Luận văn Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Viêt Nam giai đoạn 1996 – 2005

MỤC LỤC Tóm lược nội dung Danh mục các biểu bảng Danh mục các từ viết tắt CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN trang 1 1.1. Lý do chọn đề tài 1 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1 1.3. Phương pháp nghiên cứu 1 1.3.1. Phương pháp thu thập số liệu 2 1.3.2. Phương pháp tổng hợp và so sánh đối chiếu 2 1.3.3. Phương pháp phân tích số liệu 2 1.4. Phạm vi nghiên cứu 2 CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN 3 2.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp 3 2.2. Các hình thức đầu tư trực tiếp 3 2.2.1. Hợp đồng hợp tác kinh doanh 3 2.2.2. Doanh nghiệp liên doanh 3 2.2.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 3 2.2.4. Hợp đồng “ xây dựng – kinh doanh – chuyển giao” 3 2.3. Tác động của đầu tư trực tiếp 3 2.4. Hệ số ICOR và ý nghĩa của nó 5 2.5. Năng suất lao động 5 2.6. Các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động doanh nghiệp 5 2.6.1. Mức độ thâm dụng vốn 5 2.6.2. Hiệu quả sử dụng lao động 5 2.6.3. Hiệu quả sử dụng TSCĐ 6 2.6.4. Hiệu quả sử dụng vốn 6 2.6.5. Mức độ ổn định vốn đầu tư 6 2.7. Vốn sản xuất và vốn đầu tư 6 2.7.1. Vốn sản xuất 6 2.7.2. Vốn đầu tư 6 2.8. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) 6 2.9. Chỉ số phát triển con người (HDI) 7 CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1996 – 2005 8 3.1. Thực trạng thu hút FDI vào Việt Nam từ 1988 - 2005 8 3.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo năm 8 3.1.2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo ngành 10 3.1.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo đối tác đầu tư 12 3.1.4. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo hình thức đầu tư 14 3.1.5. Đầu tư trực tiếp nước ngoài theo địa phương 15 3.2. Tình hình đóng góp của FDI vào sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ 1996 – 2005 17 3.2.1. Đóng góp của FDI vào GDP 17 3.2.2. Đóng góp của FDI vào sự gia tăng xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu 19 3.2.3. Đóng góp cùa FDI trong việc giải quyết việc làm 23 3.2.4. Đóng góp của FDI vào sự phát triển công nghệ 23 3.3. Hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế FDI 25 3.3.1. Hệ số ICOR 25 3.3.2. Mức độ thâm dụng vốn của các loại hình doanh nghiệp 28 3.3.3. Hiệu quả sử dụng lao động của các doanh nghiệp 30 3.3.4. Hiệu quả sử dụng TSCĐ của các doanh nghiệp 33 3.3.5. Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp 35 3.3.6. Mức độ ổn định vốn đầu tư của các doanh nghiệp 36 3.4. So sánh trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam với một số nước khác 37 3.4.1. So sánh hệ số ICOR với các nước 37 3.4.2. So sánh GDP bình quân đầu người với các nước 39 3.4.3. So sánh về chỉ số HDI với các nước 42 3.4.4. So sánh tiềm năng thu hút FDI với các nước 43 CHƯƠNG 4: KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 46 4.1. Đánh giá chung về kết quả hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua 46 4.2. Đánh giá chung về hiệu quả đầu tư khu vực FDI 46 4.3. Những hạn chế của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 46 4.4. Các nhận xét và khuyến nghị 47 4.5. Kết luận 48 TỔNG QUAN 1.1. Lý do chọn đề tài: Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hiện nay, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ( Foreign Direct Investment – FDI) đã trở thành xu thế khách quan trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều quốc gia và FDI được nhìn nhận như là một trong những nhân tố quan trọng để thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng hiệu quả. Các nước G7 như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, các Nics như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và đặc biệt là láng giềng như Trung Quốc, Ấn Độ là những điển hình dẫn đầu về tiếp nhận vốn FDI. Nguyên nhân là do các nước trên đã tạo lập được một môi trường đầu tư thuận lợi, theo hướng khuyến khích và ưu đãi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Như một xu thế chung ngày nay, tất cả các nước trên thế giới đều cạnh tranh nhau để thu hút được nhiều nguồn vốn FDI bằng cách không ngừng cải thiện môi trường đầu tư quốc gia, tạo lập một môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư. Hơn nữa các quốc gia thành viên của Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) thường có một môi trường đầu tư rất cạnh tranh để thu hút FDI. Điều này tạo ra nhiều thách thức lớn cho những nước đang phát triển như Việt Nam – thành viên chính thức của WTO từ tháng 1/2007. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới hầu giảm bớt thế tụt hậu ở Đông Á, Việt Nam đã tiến những bước dài trong lĩnh vực mở cửa và hội nhập quốc tế. Việt Nam đã thành công trong vài năm đầu của quá trình đổi mới với sức hấp dẫn của một thị trường mới còn bỏ ngõ. Nhưng luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã giảm đáng kể trong những năm gần đây, mà nguyên nhân chính là những lý do yếu kém nội tại, mặc dù có sự châm ngòi của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á. Một số hãng của nước ngoài đã rút đầu tư khỏi Việt Nam. Nhưng đến cuối năm 2006, vốn đầu tư FDI vào Việt Nam lại đạt đến mức kỷ lục từ trước đến nay đạt 10,2 tỷ USD, đánh dấu sự trở lại của các nhà đầu tư nước ngoài, các tập đoàn đa quốc gia lớn mạnh như Intel, Canon, . đã trở lại đầu tư vào Việt Nam, và dự báo nguồn vốn FDI vào Việt Nam sẽ tiếp tục tăng lên trong thời gian tới. Như vậy việc xem xét, nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nguồn vốn FDI là khách quan và cần thiết từ khi nước ta bắt đầu tiếp nhận nguồn vốn FDI đến nay. Nguồn vốn FDI có góp phần vào tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam không? Hay hiệu quả sử dụng vốn FDI như thế nào? Với những câu hỏi đặt ra và những lý do nêu trên là cơ sở của việc lựa chọn đề tài “ Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Viêt Nam giai đoạn 1996 – 2005” làm luận văn tốt nghiệp. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu: Đề tài này có mục tiêu: Đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. 1.3. Phương pháp nghiên cứu: 1.3.1. Phương pháp thu thập số liệu: Đề tài được nghiên cứu trước hết bằng phương pháp thu thập số liệu, tài liệu có liên quan. Số liệu được thu thập từ những sách, báo, tạp chí kinh tế, và lấy từ internet. 1.3.2. Phương pháp tổng hợp số liệu và so sánh đối chiếu: Số liệu sau khi thu thập được tổng hợp và so sánh qua các năm, qua từng giai đoạn nhất định của một thời kỳ kinh tế, các ngành trong cơ cấu kinh tế, hay qua các chỉ tiêu đặt ra để so sánh.

