MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói vấn đề tình thái trong ngôn ngữ không phải là mới. Từ triết học Hy Lạp cổ đại,
khái niệm tình thái của logic học được hình thành dựa trên tính hiện thực (reality), tính tất yếu
(necessity) và tính khả hữu (possibility) được phản ảnh trong ngôn ngữ tự nhiên với muôn vàn
sắc thái đa dạng. Khi sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt về thế giới thực tại, người ta không thể
không lưu ý đến mối quan hệ giữa cách con người diễn đạt về thế giới và chính bản thân thế giới
đó. Theo nghĩa rộng, có thể hiểu nói về tình thái là nói về cách mà con người diễn đạt khác nhau
về thế giới.
Hơn nữa một trong hai chức năng cơ bản của ngôn ngữ là giao tiếp xã hội. Trong quá trình
giao tiếp, hoạt động trao đổi giữa người nói và người nghe là hoạt động được tiến hành từ cả hai
phía. Trong mỗi câu nói của người này hay người kia ngoài nội dung nghĩa biểu hiện, tức nghĩa
biểu thị sự tình trong thế giới khách quan, còn có một nội dung nghĩa biểu thị mối quan hệ giữa
sự tình với thế giới khách quan hoặc thái độ của người nói. Nội dung đó, ta gọi là tình thái của
câu. Charles Bally đã cho rằng tính tình thái là linh hồn của câu. Không thể tạo ra ý nghĩa lời nói
nếu trong lời nói ấy ta không tìm thấy một biểu hiện nào đó của tính tình thái.
Mặt khác vấn đề tình thái mà cụ thể là tình thái giảm nhẹ (TTGN) còn gắn liền với tính lịch
sự trong giao tiếp, gắn với ngôn ngữ trong sự hành chức của nó. Không thể chỉ xem xét ngôn
ngữ như một yếu tố tĩnh tại mà là một hoạt động mang tính liên cá nhân. Giao tiếp như thế nào
để đạt được hiệu quả giao tiếp và hơn thế nữa làm thế giao tiếp phải thể hiện nét văn hóa, lịch sự
là một điều quan trọng. Nắm bắt về TTGN mà cụ thể là việc nắm bắt hệ thống các phương tiện
biểu thị TTGN sẽ góp phần giúp cho hoạt động giao tiếp đạt được những yêu cầu này.
Về lĩnh vực tình thái trong tiếng Việt, từ những năm 40 với các tác giả Trần Trọng Kim,
Phạm Duy Khiêm, Bùi Kỷ trong “Grammaire Annamite”, tình thái đã được chú ý đến khi các tác
giả đề cập đến “thái độ của người nói”. Sau này, những nghiên cứu có tính chất khai phá và đi
sâu hơn về tình thái đã xuất hiện với các tác giả như Hoàng Phê [64], [65]; Nguyễn Đức Dân
[11]; Cao Xuân Hạo [23], [24], [25]. Rồi đến những chuyên khảo về tình thái cũng liên tục xuất
hiện từ Phạm Hùng Việt [92]; Nguyễn Văn Hiệp [28], [29], [30], [31]; Phạm Thị Ly [51];
Nguyễn Thị Lương [48]; Nguyễn Thị Ngọc Hân [27] Các tác giả nghiên cứu nhiều phương
diện của vấn đề tình thái như: nghĩa tình thái của từ; logic tình thái đến logic ngôn ngữ học; từ
ngữ pháp chức năng đến ngữ dụng học và đặc trưng tình thái của từ, của câu; chuyên sâu hơn về
đặc điểm chức năng của trợ từ tiếng Việt, về tiểu từ tình thái, vị từ tình thái Tuy nhiên, nghiên
cứu về TTGN mà cụ thể hơn nghiên cứu chi tiết để hệ thống hóa các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt vẫn còn bỏ ngỏ cho dù thực tế việc sử dụng các phương tiện biểu thị
TTGN rất phổ biến trong diễn ngôn tiếng Việt
Những vấn đề đã trình bày ở trên đã khuyến khích chúng tôi chọn đề tài “Tình thái giảm nhẹ
trong diễn ngôn tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Về mặt lí luận: Trên cơ sở kế thừa và phát triển các thành tựu đã có, khi nghiên cứu về
TTGN và xây dựng được một hệ thống các phương tiện diễn đạt TTGN trong diễn ngôn tiếng
Việt, chúng tôi hy vọng mang đến một cái nhìn sâu sắc và bao quát hơn về vấn đề tình thái trong
ngôn ngữ nói chung, trong tiếng Việt nói riêng.
Về mặt thực tiễn: Chúng tôi mong rằng luận văn sẽ góp phần trong việc ứng dụng cho việc
giao tiếp và dạy tiếng. Giao tiếp sẽ đạt được hiệu quả tối ưu khi biết vận dụng những phương
tiện tình thái trong đó có phương tiện TTGN. Việc dạy tiếng Việt cho người Việt cũng như cho
người nước ngoài sẽ đơn giản hơn, hiệu quả hơn khi chúng ta giúp họ nhận biết và sử dụng một
hệ thống phương tiện biểu thị tình thái nói chung TTGN nói riêng của tiếng Việt. Bởi nó là một
trong những cơ sở để người nói tạo dựng phát ngôn cũng như để người nghe tiếp nhận và nắm
bắt đúng ý định giao tiếp của người nói.
2. Lịch sử vấn đề
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là TTGN, các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn
ngôn tiếng Việt nhưng qua quá trình tổng hợp và tham khảo tài liệu chúng tôi nhận thấy những
công trình nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề trên còn rất hạn chế, có thể nói chỉ có một bài viết
của tác giả Nguyễn Xuân Thơm [79] là đề cập đến TTGN nhưng giới hạn trong diễn ngôn đàm
phán thương mại quốc tế. Bởi vậy, trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ điểm qua một số công
trình nghiên cứu có tính chất nổi bật về vấn đề tình thái trong tiếng Việt nói chung, trong đó có
những nghiên cứu đề cập đến một số vấn đề về phương tiện biểu thị tình thái.
Về các tác giả nước ngoài: Các tác giả I. I. Glebova, V.M. Solntsev, Yu. Lekomtsev,
Bystrov khi viết về ngữ pháp tiếng Việt (bằng tiếng Nga) đã có đề cập đến tiểu từ tình thái. Họ
phân loại tiểu từ tình thái theo tiêu chí ngữ nghĩa như: tiểu từ có tính chất nghi vấn, tiểu từ nhấn
mạnh, tiểu từ chỉ ra sự đối lập. Tuy nhiên họ xem tiểu từ tình thái như là một từ loại của tiếng
Việt hơn là một phương tiện biểu thị tình thái [theo 51; 34]. Một tác giả nước ngoài khác cũng
quan tâm đến ngữ pháp tiếng Việt, đó là V.S. Panfilov (2003). Trong chương VIII của cuốn sách
“Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt” [62] (cũng viết bằng tiếng Nga do Nguyễn Thủy Minh dịch), ông
đã trình bày về bán hư từ, trong đó có đề cập ngắn gọn đến từ tình thái. Ông cho rằng: “Lớp ngữ
pháp này bao gồm những từ như: có lẽ, hình như, quả nhiên, đương nhiên Những từ này được sử dụng với chức năng định ngữ của câu, thể hiện sự đánh giá đối với sự việc được nhắc tới
trong câu, hoặc đối với chính phát ngôn như một hành động lời nói” [62; 277]. Như vậy, có thể
thấy chưa có một tác giả nước ngoài nào nghiên cứu chuyên sâu về tình thái cũng như những
phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt.
Về các tác giả trong nước: Có thể chia các công trình nghiên cứu có liên quan đến tình thái
trong tiếng Việt thành hai nhóm:
(1) Các tác giả không trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái nhưng trong quá trình xử lí các
vấn đề khác họ đã có ít nhiều đụng chạm đến một bộ phận vấn đề tình thái, như: Nguyễn Kim
Thản (1977), Đái Xuân Ninh (1978), Lê Cận – Phan Thiều (1983), Bùi Tất Tươm (1997), Đinh
Văn Đức (2001), Diệp Quang Ban (2008), Nguyễn Thiện Giáp (2008).
(2) Các tác giả trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái, họ nghiên cứu rất chi tiết và có nhiều
kiến giải sâu sắc vấn đề tình thái trên nhiều phương diện khác nhau. Có thể kể đến những tên
tuổi như: Hoàng Phê, Hồ Lê, Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Đức Dân, Hoàng Tuệ, Phạm Hùng Việt,
Huỳnh Văn Thông, Nguyễn Thị Lương, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Văn Hiệp, Lê Đông, Nguyễn
Xuân Thơm, Phạm Thị Ly, Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Thị Ngọc Hân, Ngô Thị Minh, Võ
Đại Quang. Chúng tôi sẽ trình bày chi tiết hơn về một số đóng góp của các tác giả nhóm 2 này.
Có thể nói Hoàng Phê với bài viết “Phân tích ngữ nghĩa” (1975) [64], “Toán tử logic – tình
thái” (1984) [65] và Hồ Lê (1979) với bài viết “Vấn đề logic ngữ nghĩa và tính thông tin trong
lời nói” [44] đã gợi mở cho nhiều nghiên cứu về nghĩa tình thái xuất hiện sau này. Hoàng Phê
(1984) đi sâu trong việc vận dụng logic của ngôn ngữ tự nhiên để phân tích ngữ nghĩa của một
số từ thường dùng hoặc của những đơn vị mà ông gọi là “toán tử logic – tình thái” – phương tiện
biểu thị tình thái. Ông cho rằng “nếu quan niệm toán tử trong ngôn ngữ là những đơn vị ngôn
ngữ mà khi dùng tác động đến các đơn vị ngôn ngữ thuộc một cấp độ nào đó thì cho ta những
đơn vị ngôn ngữ mới (thường là cùng cấp độ), thì có thể nói rằng có toán tử ở tất cả các cấp độ”
[65; 5]. Như vậy có toán tử ở cấp độ ngữ âm như thanh điệu, cấp độ từ vựng, cấp độ cú
pháp .“Về hình thức toán tử logic – tình thái có thể là một từ, một tổ hợp từ (có khi có hình thức
câu) hoặc chỉ đơn giản là một ngữ điệu” [65; 7]. Cũng trong “Toán tử logic – tình thái”, ông
phát biểu rằng “Con người sử dụng ngôn ngữ không chỉ nói về hiện thực, mà còn nói nhận thức,
sự đánh giá, thái độ của mình, không những nói bằng hiển ngôn, mà còn dùng tiền giả định và
nói bằng hàm ngôn. Tất cả những điều đó làm cho tương ứng với các kết tố mệnh đề, ngôn ngữ
tự nhiên sử dụng một loạt những toán tử logic – tình thái có chức năng tạo ra những lời có yếu tố
tình thái và có thể có cấu trúc ngữ nghĩa nhiều tầng (tiền giả định, hiển ngôn, hàm ngôn)” [65;
7]. Rõ ràng những công trình của Hoàng Phê nêu trên là những đóng góp quý báu cho việc nghiên cứu các phương tiện biểu thị tình thái nói chung, TTGN nói riêng. Sau này, Hồ Lê
(1992), trong “Cú pháp tiếng Việt” [45], còn xem trật tự từ như là một trong những phương tiện
diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Việt. Việc đảo trật tự, thay đổi cấu trúc của câu có thể thể
hiện ý định của người nói nhằm tập trung vào điểm nhấn nào đó trong phát ngôn.
Năm 1985, Phan Mạnh Hùng có bài viết “Các kiểu tổ hợp tiểu từ tình thái tiếng Việt và
ranh giới từ” [36]. Tác giả đã có những nhìn nhận sâu hơn về tiểu từ tình thái tiếng Việt trong
khung nghiên cứu từ loại như vị trí các tiểu từ trong hệ thống từ loại, khả năng các tiểu từ kết
hợp với nhau .
Cũng đi vào lĩnh vực phân tích ngữ nghĩa của lời nhưng ở góc độ của logic tình thái, Nguyễn
Đức Dân (1987) đã có những công trình có tính chất quan trọng về logic tình thái. Trong “Logic
– Ngữ nghĩa – Cú Pháp” [11], ông cho rằng: “Logic tình thái là một công cụ hữu hiệu để miêu
tả và nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Và các ngôn ngữ tự nhiên cũng đặt ra hàng loạt vấn đề về
tình thái logic” [11; 39]. Nguyễn Đức Dân đã có cái nhìn tổng quát về vấn đề tình thái như sau:
“Tình thái là một vấn đề rất rộng và còn rất mông lung mà các nhà logic học, các nhà kí hiệu học
và các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Nhưng từ các cách tiếp cận khác nhau và các phương pháp
khác nhau lại dẫn đến những kết quả gặp gỡ nhau” [11; 40]. Tác giả cũng nêu ra tính đa nghĩa
của từ tình thái. Chỉ cần thay thế từ tình thái này bằng từ tình thái khác trong cùng một phát
ngôn sẽ dẫn đến những cách hiểu khác nhau về phát ngôn đó (ví dụ từ có thể và từ phải). Và tác
giả còn cho rằng điều đó là do các tác tử tình thái thuộc về hai lớp tình thái khác nhau: tình thái
đạo nghĩa và tình thái nhận thức [11; 41].
