Luận văn Tìm hiểu việc xây dựng chương trình văn học Nga ở trường phổ thông theo tinh thần đổi mới giáo dục

MS: LVVH-PPDH013 SỐ TRANG: 130 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN HỌC TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2010 CẤU TRÚC LUẬN VĂNLỜI TRI ÂN DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 1.1. Vị trí, vai trò của văn học và văn học nước ngoài trong chương trình Ngữ văn ở trường phổ thông hiện nay 1.2. Thực trạng dạy học văn học nước ngoài ở trường phổ thông hiện nay 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3. Nhiệm vụ và mục đích nghiên cứu 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 7. Cấu trúc luận văn CHƯƠNG 1: XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG 1.1 . Cơ sở xây dựng chương trình văn học nước ngoài ở trường phổ thông hiện nay 1.2 Nguyên tắc xây dựng chương trình văn học nước ngoài ở trường phổ thông hiện nay 1.2.1. Nguyên tắc hệ thống 1.2.2. Nguyên tắc lựa chọn tác giả 1.2.3. Nguyên tắc lựa chọn tác phẩm 1.2.4 Nguyên tắc lựa chọn bản dịch 1.2.5. Nguyên tắc xác lập mối quan hệ giữa văn học dân tộc và văn học nước ngoài CHƯƠNG 2: CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC NGA Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY 2.1. Vị trí, vai trò của văn học Nga trong chương trình văn học nước ngoài ở trường phổ thông 2.2. Cấu trúc chương trình văn học Nga ở trường phổ thông hiện nay 2.2.1. Chương trình tiểu học (Theo chương trình cải cách áp dụng từ năm 1997 - 1998) 2.2.2. Chương trình trung học cơ sở (Theo chương trình cải cách áp dụng từ năm 2002 -2003) 2.2.3. Chương trình trung học phổ thông 2.3. Khảo sát chương trình Văn học Nga trong xu hướng đổi mới giáo dục phổ thông CHƯƠNG 3: THỬ NGHIỆM XÂY DỰNG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC NGA TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG THEO TINH THẦN ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC 3.1 Mục đích thử nghiệm 3.2 Yêu cầu thử nghiệm 3.3. Phác thảo cấu trúc chương trình 3.3.1. Chương trình trung học cơ sở 3.3.2. Chương trình trung học phổ thông 3.4. Phác thảo danh mục tác phẩm lựa chọn trong chương trình 3.4.1. Chương trình trung học cơ sở 3.4.2 . Trung học phổ thông 3.5. Điều tra, khảo sát 3.5.1. Mục đích khảo sát 3.5.2. Nội dung khảo sát 3.5.3. Đối tượng khảo sát 3.5.4. Thời gian và phương pháp khảo sát 3.6. Kết quả khảo sát 3.7. Kết luận KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1: PHIẾU ĐIỀU TRA PHỤ LỤC 2: A. VĂN BẢN: CUỘC PHIÊU LƯU KÌ LẠ CỦA KARIK VÀ VALIA (Trích) - IAN LARY B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 3 A. VĂN BẢN: NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN (Trích) - AIMATÔP B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 4 A. VĂN BẢN: LẴNG QUẢ THÔNG (Trích) - PAUXTÔPXKI B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 5 A. VĂN BẢN: CÁNH BUỒM ĐỎ THẮM (Trích) - A. GRIN B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 6 A. VĂN BẢN: CON ĐƯỜNG MÙA ĐÔNG - PUSKIN B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 7 A. VĂN BẢN: Đọc thêm: CÁNH BUỒM - LEPMÔNTÔP B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 8 A. VĂN BẢN: CON KỲ NHÔNG - SÊKHÔP B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 9 A. VĂN BẢN: Đọc thêm: ĐÊM - ÊXÊNIN B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 10 A. VĂN BẢN: SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM (Trích đoạn)– SÔLÔKHÔP B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 11 A. VĂN BẢN: Đọc thêm: CHIA TAY- AKHMATOVA B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI C. GỢI Ý TRẢ LỜI PHỤ LỤC 12: CHÂN DUNG CÁC TÁC GIẢ LỰA CHỌN TRONG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC NGA

pdf130 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tìm hiểu việc xây dựng chương trình văn học Nga ở trường phổ thông theo tinh thần đổi mới giáo dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ой совершит, И, докучных удаляя, Полночь нас не разлучит. Грустно, Нина: путь мой скучен, Дремля смолкнул мой ямщик, Колокольчик однозвучен, Отуманен лунный лик. Xuyên những làn sương gợn sóng Mảnh trăng mờ ảo chiếu qua Buồn dải ánh vàng lai láng Trên cánh đồng buồn giăng xa Trên con đường mùa đông vắng vẻ Cỗ xe tam mã băng đi Nhạc ngựa đều đều buồn tẻ Đều đều khắc khoải lòng quê Bài ca của người xà ích Có gì phảng phất thân yêu: Như niềm vui mừng khôn xiết Như nỗi buồn nặng đìu hiu Không một mái lều, ánh lửa... Tuyết trắng và rừng bao la... Chỉ những cột dài cây số Bên đường sừng sững chào ta Ôi, buồn đau, ôi cô lẻ... Trở về với em ngày mai Nhina, bên lò lửa đỏ Ngắm em, ngắm mãi không thôi Kim đồng hồ kêu tích tắc Xoay đủ những vòng nhịp nhàng Và xua lũ người tẻ ngắt Để ta bên nhau trong đêm Sầu lắm. Nhina, đường xa vắng Ngủ quên, bác xà ích lặng im Nhạc ngựa đều đều buông xa thẳm Sương mờ che lấp ánh trăng nghiêng (Thúy Toàn dịch) B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Cảm xúc của em sau khi đọc xong bài thơ này? 2. Em nhận xét như thế nào về nhịp điệu không gian và thời gian trong bài thơ? Tác dụng của nó trong việc diễn tả cảm xúc của nhân vật trữ tình? 3. Thiên nhiên có vai trò như thế nào trong việc diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình? Vẻ đẹp độc đáo của thiên nhiên được diễn tả như thế nào trong bài thơ? 4. Cảm xúc chủ đạo trong bài thơ là gì? Theo em, nguyên nhân nào dẫn đến cảm xúc đó? 5. Bài thơ mang âm hưởng của bài dân ca Nga với nhịp điệu buồn sâu lắng. Theo em, đó có phải là lí do để bài thơ tồn tại với thời gian? C. GỢI Ý TRẢ LỜI Câu 1: + Đó là bài thơ buồn mênh mang như chính bài ca của người xà ích trong đêm màu đông lạnh lẽo. + Cảm giác cô đơn như trải dài theo từng câu chữ gợi cảm giác về một con đường bất tận không có điểm dừng. Con người như hòa trong nỗi buồn ấy. + Tuy vậy, bài thơ vẫn gợi lên vẻ đẹp rất riêng của phong cảnh thiên nhiên Nga. Câu 2: + Không gian bao trùm bài thơ là con đường mùa đông trải dài, hun hút, mở ra chiều sâu của bức tranh phong cảnh mùa đông. Cảnh vật dần hiện ra theo bước chân chuyển động của không gian: mái lều, ánh lửa, rừng, cây cột số, tuyết... tạo cảm giác lạnh lẽo của thiên nhiên hoang sơ. + Làm nền cho bức tranh thiên đó là âm thanh và màu sắc hòa quyện vào nhau tạo cho không gian mùa đông thêm sinh động và cổ kính. Câu 3: + Thiên nhiên như thấm sâu vào lòng người, đưa con người đến với nỗi buồn một cách gần hơn. + Thiên nhiên cũng tạo nên những âm thanh rung động lòng người, khiến con người cảm nhận một niềm khao khát được đến với bến bờ của hạnh phúc, đến với ngọn lửa hồng trong đêm khuya lạnh lẽo. Câu 4: + Vị trí