541 521.427 517.831 Cỏ ĐL (trừ cỏ ngừ) 35.083 24.610 19.868 26.348 25.330 33.575 43.288 50.527 53.621 Mực ĐL 45.786 45.350 39.453 41.958 46.368 46.438 35.534 46.173 50.573 Bạch tuộc ĐL 22.246 12.151 15.996 12.046 14.667 18.228 20.421 29.295 27.247 Mực khụ 21.922 17.121 14.997 15.369 13.198 17.326 10.766 20.255 17.225 Cỏ khụ 3.993 3.304 2.415 2.537 2.304 3.526 1.609 4.315 7.537 Ruốc khụ 2.684 3.253 2.853 2.893 2.520 2.389 2.005 2.582 1.865 Cỏ ngừ ĐL 2.614 8.345 9.685 11.700 21.258 21.737 10.778 8.630 13.027 Mặt hàng khỏc 27.058 28.142 37.673 65.587 50.650 48.846 69.896 88.991 111.842 Tổng cộng 382.776 357.537 383.073 469.473 465.901 537.459 582.838 772.195 785.876 Nguồn : Trung tõm Tin học - Bộ Thuỷ sản Tôm xuất khẩu của Việt Nam là mặt hàng rất được ưa chuộng tại thị trường Nhật chiếm 67,% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản. Trong mấy năm gần đây (2001-2004), nhập khẩu tôm của Nhật Bản từ Việt Nam có xu hướng tăng. Năm 2004, nhập khẩu tôm đông lạnh của Nhật Bản từ Việt Nam đạt khối lượng 62.451 tấn, giá trị trên 521,42 triệu USD, tăng 22% về khối lượng, 34,2% về giá trị so với năm 2003 và tăng 26,9% về khối lượng, 50,9% về giá trị so với năm 2002. Nhưng năm 2005 đạt 61.963 tấn, giá trị 517,83 triệu USD, giảm nhẹ khoảng 0,8% về khối lượng và 0,7% về giá trị so với năm 2004. Tuy nhiên trong những năm qua tôm xuất khẩu của Việt Nam chỉ đứng ở vị trí thứ tư và phải cạnh tranh với hàng thuỷ sản có nguồn gốc từ ấn độ, Inđônêxia, Thái Lan. Công nghệ chế biến thuỷ sản của các nước này phát triển hơn nhiều so với Việt Nam, đặc biệt là Thái Lan với hệ thống quản lý chất lượng khắt khe nên chất lượng xuất khẩu và giá xuất khẩu thuỷ sản của Thái Lan thường rất cao. Cá ngừ là mặt hàng lớn thứ 2 trong tổng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật Bản. Năm 2004, cá ngừ của Việt Nam sang thị trường này chiếm 19% tổng giá trị xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam, đạt giá trị 13,02 triệu USD, đứng thứ sau Mỹ (37%) trong danh sách thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam. Xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản chỉ chiếm được một lượng nhỏ trong tổng cá ngừ nhập khẩu của thịt trường Nhật Bản (2.819,9 tấn), (trong đó chiếm 3,5% tổng nhập khẩu cá ngừ mắt to tươi của Nhật Bản và 4,8% tổng nhập khẩu cá ngừ vây vàng tươi của Nhật Bản.) Mặt hàng cá ngừ của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản luôn phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt. Ngoài ra, việc nhập khẩu cá ngừ còn chịu ảnh hưởng của các rào cản về vệ sinh an toàn thực phẩm, như quy định về hàm lượng thuỷ ngân trong cá ngừ nhập khẩu. Nhóm mặt hàng nhuyễn thể gồm: bạch tuộc, mực ống, mực nang. Trên thị trường Nhật Bản, bạch tuộc của Việt Nam phải cạnh tranh với bạch tuộc có nguồn gốc từ Tây Phi nơi có nguồn nguyên liệu dồi dào và giá xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản ngày càng giảm. Đối với sản phẩm mực nang hiện nay Việt Nam là nước đứng thứ hai về cung cấp mực nang cho Nhật Bản sau Thái Lan. Nhìn chung hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản thường có giá cả thấp hơn một số nước, chất lượng đã có thể cạnh tranh được song cần nâng cao khâu bảo quản sau khai 2.2 Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào Nhật Bản Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy trong vòng 10 năm từ năm 1997–2007, thuỷ sản Việt Nam đã có bước tiến dài trong việc thâm nhập thị trường Nhật Bản. Năm 1997 kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường này chỉ đạt 382.776.000 USD sau mười năm kim ngạch xuất khẩu đã tăng lên gần 2 lần (754.000.000 USD năm 2007). Kim ngạch thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản tăng dần đều từ năm 1997 đến năm 2004 và đạt mức cao nhất vào năm 2006 với 844.000.000 USD. Tuy nhiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản là biểu đồ tăng trưởng hình sin với một năm tăng và năm tiếp sau giảm về khối lượng kim ngạch xuất khẩu. Điều này chứng tỏ tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Nhật Bản vẫn còn thiếu ổn định và có nhiều điểm yếu tiềm ẩn. Năm 2006 Nhật Bản chính thức áp dụng Luật thực phẩm sửa đổi, trong đó có những quy định chặt chẽ hơn về dư lượng hoá chất, kháng sinh trong thực phẩm nhập khẩu. Chinh việc áp dụng luật này đã bộc lộ rõ những điểm yếu còn tồn tại của chất lượng sản phẩm thuỷ sản Việt Nam với việc hàng loạt các lô hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản bị phát hiện có chứa dư lượng thuốc kháng sinh. Trong năm này hàng loạt các lô hàng thuỷ sản của Việt Nam nhập khẩu vào Nhật Bản bị phát hiện nhiễm chất Chlorampheningcol và đặc biệt một số lô nhiễm AOZ. Bên phía Nhật Bản đã nhiều lần cảnh báo phía doanh nghiệp Việt Nam về vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng tình trạng trên vẫn còn tái diễn nhiều lần tại nhiều doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật Bản. Đến tháng 12 năm 2006, Nhật Bản chính thức áp dụng lệnh kiểm tra100% đối với các sản phẩm tôm tự nhiên (kể cả sơ chế) có xuất xứ từ Việt Nam. Như vậy, mặt hàng tôm của Việt Nam, không phân biệt tôm nuôi hay tôm tự nhiên đều bị Nhật áp dụng lệnh kiểm tra 100%. Lệnh kiểm tra này đã trực tiếp làm tăng chi phí xuất khẩu các sản phẩm tôm của Việt Nam và gián tiếp làm giảm kim ngạch xuất khẩu của thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản từ 844 triệu USD năm 2006 xuống còn 754 triệu USD năm 2007. Tuy nhiên những số liệu này cũng phản ánh rõ những yếu kém còn tồn tại trong ngành chế biến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đó là chất lượng vệ sinh an toàn còn thấp không đáp ứng được các yêu cầu khắt khe của thị trường Nhật Bản. 3. thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp khi xuất khẩu vào thị trường Nhật bản 3.1 Thuận lợi Việt Nam là nước có nhiều tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản với bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông, lạch, vùng đặc quyền kinh tế biển khoảng hơn 1 triệu km2 với 4000 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên nhiều eo, vùng, vịnh, đầm phá và nhiều ngư trường.Ngoài ra Việt Nam còn có thêm 1,4 triệu héc-ta diện tích đánh bắt nội đồng gồm sông ngòi, hồ đầm và ruộng cá có thể sử dụng để nuôi trồng thuỷ sản. 600.000 hec-ta tập trung ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. 