Hoàng Tuệ (1988) với hai bài viết: “Nhận xét về thời, thể và tình thái trong tiếng Việt” [87;
729] và “Về khái niệm tình thái” [87; 734] in trong “Hoàng Tuệ tuyển tập Ngôn ngữ học”
(2001) cho ta một cái nhìn khái quát về vấn đề tình thái trong tương quan đối chiếu với khái
niệm thời, thể và tình thái trong ngôn ngữ Châu Âu. Tác giả cũng đề cập đến sự thể hiện ý nghĩa
tình thái trong tiếng Việt.
Luận án phó tiến sĩ của Phạm Hùng Việt năm 1996, sau này được xuất bản thành sách có tựa
đề “Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại” (2003) [92], đã đề cập đến chức năng cơ bản của những
đơn vị mà ông gọi là “trợ từ câu”, “trợ từ bộ phận” trong tiếng Việt hiện đại. Cũng trong cuốn
sách này, khi trình bày về phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ học ông đã đề cập đến các
phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Ông cho rằng: “Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa
tình thái, các phương tiện dùng để biểu thị ý nghĩa tình thái cũng rất đa dạng” [92; 37]. Ông đã
liệt kê một hệ thống các phương tiện như: ngữ âm (ngữ điệu, trọng âm), từ vựng (động từ tình
thái, phụ từ, trợ từ, thán từ, quán ngữ tình thái), ngữ pháp (đảo trật tự từ, thay đổi cấu trúc câu .).
Đặc biệt qua phân tích cách sử dụng của trợ từ tiếng Việt, tác giả đã cho rằng: “trợ từ tiếng Việt có khả năng tham gia biểu thị một số loại hành vi ngôn ngữ khác nhau gồm cả các hành vi ngôn
ngữ chân thực và các hành vi ngôn ngữ gián tiếp” [92; 133]. Điều này chứng tỏ khả năng to lớn
của trợ từ tiếng Việt trong việc tham gia biểu thị các ý nghĩa hàm ẩn của phát ngôn. Theo chúng
tôi, các hành động ngôn từ (HĐNT) gián tiếp, cách biểu thị ý nghĩa hàm ẩn cũng có thể là
phương tiện biểu thị ý nghĩa TTGN.
Nghiên cứu chuyên sâu về vị từ tình thái là luận án tiến sĩ “Vị từ tình thái tiếng Việt” [80]
của tác giả Huỳnh Văn Thông (1996). Sau này, tác giả còn có bài viết “Mấy nhận xét về vị từ
tình thái và ý nghĩa thể trong tiếng Việt” (2000) [81] đã đề cập đến vấn đề tình thái mà cụ thể là
vị từ tình thái ở nhiều mức độ và góc cạnh khác nhau.
Nguyễn Thị Lương (1996) nghiên cứu chuyên sâu về “Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi
với việc biểu thị các hành vi ngôn ngữ trong tiếng Việt” [48] (gồm mười tiểu từ tình thái: à, ư,
hả, sao, phỏng, chắc, chăng, chứ, nhỉ nhé). Luận án phó tiến sĩ này của tác giả đã “vận dụng lí
thuyết hành vi ngôn ngữ vào việc nghiên cứu chuyên sâu mười tiểu từ tình thái dứt câu dùng để
hỏi nhằm tìm ra các hành vi ngôn ngữ mà tiểu từ tình thái dứt câu có khả năng biểu thị trong
những ngữ cảnh cụ thể mà chúng xuất hiện, miêu tả đánh giá hiệu lực của các hành vi đó” [48;
2]. Cũng như công trình nêu trên của tác giả Phạm Hùng Việt, trong phần cơ sở lí luận của luận
án, tác giả Nguyễn Thị Lương đã nêu ra những phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái tương tự,
bao gồm: phương tiện ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Tác giả xếp mười tiểu từ tình thái dứt câu
dùng để hỏi nêu trên thuộc phương tiện từ vựng biểu thị ý nghĩa tình thái chủ quan.
Đi sâu vào việc miêu tả những phương tiện của tiếng Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình
thái, Cao Xuân Hạo (1998), trong công trình “Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa” [23], đã có những kiến giải và nhận xét hết sức sâu sắc về tiền giả định và hàm ý trong
một số vị từ tình thái tiếng Việt. Sau này trong “Tiếng Việt: sơ thảo ngữ pháp chức năng”
(2006) [25] một lần nữa ông trở lại vấn đề tình thái qua việc phân tích rất chi tiết về đề tình thái -
siêu đề và thuyết tình thái – thuyết giả. Ông xem chúng như những phương tiện đặc thù của tiếng
Việt trong việc diễn đạt ý nghĩa tình thái.
Nguyễn Văn Hiệp (2001) nghiên cứu trọng tâm vào các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt.
Trong “Về một khía cạnh phân tích tầm tác động tình thái” [29], tác giả nghiên cứu về những
vấn đề như: điều kiện tình thái cuối câu xuất hiện, khả năng kết hợp của các tiểu từ tình thái cuối
câu tiếng Việt. Một đóng góp quan trọng của Nguyễn Văn Hiệp là đã miêu tả và phân loại các
tiểu từ tình thái cuối câu một cách rõ ràng. Bài viết “Hướng đến một cách miêu tả và phân loại
các tiểu từ tình thái cuối câu tiếng Việt” [28] của ông đã góp phần làm nên cái nhìn toàn diện và
sâu sắc hơn về lớp từ này. Và trong công trình chung Lê Đông – Nguyễn Văn Hiệp (2003)
“Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học” [17], hai tác giả đã khái quát về khái niệm tình thái “góp phần làm rõ một số phương diện chính yếu của phạm trù tính tình thái trong ngôn ngữ cũng
như những vấn đề có liên quan” [17; 63]. Không những thế, năm 2007, trong “Một số phạm trù
tình thái chủ yếu trong ngôn ngữ” [30], Nguyễn Văn Hiệp một lần nữa đã “nêu ra một bức tranh
đa góc cạnh về tình thái” [30; 27] khi đi vào phân tích một cách chi tiết và nêu ra một số đối lập
chủ yếu của tình thái trong ngôn ngữ. Đến năm 2008, trong công trình “Cơ sở ngữ nghĩa phân
tích cú pháp” [31], công trình mà trong đó Nguyễn Văn Hiệp đã tổng hợp lại nhiều vấn đề về
tình thái, tác giả nhận định rõ vai trò của tình thái rằng: “Nếu không quan tâm đến các bình diện
của tình thái, thì chúng ta sẽ không thể hiểu được bản chất của ngôn ngữ, với tư cách là công cụ
con người dùng để phản ảnh thế giới trong hoạt động nhận thức và tương tác xã hội. Không có
tình thái, nội dung được thể hiện trong câu nói chỉ là những mảnh nguyên liệu rời rạc.” [31; 74]
Có thể nói bài viết đề cập trực tiếp nhất đến TTGN là bài viết “Các phương thức biểu thị tình
thái giảm nhẹ trong diễn ngôn đàm phán thương mại quốc tế” [79] của Nguyễn Xuân Thơm
(2002). Tác giả tập trung nghiên cứu về các phương thức biểu thị thái độ đối với người nghe
trong diễn ngôn đàm phán tiếng Anh và tiếng Việt và đã đưa ra một số phương thức sau: sử dụng
yếu tố đánh dấu lịch sự (please – xin), sử dụng nguồn lực ý nghĩa tích cực của từ, sử dụng
nguồn lực các lượng từ hạn định, sử dụng nguồn lực từ tình thái. Bài viết này khá thú vị tuy
nhiên nó chỉ giới hạn trong diễn ngôn đàm phán thương mại.
Tác giả Phạm Thị Ly (2003) nghiên cứu theo hướng đối chiếu về phương tiện diễn đạt ý
nghĩa tình thái, đó là “Đối chiếu một số phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái trong tiếng Việt
và tiếng Anh” [51]. Khi lấy tiếng Anh làm ngôn ngữ nguồn, tác giả đã đi vào phân tích, tìm hiểu
thức của vị từ như một phương tiện đặc thù diễn đạt ý nghĩa tình thái của tiếng Anh để đối chiếu
với những phương tiện diễn đạt ý nghĩa tương ứng của tiếng Việt. Và khi lấy tiếng Việt làm
ngôn ngữ nguồn, tác giả chọn tiểu từ tình thái như một phương tiện quan trọng diễn đạt ý nghĩa
tình thái của tiếng Việt mà tiếng Anh không có. Như vậy trọng tâm của luận án là đi vào nghiên
cứu đối chiếu thức vị từ và tiểu từ tình thái mà thôi. Cũng trong luận án này, tác giả cho rằng
“Tiếng Việt còn có một phương tiện hết sức đặc thù để diễn đạt ý nghĩa tình thái, đó là những
yếu tố tình thái được xử lý như một phần đề hoặc như một phần thuyết của câu” [51; 77]. Đây
chính là cái mà Cao Xuân Hạo gọi là siêu đề và thuyết giả như đã nêu trên.
Công trình chung “Thành phần câu tiếng Việt” [83] của Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn
Văn Hiệp (2004) đã dành hẳn một chương để trình bày về một thành phần phụ của câu: tình thái
ngữ. Hai tác giả không chỉ trình bày khái niệm về tình thái ngữ mà còn phân biệt tình thái ngữ
với các thành tố khác trong câu, phân loại tình thái thái ngữ và nêu ra điều kiện sử dụng của
chúng trong câu. Cũng nghiên cứu theo hướng đối chiếu như tác giả Phạm Thị Ly, Nguyễn Thị Ngọc Hân
(2005) đã có công trình nghiên cứu “Tiểu từ tình thái cuối câu trong hội thoại tiếng Việt (so
sánh với tiếng Nhật) và việc giảng dạy nó cho người Nhật” [27]. Hai công trình của hai tác giả
này có giá trị ứng dụng cao vào việc dạy tiếng cho người nước ngoài. Luận án đã khảo sát con
đường chuyển nghĩa của các tiểu từ tình thái cuối câu, sự gắn kết chặt chẽ của chúng với phát
ngôn, tình trạng niềm tin của người nói được thể hiện qua sự có mặt của chúng trong phát ngôn.
Tác giả Ngô Thị Minh (2005) với bài viết “Bàn thêm một số phương tiện biểu hiện ý nghĩa
tình thái trong ngôn ngữ hội thoại” [54], đăng trên tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, đã cho rằng:
“Ngôn ngữ hội thoại mang nhiều yếu tố tình thái và phương tiện biểu hiện loại ý nghĩa này cũng
khá đa dạng” [54;1]. Ngoài các phương tiện về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp như đã nêu ở trên, tác
giả đã bổ sung thêm ba phương tiện: sử dụng tiếng chửi, lời nói tục; sử dụng các thành ngữ quán
ngữ; sử dụng kiểu nói lửng.
Ngoài ra, còn có tác giả Võ Đại Quang (2008) bàn về “Tình thái trong câu – phát ngôn: một
số vấn đề lí luận cơ bản” [72]. Tác giả giúp người đọc nhận thấy “mối liên hệ giữa tình thái và
các thành tố ngữ nghĩa khác trong phát ngôn và về những vấn đề, những yếu tố cần yếu trong
nghiên cứu về tình thái của đơn vị “câu” (sentence) với tư cách là những phát ngôn (utterances)
trong giao tiếp liên nhân” [72; 1]. Trong phần viết về các phương thức chuyển tải nghĩa tình thái
trong ngôn ngữ, tác giả cho rằng tình thái có thể được chuyển tải bằng phương tiện ngôn ngữ
thông qua con đường từ vựng hóa, ngữ pháp hóa và ngôn điệu hóa. Như vậy, quan điểm của tác
giả về các phương tiện biểu thị tình thái cũng giống như các tác giả khác đã nêu ở trên tuy nhiên
tác giả đã khẳng định rõ vai trò của các phương tiện biểu thị tình thái bằng lời nhận xét: “Việc
học và sử dụng chuẩn xác các phương tiện tình thái sẽ giúp ích rất nhiều trong việc duy trì và cải
thiện quan hệ liên nhân trong các hoàn cảnh giao tiếp cụ thể bằng ngôn từ.” [72; 8]
Có thể nói việc nghiên cứu về tình thái, vấn đề nghĩa tình thái trong tiếng Việt đã thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Từ bước đầu tiên chỉ là những quan sát để phân
tích một số nét thái độ của người nói đối với hiện thực quan sát được, các nhà Việt ngữ học đã
không ngừng tiến vào những lĩnh vực mới mẻ như logic học, logic tình thái, ngữ dụng học hoặc
theo quan điểm của ngữ pháp chức năng để phân tích, đánh giá về những nội dung tình thái thể
hiện trong phát ngôn tiếng Việt. Điều này cho chúng ta thấy sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
về hoạt động và tầm tác động của lời nói trong giao tiếp.