trung tâm của bài thơ là hình ảnh một con đường mùa đông lạnh lẽo trải dài, hun hút dưới ánh trăng bàng bạc, mở ra chiều sâu của bức tranh phong cảnh. + Con đường mùa đông không chỉ là bức tranh phong cảnh thuần túy mà còn là con đường tâm trạng. Cả bảy khổ thơ là bảy cung bậc tâm trạng khác nhau của nhân vật trữ tình. “Nỗi buồn mơ hồ, mong manh (khổ một); đều đều, buồn tẻ (khổ hai); nặng nề, hiu hắt (khổ ba); hoang vắng (khổ bốn); chồng chất (khổ năm); chán ngắt (khổ sáu) và đến khổ thứ bảy thì hóa “nỗi sầu” khôn nguôi (“Sầu lắm! Nhina đường xa vắng!”). +Con đường mùa đông là con đường lưu đày, là con đường li biệt. Người lữ hành - trong tâm tưởng - vẫn mang theo hình ảnh người con gái Nga yêu thương, vẫn hy vọng ngày mai trở về, sum họp trong mái ấm hạnh phúc. Cảm hứng đoàn tụ yêu thương và cảm hứng tự do tạo nên sắc điệu thẩm mĩ trong áng thơ chứa chan thi vị này. Câu 5: +Có thể nói, trong Con đường mùa đông, từ “buồn” xuất hiện với tần số cao. Có trăng buồn, cánh đồng buồn; có con đường mùa đông buồn tẻ và vắng lặng; có tâm hồn chán ngán, buồn… buồn quá, buồn cô đơn; có tiếng lục lạc đơn điệu buồn. Sự xuất hiện của những cột cây số, rừng sâu và tuyết… càng làm cho nỗi buồn thêm phần cô đơn và lạnh lẽo. Đó là nỗi buồn xuất phát từ ngoại cảnh và nỗi buồn đến từ nước Nga nghèo đói đang chìm đắm trong màn đêm của chế độ nông nô thời Sa hoàng. + Sự xuất hiện của bài dân ca Nga qua tiếng hát của xà ích và hình ảnh Nhina - cô gái Nga - cùng với ngọn lửa lò sưởi là những điểm tựa nâng đỡ tâm hồn người lữ khách trong đêm trăng mờ sương trên con đường mùa đông tuyết trắng. Đó chính là sự hiện diện của một cuộc sống thân thương, bình dị và vững chắc. Chất trữ tình nồng nàn, chất thi vị đậm đà của bài thơ được thể hiện một cách tài hoa qua cảnh sắc và âm thanh ấy. PHỤ LỤC 7 A. VĂN BẢN: Đọc thêm: CÁNH BUỒM - LEPMÔNTÔP ПАРУС Белеет парус одинокой В тумане моря голубом!.. Что ищет он в стране далекой? Что кинул он в краю родном?.. Играют волны - ветер свищет, И мачта гнется и скрыпит... Увы, - он счастия не ищет И не от счастия бежит! Под ним струя светлей лазури, Над ним луч солнца золотой... А он, мятежный, просит бури, Как будто в бурях есть покой! 1832 CÁNH BUỒM Thấp thoáng trắng cánh buồm đơn chiếc Trong mờ xanh sương sớm biển khơi!... Buồm bỏ lại gì nơi cố hương thân thiết? Kiếm tìm chi ở chốn xa xôi?... Sóng cuồn cuộn trào dâng, gió rít, Cột buồm cót két, ngả nghiêng... Ôi, hạnh phúc - nó không bỏ trốn, Cũng không tha thiết kiếm tìm! Dưới buồm luồng biếc trong như ngọc, Trên buồm tia nắng rực tựa vàng... Nhưng nó sục sôi đòi bão tố, Dường như trong bão có bình an. (Tạ Phương dịch) B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Cảm nhận của em về hình tượng cánh buồm xuất hiện trong bài thơ? Tiêu đề bài thơ có ý nghĩa như thế nào trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm? 2. Nhận xét về không gian nghệ thuật của bài thơ? Theo em, không gian nghệ thuật có tác dụng như thế nào trong việc miêu tả thế giới nội tâm nhân vật trữ tình? 3. Sự xuất hiện của hai câu hỏi trong khổ thơ đầu gợi cho em những suy nghĩ như thế nào về hình tượng cánh buồm? 4. Trong bài thơ xuất hiện rất nhiều lần hình ảnh của những sắc màu: trắng, xanh, vàng. Theo em, ý nghĩa của những lần xuất hiện ấy là gì? Em thử thay đổi những sắc màu ấy bằng những từ đồng nghĩa, ý nghĩa của bài thơ sẽ thay đổi như thế nào? 5. Khổ thơ thứ hai được miêu tả bằng những hình ảnh rất dữ dội. Theo em, mục đích của sự xuất hiện này là gì? Em nghĩ như thế nào về sự đối lập giữa hai câu thơ đầu và hai câu thơ cuối trong khổ thơ thứ hai này? 6. Khổ thơ thứ ba cũng là một sự đối lập. Tác dụng của sự đối lập ấy trong việc tạo dựng ý nghĩa và tư tưởng của bài thơ này là gì? 7. Mác nói "Hạnh phúc là đấu tranh", còn Lepmôntôp: Bình yên chỉ tìm thấy trong bão tố! Em có suy nghĩ như thế nào về vấn đề này? C. GỢI Ý TRẢ LỜI Câu 1: + Cánh buồm hiện dần ra trong không gian mờ ảo của sương sớm, từ xa đến gần với sự vật lộn cùng giông bão biển khơi để tìm đến sự bình yên gợi cho người đọc cảm giác về tình yêu, hạnh phúc trong cuộc đời mỗi người cũng phải đánh đổi bằng những cay đắng, gian khổ. + Tiêu đề bài thơ mang ý nghĩa tượng trưng cho nội dung tác phẩm. Câu 2: + Không gian được miêu tả từ xa đến gần, lúc đầu chỉ là hình ảnh mờ ảo của cánh buồm hiện ra trong không gian mờ xa của buổi sáng đầy sương và cuối cùng là không gian gần với sự vật lộn của cánh buồm trong bão giông. + Nghệ thuật miêu tả này gợi cho người đọc cảm giác đang từng bước chiếm lĩnh thế giới tâm hồn nhân vật trữ tình. Đằng sau sự chuyển tiếp không gian đó là vinh quang của cuộc đời mà không phải ai cũng đủ cam đảm để đến được với nó. Hạnh phúc không chọn những lối đi bằng phẳng và con người cần phải vượt qua nó để vươn đến tầm cao của niềm hạnh phúc. Đó là triết lí mà Lermôntôp gửi trong hình tượng không gian nghệ thuật của bài thơ. Câu 3: + Một cánh buồm đơn lẻ nơi cuối chân trời hiện dần ra trong không gian mờ ảo của buổi sáng đầy sương gợi cảm giác cô đơn, lặng lẽ, gợi cho người đọc cảm giác về cuộc ra đi không hẹn ngày trở về. Cuộc ra đi đó như đã định trước để rồi cánh buồm lao vào bão giông, bất chấp hiểm nguy, gian khổ mong tìm thấy đích của chính mình. + Hai câu hỏi tu từ như một sự ngỡ ngàng, không tin vào sự thật của nhân vật trữ tình, đồng thời gợi cảm giác van nài không nên ra đi của cánh buồm. Tuy nhiên, đằng sau hai câu hỏi tu từ đó, người đọc như nhận ra sự dứt khoát quay đầu, không ngoái nhìn lại của cánh buồm để tìm chí hướng cho bản thân. Câu 4: + Những sắc màu xuất hiện trong bài thơ với những mục đích khác nhau: - Màu trắng của cánh buồm mờ dần trong nền xanh mờ của buổi sáng làm nổi bật hình ảnh của cánh buồm cô đơn, lẻ loi trong không gian, sắc trắng của những cơn sóng cuồn cuồn trong bão giông đại diện cho những gian khổ của cuộc đời mà cánh buồn sẽ gặp phải trên con đường tìm kiếm của mình. - Màu xanh của sự bình yên. - Màu vàng của ánh nắng vàng rực rỡ xua tan đi màn sương mờ ảo của buổi sáng. Câu 5: + Sự xuất hiện của những hình ảnh dữ dội trong khổ thơ thứ hai như khẳng định rằng: trên con đường kiếm tìm của cánh buồm rất nhiều hiểm nguy: có bão tố, có cuồng phong của biển khơi. Những điều đó là vật cản trên con đường đi của cánh buồm đơn lẻ. Nó có thể quất ngã cánh buồm bất cứ lúc nào và trong mọi không gian. Đó là cách tăng thêm kịch tính cho sự kiếm tìm này. + Nếu hai câu 3- 4 đem lại cảm giác về sự hung dữ của biển khơi thì hai câu 5- 6 lại gợi sự bất cần. - Nhịp điệu của hai câu đầu gợi nên sự giận dữ, dữ dội, một sự oằn mình trước thực tại. Người đọc có cảm giác như đang chứng kiến sự vật lộn