doc48 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Viêt Nam giai đoạn 1996 – 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uả sử dụng vốn đầu tư trong khu vực ngoài quốc doanh. Các so sánh cho thấy trong những năm gần đây, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực ngoài quốc doanh là cao nhất, tiếp đến là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Hiệu quả sử dụng vốn của khu vực kinh tế Nhà nước là thấp nhất. 3.3.2. Mức độ thâm dụng vốn của các doanh nghiệp ở các thành phần kinh tế: Bảng 17: Mức độ thâm dụng vốn của các loại hình doanh nghiệp ĐVT: Tỷ đồng / người Năm 2000 2002 2003 2004 Doanh nghiệp Nhà Nước 0,32 0,34 0,37 0,41 ICOR khu vực KTNN 7,33 9,08 8,5 8,43 Doanh nghiệp ngoài Nhà Nước 0,09 0,08 0,09 0,11 ICOR khu vực ngoài NN 3,77 3,0 4,03 4,44 Doanh nghiệp có vốn FDI 0,56 0,37 0,33 0,32 ICOR khu vực FDI 5,68 10,0 7,22 6,30 Nguồn: Tính toán từ Niên Giám Thống Kê 2005 – Tổng Cục Thống Kê Khi nói đến hiệu quả đầu tư của một thành phần kinh tế nào đó thì không thể không nói đến hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế đó. Hiện nay, diện mạo các doanh nghiệp ở Việt Nam đã và đang được khắc họa ngày một rõ nét. Doanh nghiệp đã trở thành nhân tố động lực cho phát triển kinh tế nước nhà, nhất là trong giai đoạn hội nhập kinh tế tòan diện sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Mức độ thâm dụng vốn của doanh nghiệp thể hiện quy mô đầu tư cho lao động trong doanh nghiệp đó, nó được tính bằng tỷ số giữa vốn sản xuất kinh doanh bình quân hằng năm của các doanh nghiệp và tổng số lao động hằng năm trong các doanh nghiệp. Qua bảng trên ta thấy doanh nghiệp Nhà Nước (DNNN) có mức độ thâm dụng vốn ngày càng cao trong khi mức độ này ở doanh nghiệp có vốn FDI ngày càng giảm và DN ngoài Nhà Nước thì có sự tăng giảm không đều qua các năm, nhưng bình quân năm mức độ thâm dụng vốn của DNNN là 0,36 tỷ đồng / người, thấp hơn mức độ thâm dụng vốn bình quân năm của DN có vốn FDI (DN FDI) là 0,39 tỷ đồng / người. DNNN có sự đầu tư vốn cho lao động ngày càng; vốn sản xuất kinh doanh hằng năm luôn tăng lên và tăng với tốc độ nhanh hơn tốc độ gia tăng tổng số lao động của DNNN, do đó mức độ thâm dụng vốn của DNNN ngày càng cao, trong khi lao động trong DNNN có xu hướng giảm dần, năm 2004 giảm đi so với năm 2003 là 15.040 người. Bảng 18: Vốn sản xuất kinh doanh bình quân hằng năm của các doanh nghiệp ĐVT: Tỷ đồng Năm 2000 2002 2003 2004 Ước 2005 Tổng số 998.423 1.186.014 1.352.076 1.537.179 1.966.165 DNNN 670.234 781.705 858.560 932.943 1.128.484 DN ngoài NN 98.348 142.202 202.396 289.625 422.892 DN có vốn FDI 229.841 262.107 291.120 344.611 414.789 Nguồn: Niên Giám Thống Kê 2005 – Tổng Cục Thống Kê Tốc độ tăng vốn sản xuất kinh doanh bình quân của DNNN năm 2002 là 16% so với năm 2001, năm 2003 là 9,8 % so với năm 2002, năm 2004 là 8,6 % và năm 2005 đã tăng 20,9 % so với năm 2004. Tổng số lao động trong DNNN lại tăng rất chậm và giảm 0,66 % năm 2004 trong khi vốn sản xuất kinh doanh lại tăng rất nhanh vào năm này. Bảng 19: Tổng số lao động trong các doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hằng năm ĐVT: Người Năm 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng số 3.536.998 3.933.226 4.657.803 5.175.092 5.770.201 DNNN 2.088.531 2.114.324 2.259.858 2.264.942 2.249.902 DN ngoài NN 1.040.902 1.329.615 1.706.857 2.049.891 2.475.448 DN có vốn FDI 407.565 489.287 691.088 860.259 1.044.851 Nguồn: Niên Giám Thống Kê 2005 – Tổng Cục Thống Kê Theo chủ trương của Đảng và Nhà Nước, các DNNN dần dần được sắp xếp lại và cổ phần hóa do đó quá trình tích tụ vốn cũng được nâng cao nhưng cũng vì thế mà làm cho không ít các DN giải thể, sáp nhập, cùng những cải cách hành chính chống tham nhũng cho nên số lao động trong DNNN cũng giảm dần. Đối với các DN ngoài NN, mức độ thâm dụng vốn là thấp nhất so với DNNN và DN có vốn FDI, bình quân một lao động được đầu tư 0,09 tỷ đồng. DN ngoài NN thu hút ngày càng nhiều lao động nhưng nguồn vốn sản xuất kinh doanh không nhiều, bình quân chỉ bằng 24,8% vốn sản xuất kinh doanh của DNNN. Tuy nhiên vốn sản xuất kinh doanh của DN ngoài NN tăng dần với tốc độ nhanh hơn DNNN, bình quân là 43,7% /năm, lượng lao động cũng tăng nhanh không kém, năm 2001 tăng 288.713 người so với năm 2000, năm 2002 tăng 377.242 người so với năm 2001, đến năm 2004 tăng 425.557 người so với năm 2003, gấp hơn 2 lần năm 2001 và vượt qua DNNN 225.546 người. Sự tăng nhanh về vốn là do sự tăng nhanh số lượng DN ngoài NN bởi chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà Nước, đẩy nhanh hội nhập quốc tế nhưng phần lớn là các doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ nên vốn sản xuất kinh doanh ít hơn nhiều so với DNNN và DN có vốn FDI. DN có vốn FDI có mức độ thâm dụng vốn cao nhất so với DNNN và DN ngoài NN, bình quân năm là 0,39 tỷ đồng / người. Vốn sản xuất kinh doanh nhìn chung là thấp hơn so với hai loại hình doanh nghiệp còn lại, tổng số lao động hằng năm cũng thấp hơn. Vốn sản xuất kinh doanh thấp hơn là do số lượng doanh nghiệp có vốn FDI chưa nhiều ở nước ta nhưng quy mô vốn mỗi doanh nghiệp là rất lớn, loại hình doanh nghiệp này có xu hướng tăng lên trong tương lai do bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt Nam, do đó nguồn vốn cũng tăng liên tục qua các năm. Năm 2005 tăng 1,8 lần so với năm 2000 và tỷ trọng vốn sản xuất kinh doanh ngày càng tăng so với DNNN từ 34% năm 2000 tăng lên 36%. Tổng số lao động trong DN có vốn FDI cũng tăng liên tục theo sự gia tăng của các DN FDI, năm 2004 tăng gấp 2,5 lần năm 2000 và chiếm 18% tổng số lao động làm việc trong tất cả các loại hình doanh nghiệp. Các DN FDI có lợi thế về vốn, được trang bị công nghệ cao, gắn kết với thị trường quốc tế nên có quy mô vốn lớn hơn, đầu tư cho lao động nhiều hơn các thành phần doanh nghiệp khác. Với những phân tích trên cùng với hệ số ICOR cho thấy, DNNN đầu tư vốn rất nhiều vào sản xuất kinh doanh nhưng hệ số ICOR lại cao nhất, nghĩa là hiệu quả đầu tư là thấp nhất, hiệu quả kinh tế xã hội lại không đáng kể, không tạo ra được nhiều việc làm như mong đợi, nguồn vốn bị lãng phí rất nhiều. Trái lại, DN ngoài NN có vốn đầu tư thấp nhất nhưng hiệu quả đầu tư là cao nhất, giải quyết được đại đa số vấn đề việc làm cho xã hội, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao. Các doanh nghiệp có vốn FDI có ưu thế về vốn, tuy nhiên vẫn còn là một lực lượng nhỏ trong nền kinh tế Việt Nam, hệ số ICOR vẫn còn cao nhưng cũng đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cho nước ta, ngày càng tạo được nhiều việc làm cho xã hội. 3.3.3. Hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp: Mức độ thâm dụng vốn cho thấy mức độ đầu tư vốn cho lao động của các doanh nghiệp, còn hiệu quả sử dụng lao động của các doanh nghiệp sẽ như thế nào? Hiệu quả sử dụng lao động cho ta biết một lao động đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần cho doanh nghiệp. Nó được tính bằng tỷ số giữa doanh thu thuần sản xuất kinh doanh hằng năm và tổng số lao động làm việc hằng năm trong doanh nghiệp. Bảng 20: Hiệu quả sử dụng lao động ở các loại hình doanh nghiệp ĐVT: Tỷ đồng / người Năm 2000 2001 2002 2003 2004 DNNN 0,21 0,22 0,27 0,29 0,31 DN ngoài NN 0,19 0,19 0,21 0,23 0,25 DN có vốn FDI 0,39 0,36 0,32 0,33 0,35 Nguồn: Tính toán từ Niên Giám Thống Kê 2005 Nhân tố vốn và lao động là những nhân tố chủ yếu làm nên doanh thu và lợi nhuận. Nhìn chung hiệu quả sử dụng lao động ở doanh nghiệp có vốn FDI là cao nhất tuy có sự tăng giảm không đều, kế đến là DNNN và cuối cùng là DN ngoài NN. Đối với khu vực DNNN, hiệu quả sử dụng lao động ngày càng được cải thiện, tăng dần qua các năm. Năm 2000, một lao động tạo ra 0,21 tỷ đồng doanh thu thuần, đến năm 2004, con số này là 0,31 tỷ đồng/ lao động. Nguyên nhân là do doanh thu thuần sản