Những công trình nghiên cứu mà chúng tôi chọn lọc và nêu ra ở trên sẽ là những kiến thức
căn bản và hữu ích giúp chúng tôi xử lí đề tài của mình. Mặt khác, nó cũng cho chúng tôi nhận
thấy vấn đề nghiên cứu chuyên sâu về TTGN, về các phương tiện biểu thị TTGN mà chúng tôi
đã chọn thực sự là một vấn đề mới, hấp dẫn và đáng được quan tâm.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu về TTGN mà trọng tâm là khảo sát và xác lập một hệ
thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt. Để đạt được mục đích này,
chúng tôi tập trung giải quyết những nhiệm vụ cơ bản sau:
3.1 Tiếp thu thành tựu của các nhà nghiên cứu Việt ngữ học, luận văn đưa ra khái niệm về
TTGN, nội dung của TTGN, vai trò của tình thái – TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt.
3.2 Thu thập và khảo sát ngữ liệu, lọc ra các dẫn chứng có biểu thị TTGN.
3.3 Từ nguồn ngữ liệu, luận văn tổng hợp và lập ra một danh sách các phương tiện biểu thị
TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt, xác định tiêu chí nhận diện (nếu có) cho mỗi phương tiện và
xếp các phương tiện vào từng nhóm.
3.4 Miêu tả, phân tích những đặc điểm cơ bản của các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn
ngôn tiếng Việt.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
4.1 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau
đây:
4.1.1 Phương pháp quy nạp và phương pháp diễn dịch: Dựa trên nền tảng lí thuyết tiếp
thu được từ các nhà ngôn ngữ học đi trước, phần cơ sở lí luận mà chúng tôi trình bày trong
chương 1 đều là những tổng kết hoặc những điều được học hỏi từ những công trình nghiên cứu
có liên quan. Nắm vững phần lí thuyết, chúng tôi lấy đó làm cơ sở để tiến hành công việc khảo
sát, phân tích và xác lập hệ thống các phương tiện biểu thị TTGN trong diễn ngôn tiếng Việt.
4.1.2 Phương pháp thống kê: Khi làm việc với một nguồn ngữ liệu từ ca dao đến các tác
phẩm truyện ngắn của nhiều tác giả khác nhau như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao, Nguyễn Thị Thu Huệ , chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê để định lượng ngữ liệu
và từ đó xác lập từng phương tiện biểu thị TTGN cụ thể. Tư liệu chọn lọc không chỉ được chúng
tôi sử dụng làm cơ sở cho việc đánh giá, xác lập và phân loại nêu trên mà còn được sử dụng vào
việc nêu ra ví dụ trong quá trình miêu tả, phân tích từng phương tiện.
4.1.3 Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu khi trình bày về
từng phương tiện biểu thị TTGN đã được xác lập ở trên. Các nhận định đưa ra chủ yếu dựa vào
kết quả phân tích, miêu tả ngữ liệu.
4.1.4 Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng: Với tư cách là một quá trình giao
tiếp hay sự kiện giao tiếp, diễn ngôn bao hàm cả các yếu tố ngoài ngôn ngữ như ngữ cảnh tình
huống, yếu tố dụng học và các tác động của các chiến lược văn hóa ở người sử dụng ngôn ngữ.
Do đó khi nghiên cứu TTGN trong diễn ngôn, chúng tôi luôn ý thức về sự chi phối các yếu tố
này, đặc biệt là yếu tố ngữ cảnh tình huống. Thông qua phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ
dụng, việc xác định về TTGN cũng như việc miêu tả, phân tích các cứ liệu luôn được chúng tôi
xem xét một cách toàn diện, đặt trong một ngữ cảnh cụ thể.
4.2 Nguồn ngữ liệu
Để tạo sự phong phú về ngữ liệu cũng như để có được độ tin cậy trong quá trình thống kê,
phân tích và nhận xét, chúng tôi mở rộng nguồn ngữ liệu trích dẫn từ ca dao đến những tác phẩm
của những nhà văn nổi tiếng trước đây như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao cho đến những sáng tác được nhiều người biết đến của những nhà văn mới sau này trong
các tuyển tập văn mới. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng chú ý đến nguồn ngữ liệu trong giao tiếp
hàng ngày.
5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung chính của luận văn được phân thành hai chương:
Chương 1: Luận văn trình bày những cơ sở lí thuyết cơ bản liên quan đến đề tài như: về diễn
ngôn; về tính tình thái và TTGN trong ngôn ngữ; một số vấn đề khác về TTGN trong ngôn ngữ,
trong đó có đề cập về lịch sự và lịch sự ngôn ngữ, vai trò của TTGN trong diễn ngôn, trong giao
tiếp.
Chương 2: Qua khảo sát, luận văn xác lập, phân loại và miêu tả các phương tiện biểu thị TTGN
trong diễn ngôn tiếng Việt.
146 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1721 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tình thái giảm nhẹ trong diễn ngôn tiếng Việt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.. [2; 210]
37. Thôi con ạ! Con chẳng ăn làm gì một tí. [2; 217]
38. Mình chỉ quên một tí thôi, quên không mời nó, ấy thế mà nó để ý thù mình. [2; 228]
39. Mày đứng đợi đây một tí. Tao vào nhà xem sao. [2; 297]
40. Đi sớm một tí để về sớm cho nó mát. [2; 329]
41. Chả lẽ đi quanh năm, đến lúc nghỉ ngơi cũng không về thăm nhà thăm cửa một tí? [2; 330]
42. Cứ đem rửa lại. Mau lên một tí! [2; 344]
43. Anh tình cờ đi qua thì tạt vào một tí chứ có định đến làm gì đâu. [2; 463]
44. Ta uống mau lên một tí để còn đi tìm bàn chắn chứ! [2; 466]
45. Tôi cũng muốn có chén rượu để ông con cùng uống cho vui một tí. [2; 468]
46. Anh ạ, chúng mình có tuổi một tí rồi mới hiểu không cái gì quý bằng tình bạn… [3; 24]
47. Anh ra tôi hỏi cái này một tí. [3; 104]
48. Thôi anh ạ…Tôi lạy anh, lát nữa anh chịu khó lên nhà Hải Nam một tí. [3; 137]
49. Con lạy cụ! Cụ làm ơn bảo cô ấy ra cho con hỏi một tí… [3; 230]
50. Tôi chỉ cần đến đầu cầu, đứng đấy, nhìn vào phố, thấy cái nóc nhà tôi một tí, rồi quay ra ngay
lập tức. [3; 455]
51. Anh em tập hơi luống cuống một tí là quát ngậu lên... [3; 475]
52. Thế mà hơi chậm một tí là anh tiểu đội gắt… [3; 475]
53. Vợ tôi vẫn làm. Chỉ phải thuê người một tí thôi. [3; 480]
54. Mày có một tí tuổi, còn phải xách dép cho người ta. [4; 158]
55. Khi nãy ta làm cho anh phải sợ một tí, vì sự nó bí mật lắm. [5; 27]
56. Anh ghé vào đây một tí cho tôi hỏi vay tiền người này xem có được không. [5; 67]
57. Nhưng chỉ có một tí xíu mà trời chẳng chiều cho ai được hoàn toàn. [5; 171]
58. Cụ cho phép con vào một tí, hỏi chồng con xem đầu đuôi ra làm sao. [6; 105]
59. Tao biết việc mất tiền này cũng hơi tại tao một tí, cho nên tao mới hối hận mà tận lực giúp
mày. [6; 121]
60. Giời ạ, còn tát từ giờ đến mười hai giờ trưa thì kéo sao nổi. Hay nghỉ một tí đi. [6; 207]
61. Thì thầy nó đến một tí vậy. [6; 230]
62. Ở trong này với tôi thì khí bó buộc một tí. [7; 101]
63. Điệp đành chịu để mẹ mắng, không dám nói cốt để bà được yên nghỉ một tí. [7; 117]
64. Các chị cho tôi lại đằng này dặn thằng người nhà một tí. [8; 46]
65. Lúc bấy giờ, giá ông chủ chú ý một tí, thì chắc đã thấy một vật gì đen đen (…) [9; 12]
66. Cho tôi bế con một tí, nó giống tôi hay giống mợ. [9; 23]
67. Chả cấm được ai. Nếu mình không muốn . Cùng lắm mất một tí. [10; 200]
68. Cậu vào đây hộ tôi một tí. [13; 10]
69. Thì cậu vào hộ tôi một tí có làm sao. [13; 10]
70. Cậu chỉ cầm một tí thôi. [13; 10]
71. Hãy giữ một chút nữa. Mới có một tí thế mà đã kêu mỏi. [13; 11]
72. Cho anh chạm tay vào một tí nhé. [15; 251]
73. Xin một tị! Một tị tỉ tì ti thôi. [16; 8]
74. Quan lớn làm ơn nánh cho chúng con đi một thí. [17; 9]
75. Còn các bà già kia có muốn chờ thì cứ đi đủng đỉnh lại một tí, chị ấy đem lại chỗ xe đây kia
thôi. [17; 11]
76. (…) để quan lấy cho một tị dầu trong này mà bôi rồi thì về. [17; 13]
77. (…) vì tôi rất sợ rằng mỗi ngày một tí, cứ dần dần như thế (…). [18; 378]
78. Xin ông hãy nới lỏng ra cho tôi một tí. [21; 41]
79. Thôi, tôi gặp chú ấy một tí rồi về ngay có việc. [22; 72]
80. Bá chờ em một tí, em vào lấy cái này. [22; 190]
81. Ý em rằng là thôi mỗi bác chịu thiệt một tý, chín bỏ làm mười để giữ cái tình đi lại. [22; 347]
82. Mới chỉ có chia đất chậm một tí mà đã đủ thứ chuyện rầy rà. [22; 401]
83. Muốn đi một tí mà chẳng tài nào lừa nổi con. [24; 97]
84. Cho chúng tôi vào thăm anh ấy một tí rồi chúng tôi ra ngay thôi. [24; 237]
CHÚT
85. (…) chẳng có tiền bạc gạo lợn hay mâm cao cỗ đầy thì cũng phải lấy đầu làm lễ gọi là chút
lòng thành của con cháu các cụ (…) [2; 136]
86. Hài uống hết một cốc thì Thư lại bảo: làm chút nữa. [3; 41]
87. Vậy để chút nữa. [3; 44]
88. Mô Phật, nói nhỏ chút cháu. [24; 31]
ĐÔI CHÚT
89. Nó đã biết nghe, chỉ là hờn dỗi đôi chút thôi. [8; 158]
MỘT CHÚT
90. Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút : Cả các ông các bà nữa về đi thôi
chứ! [1; 9]
91. Chỉ cần khéo hơn một chút. [1; 112]
92. Sau này tôi chết đi anh muốn ra góp mặt với người ta một chút…[2; 210]
93. Hay là lại vào ông Cựu hỏi xem sao, liệu có nhè nhẹ thì ta cố lo một chút. [2; 213]
94. Lưu dạy tôi làm tính đố cho kha khá hơn một chút; tôi bí tính ghê lắm. [2; 329]
95. Tôi còn phải lại đằng này một chút. [3; 42]
96. Cứ ngồi yên!...Đợi tôi một chút. [3; 291]
97. Xin vô phép ông…Ông ngồi chơi. Tôi xuống qua dưới này một chút. [3; 295]
98. Ông cho tôi hỏi thăm một chút. [3; 419]
99. Cố gắng làm thì em sẽ được một chút, một chút thôi là quý lắm rồi. [10; 336]
100. Hãy giữ một chút nữa. Mới có một tí thế mà đã kêu mỏi. [13; 11]
101. Sắp đến quán cây đa rồi, đến đấy ta nghỉ chân một chút đã rồi hãy đi. [13; 76]
102. Không khác mấy, chỉ có hơi gầy đi một chút. [13; 105]
103. Hỏi thế này khí không phải, cô sao không đến chơi sớm hơn một chút? [13; 117]
104. Này, tôi nhờ chị một chút. Chị điện về báo cho vợ tôi biết, hôm nay tôi không ăn tối ở nhà.
[14; 124]
105. Hãy nghỉ tay một chút đã! [16; 159]
106. Thầy nên khôn khéo một chút nhé, thằng ấy nó vô nghĩa lắm. [17; 82]
107. Danh giá đấy, nhưng mà hao tài tốn của một chút. [17; 331]
108. Có, kể cũng có cái gì hơi lạ một chút. [18; 34]
109. Đấy ông theo nó, tùy ông chọn thế nào cho nó lành lặn một chút. [18; 293]
110. Nhân tiện cháu cũng ghé chỗ bệnh viện thăm người em họ một chút. [23; 35]
111. Đưa tôi ra chỗ Dăm Phe một chút, được không thầy? [23; 38]
