Lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nước ta trong những năm đổi mới nền kinh tế vừa qua còn nhiều khó khăn, thời gian sử dụng lao động còn thấp, ngành nghề, dịch vụ nông thôn phát triển còn chậm, năng suất thấp, chất lượng cây trồng vật nuôi nói chung còn thấp, môi trường ô nhiễm . đời sống nông dân thấp.
Tuy nhiên trong những năm gần đây Đảng , Nhà nước đã quan tâm đưa ra những chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp nông thôn , chính sách quản lý nông nghiệp , chính sách xoá đói giảm nghèo . nên phần lớn đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn so với những năm trước đó , cùng với những chính sách đầu tư kịp thời của Ngân hàng nông nghiệp đã tạo cho kinh tế hộ nông dân Việt Nam có thêm sức mạnh mới .
Ngày nay kinh tế hộ nông đã được xác định đúng vị trí của nó trong nền kinh tế xã hội , kinh tế nông nghiệp nông thôn là thị trường rộng lớn nó đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội nước ta . Kinh tế hộ nông dân phát triển đã góp phần đưa sản lượng lương thực ngày càng tăng , hàng hoá nông sản ngày càng nhiều chuyển dần kinh tế nông nghiệp nông thôn thnàh kinh tế hàng hoá nông phẩm đồng thời nó cũng góp phần giải quyết hàng loạt những vấn đề mà Nhà nước đang quan tâm để đưa kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển .
Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu luận văn đã hoàn thành các nhiệm vụ sau :
1 . Góp phần hệ thống hoá những luận điểm cơ bản về kinh tế trong nền kinh tế hộ nước ta , cũng như những vấn đề cơ bản về vai trò của Ngân hàng đối với nền kinh tế nói chung và việc phát triển kinh tế hộ nói riêng trong nền kinh tế thị trường . Từ đó đưa ra những luận cứ để vận dụng trong thực tiễn quản lý , chỉ đạo thực hiện vấn đề đầu tư tín dụng đối với kinh tế hộ nông dân .
2 . Luận văn đã nghiên cứu những hình thức tín dụng truyền thống trong nông thôn Việt Nam , từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích để tham khảo trong quá trình thực hiện đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ ở Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới .
3 . Luận văn đã phân tích tổng quát thực trạng việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng đối với kinh tế hộ ở Huyện Kinh Môn . Từ đó rút ra những tồn tại , hạn chế , nguyên nhân của nó trong quá trình đầu tư , trên cơ sở đó luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với kinh tế hộ .
4 . Luận văn nghiên cứu những phương hướng phát triển tất yếu của kinh tế hộ ở Huyện Kinh Môn trong những năm tới , đồng thời đưa ra một số kiến nghị trong chính sách quản lý kinh tế vĩ mô các chính sách phải thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế của Nhà nước và của ngành Ngân hàng nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế hộ sản xuất hàng hoá ở nông thôn nước ta . Cũng như sự cần thiết phải mở rộng đầu tư đồng bộ của Ngân hàng cho thành phần kinh tế này .
Phát triển kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là hướng đi đúng đắn trong tình hình hiện nay . Vì thế đầu tư tín dụng cho nó là hết sức cần thiết và quan trọng . Đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ là một lĩnh vực rộng lớn , phong phú và phức tạp , những kết quả nghiên cứu của bản luận văn chỉ là một đóng góp nhỏ , giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ là đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ nông dân ở chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp huyện Kinh Môn, do đó không sao tránh khỏi những hạn chế. Ngoài kết quả đóng góp của luận văn, chắc chắn sẽ còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu rộng thêm để không ngừng cải tiến , tăng cường , mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ nông dân ở nước ta . Vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô , đồng nghiệp và bất cứ ai quan tâm tới đề tài này .
Cuối cùng một lần nữa em xin cảm ơn sự gúp đỡ đóng góp của Thầy Nguyễn Kim Anh và các thầy cô giáo trong khoa cùng đồng chí Giám đốc, các bạn đồng nghiệp Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn - Tỉnh Hải Dương./.
89 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1580 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tín dụng hộ sản xuất: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phụ nữ, trong việc triển khai thực hiện.
- Những chính sách mở đường của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam như QĐ 67. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai đồng bộ mở rộng cho vay theo tổ nhóm theo QĐ 180 của Hội đồng quản trị - Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam. Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Hải Dương đã ký các văn bản phối hợp với các tổ chức đoàn thể cấp tỉnh như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Cựu chiến binh...
Tổ chức triển khai tuyên truyền đến cấp xã bằng cách họp đến tổ nông dân, các chi hội nông dân, Chi hội phụ nữ, phân công các cán bộ tín dụng phụ trách có trách nhiệm tuyên truyền chính sách cho bà con để bà con hiểu rõ chủ trương và phương hướng tiếp cận với vón Ngân hàng. Trong các buổi họp của dân Ngân hàng đã lắng nghe và giải thích cặn kẽ các câu hỏi của bà con, đồng thời phổ biến các thủ tục cần thiết và đặc biệt là tầm quan trọng và sự cần thiết thành lập tổ vay vốn giúp bà con hiểu quyền lợi và trách nhiệm của mình .
- Về cơ chế tín dụng : đã xem xét cụ thể, bước đầu đã đưa ra được những phương thức cho vay thích hợp, giảm bớt phiền hà, cung cấp vốn kịp thời cho hộ nông dân. Trong quá trình thực hiện cũng đã nghiên cứu điều chỉnh để phù hợp với thực tế trong từng giai đoạn. Như Nghị định 178/1999/NQ - CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức kinh tế, thông tư số 06/2000/TT - NHNN 1 ngày 14/4/2000 hướng dẫn thực hiện Nghị định 178 đã tạo hành lang pháp lý khá rộng cho tổ chức tín dụng và khách hàng vay vốn. Nhưng điều cốt lõi là tổ chức tín dụng đã tự quyết định và tự chịu quyết định của mình do đó tổ chức tín dụng buộc phải thận trọng trong mọi hoạt động của mình.
- Rút kinh nghiệm trong hoạt động của công tác thu hồi công nợ trong giai đoạn trước đây; công tác tín dụng hộ sản xuất đã chú ý đến việc phối hợp , tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của Đảng uỷ , chính quyền đoàn thể các cấp , tạo điều kiện cho Ngân hàng tiếp cận với hộ nông dân được thuận lợi kể cả trước và sau khi cho vay , nhất là những trường hợp rủi ro về phía Ngân hàng sẽ có cơ sở để giải quyết .
- Công tác cán bộ của Ngân hàng nông nghiệp cũng có những đổi mới :Đã chú trọng đến việc bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ sử dụng đội ngũ cán bộ trẻ , có năng lực . Động viên tinh thần , kết hợp với biện pháp kích thích bằng lợi ích vật chất kịp thời cho cán bộ tín dụng dựa theo những tiêu thức đã khoán , tạo khí thế hăng say trong công việc , trong toàn thể cán bộ nhân viên .
- Đổi mới công nghệ Ngân hàng đa dạng hoá các dạng sản phẩm , công tác marketing Ngân hàng gần đây cũng phát triển ...tạo lập được mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng , giữ được khách hàng truyền thống , khách hàng uy tín, khách hàng lớn đồng thời phát triển tăng thêm những khách hàng mới . Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu của khách hàng cũng như nhu cầu kinh doanh của ngân hàng để đạt được những kết quả trong kinh doanh Ngân hàng góp phần thắng lợi vào sự nghiệp chung của toàn ngành và sự nghiệp phát triển của đất nước . Đẩy mạnh công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước , nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường Quốc tế.
- Luật Ngân hàng ra đời đã tạo hành lang pháp lý cho Ngân hàng hoạt động : đối tượng , quy mô được mở rộng .
3.2- Những mặt tồn tại :
Bên cạnh những kết quả đã đạt được nói trên còn một số những tồn tại sau:
- Về huy động vốn : Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đảm bảo được cơ cấu dư nợ vẫn còn thiếu vốn dài hạn , thừa vốn ngẵn hạn , nên chưa đáp ứng được nhu cầu các loại vốn phục vụ cho nhu cầu sản xuất của nông dân .