xuất kinh doanh tăng lên mỗi năm với tốc độ nhanh hơn nhiều so với tốc độ tăng lên của lao động trong khu vực DNNN. Năm 2001, tốc độ tăng của doanh thu thuần sản xuất kinh doanh là 3,45% so với năm 2000 trong khi tốc độ tăng lao động trong khu vực DNNN chỉ có 1,2% so với năm 2001. Năm 2002, con số tương ứng là 32% và 6,8% so với năm 2001. Đến năm 2004, tốc độ gia tăng doanh thu thuần của DNNN là 6% so với năm 2003 trong khi tổng lao động trong DNNN lại giảm 0,66%. Bảng 21: Doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ĐVT: Tỷ đồng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 DNNN 444.673 460.029 611.167 666.022 708.045 DN ngoài NN 203.156 260.565 362.657 482.181 637.371 DN có vốn FDI 161.957 177.262 221.078 287.948 373.985 Nguồn: Niên Giám Thống Kê 2005 – Tổng Cục Thống Kê Hiệu quả sử dụng lao động của khu vực DNNN đã tăng lên theo chiều hướng tốt, từ mức chỉ bằng 53% DN FDI thì năm 2004 đã tăng lên bằng 88% mức các DN FDI. Quá trình cải cách DNNN đạt kết quả tốt nên hiệu quả sử dụng lao động đã tăng lên. Khu vực DN ngoài NN có hiệu quả sử dụng lao động thấp nhất, nhưng có sự tăng dần qua các năm. Năm 2001 so với năm 2000 không có sự thay đổi chỉ ở mức 0,19 tỷ đồng /lao động nhưng đến năm 2003, một lao động tạo ra 0,23 tỷ đồng doanh thu thuần so với năm 2002 là 0,21 tỷ đồng /người và năm 2004, con số này đã là 0,25 tỷ đồng /người. Tốc độ gia tăng của doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của khu vực DN ngoài NN tăng nhanh nhưng song song đó tốc độ gia tăng tổng lao động trong DN ngoài NN cũng tăng nhanh, do đó hiệu quả sử dụng lao động của khu vực DN ngoài NN không cao. Năm 2001, doanh thu thuần tằng 28% so với năm 2000, trong khi đó tổng lao động cũng tăng 27,7% so với năm 2000. Năm 2002, doanh thu thuần tăng 39% thì tổng lao động của khu vực doanh nghiệp này cũng tăng tương ứng là 28% so với năm 2001. Đến năm 2004 tốc độ tăng tương ứng của hai chỉ tiêu này là 32% và 20,7% so với năm 2003. Khu vực DN ngoài NN có hiệu quả sử dụng lao động thấp nhất do chủ yếu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ và phần nào được thành lập ào ạt sau khi có Luật Doanh nghiệp 1999, khuyến khích mở rộng các loại hình doanh nghiệp, cho nên hiệu quả hoạt động được đo bằng hiệu quả sử dụng lao động không cao. Tuy nhiên hiệu quả hoạt động của DN ngoài NN đang có xu hướng tăng dần theo chiều hướng tốt, từ mức chỉ bằng 48,7% các DN có vốn FDI đã tăng lên bằng 71% mức các DN có vốn FDI. Đối với khu vực DN có vốn FDI, khu vực có hiệu quả sử dụng lao động cao nhất. Bình quân năm, một lao động tạo ra 0,35 tỷ đồng doanh thu thuần sản xuất kinh doanh, gấp 1,3 lần bình quân năm của DNNN và gấp 1,6 lần bình quân năm DN ngoài NN. Tốc độ gia tăng của doanh thu thuần trong DN có vốn FDI trong năm 2001 là 9,4% tương ứng với tốc độ gia tăng lao động là 20% so với năm 2000. Năm 2002 hai con số này là 24,7% và 41%, điều này giải thích được nguyên nhân của sự sụt giảm hiệu quả sử dụng lao động trong năm 2001 và 2002, do tốc độ gia tăng tổng lao động trong khu vực DN có vốn FDI nhanh hơn tốc độ gia tăng của doanh thu thuần sản xuất kinh doanh. Năm 2003, doanh thu thuần tăng 31,2% và lao động tăng 24,4% so với năm 2002 và năm 2004 doanh thu tăng 29,8%, lao động tăng 21,4% so với năm 2003 hiệu quả sử dụng lao động trong DN có vốn FDI đã tăng trở lại từ năm 2003. Nhìn chung, doanh thu thuần của khu vực DN có vốn FDI thấp hơn DNNN do số lượng DN FDI không nhiều như DNNN, số lao động làm việc cũng ít hơn nhưng hiệu quả sử dụng lao động lại cao hơn. Khu vực DN FDI có sự trang bị vốn cho lao động nhiều hơn, kèm theo là công nghệ mới, công nghệ cao làm cho hiệu quả sử dụng lao động cao hơn khu vực DNNN và DN ngoài NN. Các DNNN có sự đầu tư vốn quá nhiều, lại có được sự độc quyền trong một số lĩnh vực kinh doanh luôn mang lại lợi nhuận cao, số lao động lại thấp hơn các DN ngoài NN nên hiệu quả lao động cao hơn là điều tất nhiên, nhưng như vậy là lãng phí quá nhiều vốn đầu tư. Các DN ngoài NN có số lượng lao động đông nhưng có quy mô nhỏ, công nghệ thấp, thường chỉ nhận gia công lại hoặc cung ứng những dịch vụ phụ trợ nên doanh thu không cao dẫn đến hiệu quả lao động không cao. Tuy nhiên do sự cạnh tranh mạnh lên giữa các thành phần kinh tế, DNNN và DN ngoài NN đã thu hẹp dần khoảng cách về hiệu quả hoạt động sản xuất với DN có vốn FDI trong những năm qua nhờ thực hiện chương trình sắp xếp và đổi mới DNNN, cổ phần hóa DNNN, khuyến khích tất cả các loại hình doanh nghiệp để nâng cao năng lực cạnh tranh. Giải quyết việc làm để sử dụng số lượng lao động là mục tiêu có tầm quan trọng hàng đầu của những nước đang phát triển nhằm giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm. Song, nâng cao chất lượng để nâng cao năng suất lao động lại là vấn đề cơ bản, lâu dài của lực lượng lao động. Năng suất lao động được tính bằng GDP theo giá thực tế chia cho số lao động bình quân năm. Bảng 22: Năng suất lao động ĐVT:Nghìn đồng / người Năm 2000 2002 2003 2004 2005 KTNN 48.597,8 54.833,2 59.408,2 68.084,3 78.006,8 KT NQD 6.283,0 7.260,2 7.911,5 8.883,9 10.097,2 Khu vực FDI 258.492 167.645,5 170.694,3 171.589,8 196.972,3 Toàn nền kinh tế 11.743,0 13.561,0 15.119,2 17.200,5 19.617,6 % thay đổi NSLĐ toàn nền kinh tế - 15 11 13,7 14 Nguồn: Tính từ Niên Giám Thống Kê 2005 Nhìn vào bảng trên ta thấy năng suất lao động của toàn nền kinh tế, và 3 thành phần kinh tế tăng đều qua các năm. Năng suất lao động của khu vực FDI là cao nhất, kế đến là khu vực kinh tế Nhà nước và sau cùng là khu vực kinh tế ngoài Nhà nước. Khu vực ngoài Nhà nước tạo ra nhiều GDP nhất nhưng vì số lượng lao động cũng chiếm tỷ trọng cao nhất nên năng suất lao động thấp. Bình quân năm, một lao động tạo ra 8.087,1 nghìn đồng giá trị GDP/năm. Năm 2005, năng suất lao động khu vực này đã tăng lên 3.814,2 nghìn đồng/ người so với năm 2000. Như vậy khu vực này có tỷ trọng GDP cao nhất cả nước là do có lượng lao động đông nhất, nhưng năng suất lao động, hiệu quả lao động thấp nhất. Khu vực kinh tế Nhà nước có năng suất lao động cao hơn, bình quân năm đạt 61.786 nghìn đồng / người. Năm 2005 tăng lên 29.409 nghìn đồng/người so với năm 2000. Do số lượng lao động trong khu vực này thấp hơn khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, lại được sự độc quyền trong một số ngành và những ngành này luôn tạo ra giá trị GDP cao hơn, do đó năng suất lao động của khu vực kinh tế Nhà nước cao hơn năng suất lao động của khu vực ngoài Nhà nước. Khu vực FDI lại có năng suất lao động cao nhất, lượng lao động bìng quân chỉ chiếm 1,2% lao động cả nước nhưng GDP tạo ra lại chiếm trên 14% GDP toàn nền kinh tế. Năng suất lao động năm 2000 là cao nhất sau đó giảm vào năm 2002 và tăng trở lại năm 2003 đến nay. Bình quân năm, một lao động của khu vực FDI tạo ra 193.078,7 nghìn đồng giá trị GDP của khu vực. Điều này cho thấy hiệu quả sử dụng lao động của khu vực FDI là rất cao, được sự hỗ trợ của các tập đoàn kinh tế lớn mạnh trên thế giới, có lợi thế về trình độ công nghệ,… lại là những doanh nghiệp chuyên về xuất khẩu nên giá trị GDP mang lại cao hơn các thành phần kinh tế khác, biết quản lý, sử dụng lao động hiệu quả nên năng suất lao động của khu vực FDI luôn cao hơn năng suất lao động của các thành phần kinh tế khác. Qua phân tích trên, FDI không những giúp giải quyết việc làm, nâng cao đời sống người dân mà còn sử dụng hiệu quả nguồn lao động tạo ra giá trị GDP cao trong khu vực từ đó góp phần vào tăng trưởng kinh tế cả nước. 3.3.4. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định của các doanh nghiệp: Tài sản cố định được hình thành như thế nào từ vốn đầu tư, đó cũng là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. Trong doanh nghiệp thì tài sản cố định được sử dụng như thế nào để đem lại doanh thu? Đây là chỉ tiêu để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định của các loại hình doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp được đánh giá bằng hệ số giữa doanh thu thuần sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hằng năm. Bảng 23: Hiệu quả sử dụng tài sản cố định của các doanh nghiệp Năm 2000 2001 2002 2003 2004 DNNN 1,93 1,74 1,97 2,00 1,96 DN ngoài NN 5,98 5,10 4,99 4,68 4,32 DN có vốn FDI 1,09 1,09 1,29 1,36 1,57 Nguồn: Tính toán từ Niên Giám Thống Kê 2005 Ta thấy DN ngoài NN có hiệu quả sử dụng tài sản cố định cao nhất, kế đến là DNNN và thấp nhất là DN có vốn FDI. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng tài sản cố định của DN ngoài NN có xu hướng giảm dần. Năm 2000, một giá tài sản cố định đem lại 5,98 đồng doanh thu thuần, năm 2001 giảm còn 5,10 và đến năm 2004 chỉ còn 4,32. Sự giảm dần này là do giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của khu vực DN ngoài NN tăng dần lên qua các năm. Giá trị tài sản cố định (TSCĐ) của khu vực DN ngoài NN là thấp nhất so với hai khu vực doanh nghiệp còn lại bởi vì khu vực doanh nghiệp này chủ yếu là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá thể, tư nhân,…giá trị TSCĐ không lớn, từ nhiều doanh nghiệp hình thành nên. Khu vực DN ngoài NN luôn thiếu vốn, sử dụng nhiều lao động là chủ yếu, TSCĐ được hình thành và sử dụng một cách có hiệu quả cũng như sử dụng tốt đồng vốn đầu tư của bản thân các doanh nghiệp, mang lại doanh thu thuần sản xuất kinh doanh ngày một tăng. Năm 2000, giá trị TSCĐ và đầu tư tài chính dài hạn của DN ngoài NN chỉ bằng 14,7% so với của các DNNN và bằng 22,9% của DN có vốn FDI. Giá trị TSCĐ và đầu tư tài chính dài hạn ở 3 loại hình doanh nghiệp này đều tăng lên qua các năm, đến năm 2004, giá trị này của DN ngoài NN đã tăng lên đến mức bằng 40,9% mức của DNNN và bằng 62% mức của DN có vốn FDI. Bảng 24: Giá trị TSCĐ và đầu tư tài chính dài hạn của doanh nghiệp tại thời điểm 31/12 hằng năm ĐVT: Tỷ đồng Năm 2000 2001 2002 2003 2004 DNNN 229.856 263.153 309.084 332.077 359.952 DN ngoài NN 33.916 51.049 72.663 102.945 147.222 DN có vốn FDI 147.941 162.313 170.579 210.483 237.363 Nguồn: Niên Giám Thống Kê 2005 Hiệu quả sử dụng TSCĐ của các DNNN tăng, giảm không đều qua các năm và ở mức thấp hơn so với khu vực DN ngoài NN. Bình quân năm, một giá trị TSCĐ đem lại 1,92 đồng doanh thu thuần. Mặc dù doanh thu thuần mỗi năm đều tăng và ở mức cao hơn so với DN ngoài NN nhưng giá trị TSCĐ cũng rất lớn so với DN ngoài NN và luôn tăng dần qua các năm, do đó hiệu quả sử dụng TSCĐ của khu vực DNNN thấp hơn so với DN ngoài NN. Giá trị TSCĐ ở khu vực DNNN rất lớn, luôn được sự hỗ trợ, cung cấp nguồn vốn từ Nhà nước, với tâm lý tài sản của Nhà Nước, nên các doanh nghiệp không có ý thức cao trong việc tiết kiệm để tận dụng tài sản có hiệu quả hơn. Đối với các DN có vốn FDI, chỉ tiêu này lại kém hiệu quả hơn so với DNNN và DN ngoài NN, bình quân năm, một giá trị TSCĐ chỉ đem lại 1,28 đồng doanh thu thuần, hệ số này tăng dần qua các năm. Giá trị TSCĐ của khu vực DN có vốn FDI cao hơn so với DN ngoài NN, nhưng doanh thu thuần thấp hơn vì số lượng DN có vốn FDI không nhiều như DN ngoài NN. Như vậy, hạn chế của khu vực DN có vốn FDI là về mặt số lượng doanh nghiệp, điều này đã làm cho hiệu quả sử dụng TSCĐ của DN có vốn FDI thấp hơn so với 2 loại hình doanh nghiệp trên. 3.3.5. Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp: Vốn và lao động là những nhân tố chủ yếu làm nên doanh thu cho doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng vốn được thể hiện qua hệ số vòng quay vốn của doanh nghiệp, hệ số này được tính bằng tỷ số giữa doanh thu thuần sản xuất kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp và vốn sản xuất kinh doanh bình quân hằng năm của doanh nghiệp. Hệ số vòng quay vốn của khu vực DN ngoài NN là cao nhất, nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn của khu vực này là cao nhất trong 3 khu vực doanh nghiệp. Năm 2000, một đồng vốn sản xuất kinh doanh đem lại 2 đồng doanh thu thuần , năm 2002, hệ số này tăng lên là 2,55 năm 2003 là 2,38 và năm 2004 giảm còn 2,20. Khu vực doanh nghiệp này có số vốn đầu tư sản xuất kinh doanh bình quân hằng năm không cao, thấp nhất trong 3 khu vực doanh nghiệp nhưng doanh thu thuần hằng năm chỉ đứng sau DNNN, đây là khu vực doanh nghiệp không có nhiều lợi thế về vốn nên đã tận dụng, sử dụng tốt nguồn vốn của mình nhưng hệ số vòng quay vốn lại có xu hướng giảm dần từ năm 2003. Bảng 25: Hệ số vòng quay vốn của các loại hình doanh nghiệp Năm 2000 2002 2003 2004 DNNN 0,66 0,78 0,77 0,75 DN ngoài NN 2,00 2,55 2,38 2,20 DN có vốn FDI 0,70 0,84 0,98 1,08 Nguồn: Tính toán từ Niên Giám Thống Kê 2005 Khu vực doanh nghiệp có vốn FDI có hệ số vòng quay vốn thấp hơn so với DN ngoài NN và luôn tăng dần qua các năm. Năm 2000, một đồng vốn bỏ ra chỉ đem lại 0,7 đồng doanh thu, đến năm 2004, hệ số này đã là 1,08. Nguồn vốn sản xuất kinh doanh hằng năm của DN có vốn FDI lớn hơn so với khu vực DN ngoài NN, số lượng doanh nghiệp này không nhiều như những loại hình doanh nghiệp khác nhưng vốn đầu tư cao hơn vì vậy doanh thu thuần hằng năm luôn thấp hơn, điều này làm cho hệ số vòng quay vốn của doanh nghiệp có vốn FDI thấp hơn. Khu vực DNNN có hiệu quả sử dụng vốn thấp nhất. Hệ số vòng quay vốn có tăng lên từ năm 2000 đến năm 2002 nhưng lại giảm dần từ năm 2003. Bình quân năm, một đồng vốn sản xuất kinh doanh đem lại 0,74 đồng doanh thu. Khu vực DNNN có vốn sản xuất kinh doanh cao nhất trong 3 khu vực doanh nghiệp, luôn được sự bảo hộ của Nhà nước nên thiếu tính cạnh tranh, kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn. Qua phân tích cho thấy hiệu quả sử dụng vốn trong khu vực DN ngoài NN là cao nhất, kế đến là DN có vốn FDI và sau cùng là khu vực DNNN. 3.3.6. Mức độ ổn định vốn đầu tư của các doanh nghiệp: Khi xem xét hiệu quả sử dụng TSCĐ ở các doanh nghiệp, ta biết đươc một giá trị TSCĐ đem lại bao nhiêu đồng doanh thu thuần cho doanh nghiệp. Vậy TSCĐ được hình thành từ nguồn vốn như thế nào? Mức độ đầu tư cho TSCĐ ở các loại hình doanh nghiệp ra sao? Tỷ lệ hình thành TSCĐ cũng là một trong những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả đầu tư. Mức độ ổn định vốn đầu tư của doanh nghiệp được đo bằng hệ số giữa giá trị TSCĐ và đầu tư tài chính dài hạn tại thời điểm 31/12 hằng năm với vốn sản xuất kinh doanh hằng năm của doanh nghiệp. DNNN có mức độ ổn định vốn đầu tư thấp nhất. TSCĐ được hình thành từ nguồn vốn với tỷ lệ không cao. Năm 2000, một đồng vốn tạo ra 0,34 đồng giá trị TSCĐ, hệ số này năm 2002 là 0,39 năm 2003 và 2004 hệ số này không thay đổi ở mức 0,38. Nguồn vốn sản xuất