112. Nhân tiện o Lựu có việc ra Dăm Phe, em đưa o đi một chút (…) [23; 39]
113. Không sao, chỉ hơi ấm lưng quá một chút thôi. [23; 155]
114. Bà có hơi có thịt một chút, người tròn trịa dễ coi, đâu phải mập tù lu. [23; 178]
115. Người có tâm huyết một chút là bao giờ cũng phải chịu cực hơn mọi người một tí như vậy.
[23; 322]
116. Dà, cũng chợp mắt được một chút. [24; 368]
TÍ CHÚT
117. (...) lỡ có chết thì tôi đem ra nói với hàng xóm giúp, gọi là của lão có tí chút. [1; 61]
118. Thiếu tí chút, thì vay tạm vậy. [2; 213]
119. Vốn liếng có tí chút rồi đấy. [2; 235]
120. (…) xin phép cho cháu tắm gội tí chút ạ. [20; 50]
121. Nghỉ tí chút. Cô có mệt không? [24; 218]
CHÚT ÍT
122. Hai vợ chồng cố xoay nên cũng có chút ít tiền…[2; 91]
123. Thế nào chúng mình chẳng phải để thừa chút ít. [3; 178]
124. Nếu có khó khăn quá, bị thiếu chút ít, xin huyện ủy cũng hiểu rõ tình cảnh cho. [3; 496]
125. Chắc bác sành phong lan lắm? - Chút ít thôi. [23; 182]
126. Đêm nay có chậm chút ít đừng giận chúng em anh nhé. [24; 221]
CHÚT XÍU
127. Anh Hai chờ em chút xíu. Dù cái chút xíu của nàng có thể dài bằng cả ngày nhưng anh Hai
vẫn hớn hở chờ. [10; 428]
ÍT
128. Nhờ ơn ngài nên bác mới mất ít tiền mà đã được cái sang trọng như thế này. [9; 169]
129. Vâng! Cháu muốn kêu cụ giúp cháu ít đồng. [21; 252]
MỘT ÍT
130. Chị đĩ Chuột lấy liễn cơm moi cho con một ít. [2; 14]
131. Nuôi được hai ba lứa rồi. Tôi cũng có một ít, chung với bà. [3; 271]
132. Này chị, gánh cái gánh lại chỗ xe ô tô kia tôi mua một ít cho. [17; 11]
MỘT LÚC/ MỘT LÁT
133. Tôi chạy ra ngoài đường một lát rồi về. [2; 218]
134. Lạy thầy, thầy làm phúc cho nhà con nó đến thăm con một lúc. [6; 106]
135. Hãy ra đây tôi bảo điều này một lát đã. [16; 159]
136. Dì cứ nằm nghỉ một lát cho đỡ mệt. [17; 224]
137. Ối chà!Chẳng biết gì cả, ta hãy cứ ra vườn hoa đây chơi một lát đã. [18; 205]
138. Cháu hãy gửi cụ một lát. [21; 131]
139. Thôi tôi mệt lắm, để tôi nằm nghỉ một lát. [21; 132]
140. (…) cháu không dám xin ngủ, chỉ xin cụ cho ngồi đây một lát. [21; 158]
141. Ông hãy làm ơn mỗi ngày sang đây dạy tôi một lúc. [21; 232]
142. Ông Vạn ơi! Sang nằm với con, tôi đi đằng này một lúc. [24; 97]
ÍT LÂU
143. Anh cứ chịu khó đợi ít lâu nữa xem. [13; 109]
144. Vâng nhưng mà xây sân quần thì cũng phải ít lâu nữa chứ? [16; 56]
MẤY TÍ
145. Anh làm được mấy tí tiền mà phao phí vậy? [2; 468]
146. Bán xôi chè. Nhưng được mấy tí; vả lại què tay thì làm lụng ăn thua gì. [8; 12]
147. Bẩm quan chả mấy tí, quan cho mấy xu cũng được ạ. [17; 12]
148. (…) anh dẫu có ăn hại đi nữa , thì cũng chẳng ăn hại gì mấy tí. [18; 12]
149. Nghìn rưỡi, đã mấy tí. [18; 256]
BÉ TÍ
150. Nhà mình rộng không ở hết, nó ở nhờ chỗ bé tí, mất gì. [2; 258]
151. Việc nhà bà bé tí, phải cái tội cứ đi quanh đi quẩn mỏi chân. [10; 254]
HƠI TÍ
152. Đúng là cái giống đàn bà, hơi tí là lu loa lên. [10; 402]
TÍ TI
153. Hì mới nhấp tí ti cho nó mềm môi thôi à. [15; 233]
154. Nhưng con này nói gì nghe nấy em chỉ cần lừa tí ti nó nghe ngay. [20; 102]
TÍ XÍU
155. Em nói cứ như mẹ anh vậy! Chỉ có khác tí xíu. [25; 237]
MẤY HỘT
156. Mày ngại không có tiền à? Cái đó không hề gì. Tao cho mày vay. Mấy hột mà sợ. [6; 67]
1.4 Dùng hình thức phủ định các từ có ý nghĩa tích cực trong hành động ngôn từ mang
nghĩa tiêu cực
1. Chẳng sao cả nhưng con không thích…[1; 123]
2. Bây giờ gần họ, tôi quả thấy không chịu được. [1; 193]
3. San bắt đầu kể những cái tử tế của Thứ và y, và những cái không tử tế của Oanh. [3; 119]
4. Anh không nói thật. [4; 63]
5. Đấy, thế mà lúc nãy tôi bảo nhà tôi rằng tôi học quốc ngữ, nhà tôi cứ không bằng lòng. [6;
163]
6. Rõ bịa nào, ai không bằng lòng. [6; 163]
7. Em nói thực điều này; chắc anh chị không bằng lòng em. [8; 167]
8. Ông chủ nhà cau mặt ra ý không bằng lòng, tặc lưỡi một cái. [9; 46]
9. Nay bác đã thết chúng tôi linh đình mà bác lờ ngài đi, coi không tiện. [9; 169]
10. Con không thích học. [10; 347]
11. Có ra kia mở cánh cửa sổ mà cũng không chịu khó. [13; 45]
12. Anh không nhớ đến em sao? [13; 67]
13. Ừ, thì tôi không người nhớn. [13; 84]
14. Anh phải gọi bà là bà Phán không thì bà không bằng lòng. [16; 49]
15. (…) ông sẽ nói là tôi cũng không bằng lòng lấy cô con quan tổng đốc nào đó mà ông đã hỏi
cho tôi. [17; 93]
16. Không lấy thì ông chủ nhà mày lại không bằng lòng! [17; 126]
17. Con rất đau lòng phải nói với đẻ chẳng dịu dàng như thế. [18; 64]
18. Bất Tuyệt yêu cầu một cách chẳng khôn khéo mấy: Dạ như vậy thì xin ngài chớ cho biết vội
(…). [18; 193]
19. À, ấy là vì những tư tưởng ấy không còn hợp nữa ấy chứ. [18; 252]
20. Chẳng may anh không về nữa thì tôi sẽ ân hận suốt đời. [19; 77]
21. Còn việc thuyên chuyển đồng chí ấy lên biên giới giữa lúc này là không hợp tình hợp lí. [19;
89]
22. Không dễ đâu Hà ạ, đó mới chỉ là ý tưởng, từ ý tưởng đi đến còn xa vời vợi. [19; 255]
23. Thưa cụ, giá chó bây giờ cũng không rẻ lắm, một con chó cái, con đem ra bán ít nhất cũng
được đồng rưỡi. [21; 53]
24. Ông Cựu ra ý không thích và nói: Ông cho nhà cháu mấy chữ chả quý hơn ư? [21; 237]
25. Lựu bi quan như thế là không nên. Mà không đúng đâu. [23; 27]
26. Ở Hà Nội này không khí không được sạch như ở nhà quê. [23; 303]
27. Hình như anh đánh giá anh Hoài không đúng lắm. [23; 316]
28. Cha không ưng nên không để tai nghe. [24; 276]
29. Nhưng anh nghèo quá không đủ mạnh để làm điều đó. [25; 272]
30. Người khách trả lời không nhiệt tình như trước. [25; 324]
1.5 Dùng quán ngữ tình thái
CÓ LẼ
1. Có lẽ tôi bán con chó đấy, ông giáo ạ. [1; 51]
2. Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi mình nhỉ? [1; 141]
3. Thứ tán thành: Có lẽ…[3; 96]
4. Có lẽ chú chẳng viết thư cho thím ấy bao giờ đấy nhỉ? [3; 215]
5. Này chú ạ! Có lẽ chúng mình phải gào ông Đích tăng lương cho chúng mình, chứ không sao
đủ. [3; 257]
6. Có lẽ chúng ta nên xa nhau một thời gian. [4; 66]
7. Có lẽ đến tám, chín giờ nó mới ra sở, tội gì không hưởng lấy vài phút tự do. [9; 133]
8. May ra có lẽ mẹ không mắng đâu. [10; 96]
9. À, có lẽ đúng, tôi cũng có lúc đã phải ngờ như thế đấy. [16; 160]
10. Tôi hiểu rồi vì chính tôi đi tìm anh nhiều quá cho nên anh nghi tôi, có phải thế không? - Có
lẽ... [17; 236]
11. Phải, có lẽ tôi thôi. [17; 246]
12. Dạ, con thấy cụ bảo sắp có các quan Tây đến đây, và có lẽ ông đi gọi đội sếp đăng báo đấy ạ.
[18; 185]