Chỉ tiêu
1998
1999
2000
I- Cơ cấu cho vay
1- Ngắn hạn
85%
80%
72%
2- Trung, dài hạn
15%
20%
28%
II- Cơ cấu huy động
1- Dưới 12 tháng
51%
70%
77%
2- Trên 12 tháng
49%
30%
23%
Nhìn vào ta thấy có sự mâu thuẫn : cơ cấu dư nợ thì có chiều hướng tăng còn huy động vốn trên 12 tháng có chiều hướng giảm . Như vậy là chưa có sự tương xứng về mặt thời hạn giữa vốn huy động và sử dụng vốn.
+ Hình thức huy động còn đơn điệu, công nghệ Ngân hàng còn yếu, cơ sở vật chất còn thiếu thốn , trình độ cán bộ còn chưa đồng đều .
- Về cho vay :
+ Kết cấu dư nợ cho vay còn chưa hợp lý so với yêu cầu vốn để mở rộng sản xuất của hộ nông dân . Thực tế thời gian qua công tác cho vay của Ngân hàng chủ yếu đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn cho quá trình tái sản xuất giản đơn ; Muốn đầu tư mở rộng sản xuất phải có một cơ cấu đầu tư thích hợp giữa vốn ngắn hạn và trung dài hạn để cân đối giữa vốn cố định và vốn lưu động trong quá trình sản xuất như phần nguồn vốn ở trên đã nêu .
+ Cơ cấu vốn đầu tư chưa chú trọng việc mở rộng ngành nghề ( cho vay đối tượng khác ) . Tình trạng dư thừa lao động ở nông thôn hiện nay vẫn còn . Vào thời kỳ nông nhàn, làn sóng lao động từ nông thôn tràn ra các thành phố tìm việc , gây xáo trộn đời sống xã hội và bản thân người lao động cũng gặp nhiều khó khăn phức tạp .. Để khôi phục sản xuất ngành nghề trên địa bàn là nhiệm vụ của các ngành , các cấp chính quyền .
Tuy nhiên Ngân hàng cũng chưa có một chính sách đầu tư khuyến khích cho sự hồi sinh của các ngành nghề phụ . Đây là việc làm không chỉ mang tính xã hội mà còn liên quan đến chính sách chiến lược mở rộng kinh doanh của Ngân hàng Nếu ngành nghề phụ được mở rộng , Ngân hàng sẽ có điều kiện để mở rộng đối tượng cho vay ổn định , khắc phục bớt tính chất đầu tư mùa vụ cho sản xuất nông nghiệp .
+ Đầu tư tín dụng chưa chú ý đến thế mạnh của vùng là cây vải đặc sản : Vải là cây đặc sản lâu năm trong vùng , cuối thời kỳ bao cấp, sản phẩm vải tiêu dùng trong nước được coi là xa xỉ, đến nay những sản phẩm từ cây vải cũng không chỉ tiêu dùng trong nước mà vẫn còn có giá trị xuất khẩu. Tuy nhiên,
quan niệm của dân cư chưa coi trọng việc chăm sóc và trồng mới vườn vải, cải tạo các vườn tạp thành các vùng chuyên canh cây đặc sản . Riêng về nội dung này Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn cần có một đề án chuyển đổi cơ cấu cây trồng cần làm điển hình một số nông trại , trang trại về cải tạo và mở rộng vườn cây đặc sản , phát huy thế mạnh của vùng .
+ Chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi còn chậm , một phần do vốn dài hạn của Ngân hàng thiếu .
+ Tài sản thế chấp : Trên thực tế cơ sở pháp lý như giấy tờ sở hữu còn chiếm tỷ lệ nhỏ cho nên hạn chế lượng khách hàng vay vốn sản xuất lớn vì không đủ điều kiện vay . Ngân hàng đã tận dụng giấy xác nhận của ủy ban nhân dân xã , địa chính xã để giải quyết cho vay , nhưng rất khó khăn cho Ngân hàng khi xảy ra tranh chấp ( vì rủi ro sẽ về phía Ngân hàng lớn hơn ) . Nếu thực hiện theo Quyết định 67 thì hộ sản xuất không có tài sản thế chấp chỉ được vay tối đa 10 triệu đồng .
Công tác Marketing Ngân hàng ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn chưa tốt .
+ Trình độ cán bộ chưa cao nhất là cán bộ tín dụng : Theo yêu cầu của Ngân hàng thì 100% cán bộ tín dụng có trình độ đại học mới đáp ứng được nhu cầu của sự nghiệp đổi mới .
Những nguyên nhân của những tồn tại trên :
Nguyên nhân của những tồn tại trên là do công tác tín dụng hộ sản xuất mặc dù đã mang lại những thành tựu cho sản xuất nông nghiệp nhưng qua phân tích cho thấy vẫn còn một số tồn tại, hạn chế, phần nào tác dụng đòn bẩy của tín dụng. Để việc đầu tư tín dụng phát huy hết tác dụng đối với sản xuất cần nghiêm túc xem xét nguyên nhân của những tồn tại để có hướng khắc phục kịp thời.
- Về nguồn vốn :
Biện pháp huy động vốn đã có cải tiến nhưng vẫn còn đơn điệu, cơ chế lãi suất chưa thực sự năng động nên chưa đáp ứng được tình hình mới dẫn đến lượng vốn huy động tuy đã tăng nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp đổi mới thì còn cách xã, cơ cấu huy động chưa hợp lý, chủ yếu là nguồn vốn trung, dài hạn chưa đáp ứng được cơ cấu đầu tư trong sản xuất nông nghiệp .
- Về sử dụng vốn :
Việc sử dụng lãi suất làm công cụ điều chỉnh của công tác tín dụng chưa được coi trọng, tín dụng chưa bám sát quan hệ cung cầu để có được những điều chỉnh thích hợp. Hoạt động tín dụng chưa thực sự tuân theo quy luật của cơ chế thị trường nên phần nào hạn chế vai trò đòn bẩy vốn có của nó .
- Do chính sách lãi suất biến động luôn, chỉ riêng năm 1999 ngân hàng Nhà nước thay đổi 4 lần lãi suất gây tâm lý không tốt cho dân chúng, hơn nữa do có sự biến động của thị trường tiền tệ khu vực, đồng tiền khu vực bất ổn định gây tâm lý cho dân chúng có tư tưởng đầu cơ tích trữ mà không gửi vào ngân hàng, có thì chủ yếu gửi loại thời hạn ngắn, giảm đầu tư.
Từ đó gây khó khăn cho Ngân hàng kể cả huy động lẫn cho vay. Hơn một năm gần đây Ngân hàng Nhà nước thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ các Ngân hàng có điều kiện thu hút được nguồn vốn nhưng lại tắc ở khâu không đầu tư được (đầu ra kém).
- Trong cơ chế hoạt động kinh doanh hiện nay nhưng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn chưa có bộ phận Marketing ngân hàng .
- Do chưa có bộ phận Marketing ngân hàng kể cả là việc phân công cán bộ kiêm nhiệm .
- Luật Ngân hàng ra đời đã tạo được hành lang pháp lý cho ngân hàng và khách hàng hoạt động nhưng các văn bản hướng dẫn vẫn chưa đồng bộ, hoàn thiện, gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh ngân hàng .
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong những năm gần đây chậm dân chúng ít đầu tư do giá sản phẩm đầu ra thấp làm ảnh hưởng đến việc cho vay ra của ngân hàng .
- Các chính sách về nông sản phẩm đối với nông dân còn chưa thỏa đáng; nên sản lượng tăng nhưng thu nhập không tăng do giá thấp .
- Chính sách đối với các loại hình doanh nghiệp còn chưa bình đẳng nhất là chưa bình đẳng với doanh nghiệp ngoài quốc doanh . Công nghệ ngân hàng tuy có nhiều thay đổi so với thời kỳ trước nhưng vẫn còn lạc hậu chưa đáp ứng được trước yêu cầu đổi mới của đất nước .
- Trình độ cán bộ chưa đồng đều, mặc dù có được nâng lên so với trước nhưng vẫn chưa đáp ứng được so với nhu cầu kể cả cán bộ và cán bộ quản lý .
chương iii
những giải pháp nhằm mở rộng và nâng cao
hiệu quả đầu tư tín dụng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn đối với kinh tế hộ nông dân
i . phương hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân ở huyện kinh môn :
Chính sách quản lý đổi mới nông nghiệp đã có tác động và làm thay đổi lớn tới sự phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung và xu hướng phát triển kinh tế hộ nói riêng. Ngày nay các hộ nông dân ở huyện Kinh Môn cũng như trong cả nước đang chuyển từ kinh tế tự túc, tự cấp không kín sang nền kinh tế sản xuất hàng hóa nông sản tiếp cận thị trường, chuyển dịch kinh tế thuần nông sang sản xuất đa dạng theo hướng : Giỏi nghề gì làm nghề đó, có những hộ vươn lên sản xuất hàng hóa ngày càng cao hoặc có những hộ tách từ nông nghiệp chuyển sang kinh doanh ngành nghề.