của cánh buồm với bão giông. - Hai câu cuối, nhịp thơ không gắt, dữ dội mà như chùng xuống, gợi sự bất cần, buông thả. Tuy vậy, hai câu thơ nhưng báo hiệu cho người đọc biết rằng: đó chỉ là cách nói, là cách đánh lừa thực tại để che dấu đi cảm giác cô đơn, cảm giác phải đối diện với sự thực. Thực chất, cánh buồm đang rất cần một chốn bình an, một bến bờ hạnh phúc. Và điều đó chỉ có thể có được khi cánh buồm đối diện với bão tố của cuộc đời. Đó là cách thử thách chính bản thân mình và cũng là cách rèn luyện bản thân để đến với hạnh phúc thực của mình. + Khổ thơ thứ hai này như đối lập hoàn toàn với khổ một. Sự đối lập cả về hình thức lẫn nội dung của khổ thơ thứ hai như báo trước sự không bình yên trong tâm hồn của nhân vật trữ tình và trong cả hành trình đi kiếm tìm của cánh buồm. Câu 6: + Khổ thơ thứ ba với hình ảnh đối lập của hai hình tượng: Dưới buồm >< Trên buồm Luồng biếc >< Tia nắng Trong như ngọc >< Rực tựa vàng - Sự đối lập không chỉ diễn ra ở câu mà còn trong từng từ của câu. Sự đối chỉnh giữa các từ trong hai câu thơ đầu của khổ thơ thứ ba gợi cho người đọc ấn tượng về một sự cân đối giữa bão tố cuộc đời với người đang đi trong nó - cánh buồm. - Đối lập với sự yên bình trên, cánh buồm lại đi tìm bão tố với sự “sục sôi”. Với cánh buồm, hạnh phúc không phải là sự kiếm tìm, sự rời xa mà hạnh phúc là sự bình yên trong chính sự bão giông. Đó là triết lí mà Lermôntôp muốn gửi đến người đọc thông qua hình tượng cánh buồm. Như vậy, hai câu cuối của khổ 2 trả lời cho 2 câu hỏi ở hai câu cuối khổ đầu. Còn 2 câu cuối bài là lời giải đáp cuối cùng, là một sự khẳng định: Nó không tìm và không trốn khỏi hạnh phúc, cái mà nó cần là sự bình yên, mà điều đó thì chỉ có trong giông bão. Khổ thơ thứ ba như nốt lặng của biển cả sau trận cuồng phong. Nó đối lập hoàn toàn với khổ hai, đem lại cảm giác yên bình trong tâm hồn người. Đó cũng là cảm giác dừng chân của con người trong cuộc hành trình dài mải miết kiếm tìm. Câu 7: + Cả hai người đều đưa ra quan điểm giống nhau về hạnh phúc. Nếu Mac cho rằng: muốn có hạnh phúc phải đấu tranh, thì Lermôntôp cũng khẳng định: hạnh phúc sẽ tìm thấy trong bão tố cuộc đời. Đó là niềm hạnh phúc có được từ sự đấu tranh với chính bản thân mình và cuộc đời. Có như vậy, hạnh phúc mới có giá trị và đáng được trân trọng. + Điểm không đồng nhất. - Theo Mac, khi đấu tranh con người sẽ tìm thấy hạnh phúc. - Lermôntôp chỉ ra rằng: hạnh phúc không nên né tránh nhưng cũng không phải nó tự đến với chính mình. Hạnh phúc đến khi con người biết dừng lại và lắng nghe PHỤ LỤC 8 A. VĂN BẢN: CON KỲ NHÔNG - SÊKHÔP Cảnh sát viên Ôtsumelốp mình vận bành tô mới, tay cầm một cái gói, đang đi qua bãi chợ. Bước theo sau y là một người lính cẩm, tóc hung hung đỏ, tay xách một giỏ đầy phúc bồn tử mới tịch thu được. Chung quanh yên ắng... Bãi chợ vắng tanh không một bóng người... Cánh cửa những hiệu tạp hoá, những quán rượu mở toang như những miệng thú đói buồn tẻ nhìn ra đường, đến cả ăn mày quanh đấy cũng không có một ai. - Mày dám cắn hả, đồ khốn! - bất ngờ Ôtsumelốp nghe thấy. - Các cậu ơi, đừng để nó sống nhé! Bây giờ người ta không cho phép để chó cắn người đâu! Bắt lấy! A... a. Có tiếng chó kêu rống lên ăng ẳng. Ôtsumelốp nhìn sang một bên và thấy: từ kho củi của tay lái buôn Pitsugin có một con chó chạy khập khiễng bằng ba chân, vừa chạy vừa quay đầu lại nhìn. Đuổi theo sau nó là một người mặc áo sơ mi hoa mới hồ và một chiếc gilê mở cúc. Người ấy chạy theo con chó, cổ vươn ra phía trước, anh ta ngã xoài xuống đất và túm lấy đôi cẳng sau của con vật. Lại nghe thấy tiếng chó ăng ẳng và tiếng kêu: "Đừng để nó sổng!" Từ phía sau các cửa hiệu ló ra những bộ mặt ngái ngủ, và chỉ một lúc sau bên kho củi đã thấy tụ tập cả một đám đông tựa hồ như là chui từ dưới đất lên. - Thưa ngài, hình như có chuyện mất trật tự ạ! - người lính cẩm nói. Ôtsumelốp nghiêng nửa vòng, quay sang bên trái và bước tới chỗ đám đông. Ông ta nhìn thấy anh chàng mặc áo gilê mở cúc ban nãy đang đứng ngay sát bên cổng nhà kho, cánh tay phải giơ lên chìa cho mọi người xem ngón tay rớm máu. Bộ mặt ngà ngà say của anh ta như muốn nói: "Thế đấy, đồ chó má, tao vặt cổ mày đi đấy?!', và cả ngón tay kia cũng ra vẻ đắc thắng. Ôtsumelốp nhận ra anh ta là anh thợ kim hoàn Khơriukin. Chính giữa đám đông là thủ phạm gây ra chuyện huyên náo vừa rồi - một con chó săn nhỏ mõm dài, trên lưng có một khoảng lông màu vàng, đang ngồi trên mặt đất, toàn thân run rẩy, hai chân trước xoạc ra hai bên. Đôi mắt ươn ướt của nó lộ vẻ rầu rĩ và kinh hãi. - Có chuyện gì vậy hả? - Ôtsumelốp hỏi, gạt mọi người, đi thẳng vào giữa đám đông. - Sao thế hả? Sao lại giơ ngón tay lên thế kia?... Ai vừa kêu ầm lên vậy hả ? - Thưa ngài, tôi đang đi, chẳng động chạm gì đến ai... - Khơriukin bắt đầu nói, đưa lòng bàn tay lên che miệng húng hắng ho. - Tôi đang đến mua củi của ông Mitơri Mitơrits đây, - thì bất thình lình con vật đểu cáng này tự nhiên chồm lên cắn vào ngón tay... Xin ngài miễn thứ cho, tôi là một người làm ăn... Tôi phải làm một việc rất tỉ mẩn. Tôi đòi người ta phải bồi thường cho tôi, vì cái ngón tay này có dễ phải đến một tuần tôi mới cử động được... Thưa ngài, pháp luật không thấy ghi rằng gặp những con chó như thế này thì đành phải chịu lép ạ... Ví thử con chó nào cũng nhè người mà cắn thì đừng sống trên đời này nữa còn hơn... - Hừm?... Được rồi... - Ôtsumelốp nghiêm giọng nói, ho mấy tiếng và cau đôi mày. - Được rồi... Con chó này của ai? Ta không để yên chuyện này đâu. Ta sẽ cho các người biết cứ thả rông chó như thế là thế nào! Đã đến lúc phải lưu tâm đến các vị không muốn chấp hành các điều lệ quy tắc! Phải phạt cái thằng vô lại rồi nó mới biết rằng thả rông chó và các súc vật khác đối với ta nghĩa là thế nào? Ta sẽ cho nó biết tay ta? Này, Enđưrin, - Ôtsumelốp quay lại nói với người lính cẩm, - hãy điều tra xem, con chó này của ai, rồi lập ngay biên bản! Con chó này phải đập chết thôi. Đập chết ngay! Chắc là nó bị dại rồi... Này, nghe ta hỏi, con chó này là của ai? - Hình như của tướng Giưgalốp! - có ai trong đám đông nói. - Của tướng Giưgalốp à? Hừm!... Enđưrin, cởi hộ ta cái bành tô với... Chà, thật là khủng khiếp, nóng chi là nóng? Hình như trời sắp mưa rồi hay sao ấy... Này, có một điều ta không hiểu: tại sao nó lại có thể cắn nhà ngươi được? - Ôtsumelốp nói với Khơriukin. - Nó mà lại chồm đến được ngón tay của ngươi à? Nó thì bé, còn nhà ngươi thì cao to thế kia cơ mà? Chắc là ngón tay nhà ngươi lại xước phải cái đinh nào rồi sau đấy ngươi mới chợt nghĩ ra là phải bịa chuyện mà kiếm chác. Ta còn lạ gì... đồ các ngươi! - Thưa ngài, anh ta lấy thuốc lá gí vào mõm con chó để làm trò cười, còn nó