13. Có lẽ tôi sẽ dùng cả số tiền mười vạn ấy để làm cái việc bồi bổ và truyền bá quốc văn (…).
[18; 198]
14. Bạn hữu với nhau, cũng bởi duyên số như vợ chồng… - Có lẽ thật thế. [18; 277]
15. Nghe tiếng anh tôi đoán là anh có lẽ lớn tuổi hơn tôi…[20; 307]
16. Tôi... có lẽ…tôi sẽ qua được đêm nay! [20; 308]
17. Xin lỗi đồng chí Tùng! Ở đây đồng chí Tùng cùng làm việc gần gũi với đồng chí Thủ, vậy có
lẽ xin đồng chí Tùng cho vài ý kiến sâu sắc. [22; 384]
18. Bà con sẽ đốt khói…Có lẽ sẽ có Quế… [23; 147]
19. Có lẽ chủ nhật này cháu về nhà một tý. [23; 41]
20. Tôi vớt vát: Dù sao…có lẽ…không nói vẫn êm thấm hơn. [25; 92]
PHỎNG CHỪNG/HÌNH NHƯ/THÌ PHẢI/HÌNH NHƯ…THÌ PHẢI
21. Hình như họ cho cái việc hỏi giấy là thú lắm. [1; 192]
22. Mà phỏng chừng thua, nên gắt như mắm thối, mà rạc người đi, trông như con khỉ ấy. [3; 273]
23. Đây là tiền áp triện vào văn tự thì phải. [6; 150]
24. Hình như cậu già mất rồi. [10; 43]
25. Mà hình như nó một mắt to, một mắt nhỏ. [13; 9]
26. Hình như anh đói lắm thì phải. [13; 59]
27. Chắc anh ta bây giờ đang mơ mộng nhiều cái đẹp lắm thì phải. [13; 80]
28. Tôi nghe hình như anh đang học ở ban thành chung Nam Định cơ mà. [13; 106]
29. Này, hình như ông Xuân cũng đứng đắn và tử tế lắm thì phải…[16; 153]
30. Nghe đâu anh sắp cho con Tuyết cũng học đánh quần thì phải…[16; 153]
31. Nó với con Tuyết nhà ta hình như lôi thôi với nhau. [16; 160]
32. Theo như tin tức tôi mới nhận được thì hình như chúng nó ngủ với nhau rồi. [16; 160]
33. Nhưng hình như không phải vì mấy lẽ ấy mà bạn không năng đến tiệm Âu hóa, có phải thế
không? [16; 181]
34. Tôi thấy đồn đêm qua hình như có một việc chẳng may xảy ra cho con gái ông đồ. [17; 25]
35. Bẩm cụ lớn, hình như thế. [17; 47]
36. Lúc này hình như cô ả có đem một cái ghế đẩu đi theo. [17; 61]
37. Thiên hạ đồn nhau thế thì phải. [17; 82]
38. Chuyện xảy ra hình như cũng đã quá nửa tháng. [17; 82]
39. Bẩm hình như không phải chữa bánh xe. [17; 113]
40. Bẩm ông, giá ông thương hai thằng cháu bé đây mà ông trả thêm cho ít nhiều nữa thì phải…
[18; 366]
41. Anh nhờ tao cầm bức thư này gửi mày, hình như anh chép tặng mày bài thơ. [19; 82]
42. Hình như nó đã theo quan về phủ thì phải. [21; 132]
43. Hình như có vài hớp rượu, cơn rét của cụ lại càng tăng thêm. [21; 303]
44. Hình như chúng nó đợi cụ đã lâu lắm. [21; 303]
45. Hình như có ai xúi bẩy Đào điều gì. [22; 410]
46. Hình như chị không đồng ý hẳn những ý kiến của Trọng. [23; 300]
47. Hình như anh đánh giá anh Hoài không đúng lắm. [23; 316]
48. Hình như anh cũng không yêu em thật sự như em muốn…[23; 333]
49. Hình như tình yêu của anh đối với em cũng chỉ là thứ tình yêu ích kỷ. [23; 333]
50. Em thấy hình như anh không có bạn thân? [25; 147]
NGHE ĐỒN/NGHE ĐÂU/NGHE NÓI
51. Nghe đâu anh sắp cho con Tuyết cũng học đánh quần thì phải…[16; 153]
52. Người ta lại đồn rằng cụ Hồng muốn gả Tuyết cho bạn nữa! [16; 181]
53. Tôi thấy đồn đêm qua hình như có một việc chẳng may xảy ra cho con gái ông đồ. [17; 25]
54. Thiên hạ đồn nhau thế thì phải. [17; 82]
55. Mà nghe đâu như cụ Nghị nhà ta đã bỏ ra những năm trăm đền cho bố mẹ cô gái quê vừa rồi
cơ mà? [17; 82]
56. Nghe nói chú cũng bán lúa non à? Bao nhiêu một tạ? [22; 81]
57. Nghe nói anh đang đốt gạch anh định làm mái bằng hay mái chảy? [22; 95]
58. Anh Thủ, nghe nói bác Hàm bên ấy…Lan đến bên Thủ hỏi nhỏ (…) [22; 193]
59. Nghe nói anh đã quyết định bỏ tổ truyền thanh. [22; 233]
60. Nghe đồn mỗi người được vài ba sào gì đó. [24; 37]
KHÍ KHÔNG PHẢI
61. Thưa cụ, thế này khí không phải…cháu hỏi thăm cụ cô Mơ có ở trong này không ạ? [3; 229]
62. Con hỏi khí không phải có người bảo ông Phán lấy tiền của con, thật hay dối hở cậu? [9;
117]
63. Hỏi thế này khí không phải, cô sao không đến chơi sớm hơn một chút? [13; 117]
64. Tôi hỏi thế này khí không phải nhé? Có phải vì cô Tuyết không? [16; 181]
KHÍ VÔ PHÉP
65. Tôi ấy à! Nói khí vô phép chứ vợ tôi mà thế thì mấy tôi cũng không lấy nữa [3; 231]
1.6 Dùng kiểu phát ngôn điều kiện, giả định (nếu (như)…thì…, giá (như)…thì…)
NẾU (NHƯ)…/NẾU (NHƯ)…THÌ…
1. Nhưng một lần, hai lần còn được, chứ (nếu) nay ốm mai ốm thì coi sao tiện? [2; 272]
2. Nếu cậu đã làm hại đời người ta thì cậu nên cứu người ta, thế là nhân từ. [7; 126]
3. Nếu cậu muốn yên thân thì cậu nên kết hôn cùng Thúy Liễu. [7; 129]
4. Con hỏi câu này, nếu không phải (thì) cậu bỏ ngoài tai nhé. [9; 117]
5. (Nếu) cố gắng làm thì em sẽ được một chút, một chút thôi là quý lắm rồi. [10 ; 336]
6. Nếu Liên còn yêu tôi, (thì) xin Liên đi hẳn với tôi, chúng ta sẽ xa hẳn chỗ này. [13; 73]
7. Nếu ngài lại tiệm Âu hóa của tôi thì tôi sẽ mách dùm cho. [16; 119]
8. Nếu mày cứ quên lời tôi bảo thì rồi tôi sẽ nói với bà lớn không thưởng mày nhiều tiền tiêu tết
nữa. [17; 44]
9. Nếu ông nghị cũng biết đãi nông dân và tá điền cho phải chăng thì không bao giờ phải lo
ngại gì nữa. [17; 46]
10. Nếu quan lớn mua giúp cho thì tôi xin để lại bằng một giá rất rẻ. [17; 72]
11. Nếu quan lớn dùng đến thì tôi chỉ xin lấy ngài hai trăm thôi. [17; 73]
12. Nếu tôi không nhầm thì hiện ngài đương chiếm đoạt vợ con người ta. [17; 216]
13. Nếu không có thế thì cậu về ngay bây giờ với tôi xem. [18; 53]
14. (Nếu) đến ông là vua thì con cũng không dám đánh thức ông con được. [18; 281]
15. Nếu cụ chỉ cho một đồng, thì còn một đồng nữa chúng con không biết chạy vào đâu được.
[21; 52]
16. Xin ông thương con! Nếu không có triện của ông (thì) cụ nghị lại không giao tiền. [21; 72]
17. Nếu ông không thương con (thì) con không lấy đâu được tiền nộp sưu. [21; 72]
18. Nếu không cho tiền thì các ông phải để cho tôi cái áo the kha khá lại đây. [21; 141]
19. Nếu quan đòi mà không lên hầu thì được tra chân vào cùm ngay lập tức. [21; 151]
20. Nếu bác nghe tôi thì tôi hãy cho mượn trước mấy đồng bạc để bác trang trải các món. [21;
162]
21. Tôi nói câu này, (nếu) nên thì các bác nghe, (nếu) không nên thì lời tôi lại trả tôi. [21; 162]
22. Nếu anh chưa kiếm được cho đủ thì đừng mang đến. [25; 49]
GIÁ (NHƯ)…./ GIÁ (NHƯ)…THÌ…
23. Giá anh ta chịu cáng đáng việc này cho thì hay quá! [1; 97 ]
24. Giá ông không ngại thì ông đem bộ ghế mây về quê mà dùng. [1; 151]
25. Giá chúng tôi chưa tìm được nhà ông thì chưa biết ra sao. [1; 190]
26. Giá bác ở đây thì nhiều lúc bác cũng cười đến chết. [1; 197]
27. Giá anh ta chịu cáng đáng việc này cho thì hay quá! [2; 196]
28. Giá con lo được, để ông che đỡ cho thì còn gì bằng nữa. [2; 210]
29. Giá con biết thì con bảo mẹ đừng ra đón con; năm nay con không về. [2; 329]
30. Giá chỗ này đục một cái cửa sổ nữa thì phải. [3; 163]
31. Gía trước kia con biết quan dễ dãi thế này thì con cứ trăm sự nhờ quan cho xong. [6; 58]
32. Giá nó nói với tao một tiếng, (thì) tao cho nó cái danh thiếp lên quan, có phải bằng mấy lục
sự thừa phái có khi họ đơm đó không? [6; 64]
33. Giá mình làm cho mình thì tha hồ, nghỉ lúc nào cũng được. [6; 208]
34. Bẩm ông, giá ông thương hai thằng cháu bé đây mà ông trả thêm cho ít nhiều nữa thì phải…
[18; 366]
35. Giá như dạo vừa tốt nghiệp anh về Sài Gòn tìm một việc gì đó …[20; 367]
36. Giá em khéo léo nói cho Tường biết từ trước. [24; 335]
1.7 Dùng ngữ điệu
DỊU GIỌNG
1. Rồi quay lại bọn người làng, cụ dịu giọng hơn một chút: Cả các ông các bà nữa về đi thôi
chứ! [1; 9]
2. Thấy hắn toan làm dữ, cụ đành dịu giọng: Thôi, cầm lấy vậy, tôi không còn hơn. [1; 47]
3. Hắn lại xoay ra đấu dịu:Cái thứ người đâu mà ngang như cua vậy? [1; 112]
4. Người tình nhân lúc ấy đã mặc được quần áo, khôn ngoan mà hỏi dịu: Kính chào ngài! Bẩm
thế ra ngài là người chồng? [16; 133]
5. Không biết làm sao, cụ đành dịu giọng: Mời quan đốc ngồi chơi. Nào nhà này có ai sơ suất lỡ
lời gì đâu? [16 ; 186]
6. Quan tổng đốc ngẩn người ra hồi lâu rồi dịu giọng: Thầy nói thật đấy à? [17; 77]
7. Vốn đã biết tính chồng không thế bao giờ, người đàn bà chột dạ, đành dịu giọng: Nếu không
có thế thì cậu về ngay bây giờ với tôi xem. [18; 53]
8. Chừng muốn tỏ ra mình là người thạo chữ, cậu cơ đón bức văn tự, trầm tĩnh, xem hết từ đầu
đến cuối. Rồi cậu dịu giọng, sẽ gắt: Nói láo! Cái giấy mượn đôi hoa tai bằng vàng đấy chứ
văn tự đâu mà văn tự. [21; 65]
9. Quan phủ dịu giọng: Mai lên phủ hầu. Nghe không? [21; 127]
10. Chị Dậu đấu dịu: Xin ông làm phúc để cho tôi cho cháu nó bú cái đã…[21; 137]
11. Chợt một tiếng hỏi làm cả hai sững lại: Ai thế này? Đi đứng thế nào thế này?
Quềnh và Thó cùng khựng lại.
Một người đàn ông cao, gầy đã đứng sát bên cạnh. Người ấy dịu giọng: À chú Thó à? Lài bác
Quềnh nữa, ôm cái gì thế này? [22; 39]
12. Ông Dương Lễ dịu giọng: Đem làm ngay đi. Thui lên cho nóng [23; 26]
13. Thế con không nghe mẹ à? - Nhà tôi dịu giọng. [24; 144]
14. Chừng như hiểu điều Thim không nói hết, đôi mắt Phón thoáng một nỗi xót xa thương cảm,
giọng Phón đã dịu xuống: Con chim có tiếng hót tìm bạn, lời em nói chẳng rơi vào lòng anh,
em muốn được gánh cái nghèo cùng anh nhưng anh chẳng cho. [25; 166]
GIỌNG NHẸ NHÀNG
15. Tôi hoảng hốt quát to: Ai thế?
Một thứ tiếng rất nhẹ nhàng đáp lại: Tôi đây mà, các ông đi gặt hẳn? [2; 15]
16. Tôi nhẹ nhàng: Có lẽ phải về thôi. Sắp bão rồi. [10; 45]
17. Tôi biết là cô sẽ nghĩ lại. – Hắn quay về phía nàng, bước chân như mèo và giọng nhẹ nhàng.
[14; 300]
18. Sau khi anh bệnh binh ngang ngạnh đã đứng dậy, tôi liền nhẹ nhàng: Anh ngồi xuống đi, kẻo
ngã đấy. [19; 27]
19. Tơ Hú trả lời với giọng nhẹ nhàng đầy âu yếm: Mời mình cứ vào. Tôi không bận gì đâu. [20;
266]
20. Đang thẫn thờ như người mất hồn, cô Khịt bỗng thấy cánh tay nhẹ nhàng choàng lấy vai
mình và giọng dịu dàng của Tơ Hú bên tai: Em gái ơi sao lại ngồi đây ? [20 ; 271]
21. Quan phủ đáp bằng giọng nhẹ nhàng: Định đi đâu mà mở cửa? Đứng ra dưới cái gương kia ta
hỏi. [21; 153]
22. Bà cụ Tứ khẽ đằng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới": Ừ, thôi các con đã
phải duyên phải kiếp với nhau. U cũng mừng lòng... [23; 58]
23. Bà cụ Tứ chợt thấy con giai đã dậy, bà lão nhẹ nhàng bảo nàng dâu: Anh ấy dậy rồi đấy. Con
đi dọn cơm ăn chẳng muộn. [23; 60]
24. Ông lão quay lại, vẫn giọng trong vắt nhẹ nhàng: Thưa ông, tôi còn đi thăm hai mốt gia đình
các cháu như thế này nữa, mà mỗi gia đình đều cũng đông. Bảy giờ tối, tôi mới về đến Hà
Nội. [25; 33]
GIỌNG DỊU DÀNG
25. (…) chị đĩ Chuột thương hại dịu dàng bảo: Con chạy ra vườn xem chị Gái làm cỏ, lúc nào
chè chín bu gọi về mà ăn…chóng ngoan rồi bu thương. [2; 12]
26. Tôi dịu dàng: Trả mãi cũng phải hết. Đừng lo. [2; 309]
27. Dịu dàng chị Pha đáp: Cậu làm phúc bảo giùm cháu, cháu đội ơn. [6; 104]
28. Chị đưa anh ba hào, dịu dàng nói: Đây nộp cho xong rồi mà về, quàng lên. [6; 111]
29. Ngài dịu dàng nói: Thế thì anh để xe không cũng vậy, mà nó đến han đến gỉ, rồi hỏng đi thì
tôi tiếc (…) [9; 172]
30. Xong rồi anh ạ. Nàng vẫn dịu dàng. [10; 405]
31. Hiệp cảm động trong lòng, âu yếm và lấy giọng dịu dàng: Không, tôi không quên em…[13;
67]
32. Bác sĩ dịu dàng: Chúng tôi chỉ xét nghiệm chữa trị vô sinh. Còn trường hợp này thì…quả
thật, ngoài khả năng…[14; 28]
33. Ông kia lại dịu dàng: Bẩm cảm ơn quan lớn lắm ạ. Xin quan lớn biết cho rằng tôi lại còn là
một biên tập viên trong ban soạn tự vị nữa ạ. [16; 271]
34. Phúc vẫn dịu dàng: Làm như người ta đã nghiện có chừng mực rồi ấy? [18; 310]
35. Nhưng bây giờ chỉ dịu dàng để than thở hơn là rầy la: Dạo này cậu bỏ nhà đi chơi đêm nhiều
quá. [18; 317]
36. Vợ anh, vẫn cứ mãi như miếng thạch, dịu dàng đáp: Vâng tôi hiểu lắm chứ! Tôi biết thân
phận tôi lắm chứ. [18; 318]
37. (…) bà Lưu bước lại gần, hỏi bằng những lời dịu dàng hơn: Thế trong người thế nào? [24;
295]
GIỌNG THÂN MẬT
38. Rồi đổi giọng thân mật cụ hỏi: Về bao giờ thế? Sao không vào tôi chơi? Đi vào nhà uống
nước. [1; 10]
39. (…) bà Trùm trịnh trọng mắng một cách thân mật: Thôi đừng vẽ. Lên năm, lên mười nhờ
giời chứng sống, lúc nào khai không được. [6; 23]