80.000 hecta còn lại nằm ở vùng Đồng bằng Sông Hồng phía Bắc và vùng Duyên Hải. Theo số liệu của ngành thuỷ sản, trên hai phần Việt Nam có khoảng 2.000 loài cá biển trong có xấp xỉ 130 loại có giá trị thương mại. Lượng cá biển ước tính khoảng 4,2 triệu tấn và tổng tài nguyên có thể phục hồi ước tính khoảng 1,73 triệu tấn. Bên cạnh đó nhiệt độ các vùng biển của Viêt Nam tương đối ấm và ổn định quanh năm đã điều kiện lý tưởng cho sự sinh trưởng của các loài thuỷ sản. Thêm vào đó hệ thống sông ngòi, kênh rạch dày đặc cho phép nuôi tôm, cá và các loại thuỷ sản khác đã tạo cho ngành thuỷ sản Việt Nam có một nguồn nguyên liệu thuỷ sản dồi dào, đa dạng, tạo ra nhiều thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Bên cạnh nguồn tài nguyên dồi dào trong những năm gần đầyngành thuỷ sản Việt Nam cũng đã phát triển mạnh và đồng bộ. Tổng giá trị đánh bắt gia tăng ổn định trong 10 năm qua do năng suất và số lượng tàu thuyền đánh bắt tăng lên. Các nà nghiên cứu do Viện nghiên cứu thuỷ sản tiến hành ước tính trữ lượng xa bờ của cả nước là 1.93 triệu tấn trong đó 770.000 tấn có thể khai thác được. Điều này cho thấy phát triển đánh bắt xa bờ có một tiềm năng to lớn để gia tăng sản lượng đánh bắt. Tuy nhiên sản lượng từng đơn vị khai thác đã giảm xuống đáng kể và có xu hướng chuyển sang các loại cá nhỏ hơn. Tuy nhiên các chuyên gia hảI sản dự báo nguồn hải sản sẽ không vượt quá 1,5 – 1,6 triệu tấn/năm. Do đó ngành nuôi trồng thuỷ sản sẽ còn tiếp tục phát triển nữa. Một thuận lợi khác của ngành thuỷ sản Việt nam là ngành chế biến xuất khẩu phát triển rất nhanh. Hiện nay Việt Nam đã tiếp cận với trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến của khu vực và thế giới trong một số lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đảm bảo chất lượng và có tính cạnh tranh, tạo dựng được uy tín trên thị trường thế giới. Hiện nay cả nước có gần 500 nhà máy chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Chất lượng sản phẩm thuỷ sản không ngừng được nâng lên do các cơ sở chế biến ngày càng hiện đại, công nghiệp tiên tiến, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản của tư nhân phát triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trên dưới 100 triệu USD một năm. Nhật Bản là thị trường có truyền thống nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian qua. So với thị trường Mỹ và EU thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã thiết lập được mối quan hệ với nhiều bạn hàng Nhật Bản. Trong những năm qua, các doanh nghiệp xuất khẩu của ta sang thị trường Nhật Bản không ngừng đẩy mạnh nghiên cứu thị trường và tìm kiếm bạn hàng với phương châm: coi thị hiếu là yếu tố quan trọng hàng đầu, chủ động tiếp cận thị trường để nắm bắt sự thay đổi về nhu cầu, thị hiếu tiêu dùng, để sản xuất ra những sản phẩm đáp ứng được yêu cầu của thị trường. 3.2 khó khăn Một khó khăn lớn nhất hiện nay doanh nghiệpViệt Nam gặp phải khi xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nhật Bản đó là vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Năm 2006 và năm 2007 là hai năm mà vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm được các cấp các ngành quan tâm đặc biệt do số lượng các vụ hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản bị nhiễm dư lượng kháng sinh cấm tăng đột biến. Và hậu quả của tình trạng trên là việc Nhật Bản áp dụng quyết định kiểm tra 100% dư lượng chất chloramphenicol và chất AOZ đối với mặt hàng tôm (bao gồm cả tôm nuôi và tôm tự nhiên) và mực của Việt Nam xuất sang Nhật. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến uy tín hàng thuỷ sản Việt Nam, có thể ảnh hưởng xấu đến kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản và các thị trường khác. Mặc dù Việt Nam hiện nằm trong nhóm các quốc gia chế biến và xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới nhưng trong khi cả nước hiện có 470 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản thì có đến 154 doanh nghiệp tức gần 33% số doanh nghiệp không chịu nâng cấp cơ sở sản xuất vệ sinh kém, thiếu đội ngũ và thiết bị kiểm tra vệ sinh an toàn cho sản phẩm của nhà máy mình. Bên cạnh đó nguồn nguyên liệu đầu vào của ngành thuỷ sản không đảm bảo được chất lượng do trong nhiều năm qua nông dân và ngư dân nuôi trồng đánh bắt thuỷ sản của Việt Nam đã sử dụng nhiều các thuốc thú y và các loại hoá chất xử lý ao nuôi, hoá chất bảo quản thuỷ sản đánh bắt cũng như hoá chất trị bệnh cho tôm. Bên cạnh đó các thức ăn và các thuốc thú y sử dụng trong nuôi tôm cũng làm nhiễm chất AOZ vào các sản phẩm thủy sản và việc sử dụng Chloramphenicol trong việc bảo quản tại các cơ sở thu mua, sơ chế đã làm nhiễm chất này vào các lô hàng mực và tôm. Những nguyên nhân này đã đặt ra yêu cầu cấp bách cho các cấp các ngành có liên quan đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản và các doanh nghiệp đó là phải kiểm soát được chất lượng nguồn nguyên liệu đầu vào để chế biến sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu. Khó khăn thứ hai của thuỷ sản Việt Nam là sự mất cân đối cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Trong nhiều năm qua 90% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là dạng sản phẩm thuỷ sản tươi, ướp đông lạnh, (riêng giáp xác nhuyễn thể 80-85%). Sự mất cân đối về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu một mặt thể hiện lợi thế so sánh của mặt hàng thuỷ sản Việt Nam mặt khác lại thể hiện sự yếu kém của ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản nước nhà nhưng đây lại cũng là tiềm năng để Việt Nam đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian tới. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong thời gian tới sẽ có sự phù hợp tương đối với cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản thế giới: tăng hơn nữa tỉ trọng xuất khẩu đồ hộp thuỷ sản (phát trỉên các mặt hàng mới như đồ hộp cá ngừ hay tôm đồ hộp). Tăng tỷ trọng cá và tỷ trọng thuỷ sản sống trong cơ cấu hàng thuỷ sản tươi, ướp đông và đông lạnh và giảm tỷ trọng hàng đông lạnh sơ chế. Chuyển hướng cơ cấu sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vì hai lẽ cơ bản: khối lượng xuất khẩu tăng và giá xuất khẩu tăng, như vậy sẽ có khả năng tăng lớn kim ngạch xuất khẩu. Như vậy vào đầu thế kỷ 21 ngoài việc phấn đấu để nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu trong trong cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu (các dạng đồ hộp tôm, sasimi, cá ngừ), đưa tỷ lệ này lên 25-30% từ 12-13% như hiện nay, ngoài ra các doanh nghiệp cũng thể gia tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản bằng cách xuất khẩu các thuỷ sản cao cấp ở dạng sống. Khó khăn thứ ba là khả năng cạnh tranh của các mặt hàng thuỷ sản và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Nhật Bản vẫn còn thấp. Khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam xét trên các khía cạnh về giá cả, chất lượng, mẫu mã sản phẩm vẫn còn yếu. Giá thành các mặt hàng thuỷ sản Việt Nam còn cao do năng suất lao động, thiết bị công nghệ, chất lượng nguyên liệu đầu vào còn thấp làm giảm lợi nhuận của các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó chất lượng hàng thuỷ sản Việt nam vẫn thấp hơn so với hàng hoá của các nước khác trong khu vực như Trung Quốc, Hồng Kông, và ngay cả các nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Phillipines. Nguyên nhân của tình trạng này là do mặt bằng về khoa học công nghệ của Việt Nam còn thấp ảnh hưởng đến phương thức chế biến, chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Hiện nay công nghệ đánh bắt của Việt Nam còn lạc hậu so với thế giới đặc biệt là công nghệ chế biến ngay sau khi đánh bắt vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường Nhật Bản. Mặt khác người Nhật Bản lại tiêu dùng rất nhiều thuỷ sản sống, do đó công nghệ chế biến của Việt Nam cần được đầu tư nâng cấp để đáp ứng cho nhu cầu thị trường Nhật Bản nói riêng và nhu cầu của thế giới. Mẫu mã hàng của doanh nghiệp Việt Nam còn chưa thực sự bắt nhịp với thị trường. Bao bì hàng xuất khẩu trong thời gian qua đã làm mất đi tính cạnh tranh của một sản phẩm, đặc biệt không làm tăng được giá trị của sản phẩm xuất khẩu. Thêm vào đó năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu cả về năng lực thể chế và năng lực chuyên môn.. Hầu hết các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, trình độ công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý và chuyên môn hạn chế, năng lực kém, hiệu quả và sức cạnh tranh kém, chưa có chiến lược phát triển kinh doanh bền vững, dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Phần lớn các doanh nghiệp đang gặp khó khăn về vốn, mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về thị trường tiêu thụ sản phẩm.... nên hoạt động khó khăn ngay cả ở thị trường nội địa chứ chưa nói tới xuất khẩu. Khó khăn thứ tư của ngành chế biến thuỷ sản Việt Nam đó là thiếu nguồn nguyên liệu. Trong nhiều năm nguồn lợi thuỷ sản của Việt Nam đã bị khai thác cạn kiệt, chi phí đánh bắt tăng cao, hiệu quả khai thác giảm, thị trường đầu ra nguyên liệu khai thác có dấu hiệu chưa lành mạnh.. Do đó, dự báo trong nhiều năm sản lượng khai thác vẫn không tăng. Trong khi đó, năng lực bảo quản nguyên liệu khai thác còn kém, làm cho tỉ lệ nguyên liệu thất thoát sau thu hoạch cao, hoạt động dịch vụ ở các cảng cá chưa đáp ứng yêu cầu bảo đảm chất lượng và tổ chức thị trường nguyên liệu lành mạnh. Hoạt động nuôi trồng còn phân tán, nhỏ lẻ sản xuất chưa theo kế hoạch chung. Cở sở hạ tầng vùng nuôi đang trong giai đoạn quy hoạch đầu tư, nhiều vùng nuôi phát triển tự phát chưa đáp ứng các tiêu chuẩn về môi trường, quản lý vùng nuôi chưa được quan tâm đúng mức. Các khu quy hoạch đủ tiêu chuẩn còn phải mất nhiều năm nữa mới có khả năng đưa vào hoạt động ổn định. Với những khó khăn nêu trên vấn đề thiếu nguồn nguyên liệu trong chế biến thuỷ sản sẽ còn diễn ra trong nhiều năm tới và đòi hỏi có giải pháp đồng bộ để giải quyết tình trạng trên. Khó khăn thứ năm các doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật Bản gặp phải đó là khó tiếp cận với hệ thống kênh phân phối hàng hoá trên thị trường Nhật Bản. Thuỷ sản Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại Nhật Bản, các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp việc tiếp cận còn rất hạn chế và chưa có hệ thống. Nguyên nhân của tình trạng trên cũng một phần do hệ thống phân phối sản phẩm thuỷ sản ở Nhật phức tạp và việc lựa chọn nhà phân phối kỹ lưỡng của Nhật Bản. Những yếu tố này cũng tạo ra rào cản lớn đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam muốn xâm nhập thị trường này. Khó khăn thứ sáu doanh nghiệp gặp phải đó là hoạt động xúc tiến thương mại (đặc biệt là chính sách xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia) triển khai còn chậm và lúng túng, hiệu quả hoạt động của hiệp hội ngành hàng nhìn chung vẫn thấp. Hơn nữa, môi trường xã hội và các thể chế hỗ trợ xuất khẩu chậm được cải thiện và chưa đáp ứng được những thay đổi trong tình hình mới. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của Chính phủ (được hiểu là toàn bộ các biện pháp, chính sách có tác động trực tiếp hay gián tiếp khuyến khích xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ cho doanh nghiệp) có ý nghĩa quan trọng đối với việc đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước. Thời gian qua, Chính phủ đã thực hiện nhiều biện pháp chính sách khuyến khích xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật Bản. Tuy nhiên, công tác hỗ trợ, xúc tiến thương mại của Việt Nam chưa được tiến hành mạnh mẽ và hiệu quả. Các hoạt động cung cấp thông tin, trợ giúp các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm tại thị trường Nhật Bản, các hoạt động tư vấn, hỗ trợ các đoàn doanh nghiệp Việt Nam khảo sát thị trường Nhật Bản và ngược lại là sự đón tiếp các doanh nghiệp Nhật bản đến Việt Nam...chưa đáp ứng được so với yêu cầu của các doanh nghiệp. Các hoạt động quảng bá thương hiệu Việt Nam của Chính phủ và của bản thân các doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Khó khăn thứ bảy là công tác nghiên cứu thị trường Nhật Bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô còn yếu và chưa đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xuất khẩu sang Nhật Bản. Thị trường của Nhật Bản đòi hỏi rất khắt khe về nhiều mặt như chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, thủ tục xuất khẩu, hình thức xuất khẩu. Những vấn đề này quá phức tạp và thường tạo ra những cản trở đối với các doanh nghiệp trong quá trình tìm hiểu và tiếp cận với thị trường Nhật Bản. Mặt khác, nhà nước lại chưa có những biện pháp hỗ trợ thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa vả nhỏ trong quá trình tìm hiểu thông tin thị trương. Điều này đã làm hạn chế khả năng cạnh tranh tiếp cận, chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là tự tìm hiểu về thị trường nên dẫn đến thường phiến diện và không hiệu quả. Khó khăn thứ tám doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản là hiện nay Việt Nam và Nhật Bản chưa ký hiệp định thương mại song phương. Hai nước mới chỉ dừng lại ở mức trao đổi công hàm và thoả thuận cho nhau hưởng quy chế MFN về thuế suất. Trong khi đó Nhật Bản lại chủ động thúc đẩy đàm phán và ký kết FTA với các nước, đặc biệt là với một loạt các nước ASEAN khác như Thái Lan, Indonexia, Phillipines. Trong điều kiện như vậy, hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ ở vào thế bất lợi so với hàng hoá của các nước có FTA với Nhật. Hơn nữa, giữa ta và Nhật cũng chưa đạt được thoả thuận về kiểm dịch hàng nông sản và thuỷ sản, nên vẫn có nguy cơ phía Nhật bản sẽ dựng lên các rào cản kỹ thuật mới để hạn chế nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam. Khó khăn cuối cùng đặt ra không chỉ cho doanh nghiệp mà còn là khó khăn đối với ngành khai thác chế biến thuỷ sản và Việt Nam nói chung đó chính là tình trạng khai thác thuỷ sản không mang tính bền vững. Tình trạng phát triển tự phát nuôi trồng ở một số nơi do qui hoạch tổng thể phát triển ngành chưa được phê duyệt, qui hoạch cụ thể vùng nuôi ở một số địa phương chưa được xây dựng đã dẫn đến những tổn thất lớn trong nuôi trồng thuỷ sản và tàn phá môi trường sinh thái. Không những vậy sự phát triển nhanh chóng của ngành thuỷ sản đã và đang đặt ra những vấn đề môi trường bức xúc trước mắt và lâu dài như suy thoái rừng ngập mặn, mất cân bằng sinh thái, nguy cơ ô nhiễm môi trường và sự phát triển của dịch bệnh. Việc nuôi trồng khai thác thuỷ sản không có quy hoạch cụ thể đã làm suy giảm diện tích rừng ngập mặn từ 252.500 ha năm 1993 xuống còn 110.00 ha năm 2000. Như vậy trong các thập kỷ 80 và 90 Việt Nam bị mất 142.500 ha rừng ngập mặn. Diện tích rừng bị mất trong thời kỳ này bị quy kết chủ yếu do phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Ngoài diện tích rừng bị suy giảm một cách nghiêm trọng việc nuôi trồng thuỷ sản đặc biệt nuôi trồng tôm sử dụng các hoá chất, chất diệp tạp đã phá huỷ môi trường sống của các loài khác. Các hiện tượng như ô nhiễm môi trường đã xuất hiện trên nhiều khu đầm phá nuôi thâm canh vì người nuôi ngày càng sử dụng nhiều thức ăn, chế phẩm, thuốc và hoá chất. Những hậu quả của việc khai thác nuôi trồng thuỷ sản thiếu bền vững trong nhiều năm qua đòi hỏi phải có các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn của các cấp các ngành cũng như sự phối kết hợp của các doanh nghiệp với địa phương và người nuôi khai thác thuỷ sản để đảm bảo tương lai lâu dài cho ngành chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam. dự báo Theo dự báo của các nhà nghiên cứu trong thời gian tới nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản sẽ ngày một cao hơn và nuôi trồng thuỷ sản sẽ là nguồn cung cấp chính để đáp ứng nhu cầu này. Theo dự báo của Trung tâm thuỷ sản thế giới, đến năm 2020, các nước đang phát triển sẽ chiếm tới 77% tổng tiêu thụ thuỷ sản toàn cầu và 79% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới. Như vậy là từ năm 1997 đến năm 2020, tiêu thụ thuỷ sản ở các nước đang phát triển sẽ tăng từ 62.7 triệu tấn lên 98,6 triệu tấn (57%), trong khi các nước phát triển sẽ chỉ tăng 4%, từ 28,1 triệu tấn lên 29.2 triệu tấn. Dự báo đến năm 2015 nhu cầu sẽ đạt 180 triệu tấn tăng gấp 1.4 lần so với 130 triệu tấn vào những năm 1999-2001. Giá thuỷ sản dự báo sẽ tăng 3% vào năm 2010 và 3.2% vào năm 2015. Dự báo thương mại thuỷ sản thương mai thế giới giai đoạn 2006 – 2010 sẽ tăng khoảng 2.5%/ năm. Hàng đông lạnh có xu hướng giảm dần nhưng vẫn đóng vai trò chủ đạo, các mặt hàng tươi sống ngày càng được chú ý tới. Thuỷ sản đóng hộp, thuỷ sản ăn liền cũng giảm nhẹ. Trong số các mặt hàng thuỷ sản, các mặt hàng cá hồi, cá ngừ, cá biển, tôm vẫn đóng vai trò chính. Dự báo trong giai đoạn 5 năm tới, 3 nhóm hàng này sẽ tăng ở mức 3,8%. Tôm cũng sẽ tăng nhưng chỉ ở mức 2,5% trong giai đoạn này và thấp hơn nữa ở giai đoạn sau. Cá rô phi sẽ có nhiều cơ hội để mở rộng thị trường nhờ giá bán ổn định, thịt cá rô phi có hương vị nhẹ, có thể chế biến theo nhiều khẩu vị khác nhau và được đại đa số người tiêu dùng chấp nhận được. Đối với thị trường Nhật Bản, Bộ Nông