Luận văn Tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển của các doanh nghiệp ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm

Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động tín dụng ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm, bài viết của tôi đã phản ánh được thực trạng hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng như những khó khăn, thuận lợi mà ngân hàng đang hiện có, những thành tựu mà ngân hàng đã thu được, những tồn tại mà ngân hàng cần phải khắc phục. Bên cạnh đó, tôi đã đề ra một số giải pháp và những kiền nghị theo suy nghĩ của mình dựa trên thực tế hoạt động của ngân hàng, dựa trên cơ sở lý luận về lĩnh vực ngân hàng, nhằm mở rộng về mặt số lượng, nâng cao về mặt chất lượng của hoạt động đầu tư tín dụng đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Với thời gian hạn chế, khả năng nghiên cứu có hạn, bài viết của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý phê bình của các thầy cô giáo, của các cán bộ ngân hàng để tôi có được kiến thức cao hơn cũng như bài viết được hoàn chỉnh hơn.

doc61 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1090 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tín dụng ngân hàng đối với việc phát triển của các doanh nghiệp ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âu tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh, cuộc sống, nguyện vọng, nhu cầu của doanh nghiệp, dân cư trong quận. Trên cơ sở đó, quyết định cho vay như thế nào, số lượng bao nhiêu đồng thời tạo mối quan hệ mật thiết tin tưởng lẫn nhau. Để có thông tin về khách hàng, ngân hàng đã thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với chính quyền địa phương, tìm hiểu thêm về khách hàng. Ngân hàng đã tham gia tích cực vào công tác mà ngân hàng Trung ương đã lập nhằm củng cố thêm mạng lưới thu thập thông tin phòng ngừa rủi ro trên toàn quốc. Qua trung tâm này, ngân hàng không những biết rõ các thông tin về khách hàng mà còn nắm được các thông tin về kinh tế, chính trị, thị trường, giá cả và các thông tin khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Ngân hàng đã có sự sàng lọc giữa khách hàng có triển vọng tốt và những khách hàng làm ăn thua lỗ. Trên cơ sở đó, có định hướng đầu tư cho vay thích hợp, ngân hàng đã thực hiện tốt công tác phân loại xí nghiệp theo tiêu chuẩn hiệu quả kinh doanh để có đối tác, chính sách cụ thể, cho vay đúng hướng và an toàn. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh có trình độ quản lý kinh doanh yếu kém, ngân hàng có biện pháp thu hẹp vốn đầu tư và luôn thận trọng trong quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định, kém hiệu quả, vốn tự có ít, ưu tiên nhiều hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả. — Thời gian qua ngân hàng đã có những biện pháp tích cực trong công tác phòng ngừa rủi ro và sử lý nợ quá hạn. Để phân tán rủi ro, ngân hàng đã tìm đủ mọi biện pháp để mở rộng mọi diện cho vay, thực hiện duy trì một cơ cấu hợp lý của tài sản có, vừa đảm bảo mức an toàn, vừa đạt mức sinh lợi cao. Trong công tác thu hồi, xử lý nợ quá hạn, để tránh khả năng thất thu, ngân hàng đã cử cán bộ tín dụng trực tiếp xuống kiểm tra, xem xét tình hình thực tế của doanh nghiệp để có biện pháp xử lý thích hợp như: gia hạn nợ, thu hồi vật cầm cố, tài sản thế chấp... Ngân hàng chủ động lập ra tổ thu hồi, xử lý nợ qúa hạn, giao đến cho từng cán bộ ngân hàng để họ tích cực nhiệt tình trong công tác thu hồi nợ, khuyến khích bằng vật chất thích đáng cho các tổ, các cán bộ có thành tích cao. Để tiện trong quá trình thẩm định cho vay, giám sát quá trình hoạt động và thu nợ, đồng thời nâng cao trách nhiệm hoạt động của cán bộ công nhân viên, phòng tín dụng thường phân công việc giám sát từng cơ quan doanh nghiệp cho mỗi cán bộ, để họ có nhiều thời gian, thông tin thuận tiện cho việc giám sát hoạt động của các doanh nghiệp. Những tồn tại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương Hoàn kiếm Hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói chung và hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước nói riêng đã đạt được kết quả khả quan song vẫn còn một số tồn tại cần phải giải quyết đó là: Tồn tại khách quan Từ khi hệ thống Ngân hàng Công thương Việt nam thực sự trở thành hệ thống ngân hàng thương mại, đi vào hoạt động kinh doanh tiền tệ tới nay, ngân hàng công thương Hoàn kiếm vẫn chỉ là một chi nhánh trực thuộc. Trong quá trình hoạt động, hàng tháng, hàng quý, theo định kỳ ngân hàng công thương Hoàn kiếm phải báo cáo đầy đủ tình hình hoạt động của mình, kể cả huy động, cho vay lẫn kết quả kinh doanh lên ngân hàng Trung ương. Điều đó đã kìm hãm tính năng động, sáng tạo trong kinh doanh của ngân hàng công thương Hoàn kiếm. Hơn nữa, việc giới hạn mức cho vay tối đa được ký duyệt của giám đốc, một mặt nâng cao tính an toàn trong ngân hàng nhưng mặt trái của nó làm mất đi những cơ hội đầu tư tín dụng vào dự án mang lại hiệu quả cao. Như vậy, để ngân hàng thực hiện việc kinh doanh tiền tệ của mình đạt hiệu quả cao thì vấn đề đầu tiên đặt ra là làm thế nào để ngân hàng công thương Hoàn kiếm tự chủ trong kinh doanh và trở thành dơn vị kinh tế độc lập. — Hiện nay, tuy luật ngân hàng đã được công bố và có hiệu lực, song hệ thống pháp lý vẫn chưa đồng bộ, luật phá sản, luật về quyền sở hữu, thừa kế tài sản chưa thống nhất. Đại bộ phận nhà xưởng, vật tư hàng hoá thiếu giấy tờ hợp pháp, trong khi việc vay vốn ngân hàng phụ thuộc lớn vào tài sản và vật tư hàng hoá thế chấp do đó làm ảnh hưởng đến công tác kinh doanh tín dụng ngân hàng đặc biệt là trong khu vực kinh tế quốc doanh. Những mâu thuẫn không đồng bộ giữa các quy định về tài sản thế chấp của các doanh nghiệp quốc doanh đã gây khó khăn cho ngân hàng trong hoạt động đầu tư tín dụng với khu vực kinh tế này. — Quá trình đối với các doanh nghiệp quốc doanh còn hạn chế bởi vì đa số các doanh nghiệp quốc doanh là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn tự có thấp cũng như công tác quản lý yếu kém, kinh doanh kém hiệu quả... buộc ngân hàng phải hết sức thận trọng trong đầu tư tín dụng với các doanh nghiệp này, phải phân tích, tính toán kỹ để tránh rủi ro, thất thoát vốn. Tồn tại chủ quan —Ngân hàng công thương Hoàn kiếm chưa huy động được nguồn vốn trung và dài hạn lớn, nên đầu tư tín dụng trung và dài hạn còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu vốn cho việc nâng cấp cơ sở vật chất đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị mới cho các doanh nghiệp. — Nợ quá hạn trong ngân hàng đang chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ, dặc biệt là nợ quá hạn của khu vực của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, ngân hàng vẫn chưa tìm ra những biện pháp quản lý có hiệu quả. — Nguồn vốn huy động bằng kỳ phiếu còn thấp, không ổn định, đã hạn chế tổng nguồn vốn của ngân hàng một cách đáng kể. —Trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên chưa đồng đều nhất là về ngoại ngữ, tin học, một số cán bộ có ý thức chuyển biến chậm, phong cách làm việc yếu kém, thiếu sự tự giác và sự nghiêm túc trong công việc. Cho nên, đôi lúc giải quyết công việc còn xơ cứng theo cơ chế cũ, thiếu sức thuyết phục đối với khách hàng. —Trang thiết bị, cơ sở vật chất của ngân hàng vẫn còn thiếu thốn, lạc hậu, đặc biệt là các phòng làm việc còn chật hẹp, chưa đầy đủ tiện nghi, hạn chế cảm tình của khách hàng đối với ngân hàng. Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư đối với Doanh nghiệp Nhà nước ở Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm. I . Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng đối với doanh nghiệp Nhà nước. Hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp Nhà nước ở Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Một mặt nó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị vay vốn, mặt khác nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng. Song bên cạnh những thành tựu đạt được đó, ngân hàng vẫn còn một số tồn tại trong hoạt động cần phải giải quyết kịp thời để ngân hàng công thương Hoàn kiếm ngày càng phát triển mạnh mẽ đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng khác trên địa bàn Hà nội. Vì vậy để nâng cao hơn nữa hiệu quả đầu tư tín dụng đối với khu vực kinh tế nhà nước, tôi xin đưa ra một vài giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế của ngân hàng cũng như của các doanh nghiệp nhà nước. A. Về phía ngân hàng công thương Hoàn kiếm 1. Tiếp tục tăng cường nguồn vốn huy động bằng mọi biện pháp cần thiết Muốn nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng với quy mô số lượng lớn thì trước hết ngân hàng phải có một nguồn vốn dồi dào. Do đó, tăng cường nguồn vốn huy động là điều kiện tiên quyết đối với sự thành công của ngân hàng. Với phương châm đi vay để cho vay, để có vốn đáp ứng kịp thời nhu cầu của các tổ chức kinh tế trong và ngoài địa bàn, đòi hỏi ngân hàng phải có những giải pháp hữu hiệu để thu hút tối đa mọi nguồn vốn nhàn rỗi tạm thời trong dân cư và các tổ chức kinh tế. — Sử dụng đòn bẩy lãi suất để thu hút nhiều hơn nữa tiền gửi của khách hàng, tiền gửi tiết kiệm của dân cư và thay đổi cơ cấu tiền gửi để tối thiểu hoá chi phí huy động vốn. Đối với các khoản tiền gửi có kỳ hạn, tiền giử tiết kiệm thì đòn bẩy lãi suất là công cụ mang lại hiệu quả cao nhất trong việc huy động vốn. Với một mức lãi suất cạnh tranh phù hợp, ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng không chỉ trong khu vực quận mà cả khách hàng ở các quận lân cận. Với một nền kinh tế đang phát triển ở nước ta, khi đời sống nhân dân còn thấp, tiền gửi tiết kiệm thường là các khoản tiền trích góp từ lương hưu, từ tiền thu nhập hàng ngày. Do vậy mức lãi suất cao và sự an toàn tiền gửi là hai nhân tố để khách hàng quyết định nên gửi tiền hay không và gửi tiền ở đâu. Các mức lãi suất cho các khoản tiền gửi có thể làm thay đổi cơ cấu tiền gửi theo ý muốn. Trong ngân hàng, nguồn vốn có chi phí thấp nhất là tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Nhưng điểm yếu của nó là tính không ổn định và buộc ngân hàng phải có khả năng thanh khoản cao. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm tuy ổn định có thể dự đoán trước được luồng vào ra nhưng chi phí cho luồng này rất cao. Hiện nay, theo kết quả kinh doanh của ngân hàng, tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, cá nhân còn chiếm tỷ trọng thấp. Trong lúc đó, tiền gửi tiết kiệm chiếm một tỷ lệ cao, do đó chi phí bình quân của nguồn vốn càng cao, hạn chế lợi nhuận của ngân hàng. Để giảm chi phí này, ngân hàng nên nâng mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế để thu hút nguồn vốn này, duy trì một tỷ kệ hợp lý giữa tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm sao cho vừa đảm bảo sự an toàn về vốn kinh doanh trong ngân hàng vừa đảm bảo chi phí bình quân của nguồn vốn thấp nhất. — Công tác thanh toán trong ngân hàng phải được thực hiện nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Đối với tiền gửi không kỳ hạn, mục đích của khách hàng khi tiền là vừa duy trì được tính linh hoạt của vốn, vừa không mất chi phí bảo quản, chuyên chở khi thanh toán và còn nhận được những khoản lãi tuy không cao lắm. Do vậy nên công tác thanh toán của ngân hàng nhanh chóng, chính xác sẽ tạo cho khách hàng yên tâm khi gửi tiền, sẽ thu hút được nhiều tiền gửi hơn. Điều quan trọng và có tính thuyết phục mạnh mẽ là ngân hàng cần thực hiện nguyên tắc “tiền gửi vào ngân hàng hay lấy ra đều thực hiện một cách thuận tiện, công tác thanh toán nhanh chóng, chính xác đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, đổi mới phong cách giao dịch, tận tình hướng dẫn khách hàng khi khách hàng có nhu cầu gửi tiền, rút tiền, chuyển tiền”.... Xoá bỏ thủ tục phiền hà trong giao dịch, tăng cường các công cụ thanh toán, thay thế tiền mặt bằng cách áp dụng, trang bị máy móc kỹ thuật hiện đại. — Dùng các biện pháp kinh tế để khuyến khích khách hàng. Thưởng cho những khách hàng có số dư lớn và ổn định trên tài khoản của họ, đặc biệt là khách hàng thường xuyên có quan hệ tín dụng, quan hệ thanh toán với ngân hàng, có thể cho các đối tượng này vay với lãi suất thấp hơn, nhận tiền gửi của họ với lãi cao hơn một chút, tạo điều kiện khi họ vay vốn... để duy trì lâu dài mối quan hệ giữa ngân hàng với khách hàng. Các biện pháp này có thể làm cho chi phí bình quân của nguồn vốn giảm một cách đáng kể mặc dù chi phí của tiền gửi không kỳ hạn có cao hơn. Đối với khách hàng, với lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn cao, họ sẽ thích để tiền vào tài khoản tiền gửi không kỳ hạn hơn là để ở tài khoản tiết kiệm và để ở trong quỹ của doanh nghiệp. Như vậy tiền gửi có lãi suất thâp sẽ có tỷ trọng tăng lên mà vẫn duy trì được tính ổn định của nguồn vốn. Qua các biện pháp này, Ngân hàng còn có thể huy động được số tiền đang tồn đọng trong quỹ của một số doanh nghiệp do không thích phiền hà và mức lãi suất thấp đã không gửi tiền vào ngân hàng. — Tạo lập uy tín của ngân hàng, lòng tin của khách hàng là cơ sở cho việc khuyến khích tiền gửi . Doanh nghiệp hay cá nhân sẽ gửi tiền khi họ yên tâm về các khoản tiền gửi của họ an toàn và sinh lãi. Ngân hàng tạo ra lòng tin đó qua sự an toàn và đúng đắn trong kinh doanh, quan hệ với khách