40. Cậu lệ ngắm Pha từ đầu đến chân, rồi đứng gần lại, hất hàm, thân mật hỏi nhỏ: Có gì không?
[6; 79]
41. Thấy Pha đứng ngây người, im lặng, ông Nghị thở dài, và nói bằng giọng thân mật hơn: Thế
nhà mày thiếu gạo ăn hôm nay à, con? [6; 121]
42. Một hôm, ngài truyền bác vào nhà tư, và hỏi khẽ, giọng thân mật: Tôi hỏi thực anh thế anh
có muốn dùng cái xe này không? [9; 171]
43. Định quảy gánh rau về thì thấy anh hỏi thăm tôi rất thân mật: Chị bán rau ơi, chị có người
chồng thương binh nặng phải không? [19; 168]
44. Bà lão hạ thấp giọng xuống, thân mật: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng
nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. [23; 58]
GIỌNG ÂU YẾM
45. Rồi ông đặt tay lên vai Pha, đưa anh vào trong nhà, âu yếm nói với ông Chánh hội: Mình
thương chúng nó, mà chúng nó có hiểu lòng mình đâu. [6; 139]
46. Bà phủ bật cười, âu yếm bảo con: Các cô ăn nói vô ý quá. Không nên so sánh vô lí như thế.
[8; 39]
47. Hôm nay hoàng đế của em ăn món gì? - Bà vợ hoàng hậu của vương quốc chữ âu yếm thỏ
thẻ. [20; 163]
48. Bà lão hạ thấp giọng xuống, thân mật: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng
nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. [23; 58]
GIỌNG NHỎ NHẸ/NHỎ NHẺ
49. Ông Cứu tiến lên gần, nhỏ nhẻ thưa: Lạy quan lớn, còn vong hồn con con kia. Nếu có thế nào
con cam chịu tội trước cửa quan lớn. [9; 159]
50. Chị phì cười dí vào trán chồng nhỏ nhẹ: Có thế mà cũng không biết. Anh nói gì cũng được
nhưng phải cho em đường lui chứ. [14; 441]
51. Chị đỗ gánh xuống, nhỏ nhẹ: Làm sao mặt lại nặng như đá đeo thế kia? [23; 229]
52. Mùi thở dài, nói nhỏ nhẹ: Bọn người chúng em hung dữ cũng không được, hiền lành cũng
không xong. Thật khó sống. [24; 336]
53. Ông tiếp giọng nhỏ nhẹ: Mới đấy mà chú ấy cũng hưu được hai năm. [25; 47]
GIỌNG THỎ THẺ
54. Nga thỏ thẻ: Nhờ anh trông giúp tôi cái va ly và khi sắp đến ga, anh bảo nó hộ. [8; 53]
55. Cho nên đã có lần Chi ngồi cạnh Nga vuốt lưng nàng và thỏ thẻ nói: Em Nga ơi, nếu anh
không phụ bụng em thì chi đã đến nỗi em khổ. [8; 161]
56. Hôm nay hoàng đế của em ăn món gì? - Bà vợ hoàng hậu của vương quốc chữ âu yếm thỏ
thẻ. [20; 163]
57. Cái Tý thỏ thẻ khuyên em: Tiền bán khoai còn phải để dành đóng sưu cho ông lý chứ? [21;
32]
58. Bà lão thỏ thẻ yên ủi: Thấy tình cảnh nhà bác tôi thật ái ngại. Nhưng thôi, sông có khúc
người có lúc (…) [21; 133]
GIỌNG NGỌT NGÀO
59. Lại ngọt ngào, Chi nói: Này, cô Nga, cô đương nói chuyện với Chi kia mà. [8; 155]
60. (…) nhưng lại thấy ông chủ ngọt ngào dỗ: Bấy lâu cậu nghỉ hát ở các rạp khách nhắc nhở
luôn đấy. [9; 72]
61. Chị cười thật tươi và trấn an ông bằng cái giọng đến đá cũng phải mềm lòng: Ông ơi, ông
đừng chấp nhà con. (…) [14; 438]
62. Ngó con một cách đau đớn, chị Dậu ngọt ngào: Con hãy cố nhặt thêm vài chục mẩu nữa (…)
[21; 32]
63. Và chị cố kiếm cho được cái giọng ngon ngọt để dỗ thằng Dần: Dần buông chị ra đi con!
Dần ngoan lắm nhỉ? [21; 81]
64. Chị Dậu ngồi xuống bếp, ngọt ngào nói ra: Bác tính từ lúc gà gáy đến giờ, tôi những rối về
chạy chữa cho thầy cháu, nào đã lo kịp? Nhờ bác nói với ông lý hãy cho nhà tôi khất đến
chiều mai. [21; 115]
65. Quan phủ đổi giọng ngọt ngào: Mai lên phủ hầu! Giải cả con vợ thằng Dậu lên nữa. Nghe
không? [21; 129]
66. Quan phủ ngọt ngào: Sao mợ lại nói thế nhỉ? Đã hay rằng mợ không ưa sự đó, nhưng cái đời
nó như thế, người ta thế mình cũng phải thế. [21; 143]
67. Quan phủ theo sau, ngài nắm tay chị, lôi lại và ngọt ngào: Hãy vào trong giường này
đã…Mày đánh lính trong khi làm việc phận sự, tôi nặng lắm…Vào đây…rồi tao châm chước
đi cho. [21; 153]
68. …Mặc cho ông Hàm lừ khừ nói nhát một, Tùng cứ hào hứng kể chuyện giá sắn giá ngô trên
mạn ngược thế nào, rồi chào ông Hàm rất ngọt ngào lễ phép trước khi đi như bay về nhà. [22;
93]
69. Bà Đồ Ngật vẫn ngọt lừ như chè kho, đúng là một trưởng đoàn ngoại giao đại tài:
Thôi thì cái khó nó bó cái khôn! Bác có trách chúng em, có chửi chúng em thì chúng cũng cứ
là sống tết chết giỗ mang ơn bác…[22; 341]
GIỌNG THẼ THỌT
70. Nghe tới đó cô Khịt hoảng quá, vội thẽ thọt thưa: Ôi, em làm sao có thể hầu hạ ngần ấy ông
chồng cho xuể. Chỉ lo cơm rượu không thôi cũng hết hồn vía chị ạ. [20; 265]
71. Biện lệ như cũng nguôi giận, hắn lại thẽ thọt: Nó là tiền giường, tiền chiếu này ngồi, tiền
cơm mà mày ăn lúc nãy, chứ là tiền gì? [21; 149]
72. Triển đến thật. Anh ta để tệp tiền nhàu nát quăn queo trên bàn trước mặt ông bố, rồi uốn
giọng thẽ thọt: Con nộp đủ tất cả sáu lần đấy bố ạ. [25; 49]
GIỌNG MỀM MẠI/HÒA NHÃ/ÊM NHƯ RU
73. Cô có muốn dạo một vòng trước khi chúng ta về nhà không? – Câu hỏi thốt lên bằng giọng
rất hòa nhã [14; 295]
74. Giọng hắn mềm mại: Tôi cho xe chạy một vòng quanh phố nhé? [14; 296]
75. Giọng hắn êm như ru: Khăn quàng ngay sau lưng cô đấy thôi. [14; 296]
76. (…) anh đến ngồi sát bên tôi, giọng anh như ru: Thời gian này em ôn thi thức đêm nhiều chắc
giờ mệt mỏi lắm. [19; 63]
GIỌNG ÔN TỒN/ ÂN CẦN
77. Cụ lớn tươi nét mặt, ôn tồn truyền: Vì sự ấy nên hôm nay tôi định gọi anh vào để em nó được
tạ quá cùng anh. [5; 28]
78. Ông giáo liếc mắt xuống gầm bàn, rồi tự nhiên, dúi hai chân lại sau ghế, và ôn tồn nói: Thôi
nhưng mà chốc nữa chúng mày phải gội đầu bằng xà phòng nhé! [9; 87]
79. Trước cảnh thương tâm ngài ôn tồn hỏi ông Cứu: Cái đầm này mỗi năm anh kiếm lợi cả cá
lẫn hoa có được đến dăm trăm không? [9; 157]
80. Nhà tư bản (...) thoăn thoắt bước theo mà nói bằng một giọng rất ân cần: Này chị, gánh cái
gánh lại chỗ xe ô tô kia tôi mua một ít cho. [17; 11]
GIỌNG MỀM MỎNG
81. Tôi quyết định mềm mỏng để hoãn binh: Hình như bà từ xa tới. Chắc bà đang đói bụng? [15;
316]
82. Quà của con đây. - Gã cố lấy giọng mềm mỏng. [20; 221]
83. Nhưng ông thầm cảm ơn chị em bà cả đã vô tình giành cho ông phần thắng, nên ông đủ bình
tĩnh mềm mỏng: Thôi cô Cành ạ, có chuyện gì đã có tôi đây. [22; 313]
NÓI NHỎ
84. (…) vợ Thủ rón rén lại bên giường gọi nhỏ: Thầy em dậy đi có chú Sửu đến. [22; 136]
85. (…) Sửu lại nói nhỏ: Cánh nhà ông Phúc cũng đáo để. [22; 137]
86. Rồi Sửu quay sang Thủ hỏi nhỏ: Tý nữa anh có lên xã không? Tôi thấy lúng túng quá. [22;
137]
87. Thấy bóng bà Son, Sửu đi xuống mở cửa, tay xách theo tích nước, miệng nói nhỏ: Đoàn kiểm
tra của huyện sắp ở đồi Sim về đấy, bá giục ăn uống nhanh lên. [22; 155]
88. Anh Thủ, nghe nói bác Hàm bên ấy…Lan đến bên Thủ hỏi nhỏ (…). [22; 193]
89. Tôi nói nhỏ: Cậu đang buồn. Mợ đừng làm căng thẳng thêm. [10; 51]
90. Tôi ngồi xuống. Nói nhỏ: Cậu có muốn cháu đi đâu cùng cậu không? [10; 51]
91. Bà Vy nói nhỏ: Mẹ đi được ba bước rồi, kể ra có cái nạng thì không ngã. [10; 253]
92. Xuống nhà một tí. - Anh cán bộ nhìn tôi nói nhỏ. [10; 292]
HẠ THẤP GIỌNG
93. Rồi Sửu hạ thấp giọng như thì thầm: Tình hình gay lắm bá ạ! Có khi cả đồng chí Thủ cũng bị
liên đới. [22; 155]
94. Lúc sau, Thủ đứng dậy, hạ giọng rất trầm, dặn dò ông Hàm: Bác đứng làm ầm lên hỏng việc,
lúc này đang rất cần đến bá ấy. [22; 249]
95. Bà lão hạ thấp giọng xuống, thân mật: Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng
nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. [23; 58]
96. Lạt dừng lại rồi hạ giọng xuống như dỗ dành: Thầy em xem, người ta đã đốt đèn măng sông
sáng trưng lên ở ngoài đồng kia kìa. [23; 242]
97. Mẹ tôi hạ thấp giọng, nói run run: Mẹ biết hai anh em con rất…quý nhau. Chính vì mẹ muốn
giữ cho tình anh em thương nhau, quý nhau lâu dài, mà mẹ thấy cần để cho Thu đi lấy chồng
con ạ. [23; 264]
NÓI SẼ SÀNG/KHẼ/KHẼ KHÀNG/DẼ DÀNG
98. Đợi đến khi tôi ngừng, ông mới khẽ khàng: Anh ngồi xuống đi, tôi hỏi nhé. Anh ngày xưa
đi Tàu, có biết Tùng Quảng không? [15; 328]
99. Anh! Tôi khẽ khàng gọi và lo lắng tìm lời an ủi. [19; 52]
100. Ngoảnh lại thấy chồng bị trói chặt quá, mặt mũi nhăn như chuột kẹp, chị Dậu lại dẽ dàng
kêu van ông cai: Nhà tôi đương ốm…Xin ông làm phúc nới rộng nút thừng ra cho! [21; 40]
101. Vợ Thủ bưng chiếc mâm từ dưới bếp lên. Bên trên là tô cơm rang và đĩa thịt vịt xào. Chị
vừa dọn bàn vừa nói sẽ sàng: Thầy em đi rửa mặt, rồi mời chú Sửu ăn tạm bát cơm. [22; 137]
102. Bà Son biết hai bà chị họ đến bắt đền, giao phó mọi chuyện cho bà, nên bà dẽ dàng bảo:
Thôi việc thế nào đã có xã, huyện, còn chuyện ăn uống hai bá khỏi lo, em sẽ nấu nướng cho
cả ba bác cháu. [22; 154]
103. Đặt làn bún và tích nước lên bàn, bà nói sẽ sàng: Bác cháu dậy đi, súc miệng rồi ăn tạm bát
bún. [22; 155]
104. Thủ biết ông ấy đã nóng mắt lắm nên anh càng dẽ dàng: Bác cứ bình tĩnh, em kể cho bác
biết là để phải cùng lo việc lớn trước đã, chứ việc nhà như cá trong nơm, làm gì phải vội. [22;
248]
105. Vân quay lại nhìn chồng rồi khẽ nói: Thì mình thử ra xem ai đã nào, đã đến giờ đi đâu. [23;
301]
2. Các phương tiện gián tiếp
2.1 Dùng khoảng im lặng, kiểu nói lửng
1. Bẩm không ạ, bẩm thật là không say. Con đến xin cụ cho con đi tù mà nếu không được
thì…thì…thưa cụ…[1; 22]
2. Ấy là mới rời tao ra một tháng…[1; 125]
3. Mẹ mà chết đi thì con ơi…[1; 125]
4. Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến…[1; 142]
5. Anh nghĩ có buồn không? Trí thức thì thế đấy. Còn dân thì…như anh đã biết. [1; 200]
6. Rồi anh bỗng vỗ vai tôi, cười gượng, bảo: Thôi, đi về!...[2; 198]
7. Phải phải bà đồ ạ! Nhưng mà…[2; 346]
8. Thứ tán thành: Có lẽ…[3; 96]
9. Tôi chỉ sợ anh nghe người ta mà…[3; 105]
10. Không! Tôi có ai nghe ai thì tôi chết! Mà cũng chẳng ai nói gì cả. Tôi chỉ nghĩ rằng…[3;
105]
11. Mau lên, đưa đây mấy hào, không thì…[6; 83]
12. Anh hỏng? (…) Rồi hai người ngồi lặng đi...[7; 24]
13. Vậy cô có hiểu bụng cho tôi không? - Tôi hiểu lắm, nhưng…[7; 36]
14. Biết rồi! Nhưng mà làm giáo học…[7; 66]
15. Tôi cảm ơn cậu, nhưng cậu quên tôi đi, cậu đừng yêu tôi nữa. Thôi từ nay...[7; 131]
16. Thầy me cháu nhiều lúc quá thiên…[8; 81]
17. Thì có làm sao? Thằng Chi cũng là người chứ là gì? - Nhưng mà…[8; 129]
18. Bẩm thầy, con tưởng con đã trót như thế này thì…[8; 182]
19. Nói thế này anh đừng giận nhé, chúng nó sẽ bảo chúng ta là…
Sinh ngừng nhìn bạn. Nghĩa tiếp ngay: Là ăn cắp là cùng chứ gì! [9; 134]