Lâm Ngư nghiệp Nhật Bản dự báo trong những năm tới nhu cầu của Nhật sẽ giảm. Đối với Nhật Bản, nguồn cung cấp thuỷ bình quân đầu người và tiêu thụ hàng ngày có thể giảm vi người Nhật Bản có xu hướng tránh các món ăn thuỷ sản. Nếu xu hướng hiện nay vẫn tiếp tục thì lượng tiêu thụ thuỷ sản tính theo đầu người của Nhật vào năm 2010 sẽ giảm xuống bằng mức năm 1995. Dự báo, ngành thuỷ sản Việt Nam sẽ đạt được kế hoặc của Bộ Thuỷ sản với mức tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản 49,8%, trung bình tăng 10,63%/năm trong giai đoạn 2006- 2010 do các nhà quản lý và sản xuất đã nhận thức được nhu cầu cấp thiết phải phát triển vững để tiến hội nhập, đáp ứng các yêu cầu của xu hướng thương mại hoá toàn cầu. Trong những năm tới thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sẽ có mặt ở gần 100 thị trường nhưng vẫn tập trung vào trên 20 thị trường chính. Dự báo nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam cũng sẽ tăng do nhu cầu tiêu dùng trong nước đồng thời để phục vụ chế biến xuất khẩu, dự báo, nhập khẩu thuỷ sản của Việt Nam sẽ tăng từ 8 – 10% mỗi năm trong giai đoạn 2005 – 2010, phần lớn nhập từ các nước châu á. Tổng giá trị nhập khẩu sẽ vào khoảng 190 triệu USD Cơ cấu hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam vẫn tiếp tục chuyển dịch theo chiều hướng tiếp tục gia tăng tỷ trọng của sản phẩm chế biến, chế tạo và các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, giảm tỷ trọng hàng thô (ướp đông, đông lạnh, hàng khô). Theo kế hoạch của Bộ Thuỷ Sản, tới năm 2010, Việt nam sẽ phát triển các nhóm sản phẩm chính như tôm sú (Xuất khẩu khoảng 160.000 tấn), tôm chân trắng (25.000 tấn), tôm hùm, tôm càng xanh, Cá tra – Ba sa, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cá biển nuôi, cá rô phi. Tuy nhiên muốn đạt được kế hoạch xuất khẩu thuỷ sản cần chú trọng hơn nữa tới việc phải phát triển nuôi các mặt hàng thuỷ sản đáp ứng các yêu cầu của từng loại thị trường trên thế giới. Ngoài ra, hướng đầu tư sẽ mở rộng hơn tới khu vực nuôi các loài phù hợp với môi trường sinh thái như trồng rong biển, động vật thân mềm, cá lồng biển xa bờ và nuôi kết hợp với nhiều đối tượng. Riêng đối với thị trường Nhật Bản dự báo tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tăng bình hàng năm sẽ đạt mức 8.5 –9%, với kim ngạch xuất khẩu đạt 1 – 1,2 tỷ USD năm 2010. Chương III Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản trong thời gian tới I những giảI pháp về phía doanh nghiệp Để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nhật Bản theo em điều đầu tiên các doanh nghiệp Việt Nam cần làm đó là nâng cao chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng áp dụng quản lý chất lượng theo HACCP, GMP, SSOP và các tiêu chuẩn về an toàn vệ sinh thực phẩm khác. Có đáp ứng được những đòi hỏi về chất lượng thì sản phẩm mới có khả năng xuất khẩu sang Nhật Bản. Nâng cấp chất lượng nguyên liệu, giảm giá đầu vào bằng cách trang bị hệ thống bảo quản ngay trên tàu, xây dựng hệ thống chợ cá tại các cảng cá của các tỉnh trọng điểm, các trung tâm công nghiệp chế biến và tiêu thụ... Cần đặc biệt quan tâm tới việc nuôi trồng thuỷ sản tạo nguồn nguyên liệu chính cho chế biến vì những sản phẩm nuôi trồng thường cho chất lượng tốt và số lượng đồng đều hơn sản phẩm đánh bắt, việc bảo quản trước khi chế biến cũng thuận tiện hơn và giảm bớt rủi ro do vi sinh vật gây nên. Tăng cường đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá công nghệ chế biến và bảo quản thuỷ sản để đảm bảo chất lượng thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật. Các doanh nghiệp cần theo sát thị trường công nghệ để hiện đại hoá công nghệ chế biến, bảo quản thuỷ sản. Thứ hai là các doanh nghiệp cần đa dạng hoá sản phẩm chú trọng đa dạng hoá và nâng cao giá trị sản phẩm, không ngừng cải tiến và nâng cấp các mặt hàng truyền thống, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm mới có giá trị và chất lượng cao xuất khẩu sang Nhật. Phát triển mạnh xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản tươi, sống, cá đông lạnh, đồ hộp, các mặt hàng giá trị gia tăng, các sản phẩm ăn liền đóng gói nhỏ. Phát triển xuất khẩu các sản phẩm từ cá và các đặc sản nước ngọt, phát triển sản xuất và xuất khẩu cá cảnh, các chế phẩm sinh học... việc nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu như đồ hộp thuỷ sản hay thuỷ sản ăn liền trong tổng hàng xuất khẩu thuỷ sản, cũng như việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới để tăng năng xuất khẩu các thuỷ sản sống có giá trị cao. Còn dạng sản phẩm sơ chế khó có thể nói tăng giá trừ khi cung cấp không đáp ứng được nhu cầu. Tất nhiên, việc nghiên cứu để đưa ra một chính sách giá hợp lý góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là một công việc khó khăn cần phải được đầu tư thích đáng Thứ ba là doanh nghiệp cần nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam. Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm thể hiện rõ nhất ở chất lượng sản phẩm. Các doanh nghiệp cần có chính sách và biện pháp cải tiến chất lượng để đáp ứng cho thị trường Nhật vốn có đòi hỏi khắt khe về tiêu chuẩn chất lượng. Đôi khi những tiêu chuẩn này quá cao nếu muốn đáp ứng thường phải tốn kém. Tuy nhiên, nêu các doanh nghiệp Việt Nam đảm bảo chất lượng và nhận trách nhiệm về độ an toàn của hàng hoá đối với người tiêu dùng sẽ có nhiều cơ hội thành công tại thị trường Nhật. Các sản phẩm xuất vào thị trường Nhật cần thích ứng với thị trường, trong đó các sản phẩm xuất khẩu phải đáp ứng các tiêu chuẩn của Nhật Bản và có sự điều chỉnh, thích ứng nhanh khi những tiêu chuẩn Nhật Bản được cập nhật. Sản phẩm cần đảm bảo các quy định của Nhật Bản về an toàn, đảm bảo sức khoẻ và tạo sự thoải mái, bảo vệ môi trường trong quá trình sản xuất. Nếu sản phẩm của doanh nghiệp không phù hợp với thị trường Nhật Bản thì cần cải tiến ngay cho phù