Trên cơ sở cải tiến công cụ và thiết bị, tăng năng suất lao động và đi dần vào sản xuất theo hướng chuyên môn hóa, hình thành các hộ sản xuất nông nghiệp nuôi trồng thủy sản, phát triển trang trại và cây ăn quả sản xuất thủ công nghiệp, kinh doanh thương nghiệp ...
Trong quá trình chuyển hóa tất yếu, có sự phân hóa giầu nghèo, Nhà nước phải có chính sách quản lý vĩ mô, đảm bảo cho kinh tế hộ phát triển, tăng số hộ giầu và giảm số hộ nghèo .
Sự hình thành các nông hộ kiểu mới đã tạo nên sự chênh lệch giữa các hộ về quy mô và cơ sở vật chất kỹ thuật như : Về diện tích đất đai, vốn lao động, trình độ hiểu biết. Đây là các yếu tố dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các hộ. Mặt khác sự phát triển kinh tế hộ sẽ nẩy sinh ra quá trình tích tụ tập trung ruộng đất, vốn và cơ cấu vật chất ngày càng tăng, đã giảm tính manh mún, phân tán của nền sản xuất tiểu nông sang nền sản xuất hàng hóa .
Theo quy luật phát triển tất yếu của nền sản xuất hàng hóa, cạnh tranh xẩy ra, cùng với nó là sự phá sản và tích tụ cũng xẩy ra. Những hộ có vốn lại biết tính toán làm ăn sẽ thắng trong cạnh tranh và họ sẽ mua sắm nhiều tư liệu sản xuất tiên tiến và điều tất yếu sẽ trở thành những ông chủ mới ở nông thôn .
Hiện nay trong quá trình chuyển hóa của hộ, xuất hiện nhiều loại hộ khác nhau : Hộ nhận khoán, nhận thầu mua thêm ruộng đất của người khác ... nhìn chung những loại hộ này để có vốn, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh họ có thể dùng lao động trong gia đình hoặc thuê lao dộng nên họ có điều kiện phát triển kinh tế nhanh, họ đi vào thâm canh áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, những công nghệ sản xuất tiên tiến và sẽ trở thành những nông trại cá thể trong sản xuất nông nghiệp. Họ liên kết, liên doanh với công nghiệp để chế biến nông sản phẩm, chuyển đổi dần kinh tế nông nghiệp thuần nông sang kinh tế hàng hóa nông phẩm thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển .
ii . những chính sách kinh tế của nhà nước tạo tiền đề cho kinh tế hộ nông dân phát triển :
1. Chính sách ruộng đất :
Quan hệ sở hữu nói chung và trong nông nghiệp nói riêng kể cả về lý luận và thực tiến là một trong những vấn đề then chốt cơ bản và phức tạp nhất . Yêu cầu quan trọng của việc đổi mới trong kinh tế nông nghiệp trước tiên phải đổi mới quan hệ sở hữu, đặc biệt là quan hệ sở hữu ruộng đất, đây là một "khâu đột phá" chủ yếu và có tính chất quyết định, là vấn đề cốt lõi trong đời sống kinh tế ở nông thôn, nó là điều kiện và phương tiện của sản xuất nông nghiệp .
Thực hiện khoán 10, quan hệ về ruộng đất ở nông thôn đã được điều chỉnh phù hợp với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, quyền sử dụng lâu dài ruộng dất của người nông dân được thừa nhận (đó chính là động lực chủ yếu để tạo ra những thay đổi rất có ý nghĩa trên lĩnh vực tín dụng ngân hàng ở nông thôn). Luất đất đai Việt Nam khẳng định : Đất đai là thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho cá nhân hoặc tổ chức theo quy định của luật.
ở Kinh Môn việc giao ruộng đất cho hộ nông dân sử dụng lâu dài (20 năm) đã làm sống động sản xuất nông nghiệp. Việc xác định quyền chi phối kết quả lao động của mình trên đất đai đó, quyền thừa kế, quyền chuyển nhượng đất đai tạo ra một sinh khí mới làm thay đổi tâm lý, suy nghĩ của người nông dân. Nhưng vấn đề không chỉ dừng lại ở quyền sử dụng đất mà vấn đề còn sâu sắc hơn địa vị của người nông dân đối với ruộng đất . Cần phải tạo điều kiện để người nông dân trở thành người chủ thực sự trong nông thôn, chỉ như vậy mới có thể chuyển nông thôn qua sản xuất hàng hóa nông phẩm hướng tới thị trường. Hợp pháp hóa quyền sử dụng, quyền thừa kế đất đai sẽ tạo điều kiện để nông dân yên tâm bỏ vốn, công sức, đẩy mạnh sản xuất kinh doanh. Còn việc hợp pháp quyền chuyển nhượng ruộng đất sẽ tạo điều kiện cho sự tích tụ, tập trung ruộng đất, lao động hình thành cơ cấu kinh tế mới, nhân tố quan trọng trong sự phát triển kinh tế nông nghiệp .
Việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất, cần triển khai dứt điểm. Đây cũng là một khó khăn cho việc quan hệ vay vốn của nông dân đối với ngân hàng. Hiện nay UBND tỉnh chưa cấp đủ sổ đỏ về quyền sử dụng đất thổ cư cho dân, khó khăn cho ngân hàng trong việc cho vay thế chấp tài sản (bất động sản) đối với những hộ vay trên 10 triệu đồng.
2 . Chính sách thuế :
Nhà nước cần nghiên cứu và triển khai chính sách thuế nông nghiệp cho khoa học phù hợp với điều kiện của nông thôn, khuyến khích phát triển sản xuất tăng nguồn thu cho ngân sách nhưng cũng phải nên cải tiến hệ thống thuế hiện nay ở nông thôn, chỉ nên thu thuế sử dụng đất và chất lượng đất. Thuế đối với nông dân nên thu một năm hai kỳ bằng tiền, xóa bỏ thu thuế bằng hiện vật. Nhà nước điều chỉnh cơ cấu cây trồng vật nuôi bằng mức thuế theo hướng mở rộng vùng chuyên canh theo định hướng của Nhà nước, nhằm phát triển tổng hợp, toàn diện trong nông nghiệp, phá thế độc canh cây lúa, khuyến khích nông dân đầu tư phát triển các loại sản phẩm có giá trị cao cho tiêu dùng và xuất khẩu, khai thác giải phóng những tiềm năng sẵn có của từng địa phương để phục vụ cho sự nghiệp phát triển đất nước .
3 . Chính sách hỗ trợ ban đầu của Nhà nước :
Kinh tế huyện Kinh Môn chủ yếu là nông nghiệp, thu nhập từ cây lúa hàng năm chiếm tỷ trọng khá lớn so với tổng sản phẩm trong huyện. Do đó việc đầu tư vốn cho khu vực này cũng phải được quan tâm đúng mức .
Để đảm bảo thỏa mãn vốn cho nền kinh tế nông nghiệp đang phát triển trong tỉnh, các chủ thể trong huyện, đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp cần phải huy động tối đa tiềm năng có thể của Nhà nước, của nhân dân đồng thời đẩy mạnh phương thức Nhà nước, nhân dân cùng làm. Hiện nay thu nhập của nhân dân còn thấp nhưng có chính sách rõ ràng, hợp lý thì vẫn có thể huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân và khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng theo nghị quyết số 03/ CP thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa trong nông nghiệp và nông thôn .
Kinh Môn là một huyện vùng địa lý phức tạp, trước đây sản xuất 2 vụ còn khó khăn, nhờ hệ thống thủy lợi của Nhà nước đầu tư trong những năm qua tạo điều kiện cho sản xuất tăng 3 vụ. Để khai thác triệt để mạng lưới thủy lợi vào sản xuất cần tăng cường đầu tư vốn trung và dài hạn cho khâu thủy lợi nội đồng để đảm bảo tưới tiêu kịp thời sẽ góp phần bội thu cho các mùa vụ trong huyện .