20. Vớ vẩn, bão gì mà bão. Có buồn ngủ thì ngủ. Cậu cho sang bờ bên kia chơi.
21. Thôi cậu, nhỡ ra không về kịp...[10; 46]
22. Không. Đi luôn. Mỗi người một việc. Cô lấy chồng và em theo bế em mới. – Chú nhìn thẳng
như đo phản ứng của tôi về sự việc ấy.
Tôi im lặng. Tự nhủ: Thà không hỏi còn hơn. [10; 77]
23. Nhưng…nếu lấy ai đó mà không có con được lành lặn thì…[14; 28]
24. Chúng tôi chỉ xét nghiệm chữa trị vô sinh. Còn trường hợp này thì…quả thật, ngoài khả
năng…[14; 14]
25. Nó điên điên khùng khùng còn chưa đủ khổ hay sao mà… [14; 214]
26. Nhưng anh không thể…[14; 293]
27. Nếu trời cho chúng ta một đứa con mà cô hủy nó đi thì…[14; 300]
28. Bà thì thào: Ông ta như người mộng du! Mê tượng đến thế thì…[15; 20]
29. Anh bảo em phải làm gì bây giờ?
- Đừng có nghĩ gì cả…đừng nghĩ.
- Em thấy bế tắc… [15; 203]
30. Oạch: Đứa nào tán tỉnh chồng cô ấy để đến nỗi…[15; 235]
31. Vâng bây giờ thì cháu hiểu rồi…[15; 331]
32. Cụ thì ra đẻ được mẹ anh nữa kia mà? Mà mẹ anh thì…[16; 16]
33. Thưa ông, đó là sự tự nhiên, mà có lợi thì lợi cho các ông chớ cho gì riêng tôi mà ông lại...
[16; 55]
34. Ông tưởng thế, chứ báo của ông đã có ảnh hưởng gì? Chắc đâu...[16; 55]
35. Còn tôi dễ thường…[16; 123]
36. Gớm, bạn kỹ tính thật, kén vợ đến thế thì…[16; 182]
37. Người gái quê ấy…[17; 161]
38. Thật đáng tiếc! Tôi quý ông, muốn coi như người nhà…[17; 162]
39. Thật thế, thấy ông là người ngay thẳng có một, lại nhiều tính tốt, nên tôi vẫn định bụng…[17;
162]
40. Thế thì việc cóc gì! Hiền lành như anh, hà tiện như anh, ngoan ngoãn như anh…[18; 97]
41. Anh biết vậy nhưng cảm thấy có cái gì đó không được yên tâm.
- Tôi im lặng. [19; 16]
42. Còn tình yêu thì…mong anh hiểu cho em. [19; 48]
43. Dạ, thưa bác sĩ, tôi mạnh bạo hỏi, vậy là con tôi không thể cứu chữa được nữa?
- Bác sĩ im lặng. [19; 113]
44. Mọi ngày ba nó vẫn hút thuốc rê, bữa nay lại đòi thuốc gói. Mà tiền đâu mua? Gạo cũng hết
rồi…[20; 160]
45. Anh biết người lấy mà anh không nói à? Hay là…[20; 297]
46. Gía như dạo vừa tốt nghiệp anh về Sài Gòn tìm một việc gì đó …[20; 367]
47. Nhưng người ta bắt viết văn tự và bắt đèo thêm…[21; 63]
48. Thưa ông thật quả cháu không có. Thuế ở nhà cũng chưa nộp đủ nữa là...[21; 148]
49. Vào đây…rồi tao châm chước đi cho. [21; 153]
50. (…) ấy bu cháu ra tỉnh chuyến này nếu ở được mỗi tháng một đồng kia đấy, nhưng mà…[21;
198]
51. Bác đã gọi thì em xin hết lòng nhưng vía em nó yếu lắm. Em chỉ lo rồi thì…[22; 82]
52. Tôi nói thế là tôi lo cho thầy nó, chứ tôi thì…[22; 156]
53. Anh Thủ, nghe nói bác Hàm bên ấy…Lan đến bên Thủ hỏi nhỏ, giọng lo lắng. [22; 193]
54. Con tôi, hắn…[23; 30]
55. Bất giác Hòa cũng khẽ giọng, như sợ Lựu nghe thấy: Nếu cần thì…[23; 43]
56. Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau…[23; 57]
57. Chẳng qua nó cũng là cái số cả…[23; 57]
58. Lan uống cạn rượu, đặt ly xuống nhìn tôi: Anh chưa hỏi gì về đời em?
- Tôi chẳng chút sờn lòng: Bác có cho anh biết qua…
- Tôi thêm: Hoàn cảnh trong này…
Tôi dừng lại, không muốn giải thích dài dòng. Lan thông minh, mau hiểu. [23; 78]
59. Bác coi đó: Thương cháu như vậy, biết cháu đau như vậy, một người có tinh thần trách
nhiệm cao như chị Nghiêm đâu có nỡ nào…chỉ còn cách giải thích bằng cái chết mà
thôi…[23; 187]
60. Nhưng mẹ vẫn lo. Con thì hun hút, nó lại quá xa. Đàn bà…[24; 141]
61. Thưa bác, đây là chỗ ngày trước…[24; 357]
62. Tôi đến ngồi trên chiếc tràng kỷ nhẵn bóng, đối diện với bố tôi:
- Mười năm anh đi những đâu?
- Thưa thầy con đi gần hết cái đất nước này.
- Anh thấy nó rộng hay hẹp?
- …
- Chưa vượt biên chứ?
- Tôi vẫn im lặng. [25; 59]
63. Tôi biết nói ra điều ấy không xứng đáng với một ông bố. Nhưng tôi không thể…anh hiểu ý
nguyện của tôi chứ. [25; 81]
2.2 Dùng lối nói rào đón – lối nói vòng
1. Đã biết nhưng tôi còn muốn nhờ ông một việc… Ông giáo để tôi nói…Nó hơi dài dòng một
tí. [1; 60]
2. Có lẽ hôm nay đã là mồng hai mồng ba tây rồi mình nhỉ? [1; 142]
3. Thưa ông, ông đã có lòng thương đến cháu mà xét ra như thế này thì thật ông thương quá,
thương mọi nhẽ cái gì ông cũng châm chước đi cho cả…[2; 136]
4. Thôi thì mọi sự ông đã thương cho cháu cả rồi, hôm nay tiện được ngày, tôi cũng biện cơi
trầu đến kêu với ông để cho các cháu được lễ các cụ…[2; 136]
5. Tôi tưởng anh là cái chỗ con cháu nhà, nên muốn dắt díu anh một tí; còn tôi đây thế nào cũng
còn dễ hơn người khác. [2; 210]
6. Bẩm ông, ông có bụng thương thật phúc cho nhà chúng con lắm. Giá con lo được, để ông che
đỡ cho thì còn gì bằng nữa.(…) nhưng thật cảnh nhà con còn bấn quá. [2; 210]
7. Bẩm cụ, ở ngoài con ít người quen, không tiện chỗ nào cho cháu trọ học, và nơi thành thị là
chốn ăn chơi, cái hay thì ít mà cái dở thì nhiều, con sợ chú nó là con nhà hiếm, tính quen
nuông chiều sẵn, hoặc giả nhiễm thói hư chăng, nên đánh liều xin cụ cho cháu được ở hầu
đây…[5; 10]
8. Lạy cụ, nhà chúng con quê mùa, không có gì, gọi là vi thành, có buồng cau dâng cụ, xin cụ
thương cho. [5; 11]
9. Bẩm con nói câu này, quan lại bảo con ghét nó mà mách, chứ cái ngày quan dạm mua ruộng
nhà nó, nó đã không bán lại còn dám nói xấu vô số. [6; 9]
10. Giá nó nói với tao một tiếng, tao cho nó cái danh thiếp lên quan, có phải bằng mấy lục sự
thừa phái có khi họ đơm đó không? Thế mày định theo kiện hay chịu ngồi tù? [6; 64]
11. Cho nên tao tưởng mày theo kiện, rồi kiện lại nó, chứ có đứa hàng xóm như thế, thực là nguy
hiểm. Hiện nay mày còn nhà mà ở, còn ruộng mà cấy, nhưng biết đâu mai đây, vì một hũ
rượu của nó mà mày không những khánh kiệt lại bị tù tội. Cho nên tao định đến đây bàn với
mày, là tao cho mày tiền để mày kiện lại nó. (…) Mày ngại không có tiền à? Cái đó không hề
gì. Tao cho mày vay. Mấy hột mà sợ. [6; 65 – 67]
12. Thoạt tiên ông Tham ấp úng mãi mới nói được: Bẩm anh chị, hai em về đây cốt bẩm một
điều cho cháu Nga. [8; 165]
13. Bẩm cứ theo như lời ông Đốc tờ, thì cháu Nga tài nào cũng phải lấy chồng ngay. [8; 165]
14. Dạ, nhưng mà chính Đốc tờ người ta nói thế, rất đúng bệnh của cháu, chính là uất lên vì tình.
[8; 165]
15. Dạ. Nhưng bẩm anh chị, ông Đốc tờ dặn, thế nào cũng cho cháu lấy chồng ngay. [8; 166]
16. Bẩm chị, người ta chỉ dặn em có thế. Người ta bảo chớ tin rằng cháu khỏi thực. Người ta lại
bảo bao giờ cũng nên chiều ý cháu, nhất là về việc gả bán. [8; 166]
17. Ông Tham xám ngoẹt mặt thưa: Bẩm anh chị. Em nói thực điều này; chắc anh chị không
bằng lòng em. [8; 167]
18. Bẩm anh chị, cháu Nga sở dĩ chịu uống thuốc, mà ngày nay khỏi bệnh được, là toàn ở công
người học trò tên là Chi. [8; 167]
19. Bẩm anh, công của nó như thế thì rất to. Hãy nói ngay rằng nếu không có nó, thì cháu Nga
hiện nay tất vẫn còn điên, hoặc sẽ chết. Nghĩa là thằng Chi đã cải tử hoàn sinh cho cháu Nga.