hợp. Ngoài việc nâng cao chất lượng sản phẩm doanh nghiệp cũng cần tạo nét riêng cho sản phẩm của mình thông qua cải tiến mẫu mã sản phẩm, cải tiến chất lượng hoặc có những cải tiến khác biệt về khẩu vị so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường này. Để sản phẩm có tính độc đáo cần phải đầu tư cho các khẩu quảng cáo, tiếp thị, trình độ công nghệ, nghiên cứu và phát triển. Cần phải đưa sự sáng tạo vào sản phẩm của mình nhằm tạo ra sự khác biệt và làm cho khách hàng quan tâm đến sự khác biệt đó Bên cạnh việc nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm các doanh nghiệp cũng cần nâng cao sức cạnh tranh của chính doanh nghiệp bằng những chiến lược kinh doanh và hệ thống quản lý phù hợp với yêu cầu của hoạt động xuất khẩu thuỷ sản vào Nhật Bản. Các doanh nghiệp cần phải có chiến lược lâu dài để thâm nhập thị trường Nhật Bản với tầm nhìn sâu rộng thông qua nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng và đầy đủ. Thứ nhất, tất cả các quá trình, thủ tục cũng như hoạt động kinh doanh tại thị trường Nhật Bản thường mất nhiều thời gian hơn tại các nước khác. Thứ hai, việc tìm kiếm lợi nhuận nhanh chóng tại thị trường Nhật Bản là điều không thích hợp nên cần phải kiên trì và có tầm nhìn lâu dài trên thị trường này. Ngoài việc xây dựng chiến lược xuất khẩu dài hạn vào Nhật Bản các doanh nghiệp cũng phải nỗ lực xây dựng năng lực quản lý và kinh doanh cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và sự hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam để năng cao sức cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp trên thị trường Nhật Bản. Doanh nghiệp cần phải tự chủ và có chính sách đảm bảo đủ vốn cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên tiến trong sản xuất, chế biến xuất khẩu và chú trọng phát triển nguồn nhân lực xuất khẩu thích ứng với điều kiện kinh doanh mới cả ở thị trường trong nước và trên thị trường Nhật Bản. Chú trọng xây dựng thương hiệu, uy tín, xây dựng văn hoá kinh doanh của doanh nghiệp để phát triển hoạt động xuất khẩu với các đối tác Nhật Bản... Mỗi doanh nghiệp phải xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình. Xây dựng được thương hiệu nổi tiếng góp phần tạo dựng uy tín doanh nghiệp, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam. Tiếp đến là các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý đến đào tạo nguồn nhân lực chế biến thuỷ sản. Công nhân cần được đào tạo phù hợp với trình độ công nghệ, nắm vững và sử dụng tốt máy móc thiết bị của nhà máy, có kiến thức và hiểu biết về an toàn vệ sinh thực phẩm từ khâu sản xuất, thu mua, vận chuyển cho đến bảo quản và chế biến... Mỗi doanh nghiệp cần thành lập hoặc củng cố bộ phận tổ chức nhân sự đủ mạnh nghĩa là lựa chọn người đủ đức, tài và ưu tiên đãi ngộ cao cho công tác tổ chức nhân sự. Công tác quy hoạch đề bạt cán bộ và đánh giá phân loại cán bộ phải được làm công khai, dân chủ, thường xuyên trên cơ sở xây dựng các tiêu chuẩn cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn chặt với mục tiêu chiến lược kinh doanh - cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể kết hợp đa dạng các hình thức đào tạo: đào tạo tại chỗ, đào tạo dài hạn, đào tạo ngắn hạn theo hình thức chính quy, tại chức, tập trung, không tập trung, đào tạo từ xa, đào tạo lại ... Bên cạnh đó công tác thông tin thị trường cũng phải được tăng cường và đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng hơn nữa thị phần xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Nhật. Cụ thể, cần có sự phối hợp chặt chẽ và tổ chức dòng thông tin về thị trường Nhật Bản tới các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam thông qua các mắt xích chính trong hệ thống này là Bộ Thương mại, Thương vụ Việt Nam tại Nhật, vụ Châu á Thái Bình Dương, Bộ Thuỷ sản, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản (VASEP). Về phía nhà nước cần hỗ trợ tăng cường năng lực của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và các tổ chức hiệp hội ngành hàng khác của ngành thuỷ sản để các tổ chức này phát huy tối đa vai trò và chức năng của tổ chức trong việc hỗ trợ doanh nghiệp và tiến hành xúc tiến thương mại... ii. kiến nghị với nhà nước đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản vào nhật bản Kiến nghị thứ nhất là Nhà Nước cần có các biện pháp nâng cao chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm trong chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Sau khi hàng thuỷ sản Việt Nam bị Nhật Bản áp dụng lệnh kiểm tra 100% các mặt hàng chế biến từ tôm và mực, Bộ thuỷ sản Việt Nam đã đưa ra những biện pháp kịp thời để chấn chỉnh lại vệ sinh an toàn thực phẩm như ngày 14/12/2006 Bộ Thuỷ Sản đã ra quyết định số 1052/QĐ-BTS về việc tăng cường kiểm tra hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Nhật Bản. Theo đó 100% các lô hàng tôm, mực của các doanh nghiệp đã được chưa được công nhận đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm và các doanh nghiệp đã đạt chỉ tiêu trên nhưng bị phát hiện có nhiễm dư lượng kháng sinh bị cấm sẽ phải tiến hành kiểm tra dư lượng các hoá chất, kháng sinh cấm trong hàng thuỷ sản xuất khẩu vào Nhật Bản (trừ sản phẩm sống). Song song với đó Bộ Thuỷ Sản cũng đề nghị tạm ngừng cấp phép xuất khẩu với doanh nghiệp có nhiều lô hàng liên tiếp bị phát hiện nhiễm kháng sinh tại thị trường này trong vòng 1-6 tháng. Theo ý kiến của em bên cạnh những biện pháp trên Bộ Thuỷ Sản cũng cần tăng cường kiểm tra các lô hàng do những doanh nghiệp thương mại (không có nhà máy chế biến) đứng tên xuất khẩu để xác định trách nhiệm của những cơ sở trực tiếp chế biến và cung ứng các lô hàng đó. Ngoài ra cần tiến hành kiểm tra nghiêm ngặt đối với chủ tàu, người nuôi, đại lý thu mua, đại lý bán hoá chất, thuốc thú y, các cơ sở chế biến thức ăn. Kiên quyết xử lý các cá nhân và cơ sở cố tình sử dụng kháng sinh bị cấm, thu hồi