hàng. Mặt khác, Ngân hàng phải quán triệt ý thức Marketing trong hoạt động để tạo ra một hình ảnh tốt đẹp, an toàn của ngân hàng trong mỗi khách hàng. Đó là phong cách làm việc, giao dịch, trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng, đó là cơ sở vật chất hiện đại, phòng làm việc trang nhã, hoà hợp gây cảm tình và có sức thuyết phục khách hàng. — Mở rộng hệ thống phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm xuống tận cơ sở, nắm bắt kịp thời mọi nhu cầu của khách hàng để đáp ứng tạo điều kiện thuận lợi về vị trí, thủ tục cho khách hàng gửi tiền. 2. Ngân hàng cần có những giải pháp thích hợp để thay đổi cơ cấu của nguồn vốn, tăng tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn Thực tế, trong thời gian qua cũng như hiện nay, nguồn vốn trung, dài hạn Ngân hàng huy động được chiếm một tỷ trọng rất thấp, do đó tỷ lệ cho vay trung và dài hạn cũng hạn chế. Để tạo lợi nhuận cao, lâu dài cho ngân hàng cũng như để tài trợ cho nhu cầu vốn trung, dài hạn của nền kinh tế, ngân hàng cần nỗ lực hơn nữa trong công tác huy động. Theo tôi, một số biện pháp mà Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm nên áp dụng trong việc tăng vốn trung, dài hạn là: + Phát hành kỳ phiếu theo định kỳ. Bản chất của nguồn vốn phát hành kỳ phiếu là ngắn hạn, nhưng nếu sắp xếp một lịch trình phát hành phù hợp tạo sự luân chuyển để luồng tiền vào có thể đáp ứng được luồng tiền ra thì ngân hàng đã có thể biến nguồn vốn ngắn hạn của khách hàng thành nguồn vốn dài hạn của ngân hàng. + Chính sách lãi suất là một đòn bẩy mạnh trong việc huy động cũng như cho vay. Duy trì một mức lãi suất trung dài hạn cao để khuyến khích tiền gửi trung, dài hạn của dân cư là một biện pháp rất hiệu quả. Nếu như lãi suất huy động vốn trung và dài hạn cao hơn hẳn so với lãi suất của tiền gửi ngắn hạn, tiền gửi không kỳ hạn, người có tiền với mục tiêu tối đa hoá thu nhập sẽ thích gửi tiền lâu dài ở ngân hàng hơn. Tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp này, ngân hàng cũng phải quan tâm tới chi phí huy động vốn và lãi thu được từ các khoản đầu tư để đặt ra mức lãi suất hợp lý. Một giải pháp khác trong chính sách lãi suất là ngân hàng nên duy trì một mức lãi suất thực của tiền gửi trung dài hạn cố định. Có thể nói, hiện nay, dân cư đang ngần ngại không gửi tiền vào ngân hàng lâu dài vì ba lý do chính: Thứ nhất, tiền gửi dài hạn không có tính linh hoạt, không có khả năng thanh khoản Thứ hai, sự an toàn của tiền gửi Thứ ba, mối tương quan giữa lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ lạm phát. Với lý do thứ ba, khách hàng luôn lo lắng khoản tiền gửi của mình không những không tăng mà càn giảm về giá trị theo thời gian nếu tỷ lệ lạm phát cao. Trong nhiều năm qua, khủng hoảng kinh tế ở nước ta đã đẩy tỷ lệ lạm phát lên cao, gây lên tâm lý hoang mang trong dân cư. Thực tế trong những năm trước, người gửi tiền vào ngân hàng, khi đến hạn lĩnh được một khoản không bằng phần nửa giá trị của tiền gửi do lãi suất thực âm. Tuy những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát đã thấp và ổn định ở mức 10 đến 15 % song vẫn chưa xoá bỏ được tâm lý lo sợ của dân chúng. Hơn nữa một nền kinh tế đang phát triển như ở nước ta sẽ không thể tránh khỏi những biến động, khó có thể dự đoán, kiểm soát được tỷ lệ lạm phát. Do vậy dân cư vẫn còn lo sợ khi gửi tiền trung và dài hạn vào ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Điều đó đòi hỏi ngân hàng cần đặt ra một mức lãi suất thực dương, cố định cho các khoản tiền gửi trung, dài hạn. Ngoài các biện pháp trên, ngân hàng cũng phải tạo lập được uy tín của mình trên thị trường qua hiệu quả trong kinh doanh, sức mạnh trong cạnh tranh, nguồn vốn của ngân hàng lớn, tinh thần trách nhiệm của cán bộ ngân hàng trong hoạt động và thông qua các chiến dịch Marketing. 3. Phát triển trung tâm tư vấn, dịch vụ tư vấn Trong thời đại ngày nay, khi nền kinh tế đã phát triển, hệ thống thông tin rộng khắp thì việc đáp ứng nhu cầu hiểu biết của con người trở nên rất cần thiết. Với tình trạng ít hiểu biết về hoạt động của ngân hàng của dân cư hiện nay, thì ngân hàng mở các trung tâm tư vấn là hợp lý. Cũng như những trung tâm tư vấn khác, tư vấn ngân hàng là một lĩnh vực nhằm đánh giá, phân tích, dự báo thông tin về tình hình kinh tế xã hội, pháp luật và các thông tin về hoạt động ngân hàng...có liên quan đến vấn đề đầu tư tín dụng, giải đáp mọi thắc mắc về lĩnh vực ngân hàng của các doanh nghiệp, của dân cư giúp họ đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn. Hiện nay có nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là tầng lớp dân chúng ở nước ta rất ít hiểu biết về lĩnh vưc đầu tư, thể lệ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chính vì vậy mà việc đầu tư tín dụng của ngân hàng cũng như việc đầu tư vào các công trình của các doanh nghiệp chưa thu được kết quả như mong muốn, mức độ rủi ro càng cao. Để phổ biến rộng khắp, cung cấp những thông tin cần thiết về hoạt động của ngân hàng, giải đáp thắc mắc cho khách hàng, ngân hàng công thương Hoàn kiếm cần mở các trung tâm tư vấn. Các trung tâm này, ngoài nhiệm vụ tập hợp cung cấp thông tin cho khách hàng, giải đáp thắc mắc cho khách hàng thì còn phải phát hiện những nhu cầu mới của khách hàng để phục vụ. Để tiết kiệm chi phí hoạt động, ngân hàng có thể lồng ghép các trung tâm này vào các quỹ tiết kiện, quầy giao dịch đào tạo cán bộ ở các phòng này để họ có đủ kiến thức, tận tình hướng dẫn khách hàng khi khách hàng đến giao dịch với ngân hàng 4. Nỗ lực và thận trọng trong đầu tư tín dụng đối với nền kinh tế nói chung và đối với doanh nghiệp Nhà nước nói riêng Nỗ lực trong hoạt động là để tăng số lượng vốn đầu tư, thận trọng là nhằm nâng cao hiệu quả của các khoản tín dụng cũng như đề phòng được mọi rủi ro. — Tăng số lượng vốn đầu tư buộc cán bộ, nhân viên trong ngân hàng phải đi sát, sâu vào thị trường tìm hiểu quá trình sản xuất, kết quả kinh doanh và nhu cầu của mọi đơn vị trong địa bàn quận để đáp ứng kịp thời. Hiện nay, ở ngân hàng, cán bộ tín dụng chỉ mới tìm hiểu về quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khi doanh nghiệp đến ngân hàng yêu cầu vay vốn. Điều này có hai vấn đề hạn chế : Thứ nhất, cán bộ sẽ không đánh giá chính xác được kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp qua các con số được. Tuy có xuống các cơ sở để tìm hiểu nhưng sẽ không phát hiện ra được những hành vi che dấu cố ý của doanh nghiệp khi họ có sự chuẩn bị từ trước (ở đây chỉ nói đến những doanh nghiệp làm ăn không đứng đắn). Thứ hai, khi doanh nghiệp đến vay vốn, ngân hàng phải mất một thời gian để thẩm