Kinh tế nông nghiệp huyện Kinh Môn phát triển được hay không còn phải phụ thuộc vào rất nhiều nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Vì vậy cần phải tận dụng triệt để những điểm mạnh từ nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn này giúp cho địa phương xây dựng hệ thống thủy lợi công trình thủy nông kênh mương nội đồng, nhập vật tư như phân bón, thuốc trừ sâu, cung cấp kỹ thuật hiện đại, cơ sở hạ tầng để phục vụ cho sản xuất nông nghiệp ở nông thôn. Có như vậy thì nông thôn huyện Kinh Môn mới ngày càng phát triển tốt hơn .
4 . Chính sách phát triển ở thị trường nông thôn :
Kinh Môn là một huyện giáp danh với 2 tỉnh : Quảng Ninh và Hải Phòng có khả năng tiếp cận thị trường giao lưu hàng hóa với các tỉnh bạn. Sản xuất lương thực của huyện hàng năm ngoài việc cung cấp tiêu dùng trong địa bàn huyện còn bán đổi cho các tỉnh bạn .
Trong những năm tới khả năng sản xuất lúa gạo và các mặt hàng nông sản thực phẩm khác sẽ tăng cao hơn nhiều. Để tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế, Nhà nước cần có những chính sách vĩ mô về thị trường nông thôn, về những chi phí đầu vào và thị trường đầu ra như giá cả, chính sách thu mua các cơ sở chế biến ... tránh tình trạng dân làm ra không có nơi tiêu thụ .
Nói đến sản xuất hàng hóa phải nói đến thị trường tiêu thụ, việc nghiên cứu dự báo nhu cầu thị trường, xu hướng biến động trong nước với việc tiêu thụ sản phẩm là rất quan trọng. Do đó trong vai trò quản lý vĩ mô Nhà nước cần quan tâm giải quyết vấn đề này. Với việc củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ và dịch vụ. Nhà nước cần có chính sách đảm bảo cho thị trường lao động và thị trường tài chính tiền tệ trong nông thôn có điều kiện phát triển và phát huy tác dụng .
5 . Chính sách bảo hiểm mùa màng và bao tiêu nông phẩm :
Từ nền kinh tế kế hoạch hóa chuyển sang cơ chế thị trường, giá bán vật tư và giá mua nông sản được hình thành theo nguyên tắc thỏa thuận, căn cứ vào quan hệ cung cầu trên thị trường . Nhất là từ khi hộ sản xuất được tự chủ sản xuất thì việc sản xuất hầu như do từng hộ lo liệu . Nhưng do trình độ của nông dân còn thấp và bỡ ngỡ với cơ chế mới. Sản xuất canh tác dựa vào kinh nghiệm dân gian với những kỹ thuật canh tác lạc hậu, giống cây trồng vật nuôi được cải tạo nhưng chưa nhiều vì vậy năng suất lao động chưa cao .
Muốn tạo ra hiệu quả cao hơn thì phải thay đổi tập quán canh tác bằng những biện pháp: Nâng cao trình độ cho người nông dân, tăng cường hoạt động của các tổ chức khuyến nông và đặc biệt là công tác bảo hiểm mùa màng cho nông dân. Trong sản xuất nông nghiệp thường phụ thuộc vào thiên nhiên thường gặp nhiều rủi ro (do thiên tai gây ra). Nhà nước cần giành một phần ngân sách để tổ chức công tác bảo hiểm mùa màng cho nông dân, thông qua các tổ chức bảo hiểm. Nhưng muốn làmg được như thế thì các tổ chức bảo hiểm phải được thành lập và tổ chức hoạt động theo đúng quy định của Nhà nước (có thể trực thuộc Công ty bảo hiểm hoặc phòng nông nghiệp, cũng có thể hoạt động độc lập). Đội ngũ cán bộ hoạt động phải có chuyên môn, có năng lực về nghề nghiệp, tận tuỵ với công việc và nhạy bén xử lý các tình huống xẩy ra. Về lâu dài các tổ chức bảo hiểm mùa màng có thể chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường, Nhà nước cấp vốn pháp định ban đầu .
Theo kinh nghiệm một số nước trên Thế giới thì nếu công tác bảo hiểm tổ chức và thực hiện tốt sẽ thu được kết quả cao cho người bảo hiểm và được bảo hiểm. ở Việt Nam nếu làm tốt công tác bảo hiểm mùa màng thì sẽ tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp. Nông dân an tâm bỏ vốn để đầu tư phát triển sản xuất, nhưng Nhà nước cũng cần có chính sách bảo hộ giá sản xuất cho người nông dân bằng biện pháp trợ giá cả đầu vào và đầu ra. Đầu vào nên giảm giá vật tư, phân bón, thuốc trừ sâu, đầu ra phải có chính sách thu mua tạo qũy quay vòng sản xuất, giá cả thu mua phải đảm bảo cho người sản xuất có lãi. Khi sản phẩm làm ra Nhà nước cần điều hòa lượng mua qua các Công ty quốc doanh, Cục dự trữ quốc gia, có thể áp dụng hình thức bao tiêu nông sản phẩm, nhằm không cho tư thương ép giá, đảm bảo quyền lợi người sản xuất .
iii . những giải pháp lớn nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng của ngân hàng đối với kinh tế hộ nông dân ở huyện kinh môn :
1 . Chính sách tín dụng của Ngân hàng Nhà nước tạo lập thị trường tín dụng trong nông thôn .
Chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề thuộc lĩnh vực vĩ mô trong phạm vi toang quốc cũng như phạm vi Tỉnh, huyện, đặc biệt là vấn đề tạo lập thị trường vốn trong nông nghiệp, các giải pháp kích cầu, các chính sách tháo gỡ khó khăn, bảo hộ sản xuất kinh doanh, lãi suất. Thị trường tài chính nông thôn là một bộ phận tài chính quan trọng của toàn bộ thị trường tài chính cả nước đây là nơi trung gian tự do trao đổi, mua bán các loại phương tiện tín dụng và môi giới tín dụng .
Theo nghĩa rộng tài chính nông thôn là tổng hòa nhiều mặt hoạt động tín dụng, lưu thông vốn ở nông thôn. Trong hoạt động tín dụng có thể lưu thông vốn tại một nơi cố định nào đó, một khu vực nào đó nhưng cũng có thể là cơ chế "môi giới giao dịch" giữa những nơi có nhu cầu vốn khác nhau, giữa các chủ thể tham gia vào quá trình lưu thông . Chính những hoạt động này đã hình thành và đẩy mạnh sự phát triển thị trường tài chính tín dụng ở nông thôn.
Quá trình lưu thông tài chính ở nông thôn gồm hai hình thức :
- Hình thức trực tiếp : Người có vốn và người có nhu cầu vốn giao dịch trực tiếp với nhau trong quan hệ mua bán tiền vốn thông qua những công vụ giao dịch như : Tiền mặt, các loại giấy tờ có giá trị (tín phiếu, trái phiếu) hoặc bằng hiện vật (kim loại qúy).
- Hình thức gián tiếp : Người có vốn và người cần vốn giao dịch với nhau thông qua một tổ chức trung gian làm nhiệm vụ lưu thông vốn chẳng hạn như : Ngân hàng cổ phần, ngân hàng nông nghiệp, qũy tín dụng nhân dân, các tổ chức trung gian này đã thu nhận tiền vốn từ những người có vốn sau đó cho vay lại đối với những người có nhu cầu vốn. Ngân hàng nông nghiệp quốc doanh đóng vai trò quan trọng và có tính chất quyết định trong những tác nhân hình thành nên thị trường tài chính tín dụng ở nông thôn Việt Nam hiện nay .
Thị trường vốn trong nông thôn huyện Kinh Môn diễn ra sôi động với nhiều hình thức lưu thông vốn khác nhau kể cả hệ thống chính thức và không chính thức . Ngân hàng Nhà nước nhất là Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam với vai trò chỉ đạo cần giải quyết hàng loạt vấn đề dần dần điều tiết thị trường vốn này. Cùng với những củng cố và tăng cường mạng lưới của Ngân hàng nông nghiệp, cần phải thành lập hệ thống các ngân hàng cổ phần nông thôn, qũy tín dụng nhân dân khu vực, để hình thành và đẩy mạnh sự hoạt động của thị trường vốn trong nông thôn đáp ứng những nhu cầu kinh tế thị trường .