kinh doanh hằng năm là rất lớn so với các thành phần doanh nghiệp khác nhưng tỷ lệ hình thành TSCĐ trên vốn lại thấp hơn. Chính những yếu kém về quản lý cũng như trong hoạt động kinh doanh của khu vực DNNN làm cho nguồn vốn đầu tư của Nhà nước bị lãng phí, thất thoát, không ổn định, không tạo ra được một tỷ lệ hình thành TSCĐ cao từ nguồn vốn của mình. Bảng 26: Mức độ ổn định vốn đầu tư của các loại hình doanh nghiệp Năm 2000 2002 2003 2004 DNNN 0,34 0,39 0,38 0,38 DN ngoài NN 0,34 0,51 0,50 0,50 DN có vốn FDI 0,64 0,65 0,72 0,68 Nguồn: Tính toán từ Niên Giám Thống Kê 2005 DN ngoài NN có mức độ ổn định vốn đầu tư cao hơn khu vực DNNN. Bình quân năm, một đồng vốn tạo ra 0,46 đồng giá trị TSCĐ. Một sự trái ngược hoàn toàn so với DNNN, bởi vì khu vực DN ngoài NN là khu vực luôn có vốn sản xuất kinh doanh thấp hơn rất nhiều và thấp nhất trong 3 thành phần doanh nghiệp, khu vực này lại có tỷ lệ hình thành TSCĐ trên vốn cao hơn khu vực DNNN. Bởi vì thiếu vốn nên những DN này không lãng phí mà luôn biết sử dụng tốt và ổn định nguồn vốn của mình. DN có vốn FDI có mức độ ổn định vốn đầu tư cao nhất. Năm 2000, hệ số này là 0,64, cao gấp gần 2 lần so với DNNN và ngoài NN. Đến năm 2004, hệ số này là 0,68, cao gấp 1,7 lần DNNN và 1,3 lần DN ngoài NN. Nguồn vốn kinh doanh rất ổn định, đầu tư vào TSCĐ rất cao, bình quân năm, giá trị TSCĐ được hình thành từ hơn 2/3 nguồn vốn sản xuất kinh doanh. So với DNNN thì nguồn vốn này thấp hơn nhưng tỷ lệ hình thành TSCĐ lại cao hơn nhiều. Điều này cho thấy sự quản lý vốn của DN có vốn FDI có hiệu quả hơn so với khu vực DNNN. Thông qua các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, các DN có vốn FDI có ưu thế hơn không phải do có nhiều doanh nghiệp hơn, nhiều vốn hơn các thành phần khác, mà chủ yếu là do hiệu quả sử dụng lao động và tài sản cao hơn các thành phần khác. 3.4. So sánh trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam so với một số nước khác: Sau 20 năm đổi mới và đặc biệt là 10 năm trở lại đây, Việt Nam đã có những bước phát triển quan trọng và to lớn làm thay đổi cả thế và lực của đất nước. Kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao đứng thứ 2 tại Châu Á và trên thế giới chỉ sau Trung Quốc theo Tạp Chí Kinh Tế & Phát Triển số 115, tháng 1 / 2007 , được cộng đồng quốc tế đánh giá cao, được đánh dấu bằng sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO. Tuy vậy, tốc độ và chất lượng tăng trưởng của kinh tế Việt Nam còn nhiều điều cần phải được xem xét lại. Chất lượng tăng trưởng đạt ở mức nào? Làm thế nào để Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực? Một cách đánh giá xem liệu nền kinh tế của chúng ta đã sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả để để đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất hay chưa là so sánh với các nền kinh tế khác, chứ không phải là so sánh với chính mình như cách chúng ta hay làm xưa nay. Muốn biết được trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam hiện đang nằm ở đâu, chúng ta hãy so sánh Việt Nam với Thái Lan, Trung Quốc và Ấn Độ. Chúng ta so sánh với Thái Lan vì ở trong cùng một khối ASEAN, có dân số gần tương đương nhau và nhất là vào thập niên 50 hai nước có cùng trình độ phát triển. Vào năm 1954 GNP bình quân đầu người của Việt Nam là 117 USD trong khi đó Thái Lan vào năm 1952 là 108 USD ( Indonesia là 88 USD; Hàn Quốc là 55 USD vào năm 1955) theo Tạp Chí Kinh Tế & Phát Triển số 115, tháng 1 / 2007 . Chọn Trung Quốc và Ấn Độ làm đối tượng so sánh với Việt Nam bởi vì tuy là 2 nước khổng lồ nhưng có thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa tương đồng với Việt Nam và cũng đều đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu mặc dù không phân tích cụ thể như Thái Lan. Đặc biệt Trung Quốc lại cũng chuyển đổi nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch, tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường như Việt Nam. Việc so sánh trình độ phát triển kinh tế của nước này với nước khác là việc không phải dễ vì khó có một chỉ tiêu tổng hợp nào có thể biểu diễn tổng quát trình độ phát triển của một số nước. Các chỉ tiêu thường được đem so sánh là GDP bình quân đầu người, hệ số ICOR và chỉ số phát triển con người – HDI. 3.4.1. So sánh hệ số ICOR với các nước: Ta biết rằng đầu tư là động lực để tăng trưởng kinh tế. Muốn có được sự tăng trưởng kinh tế thì phải có đầu tư. Nhưng không phải đầu tư càng nhiều thì tăng trưởng càng cao, mà yếu tố hiệu quả đầu tư đóng vai trò quan trọng hơn đối với tăng trưởng kinh tế so với yếu tố lượng đầu tư. Có những nước có tỉ lệ đầu tư cao có khuynh hướng sử dụng vốn đầu tư hiệu quả hơn, thể hiện ở hệ số ICOR thấp hơn, tạo ra một tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn. Có những nước có tỉ lệ đầu tư khá cao nhưng do hiệu quả thấp (ICOR rất cao) nên tốc độ tăng trưởng đạt được rất thấp. Bảng 27: Hệ số ICOR của một số nước trên thế giới: Nước và lãnh thổ 1969 - 1980 1981 - 1990 1991 - 1997 Hồng Kông 2,44 3,36 6,01 Singapore 3,97 4,42 4,31 Hàn Quốc 3,28 3,43 5,88 Trung Quốc 4,64 3,26 3,53 Malaysia 2,55 4,19 4,64 Thái Lan 4,30 4,23 5,36 Indonesia 2,37 5,11 4,84 Philippines 4,59 4,69 4,77 Ấn Độ 3,42 4,08 3,76 Nhật Bản 5,70 6,84 28,28 Việt Nam 3,44 Nguồn: Phạm Đỗ Chí. Kinh tế Việt Nam trên đường hóa rồng. NXB Trẻ Theo kết quả tính toán từ bảng 16, hệ số ICOR của nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tăng trưởng nhanh 1991 – 1997 trung bình là 3,44. Giai đoạn tăng trưởng kinh tế thấp 1997- 1999, hệ số này tăng rất mạnh lên đến 6,2; nếu tính chung cho giai đoạn 1998 – 2005, hệ số ICOR toàn nền kinh tế là 6,35, tức là tăng rất mạnh so với giai đoạn 1991-1997. Khi ở trình độ phát triển thấp vào những năm từ 1950 -1975, hệ số ICOR của Hồng Kông, Singapore, Đài Loan , Nhật Bản và Hàn Quốc chỉ dao động trong khoảng từ 1 đến 2.(Phạm Đỗ Chí, 2004); thấp hơn nhiều so với ICOR của ta hiện nay. Nhìn vào bảng 28 ta thấy, hệ số ICOR của Việt Nam là cao nhất và tốc độ tăng trưởng GDP là thấp nhất so với các nước. Bình quân từ năm 2000 đến nay, ICOR đã lên đến 5,1, cao hơn rất nhiều so với Trung Quốc cách đây 10 năm, Thái Lan 20 năm và Singapore 30 năm. Cùng với một tỷ lệ đầu tư so với GDP tương đương với Việt Nam nhưng Trung Quốc đạt mức tăng trưởng 9 – 10%, trong khi Việt Nam chỉ có thể duy trì ở mức 7-8%. Ở các nước khác, trong giai đoạn mà trình độ kinh tế thấp hơn hiện nay, tỉ lệ đầu tư /GDP bình quân cũng thấp hơn so với Việt Nam hiện nay. Bảng 28: Hiệu quả đầu tư của một số nước trên thế giới: Nước Đầu tư (% / GDP) Tăng trưởng GDP ( %) ICOR Việt Nam (2000 - 2006) 38,3 7,5 5,1 Trung Quốc (1991 - 2003) 39,1 9,5 4,1 Đài Loan (1981 – 1990) 21,9 8,0 2,7 Hàn Quốc (1981 – 1990) 29,6 9,2 3,2 Nhật Bản ( 1961 – 1970) 32,6 10,2 3,2 Nguồn: Như vậy, chúng ta đã lãng phí rất nhiều vốn đầu tư. Nếu giả sử Việt Nam duy trì được cùng hệ số ICOR như các nước láng giềng và tính ra được con số đầu tư cần thiết nhỏ hơn nhiều để đạt cùng độ tăng trưởng GDP như trong thập niên vừa qua, con số thất thoát hay lãng phí được tính sẽ rất lớn. Ngoài vấn đề về thất thoát, vốn đầu tư còn kém hiệu quả vì Việt Nam đã và đang quá tập trung phát triển các ngành sử dụng nhiều vốn, ít lao động. (Phạm Đỗ Chí, 