định, phân tích, đánh giá quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mới có thể cho vay và đó là nguyên tắc. Trong hoạt động tín dụng, điều này đã hạn chế tính kịp thời của quá trình lưu thông vốn. Nếu như cán bộ cơ sở xuống cơ sở tìm hiểu trước quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tổng hợp các thông tin về doanh nghiệp thì không những có thể đánh giá chính xác hơn mức độ hoạt động của doanh nghiệp, thẩm định cho vay một cách nhanh chóng hơn mà còn tìm hiểu phát hiện được nhu cầu mới để đáp ứng. — Giảm bớt các thủ tục phiền hà trong hoạt động cho vay vốn, đồng thời phân công trực tiếp cho từng cán bộ phụ trách các mảng, các doanh nghiệp trong vấn đề, tiện trong việc theo dõi tình hình sử dụng vốn, khả năng tài chính và để duy trì quan hệ lâu dài giữa khách hàng với ngân hàng. — Trong quá trình cho vay, điều quan trọng đầu tiên không phải là việc giám định đơn thuần về tài sản thế chấp hoặc định giá tài sản cố định thế chấp, cầm cố mà phải đặt sự hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, khả năng tài chính của họ lên hàng đầu. Ngân hàng phải gắn liền sự hiệu quả của ngân hàng với sự hiệu quả của doanh nghiệp và phải quán triệt ý thức về chất lượng tín dụng một cách đúng nghĩa của nó, tức là , vốn cho vay của ngân hàng được khách hàng sử dụng vào quá trình sản xuất, kinh doanh... để tạo ra một lượng tiền lớn hơn, vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi, trang trải các chi phí khác và có lợi nhuận. Ngân hàng thu nợ là thu lại phần vốn của mình sau khi doanh nghiệp đã sử dụng và tạo ra lợi nhuận cho họ. Đặt vấn đề tài sản thế chấp là vấn đề hàng đầu khi cho vay như hiện nay ngân hàng vẫn làm là không hợp lý. Mặt khác ngân hàng cũng phải thận trọng trong việc giám định tài sản thế chấp vì chính nó với vai trò là vật bảo đảm cho một khoản vốn vay, cũng hàm chứa những rủi ro. — Ngân hàng cần ban hành quy chế xử lý trách nhiệm cá nhân trong nội bộ ngân hàng liên quan đến việc cho vay không thu hồi được vốn nhằm bảo đảm sự chấp hành thể lệ tín dụng, quy trình cho vay của cán bộ tín dụng, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của cán bộ thẩm định, tránh việc làm qua loa chiếu lệ, đối phó để đủ hồ sơ cho vay nhằm hạn chế tiêu cực cũng như nhằm hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Hiện nay, ở Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm, tỷ lệ tín dụng trung dài hạn cho nền kinh tế còn rất thấp. Tồn tại đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là vốn trung dài hạn chiếm tỷ trọng không cao trong tổng nguồn vốn huy động. Khắc phục tình trạng này, ngân hàng cần thực hiện những giải pháp như: — Kết hợp giữa việc quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng một cách khoa học, chặt chẽ, tăng cường huy động vốn trung dài hạn để mạnh dạn cho vay, trú trọng tìm các cơ hội cho vay bằng cách nghiên cứu tìm hiểu nhu cầu thị trường thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thông qua việc cử cán bộ xuống cơ sở để tìm hiểu, xem xét thu thập thông tin. — Ngân hàng cần giảm lãi suất cho vay trung dài hạn để tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường vốn, khuyến khích nhu cầu đầu tư xây dựng mới, đổi mới thiết bị của doanh nghiệp. Tất nhiên lãi suất chỉ giảm tới một mức nhất định sao cho ngân hàng không bị thua thiệt trong hoạt động. Biện pháp này tuy làm giảm lợi nhuận của ngân hàng cho từng khoản đầu tư nhưng mở rộng được quy mô của tín dụng trung, dài hạn. — Có thể nói, tỷ trọng cho vay trung dài hạn chưa cao do nguồn vốn trung dài hạn huy động được không lớn, nhưng với nguồn vốn ngắn hạn tương đối ổn định, ngân hàng có thẻ dự đoán nhu cầu rút vốn, nhu cầu gửi tiền của dân cư trong quận để hoạch định cho mình một tỷ lệ phần trăm vốn ngắn hạn có thể đầu tư trung dài hạn. 5. Biện pháp kiểm tra, xử lý thu hồi nợ quá hạn Trong hoạt động kinh doanh tín dụng, hiện tượng phát sinh nợ qúa hạn xảy ra là điều dễ thấy bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan của các đơn vị vay vốn. Vấn đề đặt ra là ngân hàng cho vay như thế nào để hạn chế tối thiểu việc phát sinh nợ quá hạn và có những biện pháp xử lý như thế nào để đảm bảo thu hồi được nợ, vừa không gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay đồng thời giữ được quan hệ tốt giữa khách hàng với ngân hàng. Đối với ngân hàng công thương Hoàn kiếm, để hạn chế nợ quá hạn có thể sử dụng những biện pháp như: — Chỉ cho vay khi đã có khá đầy đủ về thông tin, khi đã phân tích kỹ tính khả thi, tính hiệu quả của dự án, báo cáo tài chính, khả năng tài chính khả năng quản lý và đặc biệt là các tiêu chuẩn về đạo đức của người vay. Không nên quá nhấn mạnh lợi nhuận và phát triển của ngân hàng khi cho vay. Phải gắn liền lợi ích của ngân hàng với lợi ích của doanh nghiệp và sự phát triển của doanh nghiệp. — Chú trọng giám sát hoạt động của doanh nghiệp trước, trong và sau khi doanh nghiệp vay vốn, hướng dẫn doanh nghiệp sử dụng vốn vay đúng mục đích và kinh doanh có hiệu quả, phát hiện những khoản cho vay có vấn đề để kịp thời xử lý. — Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định, ký duyệt cho vay, tránh những tiêu cực trong quá trình cho vay. Tuy nhiên, dù có biện pháp gì đi chăng nữa thì vẫn không thể tránh khỏi sự xuất hiện của nợ quá hạn. ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm hiện nay, nợ quá hạn đang là một gánh nặng cho ngân hàng, vì vậy ngân hàng cần có những biện pháp hữu hiệu để xử lý thu hồi bảo toàn vốn cho ngân hàng. Trước hết, ngân hàng phải phân loại lợ quá hạn theo các tiêu thức khác nhau để tìm ra các biện pháp hiệu quả để sử dụng khi thu các loại nợ. — Đối với các đơn vị hoạt động thua lỗ, chưa có khả năng trả nợ cho ngân hàng, trong trường hợp đơn vị thực sự cần thêm vốn và nếu có vốn thì có thể tiếp tục sản xuất kinh doanh, mang lại hiệu quả cao, khi doanh nghiệp trình bày rõ với ngân hàng về vốn cần vay thêm, kế hoạch sản xuất kinh doanh, lợi nhuận mang lại...ngân hàng cần xem xét một cách cụ thể, dĩ nhiên cán bộ ngân hàng phải có thẩm quyền, có trình độ, khả năng đánh giá dự án, kế hoạch thực hiện sản xuất kinh doanh của đơn vị vay vốn đồng thời cán bộ tín dụng phải trực tiếp xuống kiểm tra tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, từ đó xem xét khả năng đầu tư tiếp cho doanh nghiệp hay ngừng đầu tư và thực hiện thu nợ. — Đối với các khoản nợ quá hạn do nguyên nhân khách quan như thiên tai, bệnh tật, tai nạn..., doanh nghiệp không thể trả nợ hay thực hiện việc trả góp đối với tín dụng tiêu dùng thì dưới tình hình như vậy, tình huống có thể được xử lý tốt nhất bằng việc gia hạn nợ hoặc hợp đồng cho vay. — Đối với doanh nghiệp có hàng hoá ứ đọng, tồn kho chưa bán được thì ngân hàng có thể tìm, giới thiệu đơn vị mua hàng để giải quyết hàng tồn kho cho doanh nghiệp có tiền trả nợ. Trường hợp hàng tồn kho không có khả năng tiêu thụ do chất lượng kém, lạc hậu... thì đơn vị phải chịu bán thua lỗ để lấy tiền trả nợ cho ngân hàng. — Đối với các đơn vị sử dụng vốn sai mục đích, có ý lừa đảo trong quan hệ thì ngân hàng phải thu hồi nợ ngay hoặc chuyển sang nợ quá hạn để xử lý nếu không có tiền. — Trong công tác thu nợ, ngân hàng cần coi việc thu nợ là một trọng tâm trong hoạt động. Công tác này phải được thực hiện liên tục, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra nắm vững tình hình tài chính, khả năng trả nợ, theo dõi việc thực hiện hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp. Ngân hàng quyết định thời hạn trả nợ, mức trả nợ, kỳ hạn trả nợ cho đơn vị kinh doanh, phải tính toán sao cho phù hợp với năng lực sản xuất, tính ổn định sản xuất kinh doanh của các đơn vị. Trong giai đoạn đầu của thời hạn trả nợ, không nên ép doanh nghiệp trả quá khả năng của họ, ngân hàng phải xác định mức nợ phải trả phù hợp với thu nhập của doanh nghiệp trong thời hạn đó. — Ngân hàng cần lập tổ thu hồi nợ quá hạn, giao chỉ tiêu đến từng tổ, từng cán bộ tín dụng để họ nhiệt tình trong công tác thu hồi và có khuyến khích vật chất thích đáng cho các tổ, các cán bộ tín dụng có thành tích cao. Các cán bộ tín dụng dưới sự chỉ đạo của các trưởng phòng, phó phòng thường xuyên đôn đốc các đơn vị trả nợ đúng hạn, kiểm tra giám sát tình hình hoạt động kinh doanh của đơn vị để có phương pháp thu hồi nợ phù hợp. Nền kinh tế nước ta, một nền kinh tế thị trường đang phát triển, một nền kinh tế năng động, các doanh nghiệp cạnh tranh hàng ngày để tồn tại và phát triển, nhiều hiện tượng kinh tế mới xuất hiện, những công ty, doanh nghiệp mới được thành lập, đồng thời lại có những công ty làm ăn kém hiệu quả, thua lỗ, phá sản, nạn đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả diễn ra thường xuyên, trên thị trường tiền tệ, thị trường vốn diễn biến phức tạp, hiện tượng chiếm dụng vốn lẫn nhau xảy ra phổ biến giữa các doanh nghiệp với ngân hàng. Trước tình hình đó, đòi hỏi hệ thống ngân hàng thương mại nói chung, ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói riêng phải nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu tín dụng để có những giải pháp nhằm đảm bảo an toàn trong kinh doanh ngày càng nâng cao tín nhiệm của khách hàng đối với ngân hàng và nâng cao hơn nữa hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, để có sức mạnh cạnh tranh với các tác nhân khác trên thị trường vốn. B. Về phía doanh nghiệp nhà nước — Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng thực hiện cổ phần hóa theo luật công ty. Việc sắp xếp phải kết hợp với việc xử lý những tồn tại, tránh hiện tượng lợi dụng cơ chế thay đổi, các doanh nghiệp tẩu tán tài sản gây thất thoát cho tài sản Nhà nước, quá trình xử lý các đơn vị phá sản phải được chấp hành theo luật phá sản. — Đổi mới toàn diện máy móc thiết bị theo hướng công tác hạch toán kế toán, lưu trữ hồ sơ đều được quản lý vận hành qua máy tính, thực hiện nối mạng với ngân hàng. Muốn vậy phải có nhiều vốn, trước mắt cần tiếp tục xây dựng các dự án khả thi để thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, mặt khác phải đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân lành nghề, đội ngũ kỹ sư theo phương thức kết hợp đào tạo ngắn hạn và đào tạo dài hạn, gửi cán bộ đến các trường quốc gia để đào tạo và mở rộng trình độ theo hướng nâng cao nghiệp vụ tay nghề, kiến thức; thành thạo ngoại ngữ, vi tính, hiểu biết pháp luật, thông thạo kinh tế thị trường, đội ngũ cán bộ đào tạo thực sự hiểu biết đơn vị mình hơn ai hết, phải biết chăm lo đến cái chung, phải biết cần sản xuất cái gì mà thị trường cần. — Công tác kiểm tra, kiểm soát là cần thiết, song các đơn vị được giao nhiệm vụ thừa hành pháp luật cũng cần đổi mới công tác kiểm tra, kiểm soát theo hướng tuân thủ kỷ luật phép nước và phải thúc đẩy được quá trình sản xuất kinh doanh phát triển. Hiện nay Nhà nước đã và đang dần dần ban hành đầy đủ các bộ luật, mỗi doanh nghiệp, tổ chức, công dân cần phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, có như thế mới tránh được những hành vi tiêu cực và sự không đồng bộ, không nhất quán trong hoạt động, các doanh nghiệp mới có thể hoà nhập với cộng đồng quốc tế hay có uy tín để các tổ chức nước ngoài sẵn sàng liên doanh, liên kết. — Nhà nước cần sớm ra đời luật ngân sách để tránh tình trạng xơ cứng trong cơ chế tài chính. Khi đã giao khoán tài sản cho chủ doanh nghiệp thì chủ doanh nghiệp phải hoạt động theo pháp luật, có thu, có chi, có tích luỹ, mở mang thêm tài sản, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, bình đẳng trước pháp luật. — Cơ sở vật chất trong các doanh nghiệp nhà nước hiện nay quá lạc hậu, phần lớn được đầu tư xây lắp từ trước khi đổi mới kinh tế nên hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh kém. Do đó, doanh nghiệp cần chủ động thay đổi thiết bị, đổi mới công nghệ sản xuất áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất, giảm giá thành và tăng chất lượng sản phẩm, tạo được sức mạnh cạnh tranh trên thị trường. — Rà soát lại đội ngũ cán bộ công nhân viên, trong đó chú trọng tới hai tiêu thức trình độ, năng lực quản lý và tư cách đạo đức. Hiện nay trong các doanh nghiệp nhà nước không ít các cán bộ có trình độ năng lực không đủ để điều hành kinh doanh nhưng vẫn tiếp tục giữ chức vụ và không ít những cán bộ có hành vi tiêu cực. Công tác rà soát lại nhằm củng cố vững chắc đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước có trình độ quản lý cao để thiết ứng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế và thực sự trong sạch. — Việc sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước phải tiến hành đồng thời với việc đổi mới đồng bộ từ cơ chế quản lý đến cơ chế tổ chức và cơ chế tài chính vì đây là những vấn đề mang tính chất lâu dài, tạo điều kiện cho kinh tế quốc doanh phát triển, đảm nhiệm tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. — Tiếp tục thực hiện chiến lược cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay, tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vẫn đang rất chậm và vẫn chưa thoát khỏi tình trạng làm thí điểm. Phải đặt chỉ tiêu giữ lại một số lượng không lớn các doanh nghiệp nhà nước, điều này không làm giảm vai trò của nó vì với số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được lựa chọn không lớn, ngân sách có thể cung cấp nhiều vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh hơn, doanh nghiệp sẽ được đầu tư cả chiều rộng lẫn chiều sâu, hiệu quả kinh tế sẽ được nâng cao. — Tăng cường tính tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước, đồng thời cũng quy định rõ trách nhiệm ứng với quyền hạn được giao, kể cả trách nhiệm vật chất trong các trường hợp bị thua lỗ mất vốn, nhằm tránh tình trạnh một số nhà quản lý điều hành doanh nghiệp vì lợi ích riêng mà sẵn sàng hy sinh lợi ích chung. C. Đối với sự chỉ đạo vĩ mô của Nhà nước Việc nâng cao hiệu quả đầu tư tín dụng vào các doanh nghiệp quốc doanh còn phụ thuộc rất lớn vào vai trò chỉ đạo vĩ mô của doanh nghiệp nhà nước, mà trước hết là hành lang pháp lý, trong đó qui định rõ quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của ngân hàng, của doanh nghiệp nhà nước cũng như các đối tác khác. Để phát triển tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước, trước hết phải có một khu vực kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả, thực sự là khu vự kinh tế chủ đạo của nền kinh tế. Do vậy, nhà nước phải có những giải pháp để tăng thêm chiều sâu, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả sản xuất trong mỗi doanh nghiệp nhà nước. Thứ nhất, Nhà nước cần chuyển dịch cơ cấu đầu tư để nâng cao hiệu quả kinh tế, không để cho nền kinh tế rơi vào tình trạng trì trệ, cũng như tránh hiện tượng dẫn đến nền kinh tế nóng như các nước trong khu vực trong thời gian qua. Đối với nước ta, tuy đã bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng vẫn đang là một nước nghèo, thì việc ưu tiên cho những dự án có tầm chiến lược, các ngành kinh tế mũi nhọn thì vẫn phải coi trọng phương châm lấy ngắn nuôi dài, đầu tư vào các ngành, lĩnh vực sớm thu hồi vốn và tạo công ăn việc làm. Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, chỉ duy trì những doanh nghiệp nhà nước thực sự cần thiết và hoạt động có hiệu quả. Thứ ba, cần quy hoạch tính toán chặt chẽ, hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong thời gian dài để có định hướng thu hút và nâng cao hiệu quả vốn đầu tư từ bên ngoài. Nếu như nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nhà nước nói riêng có điều kiện để phát triển mạnh mẽ cả về chiều rộng, cả về chiều sâu, nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư sẽ ngày càng tăng và hoạt động ở các ngân hàng thương mại không ngừng tăng cả về mặt số lượng, cả về mặt hiện đại hoá là điều hiển nhiên. Đối với ngành ngân hàng, chuyển sang nền kinh tế thị trường, ngân hàng phải hạch toán kinh doanh sao cho có lãi suất thực dương. Do vậy mà đối với một số ngành, lĩnh vực kinh tế mà Nhà nước khuyến khích phát triển nhưng đầu tư vào lĩnh vực này bước đầu còn kém hiệu quả thì Nhà nước mà trước hết là ngân hàng cấp trên cần có biện pháp khuyến khích vật chất, giúp các khoản phải nộp cho cấp trên, thuế cho Nhà nước. II. Kiến nghị Hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước của ngân hàng công thương Hoàn kiếm trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Một mặt đã cung cấp đầy đủ nhu cầu vốn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nhà nước nói chung cho nền kinh tế của quận nói riêng phát triển mạnh với hiệu quả cao, mặt khác lợi nhuận thu được từ hoạt động của ngân hàng đã tăng lên rất đáng kể trong thời gian qua, ngân hàng đã không ngừng đổi mới trang thiết bị, mở rộng quy mô kinh doanh... Đó là nhờ vào sự nỗ lực tận tình trong hoạt động của cán bộ nhân viên trong ngân hàng sự định hướng kinh doanh đúng đắn của ngân hàng Công thương Trung ương. Tuy vậy, hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước của ngân hàng công thương Hoàn kiếm vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế và nếu khắc phục được những hạn chế này thì hiệu quả kinh doanh sẽ đạt được cao hơn. Đối với cá nhân tôi, qua quá trình thực tập, nghiên cứu ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm , tôi có một vài kiến nghị sau: 1. Kiến nghị đối với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước Kiến nghị 1: Nhà nước cần tạo được môi trương pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp Nhà nước. Môi trường pháp lý không ổn định, đầy đủ là trở ngại lớn đối với mọi hoạt động kinh tế nói chung và đối với các hoạt động kinh doanh trong ngân hàng nói riêng. ở nước ta, Luật ngân hàng vừa mới ra đời, đã có hiệu lực song vẫn còn nhiều mâu thuẫn giữa các quy định, các điều luật, đòi hỏi Nhà nước cần phải hệ thống lại tạo ra sự đồng bộ giữa chúng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng liên quan đến hầu hết mọi lĩnh vực, mọi ngành kinh tế của nền kinh tế. Chính vì vậy, việc tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động ngân hàng không chỉ là việc ban hành sửa đổi các điểm luật, quy định trong hoạt động ngân hàng mà là toàn bộ hệ thống luật pháp về kinh tế nói chung. Vấn đề này đòi hỏi Nhà nước giải quyết thông qua việc ban hành sửa đổi các văn bản pháp luật, trước hết là luật kiểm toán, luật về thế chấp tài sản...và tiếp tục sửa đổi một số điều luật, quy định cho phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống luật pháp, một mặt tạo ra hành lang pháp lý cho các ngân hàng cũng như các doanh nghiệp hoạt động, mặt khác bảo đảm tính an toàn hiệu quả cho hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng. Kiến nghị 2: Nhà nước phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nhà nước phải xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần một cách ổn định, lâu dài, đúng định hướng. ổn định thì trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Với nhiệm vụ này đòi hỏi Nhà nước phải có mức dự trữ hàng hóa lớn, dự trữ ngoại tệ lớn. Khi thực hiện nhiệm vụ này, Nhà nước ổn định được giá trị tiền tệ thì sẽ khuyến khích được tiết kiệm, đầu tư, khuyến khích sản xuất. Bên cạnh đó, Nhà nước cần tăng nhanh tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước để tạo ra sự nhất quán trong hoạt động cũng như tính tự chủ, tự lập của nó, mà điều đó là động lực của sự phát triển. Kiến nghị 3: Nhà nước cần tiếp tục củng cố cơ cấu ngành trong nền kinh tế theo hướng ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn, các dự án tầm chiến lược nhưng vẫn phải coi trọng các ngành kinh tế có thời gian thu hồi vốn ngắn, dự án kinh tế thu hút nhiều công ăn việc làm, mở hướng đầu tư mới cho các doanh nghiệp nhà nước , giúp đỡ các doanh nghiệp đang lúng túng trong việc tìm hướng kinh doanh cho mình trong nền kinh tế. Kiến nghị 4: Hệ thống các quy định về thế chấp tài sản của doanh nghiệp nhà nước đang còn là một hoạt động vướng mắc trong hoạt động tín dụng. Một số quy