2 . Những giải pháp nghiệp vụ cụ thể để mở rộng thị trường tín dụng và nâng cao hiệu quả tín dụng :
Một là : Mở rộng nguồn vốn .
Nội dung quan trọng nhất trong chính sách tài chính của Nhà nước nói chung và của ngân hàng hiện nay là chính sách tạo vốn, chính sách điều hòa vốn giữa các khu vực, đảm bảo cho ngân hnàg nông nghiệp thực sự là ngân hàng thwong mại hoạt động theo cơ chế thị trường. Không có vốn thiếu vốn thì làm gì cũng khó. Do đó việc tạo lập vốn là giải pháp hàng đầu để phát triển kinh té thị trường và đảm bảo sự hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trong những năm tới chính sách tạo vốn phải tạo điều kiện khai thác mọi tiềm năng nguồn vốn trong nước, phải đẩy mạnh hoạt động tài chính thông qua vay nợ, viện trợ, liên doanh với nước ngoài .
Ngân hàng nông nghiệp với chức năng chính là phục vụ cho nông nghiệp trong huyện đòi hỏi phải có nguồn vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, nhu cầu vốn của hộ sản xuất trong toàn tỉnh. Trước hết với phương châm đi vay để cho vay Ngân hàng nông nghiệp huyện Kinh Môn cần phải có nhièu hình thức huy động đa dạng, vừa phải đẩy mạnh các biện pháp huy động các loại nguồn vốn ngắn hạn như lâu nay, đồng thời phải chú trọng mở rộng các biện pháp huy động nguồn vốn trung hạn nhằm chủ động đáp ứng cho mở rộng đầu tư tín dụng trung hạn đang cấp thiết đặt ra .
Đối với huy động nguồn vốn ngắn hạn, trên cơ sở các biện pháp đã tích cực áp dụng như lâu nay: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, ngắn hạn và không kỳ hạn, kỳ phiếu nganứ hạn cá loại, tiền gửi khác... phải chú trọng hơn việc khuyến khích mở rộng và sử dụng tài khoản cá nhân, dịch vụ thanh toán,chuyển tiền nhan chóng và thuận lợi để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi vào ngân hàng. Đặc biệt phải có các hoạt động dịch vụ như dịch vụ thu chio tiền mặt, dịch vụ vay ủy thác... Nhằm vừa tăng thu cho ngân hàng, vừa tạo nguồn vốn nhàn rỗi két dư thừa thường xuyên trong ngân hàng.
Huy động nguồn vốn trung hạn có thể thực hiện dưới các hình thức sau:
- Phát hành kỳ phiếu các loại: Trước mắt thực hiện loại trên 1năm, loại 2 năm. Khgi nền kinh tế đã đi vào ổn định sẽ phát hành kỳ phiếu dài hạn hơn từ 3 - 5 năm. Để tạo thuận lợi và khuyến khích người mua lên phát hành kỳ pơhiếu các loại: Kỳ phiếu ký danh và không ký danh, kỳ phiếu ký danh có chuyển nhượng và không chuyển nhượng và không chuyển nhượng, kỳ phiếu trả lãi trước, trả lãi hàng kỳ hoặc trả lãi một lần khi đến hạn... nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường để khuyến khích người mua đồng thời tạo thuận lợi cho lưu chuyển kỳ phiếu trên thị trường .
- Mở rộng các loại tiết kiệm kỳ hạn trên một năm: Trước mắt lên áp dụng kỳ hạn 13 tháng, loại 2 năm để phù hợp với trình độ tính toán của người dân .
Cùng với đa dạng hoá các hình thức huy động vốn cần phát triển mạng lưới kinh doanh đa năng. Ngân hàng nông nghiệp không chỉ nhận gửi , cho vay theo lối truyền thống mà còn mở rộng các nghiệp vụ tín dụng thuê mua, cầm cố, thế chấp, môi giới, bảo hiểm kinh doanh chứng khoán... khi có điều kiện cho phép. Riêng đối với tín dụng thuê mua ngân hàng nong nghiệp phải sớm nghiên cứu và lập phương án khai thác tài sản, Thăm dò nhu cầu thị trường, khách hàng để từng bước thực hiện, tín dụng thuê mua chính là kênh dẫn vốn trung, dài hạn rất quan trọng và là tiềm năng lớn để phát triển nông thôn, đua nông nghiệp tiếp cận nhanh với máy móc và thiết bị hiện đại.
Hai là: Đa dạng hóa các phương thức cho vay.
Đang dạng hóa phương thức cho vay mở rộng đầu tư , nhu cầu đầu tư ngày càng tăng, vì thế ngân hàng phải tăng cường mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của kinh tế hộ. Muốn giải quyết được vấn đề này thì ngân hàng phải đa dạng hóa các phương thức cho vay, bên cạnh việc đẩy mạnh việc cho vay trực tiếp (bán lẻ), cũng nên bán buôn thông qua các ngân hàng cổ phần nông thôn, qũy tín dụng nhân dân, các định chế tài chính trung gian khác và công đoàn tự nguyện, , các tổ chức liên đới trách nhiệm, hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, hội làm vườn ... đây là hệ thống chân rết rộng khắp giúp ngân hàng nông nghiệp có thể vươn tới và chiếm lĩnh thị trường tín dụng rộng lớn trong nông thôn toàn tỉnh. thực tế trong những năm qua các chức này hoạt động rất có hiệu quả, giúp ngân hàng nông nghiệp thực hiện tốt chức năng của mình .
Ba là : Mở rộng đầu tư tín dụng, bảo đảm một cơ cấu đầu tư vốn hợp lý, giữa tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn tạo điều kiện thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng trong nông nghiệp, phát triển ngành nghề, khai thác thế mạnh vùng cây đặc sản của địa phương : Để thực hiện mở rộng tín dụng theo hướng bảo đảm cơ cấu đầu tư hợp lý, về lãi suất cần điều chỉnh cho phù hợp, cả tiền gửi và tiền vay, theo hướng thời gian ngắn thì lãi suất thấp, thời gian dài thì lãi suất cao hơn để tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện lãi suất dương, kinh doanh có hiệu quả và mở rộng được đầu tư trung và dài hạn vì không bó hẹp bởi nguồn vốn. Nhất là trong tương lai, chúng ta phải tiến tới hòa nhập với lãi suất tín dụng quốc tế .
Bốn là : Cải tiến hồ sơ thủ tục cho vay và tài sản thế chấp .
Cải tiến thủ tục cho vay : Qua những năm thực hiện cho vay kinh tế hộ theo quy định 180 và gần đây là quyết định 06/HĐQT về hồ sơ thủ tục đã được một bước cải tiến so với quy định 499A/NHNN và quy chế cho vay đối với khách hàng của NHNo&PTNT - VN. Song vẫn nổi lên những vấn đề cần giải quyết, làm sao cho thủ tục gọn nhẹ, giảm bớt khó khăn trong quá trình vay vốn của nông dân nhưng phải đảm bảo cơ sở pháp lý. Nhưng thủ tục đơn giản có thể không cần đến dự án sản xuất kinh doanh như hiện nay mà nên quy định phương án ngắn gọn theo mẫu in của ngân hàng để hộ sản xuất có đủ khả năng trình độ viết được. Các thủ tục có tính chất pháp lý như giấy phép kinh doanh, giấy tờ phương tiện ... không cần thiết phải quy định cho tất cả đối tượng loại II vì có nhiều loại hình không phù hợp, vì thế không nên quy định chung chung như hiện nay .
Về mẫu đơn khế ước cần nghiên cứu thay đổi lại cho phù hợp (vì hiện nay ngân hàng thu lãi hàng tháng) bổ sung chỗ ký cho cán bộ tín dụng ở khế ước loại 2 và thêm phần điều chỉnh bổ sung ở sổ lưu hộ loại I (vì sau này khi vay trả vài lần, mức vay tài sản thế chấp thay đổi, thậm chí CBTD cũng thay đổi nhưng không có chỗ bổ sung, không có chữ ký bổ sung của cán bộ tín dụng mới).
Đối với những hộ loại 2 không được cấp sổ vay nên nghiên cứu một loại giấy tờ chỉ nên làm lần đầu như bảng kê tài sản thế chấp ... những lần sau người vay chỉ cầnm làm đơn xin vay, khế ước nhận nợ. Đối với những hộ sản xuất kinh doanh ngành nghề phụ trong lúc nông nhàn không thể xin được giấy phép kinh doanh thì chỉ cần phương án kinh doanh được xác nhận của chính quyền sở tại .
- Vấn đề tài sản thế chấp :
Nông dân trong nông thôn có nhiều hộ nghèo nên tài sản thế chấp nợ vay là rất khó khăn, nếu không được vay để làm ăn thì lại càng khó khăn hơn. Ngân hàng nông nghiệp đã từng bước khắc phục những vấn đề chưa được hoàn hảo . Đối với những hộ vay nhiều, có tài sản thế chấp nhưng thủ tục phải đi công chứng mà qua công chứng thì mất nhiều thời gian , thêm cả lệ phí nữa , điều này đã gây khó khăn cho nhiều hộ muốn vay lớn trên 10 triệu đồng , mà khi rủi ro thì công chứng không chịu trách nhiệm . Đối với những hộ muốn vay lớn từ 50 triệu trở lên không vay được , trong trường hợp này nên vân dụng bằng cách : các hộ làm đơn xin thế chấp , ngân hàng cùng với các hộ xác định bản đồ mốc giới và xin xác nhận của chính quyền địa phương ( coi như địa phương xác nhận quyền sở hữu ) vì nhà đất họ đã sử dụng từ lâu đời . Đề nghị các cấp thẩm quyền trong việc cấp quyền sử dụng ruộng đất phải nhanh chóng cấp hết cho các hộ và để hộ có điều kiện thế chấp ngân hàng.
Việc dùng tài sản thế chấp cũng là biện pháp cuối cùng , biện pháp tình thế đề phòng rủi ro , đảm bảo an toàn vốn nhưng không thể thiếu thủ tục này được . Tài sản thế chấp bất động sản , bảo lãnh vay vốn về mặt hình thức chỉ là sự cam kết . Do vậy khi ngân hàng cho vay phải thẩm định lai sự cam kết ấy có đúng không và phải giữ đầy đủ giấy tờ gốc hợp pháp của tài sản thế chấp .
Kinh nghiệm của nghiều nước trong khu vực Đông Nam á đã thành công trong việc cho nông dân vay vốn bằng cách đơn giản hoá thủ tục , giảm nhẹ yêu cầu tài sản thế chấp nhằm đầu tư vốn tín dụng kịp thời .
Năm là : Giải quyết tốt mối quan hệ giữa Ngân hàng nông nghiệp và các tổ chức tín dụng khác .
Tham gia thị trường tión dụng trong tỉnh không chỉ có Ngân hàng nông nghiệp mà còn có các Ngân hàng đầu tư , Quỹ tín dụng nhân dân , Ngân hàng nông nghiệp phải giải quyết tốt mối quan hệ với các tổ chức tài chính và phải xác định mối quan hệ với các tổ chức tín dụng là quan hệ bình đẳng , bạn hàng cùng có lợi , chủ yếu thông qua mối quan hệ tín dụng và giúp đỡ lẫn nhau . Ngân hàng phải củng cố và đẩy mạnh hoạt động của các quỹ tín dụng nhân dân để thu ghút tín dụng từ nguồn khác hoạt động ngầm vào guồng máy dịch vụ tín dụng hoạt động dưới sự quản lý của Nhà nước . Ngân hàng nông nghiệp có thể bán buôn thông qua các tổ chức này thực hiện bán lẻ bán tới hộ sản xuất , tiến tới bán buôn là chủ yếu , khi các quỹ tín dụng nhân dân đủ mạnh để hoạt động . Các tổ chức trên thực hiện " bán lẻ " , Ngân hàng nông nghiệp chỉ cần thực hiện đầu tư theo dự án .
Hiện nay Ngân hàng nông nghiệp giữ vai trò chủ đạo trong thị trường tín dụng nông thôn . Nhưng để tăng cường hiệu quả trong việc đầu tư cho hộ nông dân thì cần phải giải quyết tốt mối quan hệ với Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại khác .
Việc giải quyết tốt những vấn đề này nhằm :
+ Khai thác tốt mọi tiềm năng về vốn ở mọi thành phần kinh tế trong nước và ngoài nước .
+ Thoả mãn nhu cầu vốn của sản xuất , lưu thông hàng hoá .
+ Tạo sự cạnh tranh lành mạnh và phát triển tín dụng .
+ Tạo điều kiện quan trọng để hình thành thị trường tiền tệ , thị trường tài chính .
+ Tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
Sáu là : Kết hợp với việc thực hiện công tác khuyến nông để nâng cao hiệu quả đầu tư , đồng thời kết hợp chặt chẽ với chính quyền đoàn thể địa phương trong quá trình thực hiện cho vay kết hợp với việc thực hiện công tác khuyến nông để năng cao hiệu quả đầu tư .
Để tạo điều kiện cho nông dân nắm vững và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật , công nghệ sản xuất mới , nâng cao trình độ văn hoá , trình độ trong kinh doanh , trình độ hạch toán , phải giáo dục thuyết phục và vận động tuyên truyền , hướng dẫn cho họ dưới nhiều hình thức và phương pháp thích hợp . Trong mấy năm gần đây , ở nhiều địa phương đã hình thành các tổ chức khuyến nông dưới sự giúp đỡ của các cơ quan nghiên cứu khoa học nhằm giúp nông dân trong quá trình sản xuất nông nghiệp đã góp phần nâng cao năng suất , sản lượng , chất lượng cây trồng vật nuôi . Ngân hàng , với trách nhiệm đầu tư phát triển kinh tế cho hộ nông dân cần phải tham gia đẩy mạnh công tác khuyến nông , hướng dẫn cho họ cách thức sản xuất , kinh doanh , đầu tư vốn cho việc áp dụng những tiến bộ mới , đầu tư những công trình xây dựng cơ sở hạ tầng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất . Nếu công tác khuyến nông được thực hiện tốt sec có tác dụng tích cực cho việc đầu tư của ngân hàng và tăng sản xuất cho xã hội .
Kết hợp chặt chẽ với chính quyền , đoàn thể địa phương trong quá trình cho vat hộ nông dân .
Chính quyền địa phương và các cơ quan đoàn thể có vai trò hết sức quan trọng trong quá trình cho vay , thu nợ nhất là đối với hộ nông dân vay vốn của Ngân hàng . Địa bàn nông thôn thì rất rộng nên rất khó khăn cho ngân hàng trong việc điều tra , quản lý quá trình đầu tư vốn . nhưng trong những năm qua chính quyền và các đoàn thể ở địa phương ( nhất là chính quyền , cơ quan hành pháp ) đã đóng vai trò rất tích cực giúp cho Ngân hàng lựa chọn đối tượng để đầu tư hỗ trợ cho vay , xác định tư cách của người vay và tài sản thế chấp , nhất là quá trình quản lý vốn và đôn đốc trả nợ ngân hàng . Như vậy , quá trình đầu tư gắn chặt với sự có mặt của chính quyền địa phương thì nơi ấy công tác cho vay đợc triển khai rộng rãi hơn , hiệu quả hơn và vốn của Ngân hàng được đảm bảo .
Kết hợp chặt chẽ với chính quyền , đoàn thể địa phương trong quá trình đầu tư cho hộ nông dân là rất cần thiết , muốn cho việc này được thực hiện tốt hơn , Ngân hàng phải giành một tỷ lệ hoa hồng thích đáng kịp thời cho chính quyền đoàn thể tham gia vào quá trình cho vay tốt hơn .
Bảy là : Củng cố lại mạng lới Ngân hàng , thành lập thêm các Ngân hàng cấp 4 ở địa bàn xa trụ sở chính để nông dân được tiếp cận với Ngân hàng nhanh chóng kịp thời , mạng lưới dịch vụ nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng .
Chấn chỉnh mạng lưới và tổ chức cán bộ nhằm đáp ứng theo yêu cầu mới của việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng trong thời gian tới theo hướng nâng cao năng lực điều hành của cấp tỉnh và năng lực điều hành của công việc mở rộng và tập trung tín dụng đồng thời tăng khả năng cạnh tranh .