thì chẳng ngu dại gì, nó tớp ngay lấy ngón tay anh ta… Thưa ngài, anh ta đần lắm ạ! - Chỉ nói láo, đồ chột mắt! Mày không nhìn thấy sao mày lại còn bịa chuyện? Ngài đây là người mẫn tiệp, thế nào ngài cũng phân biệt được đứa nào nói láo còn ai nói thật như nói thật cho Chúa trời nghe... Nếu tôi mà nói sai thì cứ xin để quan tòa phán xử. Dạ, bây giờ pháp luật đã có nói... tất cả đều bình đẳng... Chính tôi cũng có người anh em làm sen đầm đấy ạ ngài có muốn biết không ạ. - Đừng lý sự nữa! - Không, con chó này không phải của ngài thiếu tướng đâu... - người lính cẩm nhận xét đầy thâm ý. - Ngài thiếu tướng chẳng có loại chó này đâu. Chó của ngài phải chắc là chó săn nòi thôi... - Ngươi biết chắc điều ấy à? - Thưa ngài, chắc thế ạ... - Chính ta cũng đã biết thế. Chó của ngài thiếu tướng là loại chó quý, chó nòi chứ đâu như con này - có trời mà biết là loại chó gì! Lông xù, trông mã chả ra làm sao... Nhìn vào chỉ tổ bẩn mắt thôi... Ngài thiếu tướng mà lại nuôi loại chó này hả?! Trí khôn của các người để đâu cả rồi? Nếu cái thứ chó này ở Pêtecbua hay Matxcơva, thì các người có biết sẽ ra thế nào không? Ở đấy người ta sẽ chả phải giở luật giở liếc gì hết và chỉ một loáng sau thôi là hết ngáp. Này Khơriukin, người bị nạn thế rồi thì đừng có mà làm ngơ nghe chưa? Phải cho chủ nó biết tay! Thôi... - Mà cũng có thể là chó của ngài thiếu tướng... - người lính cẩm nói ý nghĩ ra miệng. - ở mõm nó có đề chữ gì đâu... Mới đây tôi có trông thấy trong sân ngài thiếu tướng một con chó giống như con này. - Đúng rồi, của ngài thiếu tướng đấy! - Có giọng ai nói trong đám đông. - Hừm!... Này Enđưrin, mặc hộ ta cái áo bành tô một tý… Trời chuyển gió rồi đấy… Ren rét là… Ngươi dắt con chó đến chỗ ngài thiếu tướng và hỏi ở đấy xem. Bẩm rằng ta đã tìm được và xin gửi lại ngài... Ngươi cũng nói rằng về sau đừng thả nó ra ngoài phố nữa... Có thể là nó thuộc loài chó quý đấy, biết đâu chả có một đứa nào đấy ngu như lợn lại gí thuốc lá vào mũi nó, thì làm xấu cả con chó đi. Chó là một giống vật ưa nhẹ tay... Còn thằng ba hoa kia, bỏ tay xuống đi! Hay hớm gì mà cứ trưng ngón tay ngu xuẩn kia lên mãi thế! Chính nhà ngươi có lỗi chứ còn ai! - Kìa, anh bếp của ngài thiếu tướng đang đi đến kia kìa, ta hỏi thử anh ta xem... ê, Pơrôkhor! Lại đây, lại đây, anh bạn thân mến! Anh thử nhìn con chó xem coi... Có phải của trên nhà ngài không? - Làm gì có chuyện đó. Cả đời tôi chưa thấy ông chủ tôi nuôi chó nào như thế! - Thôi, chẳng việc gì phải hỏi lâu la nữa, - Ôtsumelốp nói. - Nó đúng là chó chạy rông rồi? Không phải bàn cãi gì nữa... Ta đã nói là chó chạy rông... Đem mà đập chết đi, thế thôi. - Con chó này không phải của ông chủ tôi, - Pơrôkhor nói tiếp. - Nó là của em ông chủ tôi vừa mới đến đây hôm nọ. Ông chủ tôi không thích giống chó săn, ông em ngài mới thích... - Em ngài thiếu tướng vừa mới đến thật ư? Ông Vlađimir Ivannứts phải không? - Ôtsumelốp hỏi, y cười hớn hở, nở nang cả mặt mày. - Đúng thế hả? Thế mà tôi cũng chẳng hay biết gì cả! ông ấy về đây chơi à? - Vâng, về chơi... - Đúng thế hả! Chắc ngài lại nhớ người anh em mình rồi... Thế mà tôi chả biết tý gì? Thế, thế con chó này của ông ấy đấy à? Tôi thật là mừng... Này, anh đưa nó về đi… Con chó trông cũng khá đấy… Nó khôn ranh gớm… Nó vừa ngoạm tay thằng cha kia một cái đấy? Hà, hà hà… mà này chú cún, việc gì chú phải run lên thế nữa? Chạc, chạc, chắc chú mình đang nổi cơn thịnh nộ đây… Chà, kiếm đâu ra con cún kháu khỉnh quá ta… Pơrôkhor gọi con chó và cùng đi với nó ra khỏi kho củi. Cả đám người cười rộ lên nhạo Khơriukin. - Liệu hồn đấy, ngươi còn biết tay ta! - Ôtsumelốp nói đe y, khép vạt áo bành tô lại, rồi tiếp tục đi qua bãi chợ. (Phan Hồng Giang dịch) B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Em hãy giải thích ý nghĩa nhan đề truyện ngắn? Nếu được phép thay đổi em sẽ đổi tên truyện là gì? Vì sao? 2. Em hình dung nhân vật viên cảnh sát Ôtsumelốp là con người như thế nào? (Ngoại hình và tính cách) 3. Nhận xét của em về đoạn văn miêu tả không gian bãi chợ? Không gian đó có liên hệ như thế nào đối với âm thanh mà viên cảnh sát nghe thấy? 4. Suy nghĩ của em về câu nói của Sêkhôp với em gái của mình "giữa mọi người, cần phải ý thức được nhân phẩm của mình (...) em hãy biết rằng con người nhỏ bé trung thực không phải là người hèn mọn"? Truyện ngắn này có quan hệ như thế nào với câu nói trên? C. GỢI Ý TRẢ LỜI Câu 1: + Con kỳ nhông mang ý nghĩa: - Nghĩa đen: con kỳ nhông có thể thay đổi sắc màu của da để thích nghi với môi trường sống. - Nghĩa bóng: sự biến đổi không ngừng của lời nói con người hay nhân cách con người có sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. + Cuộc sống đôi khi cần đến sự thay đổi nhưng sự thay đổi đến chóng mặt của viên cảnh sát khiến chúng ta nghĩ đến con người của anh ta: ưa thay đổi, hoặc bất chấp tất cả để đạt được mục đích sống của mình. + Tiếng cười bật ra từ sự thay đổi đến chóng mặt trong lời nói của viên cảnh sát trưởng khiến mọi người liên tưởng đến hình ảnh của con kỳ nhông. Câu 2: + Ngoại hình: mặc một chiếc áo bành tô mới... + Tính cách: người có trách nhiệm trong công việc, rất công minh nhưng cũng cũng là người hay thay đổi để đạt được mục đích của mình... Câu 3: + Không gian được miêu tả ở trạng thái tĩnh, không một tiếng động tạo cảm giác ngột ngạt, khó thở. Bản thân con người cũng thấy tù túng trong không gian yên lặng đó. + Chỉ hai câu văn miêu tả quang cảnh bãi chợ song nó gợi cho người đọc sự nhàm chán, tẻ nhạt của cuộc sống đang diễn ra quanh đây và không gian ngột ngạt ấy như tô đậm thêm cho sự nhàm chán của con người và vạn vật nơi đây. + Trong nền không gian tù túng đó, âm thanh ăng ẳng của tiếng chó kêu cùng tiếng người chửi rủa như phá vỡ bầu không khí ngột ngạt đó. Tuy vậy, nó báo động một cuộc chiến sẽ xảy ra và hình như làm tăng thêm sự bức bối, sự ngột ngạt trong tâm hồn con người. Câu 4: + Sêkhôp luôn nhận thức rất rõ nhân phẩm của mình và ông coi trọng điều đó. Chính vì thế, ông khuyên em cần phải ý thức được nhân phẩm của mình để ứng xử cho tốt giữa cuộc đời. Với ông, không phải lúc nào mình cũng phải cúi đầu, nếu cúi đầu trước một nhân phẩm cao cả điều đó có thể chấp nhận được nhưng cúi đầu trước một kẻ không ra gì, đó là cái cúi đầu của kẻ hèn mọn. Nếu sống mà luôn phải như vậy, con người chúng ta sẽ trở nên hèn kém trước tất cả mọi người. + Viên cảnh sát trong truyện Con kỳ nhông là kẻ đã đánh mất bản thân mình, đánh mất nhân phẩm của mình để đánh đổi địa vị đang có. Cái người dân quan tâm và trọng vọng anh đó là nhân phẩm thì anh đã không còn, vì thế, dù địa vị có cao đi nữa, anh vẫn chỉ là con kỳ nhông giữa cuộc đời. PHỤ LỤC 9 A. VĂN BẢN: Đọc thêm: ĐÊM - ÊXÊNIN НОЧЬ Тихо дремлет река. Темный бор не шумит. Соловей не поет, И дергач не кричит. Ночь. Вокруг тишина. Ручеек лишь журчит. Своим блеском луна Все вокруг серебрит. Серебрится река. Серебрится ручей. Серебрится трава Орошенных степей. Ночь. Вокруг тишина. В природе все спит. ĐÊM Dòng sông thiu thiu ngủ, Rừng thông tối ngưng reo, Họa mi không hót nữa, Muông thú cũng ngừng kêu. Đêm. Bốn bề tĩnh lặng Còn suối róc rách thôi, Và vầng trăng vằng vặc Rắc bạc khắp nơi nơi. Bạc lấp lánh dòng sông, Bạc long lanh bờ suối, Bạc láng trên cỏ cây Thảo nguyên thành đắm đuối. Đêm. Bốn bề tĩnh lặng. Vạn vật ngủ say rồi. Riêng vầng trăng vằng vặc (Tạ Phương dịch) B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Cảm xúc đầu tiên của em khi đọc xong bài thơ này ? 