2004) Các nước Đông Á theo đuổi chiến lược phát triển các ngành có hệ số vốn thấp nhưng sử dụng nhiều lao động trong suốt 3 thập kỷ qua nên có được những tỉ lệ tăng trưởng rất cao, nhưng lại giữ được hệ số ICOR thấp. Như vậy vốn đầu tư được tập trung vào các ngành nghề phù hợp với giai đoạn đầu của Công nghiệp hóa, sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là làm hàng xuất khẩu. (Phạm Đỗ Chí, 2004) Từ những phân tích trên cho thấy hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế Việt Nam đã giảm rất mạnh trong những năm gần đây và kém rất xa so với các nước đang phát triển trong khu vực Châu Á. 3.4.2. So sánh GDP bình quân đầu người với các nước : GDP bình quân đầu người là chỉ tiêu thường được đem so sánh trình độ phát triển của nước này với nước khác, nó thể hiện được qui mô của nền kinh tế, mức sống người dân. So với Thái Lan, năm 1996, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng 10% GDP bình quân đầu người của Thái Lan, đến năm 2002 bằng 20% và năm 2004 là 25%. GDP bình quân đầu người của Việt Nam tăng dần, khoảng cách so với Thái Lan dần dần được rút ngắn. So với Trung Quốc, năm 2000, chỉ tiêu này gấp 2 lần mức của Việt Nam, đến năm 2004, khoảng cách này vẫn không thay đổi. So với Ấn Độ, chỉ tiêu này gần như tương đương. Nếu so với cả khối ASEAN, năm 1996, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng ¼, năm 2004, con số này là ½. Như vậy, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là rất thấp, mặc dù nền kinh tế vẫn tăng trưởng nhưng vẫn còn một khỏang cách rất xa so với các nước phát triển trong khu vực. Bảng 29: GDP bình quân đầu người của một số nước theo giá thực tế ( USD) Nước 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Singapore 25127 2514 20892 20611 22757 20553 20823 22070 25193 Thái Lan 3134 2056 1900 2046 2029 1887 2050 2291 2548 Việt Nam 337 361 374 403 415 439 481 540 637 ASEAN 1505 1429 947 1079 1128 1058 1155 1267 1426 Trung Quốc - - - - 856 924 992 1100 1272 Ấn Độ - - - - 450 466 482 555 631 Nguồn: Tạp chí Kinh Tế & Phát Triển số 115 , tháng 1 / 2007 Với tính toán sơ bộ GDP bình quân đầu người và tốc độ tăng trưởng như hiện nay để GDP bình quân đầu người của Việt Nam bằng mức bây giờ của các nước sau đây thì Việt Nam cần một số năm như sau: Indonesia: 5 năm; Philippines: 8 năm; Thái Lan: 20 năm; Malaysia: 24 năm; Brunei: 38 năm; Singapore: 40 năm (giả thiết các nước này đứng yên) (Đào Ngọc Lâm, thuộc Tổng Cục Thống Kê, báo Thanh Niên 29/3/2006). Tuy nhiên, những con số trên không phản ánh mức sống của dân chúng vì sức mua của đồng đô-la rất khác nhau giữa nước này với nước khác. Để so sánh chính xác hơn phải dùng GDP bình quân đầu người tính theo tỉ giá ngang bằng sức mua (PPP – Purchasing Power Parity rate). Bảng 30: GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương của một số nước (ĐVT: USD) Nước 1991 1995 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 Việt Nam - 1236 1630 1689 1860 1996 2070 2300 2490 Trung Quốc 2964 2935 3130 3105 3617 3976 4020 - 5003 Ấn Độ 1150 1422 1670 2077 2248 2358 2840 2670 2892 Thái Lan 5270 7742 6690 5456 6132 6402 6400 - 7595 Singapore 14734 22604 28460 24210 20767 23356 22680 24040 24481 Nguồn: Số liệu Kinh tế - Xã hội Các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới – Tổng Cục Thống Kê ; Niên Giám Thống Kê 2005 – Tổng Cục Thống Kê Xét theo GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương thì Việt Nam vẫn là nước đứng sau các nước được đem so sánh về chỉ tiêu này. Năm 1995, GDP bình quân đầu người tính theo sức mua tương đương của Việt Nam chỉ bằng ½ mức của Trung Quốc, chỉ bằng 1/6 mức của Thái Lan, còn mức của Singapore đã gấp chúng ta 18 lần. GDP bình quân đầu người ở nước ta đều tăng trưởng qua các năm, đến năm 2003, chỉ tiêu này ở Trung Quốc đã gấp đôi mức của Việt Nam, chỉ tiêu này ở Việt Nam chỉ bằng 1/3 của Thái Lan và bằng 1/10 của Singapore. So với các nước trong khu vực, mức sống của người dân Việt Nam vẫn còn thấp hơn nhiều, còn phải mất nhiều năm mới đuổi kịp ngay cả khi các nước này đứng yên huống hồ mỗi năm các nước đều đạt mức tăng trưởng khác nhau. Câu hỏi đặt ra là phải chăng dù có cố gắng đến đâu, Việt Nam cũng không bao giờ có thể có mức GDP bình quân đầu người bằng với các nước phát triển trước trong khu vực và các nước phát triển như Hoa Kỳ và Nhật Bản? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta cùng xem xét điều gì đã xảy ra đối với Nhật Bản và điều gì sắp xảy ra đối với Trung Quốc? Huỳnh Thế Du (2006) đã nghiên cứu và đưa ra nhận định về hai trường hợp của hai quốc gia này: Trường hợp Nhật Bản: Vào năm 1960, GDP bình quân đầu người của Nhật Bản chỉ là 480 USD ( tương đương với Việt Nam năm 2002), trong khi của Hoa Kỳ là 2.879 USD, gấp 6 lần Nhật Bản. Nhưng chỉ sau hơn 4 thập kỷ, GDP bình quân đầu người của Nhật Bản đã là 33.000 USD, bằng 87 % GDP của Hoa Kỳ, có nghĩa là Nhật Bản hầu như đã đuổi kịp Hoa Kỳ. Thực tế, GDP bình quân đầu người tính theo giá hiện tại của Nhật Bản và Hoa Kỳ lần lượt là 11.000 USD và 38.000 USD. Như vậy điều gì đã xảy ra? Phải chăng là do thống kê sai số liệu. Việc thống kê sai số liệu là hoàn toàn không xảy ra. Yếu tố làm cho GDP bình quân đầu người của Nhật Bản tính bằng USD tăng lên gần 3 lần là do tỷ giá giữa đồng Yên và đồng USD. Ở thời điểm năm 1960, 1 USD đổi được 360 Yên nhưng đến cuối năm 2004, 1 USD chỉ đổi được khoảng 125 Yên. Điều này có nghĩa là giá trị đồng tiền của Nhật Bản so với đồng USD Mỹ đã tăng lên gấp 3 lần và nếu nhân với 11.000 USD thì ta sẽ được con số khớp đúng với số liệu thống kê. Trường hợp Trung Quốc: Vào năm 1960, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc là 97 USD. Sau 44 năm, nếu căn cứ vào tốc độ tăng trưởng bình quân là 5,64 % thì GDP của Trung Quốc tính theo USD Mỹ phải là 3.871 USD. Nhưng số liệu thực tế chỉ vào khoảng 1.200 USD. Như vậy, ngược với đồng Yên Nhật, đồng Nhân Dân Tệ so với đồng Đô-la Mỹ bị mất giá hơn 3 lần. Số liệu thống kê cũng cho ta con số này. Năm 1960, 1 USD Mỹ chỉ đổi được 2,46 NDT, nhưng đến cuối năm 2004, 1 USD Mỹ đổi được tới 8,28 NDT. Đó là quá khứ, hiện nay đồng NDT đang lấy lại giá trị của nó so với những đồng tiền mạnh khác, nhất là đồng Đô-la Mỹ. Giả sử trong vòng 20 năm tới, Trung Quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng là 7% (trong khi nền kinh tế Hoa Kỳ tăng trưởng bình quân 2% năm) và đồng NDT tăng giá gấp đôi (nghĩa là vào năm 2025; 1 USD chỉ đổi được 4 NDT), thì lúc đó GDP và GDP bình quân đầu người của Trung Quốc sẽ là 11.000 tỷ USD và 8.000 USD, trong khi của Hoa Kỳ là 16.000 tỷ USD và 55.000 USD. Khoảng cách GDP bình quân đầu người còn khá xa, nhưng tổng sản phẩm quốc gia đã được rút ngắn rất nhiều. Từ 2 nền kinh tế Nhật Bản và Trung Quốc cho thấy, nếu GDP bình quân theo đồng USD Mỹ thì nó không chỉ đơn thuần phụ thuộc vào tốc độ tăng trưởng hàng năm mà còn phụ thuộc vào tỷ giá đồng tiền nước đó so với đồng USD Mỹ. Nói cách khác, nó phụ thuộc vào tương quan sức mạnh kinh tế của nước đó so với Hoa Kỳ. Trường hợp Việt Nam: Trường hợp Nhật Bản và Trung Quốc cho chúng ta cái nhìn lạc quan rằng, trong vòng 50 -100 năm nữa, nếu có chính sách tốt thì Việt Nam hoàn toàn có thể đuổi kịp các nước giàu với tốc độ tăng trưởng vào khoảng 4 – 5% /năm. Khi đó sức mạnh của nền kinh tế Việt Nam gia tăng, giả sử giá trị đồng Việt Nam tăng 5 lần so với đồng USD Mỹ thì sau 100 năm nữa GDP bình quân đầu người của Việt Nam vào khoảng 125.000 USD so với gần 170.000 USD của Hoa Kỳ. Như vậy khoảng cách giữa nước phát triển và nước đang phát triển là rất lớn, nhưng nếu có chính sách hợp lý thì trong vòng 50 -100 năm thì nước đang phát triển có thể thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển. Ngược lại, nếu không có chính sách hợp lý (làm cho tốc độ tăng trưởng kinh tế nhỏ hơn các nước phát triển) thì khoảng cách này sẽ ngày càng lớn. 3.4.3. So sánh về Chỉ số phát triển con người – HDI với các nước: Việc so sánh trình độ kinh tế giữa nước này với nước khác dựa vào GDP bình quân đầu người theo tỷ giá ngang bằng sức mua là chính xác hơn, nhưng vẫn còn có 2 vấn đề cần phải đề cập nữa: Thứ nhất là vấn đề phân phối. Nếu việc phân phối thu nhập quá bất bình đẳng thì ý nghĩa của việc tăng GDP bình quân đầu người sẽ giảm đi. Vấn đề thứ 2 liên quan đến môi sinh, môi trường, điều kiện làm việc. Cho nên hiện nay ngoài thu nhập người ta còn tính đến chỉ số phát triển nguồn nhân lực HDI. Chỉ số HDI của Việt Nam tăng liên tục qua các năm, xếp hạng cũng đã tăng lên từ vị trí thứ 122 trên thế giới năm 1995 đã lên đến vị trí thứ 108 năm 2003 (xem bảng 33), nhưng thứ bậc này vẫn còn thấp so với các nước và vùng lãnh thổ, được xếp vào khu vực các nước đang phát triển có thu nhập thấp. Thứ bậc về HDI cao hơn thứ bậc về GDP bình quân đầu người (109 so với 130) ; khoảng cách chênh lệch giữa 2 xếp hạng này chứng tỏ mặc dù nước ta về thu nhập còn thấp nhưng chính phủ và dân ta đã chú ý chăm lo phát triển con người nên với mức thu nhập còn thấp đó, nước ta đã đạt được thành tựu cao hơn về phát triển nguồn nhân lực. Nhưng chỉ số HDI của Việt Nam chỉ cao hơn Indonesia, Myanmar, Lào và Campuchia trong khu vực Đông Nam Á Niên Giám Thống Kê 2005. Tổng Cục Thống Kê. NXB Thống Kê . Chất lượng giáo dục từ phổ thông lên đại học nhìn chung còn thấp, cách dạy và học nặng về thuộc lòng, còn kém tính sáng tạo và năng lực thực hành, chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu về nguồn nhân lực và đào tạo nhân tài… Giá thuốc tăng liên tục với tốc độ cao gấp nhiều lần giá tiêu dùng, chậm khắc phục phân biệt đối xử trong khám chữa bệnh… Bảng 31: Chỉ số HDI của một số nước: Nước 1995 2000 2002 2003 Chỉ số Xếp hạng Chỉ số Xếp hạng Chỉ số Xếp hạng Chỉ số Xếp hạng Việt Nam 0,560 122 0,688 109 0,691 112 0,704 108 Trung Quốc 0,650 106 0,726 96 0,745 94 0,755 85 Thái Lan 0,838 59 0,762 70 0,768 76 0,778 73 Ấn Độ 0,451 139 0,577 124 0,595 127 0,602 127 Nguồn: Số liệu Kinh Tế - Xã hội các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới –Tổng Cục Thống Kê; Niên Giám Thống Kê 2005 - Tổng Cục Thống Kê. Nguồn nhân lực là rất quan trọng đối với một quốc gia, là yếu tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Các nước có nền kinh tế phát triển như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore đều có chính sách giáo dục hợp lý. Ở Việt Nam, hệ thống giáo dục còn yếu kém, do đó, Việt Nam cần phải có những chính sách đúng đắn để cải thiện hệ thống giáo dục, yếu tố này có ảnh hưởng lớn đến sử phát triển dài hạn của nền kinh tế. 3.4.4. So sánh tiềm năng thu hút FDI so với các nước khác: Bảng 32: Chỉ số tiềm năng và thực hiện thu hút FDI của một số nước: Nước 1998 -2000 2001 -2004 Tiềm năng thu hút Thực hiện thu hút FDI Tiềm năng thu hút Thực hiện thu hút FDI Singapore 0,5 3,737 0,448 6,079 Thái Lan 0,225 1,375 0,212 0,506 Malaysia 0,302 1,248 0,277 1,803 Philipine 0,193 0,641 0,204 0,592 Srilanca 0,128 0,319 0,116 0,675 Trung Quốc 0,255 1,198 0,269 2,134 Việt Nam 0,184 1,488 0,181 2,004 Nguồn: UNCTAD.World Investment Report 2005. Theo đánh giá của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNCTAD) thể hiện trong bảng 33, mặc dù đã có cố gắng trong hoạt động thu hút FDI, thể hiện qua chỉ số thực hiện thu hút FDI với mức đạt 1,4 thời kỳ 1998 – 2000 và 2,0 thời kỳ 2001 – 2004, nhưng so với các nước như Singapore, Trung Quốc, hoạt động thu hút FDI vào Việt Nam vẫn còn thua kém. Tương tự, chỉ số tiềm năng thu hút FDI cho thấy, mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam chưa bằng các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc. Bảng 33: So sánh chi phí kinh doanh: Chỉ tiêu so sánh Hà Nội TP HCM Bangkok Jakarta Manila K.Lumpur Điện (cent / kwh) 5,5 5,5 4,2 5 10 5 40 – feet container to Yokohama (USD) 1630 1150 1300 990 950 725 Điện thoại đi Nhật (USD / 3 phút) 1,95 1,95 1,49 3,78 1,2 1,42 Dịch vụ ADSL (USD / tháng) 76,3 76,3 14,6 78,2 25,4 162 Nguồn: JETRO (2005), số liệu năm 2004 – Tạp chí Kinh Tế & Phát Triển tháng 1/2007. Do cơ sở hạ tầng thiếu và yếu, dẫn đến chi phí đầu vào cao. So với một số nước trong khu vực, lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong việc thu hút FDI đang giảm dần do chi phí đầu vào cao, các thủ tục hành chính rườm rà. Ở Việt Nam, mặc dù chi phí tiền lương cho nhân công rẻ nhưng vẫn còn nhiều khoản chi phí khá cao như tiền thuê văn phòng, cước viễn thông quốc tế, giá vận chuyển container… Bảng 34: Giá đất, điện, nước ở các khu công nghiệp và khu chế xuất ở một số nước Châu Á Quốc gia Đất (USD/m2) Điện (USD/Kwh) Nước (USD/m3) Trung Quốc 0,06 - 3,2 (một năm) 0,015 - 0,037 0,02 - 0,06 Thái Lan 39,5 - 66,7 (suốt thời hạn dự án) 0,100 0,36 Malaysia 6,3 - 22,2 (suốt thời hạn dự án) 45 - 61,7 (suốt thời hạn dự án) 0,620 0,050 0,35 - 0,46 0,42 Phipippines 0,2 - 0,24 (một tháng) 0,037 - 0,073 Việt Nam 65-150 (cho 50 năm) 1,3 – 3 (một năm) 0,080 0,45 Nguồn: Phạm Đỗ Chí và Trần Nam Bình.2001. Đánh thức con rồng ngủ quên. NXB TP HCM. Trang 364. So sánh giá đất và dịch vụ tiện ích ở Việt Nam với một số nước, ta thấy rằng Việt Nam là một trong những nước có thu nhập đầu người thấp nhất khu vực nhưng giá đất và tiện ích ở Việt Nam lại vào loại cao nhất. Nếu so sánh một số chỉ số về cơ sở hạ tầng của Việt Nam với một số nước Châu Á, Việt Nam không được xếp hạng tốt về số đường quốc lộ tính theo đầu người, và tụt hậu xa so với các nước láng giềng về sản lượng điện trên đầu người. (Nguyễn Khải, 2001). Từ những số liệu so sánh về tiềm năng thu hút FDI và chi phí kinh doanh với các nước khác, ta nhận thấy rằng khả năng cạnh tranh trong việc thu hút nguồn vốn FDI của Việt Nam vẫn còn thua kém các nước khác. Môi trường đầu tư ở nước ta đã được cải thiện nhiều nhưng vẫn còn không ít khó khăn, hạn chế, chậm được điều chỉnh so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh để thu hút FDI giữa các nước diễn ra ngày càng gay gắt. CHƯƠNG 4: KHUYẾN NGHỊ - KẾT LUẬN 4.1. Đánh giá chung về kết quả hoạt động FDI tại Việt Nam thời gian qua: FDI đã bổ sung một lượng vốn quan trọng cho tổng đầu tư xã hội, kích thích gia tăng đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Khu vực kinh tế có vốn FDI luôn giữ vai trò đầu tàu tăng trưởng. Tỷ lệ đóng góp của khu vực kinh tế có vốn FDI trong GDP tăng dần qua các năm. Nếu năm 1996 chỉ là 7,4 % thì năm 2000 đạt 13,3 %, năm 2005 là 15,9 %. Do tăng cường thu hút FDI hướng về xuất khẩu nên đã tạo điều kiện thuận lợi tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực FDI luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng cả nước ( trừ năm 2001). Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần giải quyết việc làm và nâng cao chất lượng lao động. Khu vực FDI cũng đem lại thu nhập đáng kể cho người lao động. Thông qua hợp tác đầu tư, người lao động được đào tạo, nâng cao tay nghề, rèn luyện tác phong công nghiệp. Thông qua nguồn vốn FDI, chúng ta đã du nhập được nhiều công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực công nghệ nước nhà. Các tập đoàn đa quốc gia lớn mạnh có tiềm lực về công nghệ đã bắt đầu đầu tư vào Việt Nam như tập đoàn Intel, công ty POSCO, tập đoàn Canon,… 4.2. Đánh giá chung hiệu quả đầu tư của khu vực FDI: Thông qua hệ số ICOR giai đoạn 1996 – 2005, hiệu quả đầu tư của khu vực FDI vẫn chưa cao, hệ số ICOR của khu vực FDI trong giai đoạn này là 6,9 cao hơn mức 3,7 của khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, chỉ thấp hơn hệ số của khu vực kinh tế Nhà nước là 8,5. Vậy, hiệu quả đầu tư của khu vực FDI vẫn đứng sau khu vực kinh tế ngoài Nhà nước, hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước là thấp nhất. Các doanh nghiệp đã có những đóng góp quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nói chung và đóng góp cho bản thân doanh nghiệp nói riêng. Thông qua các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, các doanh nghiệp có vốn FDI có ưu thế hơn không phải do có nhiều doanh nghiệp hơn, nhiều vốn hơn, mà chủ yếu do hiệu quả sử dụng lao động và tài sản cao hơn các thành phần kinh tế khác. 4.3. Những hạn chế của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Khối lượng vốn đầu tư thực hiện tăng chậm so với tiềm năng và nhu cầu chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện lớn. Cơ cấu đầu tư nước ngoài theo ngành, lãnh thổ còn bất hợp lý. FDI chưa phù hợp với chủ trương khuyến khích phát triển ngành. Nhiều ngành nghề được ưu đãi nhưng không thu hút được FDI như nông nghiệp, nghiên cứu khoa học. FDI tập trung chủ yếu vào những địa phương có điều kiện thuận lợi như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai,…trong khi tỷ lệ đầu tư vào các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây Nguyên còn khá nhỏ bé. Đầu tư từ các nước phát triển có công nghệ nguồn và hiện đại chưa thay đổi đáng kể, do vậy, thực tế chuyển giao công nghệ thời kỳ 1996 – 2005 chưa đạt như mong muốn. 4.4. Các nhận xét và khuyến nghị: * Đối với khu vực kinh tế Nhà nước: Khu vực KTNN là khu vực có tỷ lệ đầu tư cao nhất trong 3 thành phần kinh tế được xem xét nhưng hiệu quả đầu tư của khu vực này lại thấp nhất, không tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, mức độ ổn định vốn đầu tư lại thấp nhất, tỷ lệ hình thành TSCĐ không cao, hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN cũng không cao. Những điều này cho thấy sự lãng phí, thất thoát trong việc quản lý và sử dụng nguồn vốn đầu tư của Nhà nước. Sự tham gia quá mức của Nhà nước vào phát triển cơ sở hạ tầng dẫn tới hiệu quả kinh tế thấp và hạn chế sự phát triển của các thành phần kinh tế khác. Trong bối cảnh như vậy, Nhà nước nên bắt đầu rút dần ra khỏi lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng đối với những dự án mà khu vực kinh tế tư nhân và có vốn đầu tư nước ngoài có thể thực hiện được. Đầu tư Nhà nước trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh vừa kém hiệu quả và làm giảm sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đầu tư của các DNNN càng nhiều sẽ lấn át, kìm hãm khu vực kinh tế ngoài Nhà nước phát triển. Nhà nước cần chuyển giao mạnh mẽ việc phát triển các ngành sản xuất kinh doanh trực tiếp và đại đa số ngành công nghiệp cơ bản cho các thành phần kinh tế ngoài Nhà nước. * Đối với khu vực kinh tế ngoài Nhà nước: Khu vực kinh tế này đã có bước trưởng thành vượt bậc, hiệu quả đầu tư là cao nhất. Chính TPKT này đã giải quyết được vấn đề việc làm cho đại đa số lao động trong xã hội, có thể đảm đương nhiều công trình xây dựng cơ sở hạ tầng và thực hiện với hiệu quả cao hơn khu vực Nhà nước. Khu vực kinh tế ngoài Nhà nước luôn thiếu vốn đầu tư, bởi vì thiếu vốn nên khu vực này biết sử dụng tốt nguồn vốn của mình, hiệu quả sử dụng vốn cao, mức độ ổn định vốn đầu tư cao hơn khu vực KTNN và hiệu quả sử dụng TSCĐ cao nhất. Nhà nước cần có chính sách giúp cho khu vực kinh tế ngoài Nhà Nước tăng vốn đầu tư, khuyến khích các ngân hàng hỗ trợ cho TPKT này trong việc đầu tư, phát triển sản xuất để tăng thêm hiệu quả kinh tế xã hội. * Đối với khu vực kinh tế có vốn FDI: Đây cũng là một lực lượng kinh tế mạnh đã đóng góp rất nhiều cho sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Các doanh nghiệp có vốn FDI luôn đạt một hiệu quả sản xuất kinh doanh nhất định. Nhưng số lượng các doanh nghiệp FDI chưa nhiều. Ở Việt Nam, giá các dịch vụ công cộng và giá đất rất cao, thuế suất thu nhập cá nhân áp dụng cho người nước ngoài cũng rất cao. Đây là những biểu hiện rõ rệt cho thấy chính sách đối với FDI là chưa đúng. Trong thời gian tới Nhà nước cần có những chính sách thích hợp để tạo môi trường đầu tư, điều kiện kinh doanh thuận lợi để thu hút nguồn vốn đầu tư từ TPKT này, tạo ra hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao, đóng góp vào sự phát triển kinh tế cả nước. 4.5. Kết luận: Nhìn lại chặng đường 10 năm của thời kỳ 1996 -2005, nền kinh tế Việt Nam có sự chuyển đổi, tiến bộ hơn so với thời kỳ 1991 – 1995 và trước đổi mới. Nguồn vốn FDI đã trở thành một yếu tố rất quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Từ sau năm 1999, các nhà đầu tư nước ngoài đã trở lại Việt Nam, nguồn vốn FDI ngày càng tăng dần và đạt kỷ lục vào năm 2006 là 10,2 tỷ USD. Tuy nhiên, tiềm năng thu hút FDI của Việt Nam vẫn còn thua kém các nước khác trong khu vực, lợi thế cạnh tranh trong việc thu hút FDI vẫn chưa bằng các nước như Thái Lan, Trung Quốc. Như vậy, Việt Nam cần phải cải thiện môi trường đầu tư tốt hơn nữa, để có thể cạnh tranh với các nước đang phát triển khác trong khu vực trong việc thu hút nguồn vốn FDI và sử dụng tốt nguồn vốn này để góp phần phát triển kinh tế - xã hội. So với các nước Châu Á, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của nền kinh tế Việt Nam đã giảm rất mạnh trong những năm gần đây . Tăng trưởng kinh tế hằng năm nhưng hiệu quả đầu tư không cao, đây là sự tăng trưởng nhanh về lượng chứ chưa phải tăng trưởng về chất. Để phát triển kinh tế một cách bền vững, lâu dài, trước mắt là phải tăng nhanh hiệu quả sử dụng vốn bằng cách hạ thấp nhanh hệ số ICOR. Là một nước nghèo, Việt Nam đã dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài rất nhiều trong công cuộc phát triển kinh tế. Hiện nay, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng gấp đôi trong vòng một thập kỷ, đánh dấu một thành tựu phát triển kinh tế của nước ta. Mặc dù vẫn còn một khoảng cách khá xa so với các nền kinh tế phát triển khác, nhưng không vì thế mà nghĩ rằng nước ta sẽ không thể đuổi kịp các nước phát triển khác. Việt Nam hoàn toàn có thể đuổi kịp các nước giàu với điều kiện phải có sự phát triển bền vững trong dài hạn chứ không phải là một sự tăng trưởng nhanh, nóng trong ngắn hạn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT15.doc
Tài liệu liên quan