Rà soát lại Ngân hàng cấp 4 ở những nơi kinh tế hàng hoá hoặc trọng điểm đầu tư và phát triển trong quy hoạch thì tăng cường thêm cơ sở vạat chất (kho tàng, thông tin liên lạc, máy vi tính và truyền tin...) và cán bộ nhằm đảm bảo an toàn cho cácc hoạt động nghiệp vụ cũng như phục vụ cho việc mở rộng tín dụng . ở những nơi kinh tế hàng hoá chưa phát triển, tín dụng đầu tư đơn lẻ và bếp bênh, không đảm bảo an toàn kho qũy và thu gọn lại .
Ngoài các bộ phận điều hành và chỉ đạo như hiện nay ở ngân hàng huyện và ngân hàng tỉnh phải hình thành thêm một số bộ phận chuyên trách như bộ phận chuyên thẩm định các dự án đầu tư, bộ phận tiếp thị, bộ phận Marketing, bộ phận khai thác nghiệp vụ ngân hàng. Nhằm đáp ứng cho thực hiện các định hướng đã nêu .
Nhưng yếu tố quyết định cuối cùng vẫn là con người . Với 35 cán bộ CNV, 74 % là nữ, trình độ đại học chiếm 80 %. Cán bộ làm nghiệp vụ chuyên môn đều đã được đào tạo nhưng sự năng động, sự nhạy bén nghiệp vụ chuyên môn trong cơ chế thị trường của một số CBCNV chưa mang đầy đủ tính thương mại, cần được đào tạo lại bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm bổ sung kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường, nâng cao kiến thức nghiệp vụ kinh doanh, trình độ ngoại ngữ, tin học, Marketing ... đồng thời rèn luyện tác phong làm việc có kỷ cương, kỷ luật, phong cách ứng xử với khách hàng, phẩm chất trung thực, trung thành với ngành. Có như vậy mới thực sự đáp ứng yêu cầu mới của nền kinh tế thị trường .
Tám là : Chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để tham gia vào thị trường chứng khoán. Điều này sẽ giúp cho các ngân hàng nông nghiệp nhanh chóng tạo lập tốt được nguồn vốn cho đầu tư trung và dài hạn .
Chín là : Thành lập bộ phận marketing ngân hàng đến ngân hàng cấp huyện và ngân hàng cấp 4 (ngân hàng cấp 4 thì cán bộ nghiệp vụ kiêm luôn), đầu tư thêm về cơ sở vật chất nhất là công nghệ ngân hàng mới đáp ứng được trước sự nghiệp đổi mới của ngân hàng nói riêng và của đất nước nói chung, để sớm hòa nhập với thế giới nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế .
3 . Kiến nghị :
- Đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn:
Để giải quyết triệt để những mặt tồn tại trước mắt Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn cần phải khắc phục một số vấn đề sau :
1 . Về công tác nguồn vốn cần phải đa dạng hóa thêm các hình thức huy động loại vốn có thời hạn dài (trên 12 tháng) nếu cần có thể thực hiện theo hướng dẫn của NHNNVN theo CV số 320/ CV-NHNH 14 ngày 16/4//1999 "Ngoài các hình thức huy động thông thường trường hợp cần thiết huy động vốn cho chương trình phát triển nông nghiệp nông thôn trong từng thời kỳ, các ngân hàng thương mại có thể phát hành trái phiếu với lãi suất cao hơn lãi suất huy động bình thường tại cùng thời điểm, mức lãi suất tối đa không quá 1%/năm " có như vậy mới đáp ứng được vốn vay cho trung, dài hạn cho nông dân xóa bỏ được bất hợp lý giữa cơ cấu vốn và sử dụng nguồn .
2 . Mở rộng tín dụng đối với hộ sản xuất nông trại, cho vay vườn cây ăn quả thông qua việc chủ động nguồn vốn để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế theo vùng, lãnh thổ, địa phương. Cụ thể ở Kinh Môn có thể tập trung phát triển cây vải, đầu tư thí điểm phát triển một số vườn vải có quy mô lớn .
3 . Tuy Kinh Môn là một huyện đồng bằng đất sản xuất nông nghiệp bị hạn chế, nhưng trong quá trình chuyển dịch, tích tụ ruộng đất có thể hình thành được kinh tế trang trại, nông trại, gắn liền với việc phân công lại lao động ở nông thôn, từng bước chuyển dịch lao động nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, chế biến thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp và nông thôn theo Nghị định 03/2000/NQ.
4 . Đầu tư mở rộng ngành nghề khôi phục lại cho vay ngành nghề thủ công mỹ nghệ, bao đay xuất khẩu ... nhằm thu hút lao động trong nông thôn .
5 . Tích cực đào tạo và đào tạo cán bộ lại để nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ nhất là cán bộ tín dụng mục tiêu phải được 100 % cán bộ tín dụng là trình độ đại học .
6 . Tích cực tuyên truyền, tiếp thị quán triệt phương châm xã hội hóa công tác tín dụng ngân hàng sâu rộng trong các tầng lớp dân cư để nông dân biết, nông dân làm, nông dân bàn, nông dân kiểm tra một cách dân chủ, thực sự đúng pháp luật tạo cơ hội cho họ mở rộng việc tiếp cận với ngân hàng một cách thuận lợi và nhanh nhất . Vì cho vay kinh tế nông thôn rất đa dạng, phức tạp và rất nhạy cảm với xã hội .
- Đối với NHNo&PTNT - VN :
1- NHNo&PTNT Việt Nam cần quan tâm hơn nữa trong công tác ngân hàng phục vụ các công trình kinh tế lớn của Nhà nước như nghiên cứu có biện pháp triển khai hiệu quả đối với kinh tế HTX, kinh tế nông trại, kinh tế hộ và hộ nuôi trồng thủy sản. Tạo điều kiện nguồn vốn ủy thác trung, dài hạn cho các Chi nhánh NHNo&PTNT .
2- Trang bị thêm máy móc công nghệ hiện đại cho các chi nhánh và đến cấp huyện .
Tạo điều kiện cho việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ, tạo nguồn kinh phí cho cán bộ đi học để động viên khuyến khích cán bộ nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn .
3- Về thủ tục bộ hồ sơ vay vốn : Bộ hồ sơ vay vốn tuy đã giảm tiện nhiều cho khách hàng so với khi văn bản 499A và QĐ 180 ra đời nhưng về phía Ngân hàng chưa được thuận tiện. Sổ vay vốn dùng để cho vay đa số là hộ vay 10 triệu đồng trở xuống (tỷ lệ hộ vay món nhỏ không phải thế chấp chiếm 70%) số hộ vay của ngân hàng cơ sở. Trong sổ vay vốn kể cả giấy đề nghị vay vốn cho mỗi lần vay có những điểm chưa thật phù hợp hoặc trùng lắp không cần thiết. Để dễ theo dõi nợ tôi cần phải chỉnh sửa một số điểm trong sổ vay vốn như sau : Trong đơn đề nghị vay vốn đã có phương án vay vốn cho từng lần vay rồi, vậy trọng sổ vay vốn nên bỏ từ phần 4 đến phần 8 ở trang 01. Vì nếu để phần này ghi số liệu ngay lúc vay vốn khi lập sổ từ lần vay đầu tiên cho phần ngắn hạn hay trung hạn thì cũng chỉ được một lần cho một loại, các lần vay sau số tiền, phương án khác thì không ghi được. Tôi thấy có trường hợp ghi bổ sung vào trang 02 để cho thấy phương án SXKD thay đổi .
Điểm 9 nên chuyển lên thay điểm 4 . Cam kết này nếu theo như hiện nay thì Giám đốc ngân hàng cam kết chứ không phải hộ vay cam kết .
Trên giấy đề nghị vay vốn hiện nay có phần ghi các thành viên đồng sở hữu tài sản (trên 18 tuổi) theo tôi nên bỏ phần này vì ở sổ vay vốn đã có chữ ký của từng thành viên trong hộ .
Tăng cường công tác tuyên truyền sâu rộng trong hệ thống NHNo&PTNT - VN và cả xã hội sử dụng các phương tiện báo chí của đơn vị, của ngân hàng trung ương và các phương tiện thông tin đại chúng của Nhà nước để phục vụ cho công tác tuyên truyền. Trong công tác tuyên truyền cần nêu cả những mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Những thuận lợi và cả những khó khăn, người tốt và cả người sai phạm ... để học tập và rút kinh nghiệm chung .