định mâu thuẫn lẫn nhau nên ngân hàng rất lúng túng trong vấn đề thế chấp khi cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước. Đề nghị Nhà nước cần có hướng cụ thể để vấn đề này được thông suốt. Điều khó khăn hiện nay đối với các doanh nghiệp nhà nước khi đi vay vốn là phải có tài sản thế chấp và đó là điều bắt buộc đối với ngân hàng khi cung cấp tín dụng với mục đích an toàn cho ngân hàng. Tuy nhiên, tài sản thế chấp là bất động sản của doanh nghiệp nhà nước, vốn là sở hữu Nhà nước, nên trong thế chấp gặp phải một số rắc rối: — Là tài sản của Nhà nước thì khgông thể thế chấp để vay nợ được. Trong trường hợp ngân hàng cho vay và nhận tài sản cố định là tài sản thế chấp, nếu ngân hàng kinh doang thua lỗ, phá sản thì ngân hàng cũng không có quyền phát mại, thanh lý vì nó là tài sản của Nhà nước. — Giá trị tài sản cố định vẫn còn hạn chế, số tài sản thế chấp hoàn toàn hợp lý, hợp lệ, không nhiều, các giấy tờ sở hữu nhà đất của khu vực kinh tế quốc doanh chưa hoàn chỉnh. Đây là vấn đề khó khăn trong hoạt động cung cấp tín dụng của ngân hàng. — Ngân hàng phải tốn nhiều thời gian trong việc xét duyệt cung cấp tín dụng, đầu tư, bởi vì phải thông qua các khâu, các bước để xác định giá trị, quyền sở hữu, tính hợp lý, hợp lệ của tài sản thế chấp và giá trị thực của tài sản. — Một tài sản cố định, nhiều khi chủ sở hữu có thể vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau do cơ chế quản lý chưa thực sự chặt chẽ. Hành vi lừa đảo của chủ sở hữu tài sản sẽ gây tổn thất cho ngân hàng khi họ không có khả năng thanh toán vì tài sản được thế chấp cho nhiều món vay. Vì vậy, Nhà nước cần phải chấn chỉnh lại hoạt động của hệ thống công ty công chứng, cơ quan quản lý nhà đất và phối hợp quản lý giữa sở nhà đất và hệ thống ngân hàng thương mại. Nhà nước cần quy định rõ, khi cho vay, chủ sở hữu phải đem tất cả giấy tờ chứng nhận sự hay biên bản về việc thế chấp này, chủ sở hữu giữ lấy giấy chứng nhận của ngân hàng và một bản phô tô có công chứng các giấy tờ xác định quyền sở hữu tài sản. Đồng thời, nếu chủ sở hữu đến Sở nhà đất xin giấy tờ sở hữu, Sở nhà đất cần thông báo để các ngân hàng biết thông qua các thông tin đại chúng để bán chuyển nhượng tài sản đang được thế chấp cho chủ nợ vay ở ngân hàng hay một tài sản được thế chấp cho nhiều món vay. Kiến nghị 5: Nhà nước cần tiếp tục đổi mới hệ thống khung lãi suất cho phù hợp với điều kiện kinh tế trong từng vùng và trong từng giai đoạn phát triển. Đối với các doanh nghiệp, lãi suất phải trả cho việc sử dụng vốn vay là chi phí sản xuất kinh doanh. Nếu lãi suất quá cao, chi phí sản xuất của doanh nghiệp tăng lên, lợi nhuận sẽ giảm đi do giá thành sản phẩm dịch vụ tăng. Lãi suất là mức giá của các khoản tiền vay, lãi suất cao sẽ hạn chế nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp. Do vậy, xác định khung lãi suất phù hợp là hết sức quan trọng. Khung lãi suất do Nhà nước xác định phải căn cứ vào tình hình thị trường, nhu cầu vay vốn của thị trường và phải được thay đổi linh hoạt cho phù hợp với sự biến động của nhu cầu, của sự sản xuất kinh doanh. 2. Kiến nghị với ngân hàng công thương Hoàn kiếm Kiến nghị 6: Ngân hàng cần có những biện pháp hữu hiệu, thu hút vốn trung dài hạn để tăng khối lượng tín dụng trung và dài hạn. Trong thời gian qua, nguồn vốn trung, dài hạn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn huy động dẫn đến tình trạng lượng vốn cho vay dài hạn thấp. Ngân hàng cần kết hợp giữa huy động vốn trung dài hạn để cho vay trung dài hạn với phương châm: Cho vay trung dài hạn đối với doanh nghiệp là tạo tiềm năng về vốn trong tương lai cho ngân hàng. Hiện nay, lãi suất trung, dài hạn vẫn là lãi suất danh nghĩa, bao gồm lãi suất thực và tỷ lệ lạm phát. Lãi suất này chưa có sức thuyết phục doanh nghiệp và dân cư gửi tiền vào ngân hàng với thời hạn dài vì tâm lý lo sợ tỷ lệ lạm phát cao, vốn đã xảy ra nhiều năm trước đây, làm cho lãi suất thực âm. Theo tôi, ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung nên ápdụng lãi suất trung dài hạn theo công thức sau: IDN =I (1+r) + r Trong đó : IDN là lãi suất danh nghĩa hay lãi suất cho vay. I là một hằng số đại diện cho mức lãi suất thực. r là tỷ lệ lạm phát, do Ngân hàng Nhà nước công bố vào cuối năm. I (1+r) là lãi suất thực của tiền gửi. Khi đó, doanh nghiệp, dân cư gửi tiền vào ngân hàng, cho dù thời hạn bao lâu đi chăng nữa, tỷ lệ lạm phát cao thì vẫn không ảnh hưởng đến mức thu nhập từ tiền gửi của họ. Giả sử, nếu một doanh nghiệp gửi V đồng vào ngân hàng, sau một năm, cả gốc lẫn lãi mà doanh nghiệp thu được là: V+ V. IDN = V+ V.I (1+r) + V. R = (V+I)(1+r) Khi đó, với mức giảm giá chung của đồng tiền là 1+b thì giá trị thực của cả vốn và lãi mà doanh nghiệp thu về là V+I . Giá trị này không thay đổi theo tỷ lệ lạm phát r. Tuy nhiên điểm yếu của công thức tính lãi này là ở chỗ lãi cho vay chỉ được xác định chính xác vào cuối năm khi Ngân hàng Nhà nước đã công bố tỷ lệ lạm phát của năm qua, đồng thời khi dùng lãi suất này, ngân hàng phải chịu mức rủi ro lãi suất cao hơn. Khi dùng công thức tính lãi suất này, ngân hàng cũng nên áp dụng công thức tính lãi suất cho vay trung dài hạn tương tự thì sẽ giảm đưọc rủi ro. Trong hoạt động của ngân hàng, cho vay trung dài hạn, không nên chỉ dựa vào nguồn vốn trung dài hạn. Nguồn vốn ngắn hạn nếu có thể dự đoán được luồng vào, ra thì cũng có thể dùng để cho vay trung dài hạn theo một tỷ lệ nào đó. Do vậy, ngân hàng cần mạnh dạn cho vay trên cơ sở tính các chỉ tiêu một cách khoa học, kết hợp với điều kiện thực tế của ngân hàng và những kết quả dự đoán trong tương lai. Kiến nghị 7: Ngân hàng cần mở rộng khối lượng tín dụng thông qua đa dạng hoá hình thức cho vay, trong đó chú trọng kết hợp giữa cho vay theo món và cho vay luân chuyển. Hiện nay, ngân hàng chủ yếu cho vay ngắn hạn, đối với các doanh nghiệp là cho vay theo món, trả một lần. Phương thức cho vay này sử dụng tài khoản thông thường, được thực hiện trên cơ sở từng phương án sản xuất kinh doanh, từng hoá đơn mua hàng của doanh nghiệp và theo yêu cầu của doanh nghiệp vay. Phương thức cho vay này có nhược điểm là mỗi lần vay tổ chức kinh tế phải nộp đơn kiêm khế ước nhận nợ, trình các chứng từ, hợp đồng xin vay, phải qua nhiều khâu, nhiều bước kiểm duyệt. Trong khi đó, nhu cầu vốn hoạt động của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường đòi hỏi tính năng động, độ nhạy cảm cao, do đó, hiện tượng nguồn vốn tín dụng không đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, cản trở quá trình sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, có gía trị cho vay và thời hạn cho vay nhất định theo hợp đồng. Trong thời hạn này, nếu doanh nghiệp không sử dụng hết khoản vốn vay của mình ngay khi vay sẽ gây nên sự lãng phí về thời gian sử dụng vốn vay, làm chậm quá trình lưu thông vốn của các doanh nghiệp. Phương thức cho vay luân chuyển sử dụng tài khoản cho vay luân chuyển được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp. Doanh nghiệp vay vốn chỉ cần làm thủ tục xin vay một lần trình cho ngân hàng nên sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian cho cả doanh nghiệp, cho cả ngân hàng. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ngân hàng tuỳ theo tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong cả kỳ sản xuất kinh doanh để cho vay thu nợ theo luồng tiền vào ra trên tài khoản của doanh nghiệp. Mặt khác, theo phương thức cho vay này, ngân hàng có thể theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay cũng như quá trình sản xuất kinh doanh, sự thay đổi khả năng tài chính của doanh nghiệp thông qua số dư tài khoản của doanh nghiệp tại ngân hàng. Trong hai phương pháp cho vay trên, mỗi phương pháp đều có những ưu nhược điểm riêng, do đó, ngân hàng cần xem xét nghiên cứu kỹ để áp dụng phương pháp cho vay nào đối với từng doanh nghiệp cụ thể, cho phù hợp với quá trình luân chuyển vốn trong kinh doanh của doanh nghiệp. Kiến nghị 8: Ngân hàng cần nỗ lực trong việc thu hồi và xử lý nợ quá hạn mà hiện nay nợ quá hạn đang chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ của ngân hàng. Khi cho vay nếu không thu hồi được nợ, ngân hàng sẽ mất vốn. Nợ quá hạn nợ khó đòi là những khoản phản ánh lên mức độ vốn của ngân hàng bị các doanh nghiệp, cá nhân... chiếm dụng. Vấn đề trước hết là ngân hàng cần có biện pháp để hạn chế nợ quá hạn, nợ khó đòi. Trong các giải pháp đó thì giải pháp nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng là quan trọng nhất. Sự hời hợt, qua loa trong thẩm định cho vay của cán bộ tín dụng là nguyên nhân chính gây nên nợ quá hạn hiện nay. Quy trách nhiệm về những khoản vốn cho vay không đòi được đối với cán bộ tín dụng nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ cũng như các hành vi tiêu cực là giải pháp mạnh mẽ mà ngân hàng nên thực hiện ngay. Tất nhiên, dù có giải pháp gì đi chăng nữa thì cũng không thể tránh khỏi sự xuất hiện nợ quá hạn. Vấn đề là ngân hàng tổ chức khai thác, thu nợ hay thanh lý các khoản nợ theo hợp đồng tín dụng như thế nào để thu hồi được vốn mà vẫn giữ được mối quan hệ với khách hàng. Theo tôi, ngân hàng trước hết phải phân loại nợ quá hạn mmột cách cụ thể theo các tiêu thức tiêu thức khác nhau, đặc biệt là tiêu chuẩn về đạo đức của người vay để có những biện pháp thu nợ phù hợp với từng khoản nợ. Nếu thuộc loại nợ qúa hạn thời gian dài, nguyên nhân do nguồn vốn vay sử dụng không đúng mục đích hay có hành vi không đúng đắn trong vay nợ, tư cách đạo đức, ý muốn trả nợ kém thì ngân hàng cần lập tức siết chặt các biện pháp thu nợ và có thể thu hồi, phát mại tài sản thế chấp. + Đối với các khoản nợ quá hạn mà nguyên nhân gây ra là khách quan, hiện tại doanh nghiệp chưa có khả năng trả nợ, tình hình tài chính doanh nghiệp không tốt và nếu có thêm vốn thì doanh nghiệp có thể lấy lại được nhịp độ sản xuất kinh doanh như cũ, ngân hàng có thể gia hạn nợ cho các doanh nghiệp này và nếu có thể, cho vay những khoản mới để doanh nghiệp tiếp tục sản xuất kinh doanh một cách có hiệu quả. Kiến nghị 9: Ngân hàng cần thực hiện chiến lước khách hàng. Hiện nay, chủ yếu ngân hàng chỉ phục vụ nhu cầu của những khách hàng đến với ngân hàng, chứ ngân hàng chưa có sự nghiên cứu tìm hiểu, điều tra nhu cầu thị trường để tìm cơ hội đầu tư. Hoạt động Marketing ngân hàng chưa được đề cao. Đó là vấn đề mà ngân hàng công thương Hoàn kiếm cần phải khắc phục. Trong nền kinh tế thị trường, ngành ngân hàng nói riêng và các ngành sản xuất kinh doanh nói chung phải sản xuất, cung ứng những gì thì trường cần chứ không phải là những gì mình có. Ngân hàng công thương Hoàn kiếm cũng phải cung ứng những gì mà khách hàng cần , đòi hỏi ngân hàng phải nghiên cứu, tìm hiểu, điều tra nhu cầu của khách hàng thông qua việc mở thêm các quầy giao dịch, các quỹ tiết kiệm. Ngoài việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, thu hút vốn cho ngân hàng thì đây còn là nơi cung cấp thông tin cần thiết về nhu cầu mới. Hoạt động Marketing cần được đề cao ở mỗi phòng, mỗi nhân viên. Phải làm cho cán bộ nhân viên hiểu rằng Marketing ngân hàng là sự tận tình trong hoạt động, sự trang nhã trong phòng làm việc, nét ăn mặc, phong cách giao tiếp, lời ăn tiếng nói của nhân viên...Tất cả những thứ đó hợp lại tạo nên hình ảnh của ngân hàng trong mắt khách hàng. Khách hàng sẽ quan hệ với ngân hàng lâu dài hơn nếu họ có cảm tình với ngân hàng. Hoạt động Marketing này nếu được đề cao trong ngân hàng, chẵc chắn sẽ mang lại hiệu quả cao. Nền kinh tế ngày càng phát triển , nhu cầu luôn thay đổi theo từng ngày, ngân hàng công thương Hoàn kiếm nói riêng và hệ thống ngân hàng thương mại nói chung cần tìm những biện pháp hữu hiệu hơn nữa để đáp ứng được mọi nhu cầu trong nền kinh tế, góp phần vào quá trình lưu thông vốn, tăng trưởng kinh tế và tạo lợi nhuận cao cho ngân hàng, làm cho hoạt động ngân hàng ngày càng hiệu quả hơn, quy mô ngày càng mở rộng. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về hoạt động tín dụng ở ngân hàng công thương Hoàn kiếm, bài viết của tôi đã phản ánh được thực trạng hoạt động đầu tư tín dụng đối với các doanh nghiệp nhà nước cũng như những khó khăn, thuận lợi mà ngân hàng đang hiện có, những thành tựu mà ngân hàng đã thu được, những tồn tại mà ngân hàng cần phải khắc phục. Bên cạnh đó, tôi đã đề ra một số giải pháp và những kiền nghị theo suy nghĩ của mình dựa trên thực tế hoạt động của ngân hàng, dựa trên cơ sở lý luận về lĩnh vực ngân hàng, nhằm mở rộng về mặt số lượng, nâng cao về mặt chất lượng của hoạt động đầu tư tín dụng đối với khu vực kinh tế quốc doanh. Với thời gian hạn chế, khả năng nghiên cứu có hạn, bài viết của tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý phê bình của các thầy cô giáo, của các cán bộ ngân hàng để tôi có được kiến thức cao hơn cũng như bài viết được hoàn chỉnh hơn. tài liệu tham khảo 1. Frederic S. Mishkin; Tiền tệ, ngân hàng - tài chính và thị trường tài chính; 2. Báo cáo kết quả hoạt động năm 2001 của ngân hàng công thương Hoàn kiếm ; 3. Quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước Việt nam về việc ban hành thể lệ tín dụng đối với các tổ chức kinh tế ; 4. Các tạp chí xuất bản từ năm 1999 đến năm 2001.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0022.doc
Tài liệu liên quan