2. Không gian và thời gian nghệ thuật có ý nghĩa như thế nào trong việc thể hiện tư tưởng, nội dung của tác phẩm ? 3. Theo em, nét đẹp của bài thơ thể hiện ở chi tiết nào ? Vì sao ? Sự long lanh của thiên nhiên, của vạn vật, của đất trời về đêm được nhà thơ thể hiện rất tài tình. Em hãy tìm những chi tiết thể hiện điều đó. 4. Ánh trăng có vai trò như thế nào trong việc biểu hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ? So sánh hình ảnh ánh trăng trong bài với những bài thơ khác để thấy rõ sự độc đáo của Êxênin trong nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. 5. So sánh cảm xúc của hai khổ thơ 2 và 4? Em thử hình dung phần kết của hai khổ thơ này là gì ? C. GỢI Ý TRẢ LỜI Câu 1: + Đây là bài thơ giàu cảm xúc, với ngôn từ đẹp và hình ảnh thơ lạ, có sức cuốn hút. Своим блеском луна Все вокруг серебрит. 1911-1912 Vẫn rắc bạc nơi nơi. 1911-1912 + Thiên nhiên trong thơ hiện ra tràn ngập sắc màu bàng bạc của ánh trăng, của sự lung linh huyền ảo trong đêm. Sự tĩnh lặng của thiên nhiên như làm nền cho cảm xúc thăng hoa để rồi, tất cả đọng lại trong ánh trăng đêm đó. Tuy vậy, cảm giác buồn vẫn tồn tại khiến cho sự vật, tâm hồn con người và cả thiên nhiên như níu kéo đan xen lẫn nhau, tạo cảm giác nỗi buồn không dứt mà hòa cả vào ánh trăng đêm. Câu 2: + Không gian mở ra từ xa cho đến gần, lên trên và xuống thấp để cuối cùng dừng lại ở ánh trăng đêm vằng vặc soi giữa trời. Không gian rộng lớn đó đem lại cảm giác về một nỗi buồn trải dài theo sự dịch chuyển của ánh trăng, của tầm nhìn nhân vật trữ tình. Nó gợi sự cô đơn, lẻ loi giữa vẻ đẹp của thiên nhiên về đêm. + Thời gian nghệ thuật cũng góp phần tạo nên sự tĩnh lặng và sự cô đơn đó. Bước chân của thời gian chầm chậm trôi theo sự chuyển dịch của không gian. Nhịp thời có lúc như ngừng lại trong dấu chấm ngắt giữa dòng có lúc như trôi nhanh, lúc lại dạt dào cảm xúc trong từng khoảng không gian. + Cả không gian và thời gian kéo nhân vật trữ tình vào thế giới đầy cảm xúc của thiên nhiên về đêm. Sự tĩnh lặng của thiên nhiên là nguyên nhân gây nên nỗi buồn, sự cô đơn trong tâm hồn nhân vật trữ tình. Con người và thiên nhiên như hòa quyện với nhau tạo nên vẻ đẹp huyền ảo mà buồn man mác trong đêm trăng. Câu 3: + Chi tiết ánh trăng. Đó là hình ảnh chủ đạo soi sáng bài thơ, đem lại vẻ đẹp huyền ảo trong đêm khuya tĩnh lặng, soi sáng thiên nhiên giữa bốn bề tĩnh lặng, giữa không gian mờ ảo của thảo nguyên và càng làm cho không gian trở nên rộng lớn hơn rất nhiều. + Vẻ đẹp của thiên nhiên về đêm thể hiện ở ánh trăng, ở sự lấp lánh của dòng sông, sự long lanh của bờ suối và sự đắm chìm trong sắc trắng của thảo nguyên. Câu 4: + Không gian bàng bạc ánh trăng, thời gian như bước chầm chầm dõi theo sự xuất hiện của ánh trăng và lòng người cũng trải dài theo bước chân của ánh trăng. Tất cả mọi hoạt động của thiên nhiên đều gắn kết với ánh trăng. + Nét độc đáo trong cách miêu tả của Êxênin là để ánh trăng tự mình nói lên điều muốn nói, tự trải dài trong nền không gian mênh mông của đất trời. Câu 5: + Cả hai khổ thơ đầu bắt đầu bằng câu Đêm. Bốn bề tĩnh lặng nhưng đằng sau đó là sự khác biệt về cảnh vật và cảm xúc. - Khổ thơ thứ 2 mở ra bằng khoảng không gian tĩnh lặng của thiên nhiên và bắt đầu với hình ảnh của con suối chảy róc rách tạo cho người đọc cảm giác có sự hiện diện của vạn vật, của thiên nhiên. Đó là âm thanh của sự sống, của sự tồn tại. Ánh trăng có nhiệm vụ tô điểm thêm cho không gian màu sắc huyền ảo và làm đẹp thêm bức tranh đêm bằng sắc trắng vằng vặc giữa trời. - Khổ thơ thứ 4 bắt đầu bằng sự ngăn cách giữa hai miền không gian đêm và sự tĩnh lặng của đêm. Một không gian luôn hiện hữu và một không gian vô hình tồn tại trong sự cảm nhận của nhân vật trữ tình. Không gian trong khổ thơ 4 không có sự tồn tại của thiên nhiên, của vạn vật. Tất cả như đang chìm trong sự tĩnh lặng của thiên nhiên. Vì thế, con người trở nên nhỏ bé trước thiên nhiên và thấy mình trở nên bất lực. PHỤ LỤC 10 A. VĂN BẢN: SÔNG ĐÔNG ÊM ĐỀM (Trích đoạn)– SÔLÔKHÔP CHƯƠNG 16: PHẦN I - CUỘC CHIẾN CỦA NHỮNG TÂM HỒN Sau khi được Tomilin cho biết về chuyện Acxinhia. Stepan mang trong lòng cả một niềm buồn nhớ và căm giận. Mãi hôm ấy anh ta mới hiểu rằng tuy hai người ăn ở với nhau chẳng ra gì, tuy có cái chuyện nhục nhã xưa kia, nhưng anh ta vẫn yêu vợ, một thứ tình yêu đầy đau khổ và căm hờn. Đêm đêm trùm chiếc áo ca-pôt nằm trong xe, Stepan cứ đấm hai tay vào đầu bình bịch, cố nghĩ xem mình sẽ về nhà như thế nào, sẽ giáp mặt với vợ như thế nào. Stepan cảm thấy như trong ngực mình không có một trái tim, mà chỉ có một con nhện độc luôn luôn ngọ nguậy… Trong khi nằm nghĩ, Stepan đã chuẩn bị sẵn sàng hàng ngàn chi tiết của việc trừng phạt. Những lúc ấy, anh ta có cảm giác như một hòn sạn to lắm đang vướng trong kẽ răng của mình. Lần đánh nhau với Petro đã giúp Stepan khạc ra được phần nào nỗi căm hờn trong lòng. Anh ta về nhà, người khô héo phờ phạc, vì thế Acxinhia cũng đỡ khổ đôi phần. Từ hôm ấy, trong nhà Axtakhôp cứ như có một người chết cùng sống chung. Acxinhia không dám nói to, ra vào chỉ đi rón rén, nhưng trong cặp mắt mờ đi như rắc tro vì khiếp sợ, vẫn hơi có thể nhận ra hòn than nhỏ còn âm ỉ sau đám cháy mà Grigôri đã nhen lên. Hòn than hồng ấy, Stepan cảm thấy hơn là nhìn thấy trong khi để ý theo dõi vợ. Vì thế anh ta càng đau khổ. Đêm đêm, khi đàn ruồi đã ngủ yên trên cái lò nhỏ trên bếp, khi Acxinhia trải xong chỗ nằm, môi run lập bập, Stepan lại bịt miệng nàng bằng bàn tay sần sùi đen xạm, đánh nàng. Stepan tra hỏi cặn kẽ một cách vô liêm sỉ xem Acxinhia đã đi lại với Grigôri như thế nào. Acxinhia lăn lộn thở không ra hơi trên cái giường rất cứng, sặc sụa mùi da cừu. Sau mỗi lần hành hạ ê chề cái thân hình mềm nhũn như bột mì bị nhào nhuyễn của Acxinhia, Stepan lại lần tay lên mặt nàng, cố sờ xem có giọt nước mắt nào không. Nhưng hai má Acxinhia chỉ nóng bừng như lửa đốt, khô như không. Những ngón tay của Stepan cảm thấy hai hàm răng Acxinhia nghiến vào rồi lại mở ra. - Mày có nói không? - Không! - Ông thì giết! - Cứ giết đi! Giết đi, anh hãy vì Chúa mà giết tôi đi… Cực quá lắm rồi… không còn ra sống nữa… Stepan nghiến răng véo làn da non đổ mồ hôi lạnh trên ngực vợ. Acxinhia run bắn người lên, rền rĩ. - Đau à? - Stepan cảm thấy nhẹ nhõm cả ngườỉ. - Đau. - Còn tao thì mày tưởng tao không đau đấy phải không? Khuya lắm, Stepan mới chợp được mắt. Nhưng trong giấc ngủ, những ngón tay đen xạm, khớp xương phồng to cứ co lại, sờ sờ soạng soạng. Acxinhia chống khuỷu tay, nhìn chăm chăm rất lâu vào mặt chồng, khuôn mặt đẹp, bị giấc ngủ làm biến đổi hẳn. Nàng nhìn một lát rồi lại vật đầu xuống gối và thì thầm những gì không biết. Grigôri thì nàng gần như không còn thấy mặt đâu nữa. Nhưng có lần hai người ngẫu nhiên gặp nhau bên bờ sông Đông. Hôm ấy Grigôri đuổi mấy con bò ra sông uống nước. Chàng đang lên dốc, đầu cúi gầm, tay ve vẩy cái roi đo đỏ. Acxinhia đi từ phía trước lại. Nàng vừa nhìn thấy Grigôri, thì cảm thấy cái đòn gánh trong tay lạnh buốt, máu dồn lên làm hai bên thái dương nóng như lửa đốt. Sau đó, mỗi khi nhớ lại cuộc gặp gỡ ấy, Acxinhia lại mất không biết bao nhiêu cố gắng để tự làm cho mình tin rằng chuyện ấy không phải là trong mộng. Grigôri chỉ nhìn thấy Acxinhia khi hai người đã đi gần sát nhau. Tiếng thùng kẽo kẹt như đòi hỏi làm Grigôri ngửng đầu. Chàng rung rung lông mày, mỉm một nụ cười đờ đẫn. Acxinhia vẫn đi, mắt nhìn qua đầu Grigôri ra sông Đông xanh biếc đang thở hổn hển dưới những làn sóng, và xa hơn nữa là doi cát chỗ cao chỗ thấp. Nàng đỏ bừng mặt, nước mắt tràn ra. - Acxiutka! Acxinhia bước thêm vài bước rồi đứng lại, đầu gục xuống như dưới một đòn đánh. Grigôri bực bội giơ roi quất con bò nâu đen đi tụt lại. Chàng nói nhưng không quay đầu lại: - Bao giờ thì Stepan đi cắt lúa mạch đen? - Đi ngay bây giờ… Đang thắng xe. - Em đưa nó đi rồi ra đám hướng dương nhà anh, chỗ bãi cỏ hoang ven sông ấy. Anh sẽ ra ngay. Acxinhia kẽo kẹt đôi thùng, bước xuống sông. Ven bờ, bọt nước sủi lên ngoằn ngoèo như những dải đăng ten diêm dúa màu vàng dưới gấu những đợt sóng xanh lá cây. Những con hải âu kiếm cá cất tiếng kêu hối hả, lao mình vùn vụt trên mặt nước. Đàn cá nhép làm nước bắn tung trên mặt sông như trận mưa bạc. Bên kia sông, sau doi cát trắng, ngọn mấy cây tiêu huyền cổ thụ vươn lên bạc bạc, đường hoàng và trang nghiêm. Trong khi múc nước, Acxinhia để rơi một chiếc thùng. Nàng lấy tay trái kéo gấu váy lội xuống nước đến đầu gối. Nước cù buồn buồn hai bắp chân hằn vết nịt. Từ ngày Stepan về nhà, đây là lần đầu tiên Acxinhia có được một nụ cười lặng lẽ và ngập ngừng. Nàng ngoái nhìn Grigôri. Grigôri vẫn từ từ lên dốc, cái roi trong tay, vung vẩy như để đuổi mòng bò. Qua hàng lệ trào ra làm mờ hai khóe mắt, Acxinhia đắm đuối nhìn vuốt ve cặp chân rất khỏe của Grigôri đang vững vàng dẫm trên mặt đất. Hai cái nẹp đỏ lóe hằn rõ trên hai ống quần rộng thùng thình lồng vào bít tất len trắng. Trên lưng Grigôri gần chỗ xương bả vai, miếng rách mới trên cái áo sơ-mi lem luốc bị gió thổi lật ra, cho thấy một mảng da hình tam giác vàng bánh mật. Acxinhia hôn bằng mắt mảng da nhỏ xíu ấy trên cái thân hình yêu dấu đã từng là của mình. Nước mắt nàng chảy ròng ròng xuống nụ cười nở trên cặp môi nhợt nhạt. Acxinhia đặt cái thùng xuống cát, và trong khi mắc cái móc đầu đòn gánh vào quai thùng, nàng nhìn thấy trên cát còn hằn dấu chiếc ủng nhọn mũi của Grigôri. Nàng nhìn quanh như một con ăn cắp, thấy chẳng có ai ngoài mấy đứa trẻ đang tắm ở chỗ bến đò xa, bèn ngồi xổm xuống ấp bàn tay lên vết ủng, rồi lại đặt cái đòn gánh lên vai mỉm cười một mình, lật đật về nhà. Nắng chói chang trên cái thôn được phủ kín dưới làn sương mỏng như vải voan. Ở chỗ nào đó bên dưới những đám mây nhỏ, trắng và loăn xoăn như một đàn cừu, thấy sáng lên màu xanh mướt, mát rượi của một bãi chăn nuôi. Trong khi đó một bầu không khí oi bức ngột ngạt mất hết sinh khí đè lên thôn xóm, lên những mái tôn nóng bỏng, những dãy phố lầm bụi không một bóng người, những đám cỏ bị hạn hán đốt cháy vàng. Acxinhia lảo đảo bước tới thềm nhà, làm nước trong thùng sánh ra, chảy xuống mặt đất nứt nẻ. Stepan đội một chiếc mũ rơm rộng vành đang thắng ngựa vào máy gặt. Anh ta đưa mắt nhìn Acxinhia, nhưng tay vẫn sửa cái đai bụng cho con ngựa cái mắc vòng cổ rồi mà vẫn ngủ gà ngủ gật. - Đổ nước vào bình toong đi. Acxinhia đổ nước trong thùng vào một chiếc bình toong, những cái đai thùng bằng sắt tán ri vê làm nàng bỏng cả tay. - Phải cho băng vào mới được. Nước nóng lên bây giờ đấy, - Acxinhia nhìn cái lưng đẫm mồ hôi của chồng và nói. - Sang nhà Mêlêkhôp mà xin… Nhưng Stepan chợt nhớ ra bèn quát lên: - Thôi không đi nữa? Cái cửa xép ở hàng rào còn mở toang, Acxinhia bước ra định đóng lại thì Stepan cúi xuống vớ lấy cái roi: - Đi đâu hử? - Ra đóng cửa xép. - Quay trở lại, con khốn nạn… Tao bảo là không đi đâu cả! Nàng vội vã bước vào trong thềm, định mắc cái đòn gánh lên tường, nhưng hai bàn tay run lẩy bẩy đâu có nghe theo ý nàng. Chiếc đòn gánh lăn xuống theo mấy bậc thềm. Stepan quẳng cái áo mưa vải bạt lên chỗ ngồi phía trước rồi bước lên xe, sửa lại dây cương. - Mở cổng ra! Acxinhia mở toang hai cánh cổng rồi đánh bạo hỏi: - Bao giờ thì anh về? - Gần tối sẽ về. Lần nầy gặt chung với Anikây. Nhớ mang cả thức ăn cho hắn. Qua lò rèn rồi ra đồng ngay. Những cái bánh xe nho nhỏ của chiếc máy gặt rít lên, lún sâu xuống lớp bụi xám mịn như lông. Xe ra khỏi cổng, Acxinhia vào trong nhà, áp chặt hai tay lên ngực, đứng lại một lát rồi choàng khăn lên đầu và chạy ra sông Đông. Một ý nghĩ chợt nảy ra trong óc nàng: "Nhỡ Stepan quay về thì sao? Nếu vậy thì sẽ như thế nào?" Acxinhia đứng sững lại, cứ như vừa nhìn thấy một cái hố sâu thẳm ngay trước chân mình. Nhưng nàng chỉ ngoái nhìn một cái, rồi lại gần như chạy tế theo bờ sông ra bãi cỏ hoang. Qua những dãy hàng rào, rồi qua những mảnh vườn rau. Lấp loáng màu vàng lóe của những đoá hướng dương đang nhìn thẳng vào mắt mặt trời. Màu xanh mướt của những khoảng khoai tây lốm đốm những đoá hoa trắng bệch. Bọn đàn bà nhà Samin muộn quá, đến giờ mới cào cỏ mảnh khoai tây nầy: vài cái lưng khom khom làm căng những làn áo hồng, những lười cuốc đưa lên đưa xuống thoăn thoắt, cắm vào những luống khoai xám. Acxinhia không cần lấy lại hơi, cứ thế chạy thẳng tới vườn rau nhà Mêlêkhôp. Nàng đưa mắt nhìn quanh một lượt, rồi rút cái cành cây nhỏ cài trên cột, mở cửa và đi theo con đường mòn tới thẳng đám hướng dương mọc san sát như một dãy hàng rào xanh rờn. Nàng khom lưng luồn tới chỗ rậm nhất, phấn hoa vàng óng lem