Tóm lại : Trong sổ chỉ ghi ở trang đầu và trang 2 tiếp theo phần điều chỉnh về hoàn cảnh thân nhân hộ vay vốn và tài sản làm đảm bảo có điều chỉnh hàng năm . Không ghi phần phương án (dự án) sản xuất kinh doanh vắn tắt vào sổ vay vốn, còn trên giấy đề nghị vay vốn thì không ghi phần thành viên đồng sở hữu tài sản nữa sẽ tránh được trùng lắp .
- Đối với Nhà nước :
1- Phải có chính sách bảo hộ kinh tế nông trại, trang trại, có chính sách khuyến khích phát huy kinh tế chủ của hộ nông dân phát triển kinh tế nông trại, tang trại đi đôi với chuyển đổi HTX cũ mở rộng các hình thức kinh tế hợp tác, liên kết SXKD giữa các hộ nông dân để tạo động lực và sức mạnh tổng hợp cho nông nghiệp nông thôn phát triển .
2- Nhà nước hỗ trợ về vốn, khoa học công nghệ chế biến, tiêu thụ sản phẩm, xây dựng kết cấu hạ tầng để tạo điều kiện cho kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển bền vững nói chung và kinh tế nông trại, trang trại nói riêng .
3- UBND cấp tỉnh chỉ đạo cơ quan địa chính khẩn trương cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để làm cơ sở pháp lý trong cho vay trên 10 triệu đồng và cho vay nông trại, trang trại ...
4- Giảm thấp mức thuế suất nhằm khuyến khích phát triển nông trại, trang trại nông thôn .
5- Nhà nước có kế hoạch hỗ trợ đào tạo nghề nghiệp cho lao động nông thôn bằng nhiều hình thức tập huấn, bồi dường ngắn hạn .
6- Nhà nước có kế hoạch xây dựng các công trình thủy lợi để tạo nguồn nước cho phát triển sản xuất. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn cùng với tỉnh thành phố quy hoạch đầu tư phát triển các vườn cây ươm giống nông nghiệp, cơ sở sản xuất cây giống có chất lượng tốt để có điều kiện cung cấp giống cho hộ nông dân trong vùng .
7- Nhà nước hỗ trợ việc đầu tư nâng cấp, mở rộng, xây dựng các cơ sở chế biến ở các vùng tập trung chuyên canh, hướng dẫn ký hợp đồng cung ứng vạt tư và tiêu thụ nông sản phẩm. Nhà nước tạo điều kiện cho nông dân nhất là các hộ sản xuất lớn, chủ trang trại, nông trại được tiếp cận tham gia các chương trình hợp tác, hội chợ triển lãm ... để đẩy mạnh sự liên kết giữa các cơ sở sản xuất, chế biến, tiêu thụ nông sản của hộ nông dân với các DNNN. Tạo điều kiện cho nông dân xuất khẩu trực tiếp sản phẩm của mình cũng như nhập khẩu vật tư nông nghiệp sẽ giảm được chi phí, tăng thu nhập và mở rộng sản xuất .
8- Nếu cho vay dưới 10 triệu đồng không thế chấp trường hợp không trả được nợ và lãi sẽ xử lý như thế nào thì chính phủ phải quy định rõ để làm cơ sở giải quyết cho Ngân hàng
9- Thông tư số 06/2000/TT - NHNN1 ngày 04/4/2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước thì đối với trang trại, nông trại cây trồng vật nuôi có được tính là tài sản hình thành từ vốn vay không và cơ quan nào cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu cây, con cho họ, vấn đề này cần quy định rõ.
10- Đối với UBND tỉnh triển khai các biện pháp tích cực để đẩy mạnh việc hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông, lâm nghiệp , đất ở nông thôn để hoàn thành vào năm 2001 theo chỉ thị 18/1999 - CT - TTg ngày 01/7/1999 của thủ tướng Chính phủ .
Kết luận :
Lĩnh vực nông nghiệp nông thôn nước ta trong những năm đổi mới nền kinh tế vừa qua còn nhiều khó khăn, thời gian sử dụng lao động còn thấp, ngành nghề, dịch vụ nông thôn phát triển còn chậm, năng suất thấp, chất lượng cây trồng vật nuôi nói chung còn thấp, môi trường ô nhiễm ... đời sống nông dân thấp.
Tuy nhiên trong những năm gần đây Đảng , Nhà nước đã quan tâm đưa ra những chính sách ưu tiên phát triển nông nghiệp nông thôn , chính sách quản lý nông nghiệp , chính sách xoá đói giảm nghèo ... nên phần lớn đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn so với những năm trước đó , cùng với những chính sách đầu tư kịp thời của Ngân hàng nông nghiệp đã tạo cho kinh tế hộ nông dân Việt Nam có thêm sức mạnh mới .
Ngày nay kinh tế hộ nông đã được xác định đúng vị trí của nó trong nền kinh tế xã hội , kinh tế nông nghiệp nông thôn là thị trường rộng lớn nó đã và đang đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội nước ta . Kinh tế hộ nông dân phát triển đã góp phần đưa sản lượng lương thực ngày càng tăng , hàng hoá nông sản ngày càng nhiều chuyển dần kinh tế nông nghiệp nông thôn thnàh kinh tế hàng hoá nông phẩm đồng thời nó cũng góp phần giải quyết hàng loạt những vấn đề mà Nhà nước đang quan tâm để đưa kinh tế nông nghiệp nông thôn phát triển .
Trên cơ sở sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu luận văn đã hoàn thành các nhiệm vụ sau :
1 . Góp phần hệ thống hoá những luận điểm cơ bản về kinh tế trong nền kinh tế hộ nước ta , cũng như những vấn đề cơ bản về vai trò của Ngân hàng đối với nền kinh tế nói chung và việc phát triển kinh tế hộ nói riêng trong nền kinh tế thị trường . Từ đó đưa ra những luận cứ để vận dụng trong thực tiễn quản lý , chỉ đạo thực hiện vấn đề đầu tư tín dụng đối với kinh tế hộ nông dân .
2 . Luận văn đã nghiên cứu những hình thức tín dụng truyền thống trong nông thôn Việt Nam , từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm bổ ích để tham khảo trong quá trình thực hiện đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ ở Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới .
3 . Luận văn đã phân tích tổng quát thực trạng việc đầu tư tín dụng của Ngân hàng đối với kinh tế hộ ở Huyện Kinh Môn . Từ đó rút ra những tồn tại , hạn chế , nguyên nhân của nó trong quá trình đầu tư , trên cơ sở đó luận văn đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả cho vay đối với kinh tế hộ .
4 . Luận văn nghiên cứu những phương hướng phát triển tất yếu của kinh tế hộ ở Huyện Kinh Môn trong những năm tới , đồng thời đưa ra một số kiến nghị trong chính sách quản lý kinh tế vĩ mô các chính sách phải thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế của Nhà nước và của ngành Ngân hàng nhằm đáp ứng những yêu cầu phát triển kinh tế hộ sản xuất hàng hoá ở nông thôn nước ta . Cũng như sự cần thiết phải mở rộng đầu tư đồng bộ của Ngân hàng cho thành phần kinh tế này .
Phát triển kinh tế hộ nông dân trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là hướng đi đúng đắn trong tình hình hiện nay . Vì thế đầu tư tín dụng cho nó là hết sức cần thiết và quan trọng . Đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ là một lĩnh vực rộng lớn , phong phú và phức tạp , những kết quả nghiên cứu của bản luận văn chỉ là một đóng góp nhỏ , giới hạn phạm vi nghiên cứu chỉ là đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ nông dân ở chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp huyện Kinh Môn, do đó không sao tránh khỏi những hạn chế. Ngoài kết quả đóng góp của luận văn, chắc chắn sẽ còn nhiều vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu rộng thêm để không ngừng cải tiến , tăng cường , mở rộng và nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng cho kinh tế hộ nông dân ở nước ta . Vì vậy em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô , đồng nghiệp và bất cứ ai quan tâm tới đề tài này .
Cuối cùng một lần nữa em xin cảm ơn sự gúp đỡ đóng góp của Thầy Nguyễn Kim Anh và các thầy cô giáo trong khoa cùng đồng chí Giám đốc, các bạn đồng nghiệp Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Huyện Kinh Môn - Tỉnh Hải Dương./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29418.doc