giấy phép ngành nghề cấp cho các cơ sở không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Bên cạnh đó Bộ thuỷ sản cần có các chính sách nâng cao nhận thức cộng đồng về nâng cao vệ sinh an toàn thực phẩm. Trước tiên các doanh nghiệp chế biến phải tự chịu trách nhiệm và tự kiểm tra sản phẩm của họ từ khi nuôi trồng đến khi đưa vào nhà máy chế biến. Đồng thời, Bộ thuỷ sán nên có chính sách giúp từng người nuôi trồng những kinh nghiệm và kỹ thuật để họ có thể thực hiện những mô hình nuôi trồng an toàn, bền vững, đặc biệt là việc nhân rộngcác mô hình nuôi trồng an toàn bền vững đặc biệt là nhân rộng các mô hình “thuỷ sản sạch” đã được triển khai thí điểm ở những doanh nghiệp có uy tín trong thời gian qua. Đặc biệt Bộ Thuỷ sản cần có chủ trương tổ chức người nuôi trồng lại thành các hội, hợp tác xã để triển khai việc học tập và nâng cao ý thức an toàn vệ sinh và chất lượng trong nuôi trồng thuỷ sản được thuận lợi, dễ dàng hơn. Bởi vì nếu để tình trạng làm ăn tự phát manh mún như hiện nay sẽ rất khó kiểm soát. Song song với việc đẩy nhanh việc hoàn thiện những quy chuẩn, tiêu chuẩn cụ thể về chất lượng an toàn vệ sinh thuỷ sản để có những cơ sở cho việc quản lý, kiểm soát và xử phạt những trường hợp sai phạm. Thứ hai Nhà Nước cần có biện pháp đề giải quyết vấn đề thiếu nguyên liệu trong chế biến thuỷ sản. Để giải quyết vấn đề này theo em Nhà Nước cần áp dụng một loạt các giải pháp đồng bộ sau. Trên lĩnh vực khai thác, Nhà Nước cần chú trọng nhiều hơn vào đầu tư công nghệ bảo quản, giảm thiểu tối đa thất thoát nguyên liệu sau thu hoạch. như nâng cao công nghệ chế biến trong sản xuất chế biến thuỷ sản như nghiên cứu, chọn lựa để nhập khẩu những công nghệ đánh bắt, nuôi trồng và chế biến tiên tiến phù hợp với điều kiện thực tế về nguồn nhân lực và điều kiện tài nguyên thuỷ sản nước nhà. Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng và cải tiến công nghệ đánh bắt, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch, chế biến, bảo quản... Khuyến khích phát triển, hỗ trợ chuyên sâu các ngành nghề khai thác chọn lọc, khai thác các đối tượng có giá trị kinh tế cao. Trên lĩnh vực nuôi trồng, cần tăng cường năng lực quản lý, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng các vùng nuôi tập trung hiện có để khôi phục lại tình hình sản xuất. Đặc biệt quan tâm điều tiết các vùng nuôi, sản xuất theo kế hoạch thống nhất về đối tượng, thời gian, quy trình kỹ thuật kiểm soát được số lượng, chất lượng trên cơ sở nhu cầu của các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu. Tiếp tục hoàn thiện mở rộng các vùng sản xuất thuỷ sản hàng hoá tập trung. Quy hoạch đầu tư mở rộng các vùng nuôi theo hướng dồn đIền đổi thửa để giảm chi phí đầu tư, rút ngắn thời gian thực hiện, đồng thời đảm bảo được các vấn đề kinh tế xã hội tại địa phương. Chú trọng đào tạo và phổ biến công nghệ, nâng cao trình độ dân trí và tay nghề cho ngư dân. Tiếp thu những kiến thức mới về khai thác hải sản, đào tạo đội ngũ cán bộ và ngư dân nhằm nhanh chóng thích ứng với công nghệ khai thác hiện đại... Trên lĩnh vực chế biến, cần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án quy hoạch khu công nghiệp chế biến thuỷ sản. Việc quy hoạch tập trung các doanh nghiệp chế biến cần xem xét tính toàn và có sự sàng lọc nhất định nhằm từng bước tạo ra khu vực chế biến công nghệ cao có khả năng tạo gia giá trị gia tăng lớn trên một đơn vị nguyên liệu, nhằm giảm áp lực về nhu cầu nguyên liệu như hiện nay. Ngoài ra Bộ Thuỷ Sản cũng cần tăng cường hợp tác về nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trên các lĩnh vực: sinh sản nhân tạo, di truyền, chọn giống, chuyển đổi giới tính một số loài giống quý, phòng ngừa dịch bệnh và quản lý môi trường. Triển khai hoạt động hợp tác quốc tế song phương và đa phương với phía Nhật Bản để tiến hành điều tra các nguồn lợi thuỷ sản, tiếp thu các công nghệ mới, phục vụ tốt cho công tác khai thác hải sản, đặc biệt là khai thác xa bờ. Thứ ba Nhà nước cần có quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản. Nhà nước cần rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản kết hợp với việc lập các dự án đầu tư cụ thể, gắn với quy hoạch phát triển thuỷ lợi và đê biển chung trên địa bàn, nâng cao hiệu quả đầu tư và sử dụng có hiệu quả đất đai mặt nước vào nuôi trồng thuỷ sản. Nhà Nước cần phải xây dựng quy hoạch hệ thống đê biển và phê duyệt các dự án đầu tư xây dựng đê biển có liên quan đến nuôi trồng thuỷ sản; đồng thời cần xây dựng các trại sản xuất giống tôm, cá cho nhu cầu nuôi của từng địa phương cụ thể chỉ có trên cơ sở như vậymới có thể đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến xuất khẩu thuỷ sản. Thêm vào đó quy hoạch tổng thể ngành thuỷ sản còn phải đảm bảo phát triển ngành thuỷ sản trong tương lai mang tính bến vững. Quy hoạch ngành thuỷ sản phải đảm bảo ngành thuỷ sản có mối quan hệ hữu cơ với nông nghiệp về sử dụng tài nguyên đất và nước sao cho hợp lý và nâng hiệu quả sản lượng tới mức khả năng cao nhất. Vì vậy cần có những quy định chặt chẽ để phát triển bền vững, đồng thời các sản phẩm của nuôi trồng thuỷ sản có mối quan hệ khăng khít với cộng đồng nên chúng phải được quản lý ở tất cả các khâu từ cấp Nhà nước tới địa phương và cộng đồng. Thứ tư Nhà Nước cần có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thâm nhập vào thị trường Nhật Bản. Nhà Nước cần có chinh sách hỗ trợ về mặt tài chính như xây dựng các thể chế tín dụng đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia xuất khẩu. Quỹ bảo lãnh doanh nghiệp vừa và nhỏ cần được sớm thành lập để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này được vay vốn của các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó thị trường tài chính cần được cải cách theo hướng dần dần mở cửa cho các nhà đầu tư nước ngoài để hình thành nên các trung gian tài chính mạnh thực thụ, có khả năng cung