[8; 167]
20. Dạ, bẩm anh chị cho nên em tưởng theo lời Đốc tờ dặn bảo mà giữ gìn cho cháu cẩn thận thì
hơn. [8; 168]
21. Bẩm anh chị, con ai thì con, em thiết tưởng gả chồng cho cháu thì nên tùy ý cháu. Mình làm
cha mẹ cốt xem cái đứa nó hỏi cháu có ngoan ngoãn, hiền lành, có nhân cách không thôi là
đủ. [8; 169]
22. Bẩm anh, em tưởng cần nhất là hai đứa đăng đối với nhau trước đã, hễ chúng nó bằng lòng
nhau là hơn. Như cháu Nga, lấy chồng là lấy cho cháu, thì anh chị nên tùy cháu, cho cháu cái
quyền được lấy chồng. [8; 169]
23. Bẩm anh, em tưởng giá trị một con người là chính ở người ấy. Ngay như nghề làm quan, nhà
nước chỉ dùng người có tài, thế thì việc hôn nhân, chỉ nên chọn người chứ không nên chọn
gia thế. [8; 170]
24. Nhưng mà em tưởng bây giờ có người con trai thật tốt bụng, ngoan ngoãn, có nhiều đức tính
nhất là có nhân cách, mà mình trông chừng nó có thể làm nên, nghĩa là nó có cái tương lai rất
tốt đẹp, không kém con nhà quan, thì mình gả cũng được (…) [8; 171]
25. Bẩm anh, nó đã đỗ ở trường Bưởi. Mà có thể theo học đến kì cùng. Người ta kỹ sư, tiến sĩ,
thì nó cũng có thể kỹ sư, tiến sĩ…[8; 171]
26. Bẩm anh, thằng Chi làm được cho cháu Nga khỏi, vì nó đã phải làm cho cháu đỡ uất lên vì
tình. [8; 174]
27. Thầy me tuy giận con nhưng vẫn thương con lắm con ạ (…). Thế này thì con còn thể nào lấy
được người tử tế. Ai người ta lấy con làm vợ cái con cột nữa. Mà cái đời làm lẽ, khổ nhục
trăm phần, con ạ. (…). Thầy me phải tính cho con được bằng người mới được.(…). Vậy thì
con cũng có thể làm nên được bà nọ bà kia, danh giá con ạ. (…) Cho nên thầy me định bịt
hẳn chuyện này đi. Chốc nữa mẹ cho con uống thuốc thì con uống nhé. [8; 184 – 185]
28. Bẩm ông, thầy u con đã nhắn ra rằng đến ra giêng, mùng sáu, thì xin cưới cho con, vậy thế
nào sáng mai con cũng xin ông cho con về sớm. [9; 105]
29. Tôi nghe như cậu còn tiền, cậu có thể cho tôi giật lửa được không? [9; 106]
30. Con hỏi câu này, nếu không phải, cậu bỏ ngoài tai nhé. [9; 117]
31. Nói thế này anh đừng giận nhé, chúng nó sẽ bảo chúng ta là… [9; 134]
32. Trước cảnh thương tâm ngài ôn tồn hỏi ông Cứu:
- Cái đầm này mỗi năm anh kiếm lợi cả cá lẫn hoa có được đến dăm trăm không? Anh cấy
hai mươi mấy mẫu?
- Thôi được để cho anh biết rằng tôi rõ tư gia nhà anh lắm. Còn việc khám xét hôm nay, thì
tôi không thể cho chôn ngay được. Vì tôi xét trong người tên Xích, có nhiều vết khả nghi.
Tôi phải bẩm tỉnh xin đốc tờ về khám cho cẩn thận. (…) [9; 157 -158]
33. Cô kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang. [11; 44]
34. Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?
- Trầu vàng nhá lẫn cau xanh
Duyên em xứng với tình anh tuyệt vời. [11; 52]
35. Cô kia gánh nước quang mây
Cho xin một gáo tưới cây ngô đồng
Ngô đồng thêm tốt thêm xanh
Để chim phượng đỗ đầu cành so le. [11; 121]
36. Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà. [11; 149]
37. Bình Định có núi Vọng Phu
Có đầm Thị Nại, có cù lao xanh
Em về Bình Định cùng anh
Được ăn bí đỏ nấu canh nước dừa. [12; 17]
38. Đêm qua mận mới hỏi đào
Vườn xuân đã có ai vào hái hoa?
Bông đào chênh chếch nở ra
Dang tay muốn hái sợ nhà có cây. [12; 99]
39. Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào. [12; 153]
40. Em đến đây muốn phiền ông một việc, chả biết ông có sẵn lòng không? [13; 115]
41. Bẩm chúng con thấy cụ lớn cũng dễ dàng, lại hay tiếp người bản xứ nên con sang thăm và
hầu chuyện, và xem cụ lớn có điều gì chỉ bảo không, thế thôi ạ. [17; 44]
42. Nếu tôi nói, quan bác đừng chối mà cũng đừng giận. [17; 276]
43. Con nói thế này thì không phải…Nhưng quả thật là bần cùng lạy cậu, cậu thương cho. [18;
18]
44. Bẩm cậu, quê con ở Thái Bình, con ra đây làm ăn một thân một mình, tứ cố vô thân. Tình
cảnh con khổ lắm nếu cậu không thương con thì chẳng còn ai thương con nữa. [18; 19]
45. Có, kể cũng có cái gì hơi lạ một chút. Với ai kia thì tôi còn giấu nhưng với anh tôi nói được.
(…). Nhưng mà ngoài anh ra, cái điều bí mật này không còn một ai biết nữa, vậy phải giữ kín
thật kín, sống để dạ chết mang đi đấy nhé! [18; 34]
46. Tôi phiền anh lắm, xin lỗi anh nhé? (…) Đây này, nói gần, nói xa chẳng qua nói thật, tôi thì
hiện đương cần một số tiền (…).Giữa lúc chưa biết trông nom vào đâu, may sao gặp anh mà
lại nhằm lúc anh phát tài nữa... [18; 95]
47. Này anh Phúc ơi, anh là một người chí thân của tôi, một vị ân nhân của tôi. Nhờ anh vợ
chồng tôi mới lấy được nhau, mới có buôn bán. Vậy thì tôi cần thành thực với anh…(…).
Vậy anh có cho phép tôi được thành thực không? [18; 377]
48. …Hội sang phòng Tình lân la trò chuyện: Anh tình à, anh em mình ở sát vách với nhau
nhưng chẳng mấy khi ngồi nói chuyện với nhau. Tại anh em mình luôn đi gối ca nhau. Lúc
anh rảnh thì em đang làm việc. Mai mốt anh lại về trước em rồi. Anh em có những gì chưa
vừa ý thì anh bỏ qua cho em nhé. Em nói thế chứ em sang đây để báo cho anh biết một cái
tin. Anh em mình ở sát vách và cùng là thủy thủ boong với nhau em mới nói. Anh đừng cho
ai biết là em đã nói với anh nhé… Em nói nhỏ cho anh biết nhé, đại phó và phó ba nghi anh
lấy đó. [20; 296]
49. Tôi nói câu này, nên thì các bác nghe, không nên thì lời tôi lại trả tôi. [21; 162]
2.3 Dùng hành động ngôn từ gián tiếp (trong hành động ngôn từ mang nghĩa tiêu cực:
yêu cầu/đề nghị/từ chối/phản bác/trách/chê/mắng mỏ)
HỎI: YÊU CẦU, ĐỀ NGHỊ
1. Bu mày chịu khó đi đong chịu vậy? [1; 112]
2. Có lẽ hôm nay đã là mồng hai mồng ba tây rồi mình nhỉ? [1; 142]
3. Chả lẽ đi quanh năm, đến lúc nghỉ ngơi cũng không về thăm nhà thăm cửa một tí? [2; 330]
4. Mình ăn từ trưa thì bây giờ đã đói rồi còn gì? [3; 54]
5. Nhưng các cậu định nói chuyện suốt đêm đấy à? [3; 427]
6. Hay là tôi lên trình cụ xem nhé? [5; 60]
7. Cậu lệ ngắm Pha từ đầu đến chân, rồi đứng gần lại, hất hàm, thân mật hỏi nhỏ: Có gì không?
[6; 79]
8. Cơ nghiệp anh như thế mà anh muốn chôn ngay con anh, anh không tạ ơn quan nổi một bách
hay sao? [9; 159]
9. Anh không cho em uống à? [23; 88]
HỎI: TỪ CHỐI/PHẢN BÁC
10. Thằng cu nó dở người, chứ mẹ con tôi ăn cơm đỏ đã no rồi, ăn vào đâu được nữa? [2; 14]
11. Cái nghề làm quan bám thằng có tóc ai bám thằng trọc đầu? [2; 28]
12. Bẩm ông, cũng gọi là tốt đấy thôi, chứ so với trầu của người ta thì chửa nước gì? [2; 209]
13. Diễn vở mới thì phải học thưa ngài? [5; 82]
14. Thế hãy hỏi quan, lính trên huyện ăn lương để ngồi không à? [6; 163]
15. Bác cháu có gì, ông cho đóng hạng một đồng thôi chứ? [6; 186]
16. Nhưng tiếc cái liễn, thì để chó cắn chết người ta hay sao? [8; 23]
17. Thế chúng bay bảo tao ngờ cho cụ à? [9; 66]
18. Mà mẹ đi lại sao được cơ chứ? [10; 253]
19. Sao lại ăn chay ạ? Bao nhiêu là cá. [10; 435]
20. Tôi mà bị thù à? Bị thù vì chữa bệnh cho cụ cố à? [16; 106]
21. Tôi đã làm hại cả một đời bà ấy à? [16; 248]
22. Thì tôi biết làm thế nào bây giờ? [17; 106]
23. Nếu câu ấy lên mặt báo, tôi xin ngài đừng có chối nhé? [17; 109]
24. Còn tôi, tôi đang thất nghiệp, thì còn ích gì được cho bác? [18; 19]
25. Nếu không người ta tự xưng là chính phủ bảo hộ để làm gì? [18; 181]
26. Tôi giúp họ hàng nhà tôi thì tôi cũng vẫn từ thiện chứ sao? [18 ; 256]
27. Làm như người ta đã nghiện có chừng mực rồi ấy? [18; 310]
28. Thôi! Em xin ông quyền. Nhà em đau yếu, ông tha cho! Có phải đơn kiện tụng gì đâu? [21;
65]
29. Luật mới không cho cha mẹ được phép bán con, nên phải viết thế, chứ có hoa tai hoa tung gì
đâu? [21; 65]
30. Bác tính từ lúc gà gáy đến giờ, tôi những rối về chạy chữa cho thầy cháu, nào đã lo kịp? [21;
115]
HỎI: TRÁCH/ CHÊ/ MẮNG MỎ
31. Như vậy cuộc kháng chiến của ta có lẽ đến hỏng à? [1; 200]
32. Nhưng công tác với những người như vậy thì anh bảo công tác làm sao được? [2; 378]
33. Vậy anh cầm lấy chỗ này uống rượu còn để tôi bán cho anh mảnh vườn; không có vườn đất
thì làm ăn gì? [2; 37]
34. Như thế thì tao còn biết từ chối người ta thế nào cho tiện? [2; 127]
35. Lắm đám cưới linh đình, mà rồi lại chả bỏ nhau ùn ùn ra đấy à? [2; 132]
36. Chẳng lẽ chỗ tôi với bác, mà bác có việc tôi lại đợi bác cho uống rượu rồi mới giúp bác hay
sao? [2; 192]
37. Làng này có những thằng nào đi ăn trộm ai chẳng biết? [2; 236]
38. Nhưng một lần hai lần còn được, chứ nay ốm mai ốm thì coi sao tiện? [2; 272]
39. Ông sinh viên trường thuốc làm bộ nhé? [3; 108]
40. Không học, sao biết chữ, sao được đi làm cán bộ? [3; 365]
41. Anh thử cắt nghĩa hộ tôi tại làm sao họ lại nhiêu khê đến thế? [3; 374]
42. Sao anh đến đây muộn làm vậy? [7; 83]
43. Vậy thì anh phải đi lại hỏi han chị ấy, chứ sao lại thờ ơ như thế? [7; 163]
44. Được bao nhiêu tiền lương, tiền thưởng, hút vào cái giống ấy lấy gì mà tiêu? [10; 353]
45. Ông tưởng thế, chứ báo của ông đã có ảnh hưởng gì? [16; 55]
46. Anh ạ, bây giờ người ta sống thế nào ấy? [24; 161]
47. Con hổ, con gấu trong rừng anh chẳng tránh, sao anh tránh em? Hay em không đáng cho anh
nói một lời như thường nói với người khác? [25; 166]
HẾT
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVNNH031.pdf