luốc cả mặt. Acxinhia kéo váy ngồi xuống một khoảng mọc đầy thổ ti. Nàng lắng nghe: bầu không khí lặng tờ làm cho trong tai như có tiếng rung. Trên đầu nàng, không biết ở chỗ nào có con ong đực vo ve một mình. Những cây hướng dương rỗng ruột, đầy lông cứng, lặng lẽ hút nước dưới đất. Nàng ngồi chừng nửa tiếng, trong lòng băn khoăn day dứt, không biết Grigôri có đến hay không. Đến lúc nàng đã đứng dậy, sửa lại tóc dưới khăn bịt đầu, định bỏ về thì vừa lúc ấy có tiếng cửa rít dài rồi tiếng những bước chân. - Acxiutca! - Lại đây anh… - À đã đến rồi… Grigôri rẽ lá loạt soạt, bước tới ngồi xuống bên cạnh Acxinhia. Hai người nín lặng một lát. - Sao má em lại thế nầy? Acxinhia đưa tay áo lên chùi những vết phấn hoa vàng thơm phức. - Có lẽ tại hoa hướng dương đấy. - Còn chỗ nầy nữa, bên cạnh mắt còn đây này. Nàng lại chùi nốt. Hai cặp mắt gặp nhau. Và để trả lời câu hỏi mà Grigôri chưa nói ra, Acxinhia khóc oà lên. - Em kiệt sức rồi… Cuộc đời em thế là hết rồi, anh Gritka ạ. - Thế nó như thế nào? Acxinhia tức giận giật tung cổ áo. Một cặp vú bật ra thây lẩy, hồng hồng, rắn chắc như vú con gái, với những vết xanh tím hằn ngang hằn dọc. - Anh không biết nó thế nào à? Ngày nào nó chả đánh? Thật là một đồ hút máu! Mà cả anh nữa cũng tồi thật… Làm bừa xong rồi là chuồn thẳng như con chó dái… Tất cả bọn đàn ông các anh… Acxinhia run rẩy đưa mấy ngón tay cài lại những chiếc khuy bấm, rồi sợ hãi liếc nhìn xem Grigôri có giận hay không, nhưng Grigôri quay sang chỗ khác. - Cô định tìm kẻ có tội phải không? - Grigori nhai nhai một sợi cỏ, kéo dài giọng hỏi… Giọng nói bình thản của Grigôri như gáo nước sôi dội lên Acxinhia. - Thế anh không phải là kẻ có tội hay sao? - Nàng nổi khùng hét lên. - Con chó cái không vắt đuôi lên thì con chó đực cũng chẳng nhảy. Acxinhia đưa hai tay ôm mặt. Câu nói cố tình cay độc, nặng như một đòn trời giáng đã làm cho nàng hết cả hờn giận. Grigôri ngồi bên cau mày liếc nhìn Acxinhia. Một giọt nước mắt rỉ ra qua kẽ ngón tay trỏ và ngón tay giữa của nàng. Một giẻ ánh nắng lấm tấm những bụi chiếu chếch trong đám hướng dương um tùm, xuyên qua giọt nước mắt trong vắt, rồi hút khô dần cái vết ươn ướt còn lại trên da Acxinhia. Grigôri không chịu được nước mắt, cứ ngọ nguậy mãi không sao ngồi yên được. Chàng rũ thật mạnh ống quần cho một con kiến màu nâu rơi xuống, rồi lại liếc nhanh mắt nhìn Acxinhia. Nàng vẫn ngồi nguyên như cũ, nhưng bây giờ trên mu bàn tay không phải chỉ có một giọt nước mắt, mà ba giọt đang nối nhau chảy xuống. - Khóc cái gì nào? - Giận anh à? - Acxinhia! Thôi đi… Đừng khóc nữa, anh có điều nầy cần nói với em đây. Acxinhia bỏ hai tay xuống, để lộ một khuôn mặt đầm đìa nước mắt. - Em đến hỏi anh xem nên làm thế nào bây giờ? Thế mà tại sao anh lại đối xử như thế? Em đang đau khổ thế nầy… Thế mà anh… "Đúng là mình đánh vùi thêm kẻ đã ngã…" - Grigôri đỏ mặt. - Acxiutca… anh nói bậy bạ một câu đấy… Thôi, đừng giận anh nữa. - Em đến đây không phải để van xin, ràng buộc gì anh đâu… Anh đừng lo! Trong lúc nầy thì đúng là Acxinhia cũng tin rằng mình đến đây không phải để van nài ràng buộc gì Grigôri cả, nhưng lúc chạy ven theo sông Đông ra bãi cỏ hoang, thì tuy chính mình cũng chẳng hiểu vì sao, nàng chỉ đinh ninh một điều: "Mình sẽ can Grigôri! Để Grigôri đừng lấy vợ. Nếu không mình sẽ gắn bó đời mình với ai bây giờ?". Lúc ấy kể ra Acxinhia cũng có nghĩ tới Stepan, nhưng nàng kiên quyết lắc đầu xua đuổi ý nghĩ nảy ra không đúng lúc ấy. - Thế nghĩa là mối tình giữa hai chúng mình đến đây là chấm dứt hay sao? - Grigôri hỏi rồi chống khuỷu tay nằm sấp xuống và nhổ những cái cánh của đoá thổ ty hồng hồng nhai trong lúc nói chuyện. - Chấm dứt thế nào hả anh? - Acxinhia hoảng lên - Sao lại thế được - Nàng vừa hỏi lại, vừa cố tìm gặp cặp mắt Grigôri. Grigôri chuyển hai lòng trắng phồng phồng xanh xanh, đưa mắt nhìn ra chỗ khác. Mùi đất kiệt sức vì gió bụi và nắng gắt xông lên nồng nặc. Đám lá hướng dương xanh mướt xào xạc, lật lên lật xuống dưới làn gió. Mặt trời bị che khuất sau đám mây loăn xoăn, mọi vật u ám trong một phút. Một cái bóng lù mù như khói quay lộn, là xuống trùm lên đồng cỏ, lên thôn xóm, lên cái đầu của Acxinhia đang gục xuống ủ rũ, lên cái đài hồng hồng của đoá hoa thổ ty. Grigôri thở dài, hơi thở của chàng kèm theo một tiếng khò khè. Rồi chàng nằm ngửa ra, hai bả vai áp chặt xuống mặt đất nóng bỏng. - Thôi thế nầy nầy, Acxinhia. - Grigori bắt đầu nói tách bạch từng tiếng. - Thật khổ tâm quá, trong ngực anh như có cái gì bị hút ra ấy. Anh đã nghĩ kỹ, thấy là… Chợt có tiếng xe cọt kẹt, rít vang trên mảnh vườn. - Sang phải, con hói này! Sang phải! Sang phải! Acxinhia cảm thấy tiếng quát bò to quá, nàng vội nằm xoài úp mặt xuống đất. Grigori hơi ngửng đầu lên khẽ bảo: - Bỏ khăn ra. Trắng quá. Khéo họ trông thấy mất. Acxinhia giật chiếc khăn xương. Làn gió nóng hổi lọt qua giữa những cây hướng dương khẽ đập những món tóc mịn màng, vàng óng, loăn xoăn trên gáy Acxinhia. Chiếc xe đã đi qua, tiếng cọt kẹt lắng dần. - Đây, anh định thế nầy nầy. - Grigôri bắt đầu nói và mỗi lúc một thêm sôi nổi, - những việc đã xảy ra rồi thì không nói lại làm gì nữa, cố truy xem ai có lỗi thì có được gì đâu? Cần phải nghĩ cách sau này sống ra sao mới được… Acxinhia có ý đề phòng. Nàng vò nát cánh hoa vừa phủi kiến, lắng nghe, chờ đợi. - Nàng nhìn vào mặt Grigôri, bắt gặp trong hai con mắt của chàng một ánh khô khan, lo lắng. - Anh định rằng anh và em sẽ kết liễu… Acxinhia lảo đảo. Những ngón tay nàng co quắp nắm chặt một nhánh thổ ty đầy gân. Nàng phập phồng cánh mũi, chờ Grigôri nói nốt câu. Như một ngọn lửa, nỗi kinh hoàng và lòng nôn nao sốt ruột làm mặt nàng nóng bỏng, khô cả miệng. Nàng cứ tưởng Grigôri sắp nói: "… kết liễu đời Stepan", nhưng Grigôri chỉ bực bội liếm cặp môi khô cứng, rất khó động đậy, và nói: - Chúng ta sẽ kết liễu câu chuyện nầy thôi. Em thấy thế nào? Acxinhia vùng đứng lên, lật đật đi ra cửa, ngực đập cả vào những đoá hướng dương vàng hoe đang đung đưa. - Acxinhia? - Grigôri nghẹn ngào kêu lên. Trả lời Grigôri chỉ có tiếng cửa rít dài. (Nguyễn Thụy Ứng dịch) B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Cảm xúc đầu tiên của em sau khi đọc đoạn trích này ? Nếu được đặt tiêu đề cho đoạn trích em sẽ đặt như thế nào ? Vì sao ? 2. Em có suy nghĩ gì về cách Stepan hành hạ Acxinhia? Nếu là em, em sẽ xử sự như thế nào? 3. Yếu tố không gian và thời gian nghệ thuật được tác giả khai thác như thế nào trong đoạn miêu tả cảnh Acxinhia chờ đợi và gặp gỡ Grigôri như thế nào? Theo em, điểm độc đáo nhất trong nghệ thuật viết truyện của Sôlôkhôp là gì? 4. Em có suy nghĩ như thế nào về cuộc nói chuyện của hai người ở vườn hoa hướng dương? 