cấp tài chính và hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Tăng cường tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các thể chế tài chính, tín dụng với các doanh nghiệp để hình thành mối quan hệ hợp tác mới đảm bảo sự bình đẳng và các bên đều có lợi... Ngoài ra Nhà Nước cũng cần có chính sách hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp khi thâm nhập thị trường Nhật Bản như các cơ quan của Chính phủ có thể hỗ trợ thông tin cho doanh nghiệp như thông qua trang Web của Bộ Công Thương để giới thiệu về thị trường và các nhà nhập khẩu Nhật Bản đối với các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Bên cạnh đó Cục Xúc Tiến Thương Mai (VIETTRADE) cần phối hợp chặt chẽ với JETRO của Nhật Bản hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam thu thập và tìm kiếm các thông tin cần thiết về thị trường Nhật Bản, các nhà nhập khẩu Nhật Bản, các sản phẩm tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản, cần tăng cường vai trò hỗ trợ và giúp đỡ của Tham tán thương mại Việt Nam tại Nhật Bản đối với việc cung cấp thông tin có phí cho các doanh nghiệp theo yêu cầu của doanh nghiệp xuất khẩu sang thị trường này. Thêm vào đó Nhà nước cũng cần hỗ trợ về mặt nhân lực cho doanh nghiệp xuất khẩu vào Nhật Bản. Các cơ quan hữu quan của Nhà nước nên nghiên cứu và tập hợp nhu cầu về đào tạo tiếng Nhật cho kinh doanh với thị trường Nhật Bản trong phạm vi cả nước và tham vấn cho các cơ sở đào tạo về quy mô, nội dung và phương pháp đào tạo về kinh doanh với thị trường Nhật Bản. Nhà nước nên áp dụng các biện pháp khuyến khích và hỗ trợ các hoạt động đào tạo nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật cho các doanh nghiệp thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật Bản, nhà nước cũng có thể đàm phán với Chính phủ Nhật bản về một lượng ODA thích hợp cho việc phát triển lĩnh vực đào tạo nghề ở Việt Nam và gửi công nhân Việt Nam sang Nhật đào tạo nghề. Một khó khăn lớn doanh nghiệp Việt Nam gặp phải khi vào thị trường Nhật Bản đó là hiện nay Việt Nam và Nhật Bản vẫn chưa ký kết hiệp định thương mại song phương (FTA). Để giải quyết vấn đề này Nhà nước cũng cần chủ động có đối sách với phía Nhật Bản, nếu chưa đàm phán, ký kết được với Nhật Bản Hiệp định thương mại tự do (FTA) trong khi các nước khác trong khu vực đã thực hiện FTA với Nhật Bản thì cần tranh thủ đàm phán với phía Nhật Bản trong khuôn khổ đa phương như Hiệp định thương mại tự do ASEAN - Nhật Bản, diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC). Tích cực đàm phán, phát triển quan hệ kinh tế thương mại song phương và trong khuôn khổ đa phương với phía Nhật Bản để tạo điều kiện tiếp cận thị trường Nhật Bản rộng lớn và dễ dàng hơn cũng như để xác lập điều kiện cạnh tranh tốt cho hàng hoá và các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản. Cuối cùng Nhà Nước cần có các chinh sách hỗ trợ để đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại của Việt Nam. Theo em Nhà Nước cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động thông tin thương mại và xúc tiến xuất khẩu ở Việt Nam tiến hành thuận lợi vừa đảm bảo được sự quản lý thống nhất của Nhà nước đồng thời khuyến khích được các tổ chức dịch vụ thông tin và xúc tiến xuất khẩu phát triển đáp ứng tốt yêu cầu thông tin và xúc tiến xuất khẩu của mọi đối tượng. Bên cạnh đó Việt Nam cũng cần tranh thủ khai thác tối đa sự hỗ trợ và giúp đỡ của Sứ quán Nhật, JETRO Nhật, Trung tâm phát triển nguồn nhân lực và đại diện của các doanh nghiệp Nhật tại Việt Nam cho sự phát triển xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam sang thị trường Nhật Bản. Ngoài ra hàng năm Cục Xúc Tiến Thương Mại cần công bố danh mục các hội chợ thương mại hàng năm tổ chức tại Nhật Bản cho các doanh nghiệp, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp đăng ký tham gia và đề xuất mức hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ tại Nhật Bản. kết luận Trong nhiều năm qua Nhật Bản hiện là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu hàng hoá lớn thứ hai của Việt Nam. Việc duy trì và phát triển xuất khẩu hàng hoá sang Nhật Bản nằm trong chương trình xúc tiến xuất khẩu trọng điểm quốc gia nhằm thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ 2001-2010. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trong nhiều năm qua đã đạt được những thành công đáng kể trên thị trường này tuy nhiên cũng bộc lộ một số mặt hạn chế về vệ sinh an toàn thực phẩm, nguồn nguyên liệu, khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam trên thị trường Nhật còn thấp.. Và trong thời gian tới, cũng như các nước nông nghiệp khác, Việt Nam sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa các nước sản xuất và yêu cầu ngày càng cao ở các thị trường. Ngoài những biện pháp tăng giá trị xuất khẩu thuỷ sản như nâng cao kỹ thuật chế biến, đa dạng hoá các mặt hàng, mở rộng thị trường còn cần phải có những biện pháp quản lý chặt chẽ nguồn nguyên liệu thuỷ sản đảm bảo sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng được các yêu cầu của các thị trường tiêu thụ như an toàn vệ sinh thực phẩm, có chứng nhận xuất xứ, bảo vệ môi trường... Đồng thời không thể không chú trọng đến việc phát triển theo quy hoạch có tính đến các tác động kinh tế xã hội đối với các cộng đồng dân cư. Do trình độ lý luận cũng như khả năng nghiên cứu còn hạn chế nên luận văn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự đóng góp quý báu từ phía các thầy cô và các bạn để luận văn có thể hoàn chỉnh hơn. Qua lời kết em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ nhiệt tình cảu thầy hướng dẫn T.S Trần Thanh Toàn và em cũng gửi lời cám ơn chân thành tới các thầy cô trong khoa Thương mại đã tạo mọi điều kiện thuận lợi hỗ trợ giúp đỡ em trong quá trình hoàn thành luận văn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc20788.doc
Tài liệu liên quan