5. Em nghĩ Grigôri là người như thế nào? Trong câu chuyện này ai là người đáng thương hơn cả? C. GỢI Ý TRẢ LỜI Câu 1: + Đây là đoạn trích thể hiện rất rõ tài năng của tác giả khi mượn thiên nhiên để nói lên tâm trạng của nhân vật. + Đây cũng là đoạn trích thể hiện tài phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật của Sôlôkhôp. + Tác giả đặt tên cho đoạn trích là : cuộc chiến của những tâm hồn đã phần nào nói rõ nội dung của đoạn trích. + Đoạn trích có thể thay đổi bằng những tên khác như : hoa hướng dương, vũ điệu của cái bóng hay một câu chuyện tình yêu. Câu 2: + Đó là cách những ông chồng hành hạ vợ mình bằng thể xác và tinh thần. Cái đáng sợ nhất trong con người Stepan là sự hành xác tâm hồn Acxinhia. + Sự tồn tại của Stepan trong nhà đem đến cho Acxinhia một nỗi khiếp sợ cùng nỗi đau âm ỉ cháy. - Acxinhia không dám nói to, ra vào chỉ đi rón rén, bằng cách tra hỏi cặn kẽ một cách vô liêm sỉ xem Acxinhia đã đi lại với Grigôri như thế nào, hay sau mỗi lần hành hạ ê chề cái thân hình mềm nhũn như bột mì bị nhào nhuyễn của Acxinhia, Stepan lại lần tay lên mặt nàng, cố sờ xem có giọt nước mắt nào không. Sự khiếp sợ đó không phải là sự khiếp sợ của một người đang ăn năn, sợ hãi vì những việc đã gây ra với chồng mà đó là sự khiếp sợ cho tâm hồn đang đau khổ và đầy căm giận của Stepan. - Nỗi đau âm ỉ của Acxinhia bắt nguồn từ ngọn lửa của tình yêu, của sự hi sinh, chấp nhận vì tình yêu. Ngọn lửa đó được nhóm lên từ hòn than nhỏ còn âm ỉ sau đám cháy mà Grigôri đã nhen lên, từ hai hàm răng Acxinhia nghiến vào rồi lại mở ra mà Stepan cảm thấy khi rờ lên mặt vợ mình. Câu 3: + Không gian chờ đợi được miêu tả từ xa đến gần ‘Qua những dãy hàng rào, rồi qua những mảnh vườn rau’ và dừng lại ở vườn hoa hướng dương. + Thời gian, không gian miêu tả theo bước chân nhanh chậm của Acxinhia, theo từng hành động cụ thể của cô. + Ở vườn hoa hướng dương, bước chân thời gian như chầm chậm trôi. Cảm giác thời gian như đọng lại trong mỗi câu nói độc địa của Grigôri khiến trái tim Acxinhia đau buốt. Cô khóc vì Grigôri ít mà khóc cho nỗi đau của bản thân mình thì nhiều. + Điểm độc đáo trong cách viết truyện của Sôlôkhôp là mượn thiên nhiên để miêu tả tâm trạng con người. Mỗi lần diễn tả một hoạt động nào của Acxinhia và Grigôri, Sôlôkhôp đều thêm vào một vào câu văn tả cảnh thiên nhiên. Đó là cách ông giới thuyết cho người đọc tài phán đoán tương lai vận mệnh nhân vật của ông. Câu 4: + Đây là cuộc chiến của hai tâm hồn con người đã từng yêu nhau, dành trọn tình yêu cho nhau. Sự trở về của Stepan – người chồng của Acxinhia là bước cản đầu tiên mà họ gặp phải trong những ngày hạnh phúc đó. Tuy vậy, lúc này giữa họ đang theo đuổi những suy nghĩ khác nhau và không hề gặp nhau. + Cuộc nói chuyện tưởng chừng như bắt đầu bằng sự cảm thông và thương xót của Grigôri đối với Acxinhia lại xoay theo hướng khác. Những giọt nước mắt tuôn rơi của Acxinhia không giúp cô vơi đi nỗi đau mà cô đang phải chịu đựng. Và nỗi đau đó chỉ có thể dày lên khi Grigôri quyết định kết liễu cuộc tình này. Đó cũng là lúc cô cảm nhận thấy Một cái bóng lù mù như khói quay lộn, là xuống trùm lên đồng cỏ, lên thôn xóm, lên cái đầu của Acxinhia đang gục xuống ủ rũ, lên cái đài hồng hồng của đoá hoa thổ ty. Cái bóng như nói với cô tất cả về kết quả của cuộc nói chuyện này. Câu 5: + Đó là người có cá tính, có tình yêu sâu sắc với Acxinhia. + Acxinhia đáng thương vì cô đã đặt niềm tin không đúng chỗ. + Grigori cũng đáng thương khi quyết định rời bỏ Acxinhia để làm theo lời của cha mẹ. PHỤ LỤC 11 A. VĂN BẢN: Đọc thêm: CHIA TAY- AKHMATOVA B. CÂU HỎI HƯỚNG DẪN HỌC BÀI 1. Không gian và thời gian nghệ thuật trong bài thơ được thể hiện như thế nào? Tác dụng của nó trong việc diễn tả thế giới tâm hồn của nhân vật trữ tình? 2. Em thử hình dung khuôn mặt của ‘người yêu mến’ khi chia tay nhân vật trữ tình? Em nghĩ, đó là người như thế nào? 3. Tâm trạng của nhân vật trữ tình thể hiện như thế nào trong khổ thơ thứ 2? So sánh với khổ thơ đầu? 4. Bài thơ giống như một câu chuyện. Điều đó được thể hiện ra sao trong bài thơ? Theo em, kết cấu tự sự này có tác dụng như thế nào trong việc biểu đạt nội dung và tư tưởng của bài thơ? C. GỢI Ý TRẢ LỜI РАЗЛУКА Вечерний и наклонный Передо мною путь. Вчера еще, влюбленный, Молил: "Не позабудь". А нынче только ветры Да крики пастухов, Взволнованные кедры У чистых родников. 1914 CHIA TAY Con đường chiều đổ nghiêng Trước mặt em hiển hiện. Hôm qua người yêu mến Còn khẩn cầu: “Đừng quên!” Mà giờ chỉ còn gió, Tiếng reo trẻ chăn bò, Hàng thông ngơ ngẩn đứng Bên suối trong như mơ. 1914 (Tạ Phương dịch) Câu 1: + Thời gian bắt đầu bằng buổi chiều tàn với những hồi tưởng về sự việc đã xảy ra ngày hôm qua. Nó giống như một thước phim quay chậm trong kí ức của nhân vật trữ tình nhưng hiện tại chỉ là khoảng trống vô hình. + Thời gian trong hiện tại trôi chầm chậm theo bước chân chuyển động của không gian. - Hôm qua không gian hẹp tồn tại trong cuộc chia tay. - Hôm nay, không gian mênh mông trong nỗi nhớ của nhân vật trữ tình. Khoảng không gian ấy gợi chút buồn hiu hắt khi nhân vật trữ tình phát hiện ra đó chỉ là sự vô vọng, bởi xung quanh cô chỉ có “tiếng reo trẻ chăn bò và hàng thông ngơ ngẩn đứng” . Câu 2: + Khi chia tay, giữa hai người còn vương vấn, lưu luyến không muốn rời xa. Giữa họ, thời gian đang ngừng trôi, không gian như chìm lắng. + Người yêu mến đang thực sự bối rối với sự chia tay sẽ diễn ra nên trong lời khẩn cầu có chút gì đó như là cơn gió thoảng qua, như là sự giật mình tỉnh lại trong một giây lạc nhịp suy nghĩ. + Không thể nói đó là người không đáng tin. Đằng sau lời khẩn cầu hôm qua đó, người yêu mến vẫn lưu giữ một tình cảm chân thành với kí ức của mình. Câu 3 : + Nhân vật trữ tình đang nhớ, một nỗi nhớ sâu sắc khiến nhân vật trữ tình nhìn sự vật thiên nhiên với ánh mắt buồn bã. + Nỗi nhớ khiến nhân vật trữ tình như không làm chủ bản thân mình. Cảm giác mất mát, đau đớn, giằng xé đang chiếm lấy tâm hồn nhân vật bao trùm lấy không gian mênh mông của quá khứ và hiện tại. Câu 4: + Bài thơ mang dáng dấp của một câu chuyện với kết cấu tự sự xuyên suốt. - Câu chuyện ấy bắt đầu bằng việc miêu tả không gian buổi chiều buồn ngơ ngẩn của thiên nhiên và con người. - Câu chuyện tiếp diễn với những suy nghĩ, những phán xét của nhân vật trữ tình về câu chuyện tình yêu của mình. PHỤ LỤC 12: CHÂN DUNG CÁC TÁC GIẢ LỰA CHỌN TRONG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC NGA A. Puskin M. Lermôntôp A. Sêkhôp A. Grin A. Akhamatôva C. Pauxtôpxki X. Êxenin Ian Lari M. Sôlôkhôp C. Aimatôp

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHPPDH013.pdf
Tài liệu liên quan