Hoạt động kiểm toán là một loại hình dịch vụ mới mẻ ở Việt Nam, ra đời cùng với sự chuyển đổi cơ chế kinh tế. Tuy mới ra đời nhưng kiểm toán Việt Nam đã phát triển hết sức nhanh chóng, thể hiện rõ vai trò và sự đóng góp to lớn của mình trong công cuộc đổi mới đất nước.
Trong điều kiện hiện tại khi mà xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đang tạo cơ hội cho kiểm toán nước ngoài được tự do cạnh tranh với kiểm toán trong nước thì kiểm toán đang đứng trước rất nhiều khó khăn. Để có thể tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi rất nhiều sự nỗ lực từ phía các Công ty kiểm toán. Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC cũng sẽ phải có những thay đổi lớn cho phù hợp với yêu cầu mới, để ngày càng nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp.
94 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1498 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức hệ thống hồ sơ kiểm toán trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán và kiểm toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiểm soát nội bộ của công ty khách hàng không được thể hiện trên các giấy tờ làm việc mà kiểm toán viên tự đưa ra đánh giá chủ quan và lập kế hoạch kiểm toán.
Tiếp đến là việc thực hiện phân tích các tỷ suất, đánh giá mức trọng yếu và đánh giá rủi ro.
Khi nhận được các tài liệu ban đầu từ phía khách hàng về báo cáo tài chính kiểm toán viên phải thực hiện những phân tích ban đầu để kiểm tra tính hợp lý, phân tích xu hướng biến động, đánh giá xem liệu có những biến động bất thường xảy ra hay không. Trong phân tích sơ bộ báo cáo tài chính kiểm toán viên sử dụng phương pháp so sánh số liệu của năm trước và năm nay để tính ra mức biến động trên số tương đối và số tuyệt đối trên bảng cân đối kế toán. Việc phân tích này sẽ dễ dàng chỉ ra những biến động của năm nay so với năm trước và kiểm toán viên sẽ phân tích sâu hơn ở một số chỉ tiêu có biến động lớn.
Sau khi phân tích sơ bộ báo cáo tài chính kiểm toán viên sẽ tiến hành phân tích tổng quát trên báo cáo lãi lỗ. Bảng báo cáo lãi lỗ tiến hành so sánh các chỉ tiêu lợi tức gộp, lợi tức hoạt động, lợi tức trước thuế, thuế lợi tức, lợi tức ròng. Các chỉ tiêu cũng được so sánh và tính toán mức độ chênh lệch trên số tương đối và số tuyệt đối. Kiểm toán viên còn phải tiến hành phân tích tổng quát báo cáo tài chính về tỷ lệ thanh khoản, tỷ suất lợi tức, tỷ lệ công nợ trên số liệu năm trước và năm nay. Tất cả những phân tích này được ghi chép trên giấy tờ làm việc để làm cơ sở cho kiểm toán viên đánh giá rủi ro trong bảng cân đối kế toán và mức độ sai sót tiềm tàng. Các bảng so sánh và phân tích này sẽ được kiểm toán lập theo mẫu và ghi chép những phân tích của mình về các chỉ tiêu có biến động.
- Xác định mức độ trọng yếu : Khi tiến hành một cuộc kiểm toán thì vấn đề đặt ra đối với kiểm toán viên là phải xác định được mức độ trọng yếu. Căn cứ vào mức độ trọng yếu đã được xác định kiểm toán viên mới có thể tổng kết những sai sót không được điều chỉnh trong báo cáo tài chính, tiến hành so sánh với mức trọng yếu đã đưa ra để kết luận rằng báo cáo tài chính có sai sót trọng yếu hay không, có được trình bày trung thực và hợp lý hay không. Vấn đề xác định mức trọng yếu là một vấn đề quan trọng nhưng phức tạp đòi hỏi sự đánh giá chuyên nghiệp dựa trên nhiều cơ sở khác nhau.
Đánh giá rủi ro kiểm toán : Nhiệm vụ của kiểm toán viên trong phần này là thu thập những bằng chứng phục vụ cho việc đánh giá rủi ro kiểm toán. Để làm được việc đó kiểm toán viên phải sử dụng các biện pháp như quan sát, xem xét tài liệu, phỏng vấn các bộ phận trong doanh nghiệp để có được những đánh giá chính xác nhất. Do vậy, các giấy tờ làm việc trong phần này ghi chép về những thông tin kiểm toán viên thu thập ở nhiều khía cạnh phục vụ cho việc đánh giá rủi ro và môi trường kiểm soát và những kết luận của kiểm toán viên về những vấn đề này. Tuy nhiên, trên thực tế việc đánh giá rủi ro phần lớn là phụ thuộc vào sự xét đoán nghề nghiệp của các kiểm toán viên và công việc này thường do các kiểm toán viên có nhiều kinh nghiệm tiến hành.
Căn cứ trên mức độ trọng yếu và rủi ro đã được xác định, kiểm toán viên tiến hành lập kế hoạch tổng hợp cho tài khoản đó trên giấy tờ làm việc chi tiết cho từng tài khoản trong mỗi giấy tờ làm việc dựa trên kinh nghiệm và các đánh giá đầu về hoạt động của tài khoản, kiểm toán viên sẽ xác định các thủ tục tổng hợp cần được thiết lập để có thể kiểm tra chi tiết cho tài khoản đó. Với mỗi khách hàng kiểm toán viên sẽ đưa ra một kế hoạch kiểm toán chi tiết riêng.
Lịch trình kiểm toán :
Căn cứ trên kế hoạch kiểm toán đã được xây dựng kiểm toán viên sẽ đưa ra một lịch trình kiểm toán cụ thể. Giấy tờ làm việc trong bước này là một bảng tường trình trong đó xác định rõ thời gian thực hiện, số lượng thành phần kiểm toán viên tiến hành các bước kiểm toán, phân công công việc cho từng thành viên trong đoàn kiểm toán, thời gian thực hiện trong bao lâu, giá của từng loại giờ công như thế nào, ...
Chỉ mục IV: Các sự kiện phát sinh sau khi phát hành báo cáo kiểm toán năm trước
Chỉ mục này chỉ liệt kê những sự kiện phát sinh sau khi phát hành báo cáo kiểm toán của năm trước có ảnh hưởng lớn đến báo cáo tài chính của đơn vị.
Chỉ mục V : Bản ghi những sửa chữa của kiểm toán
V.1. Những sai sót về khoản tiền đã sửa hoặc chưa sửa
V.2. Những sai sót về số tài khoản đã hoặc chưa sửa
VD : Các bút toán đề nghị điều chỉnh được đưa vào đây gồm :
Bút toán doanh nghiệp đã sửa
Bút toán doanh nghiệp chưa sửa
Mục đích để người soát xét hồ sơ xem có trọng yếu hay không để đưa ra ý kiến của mình
Chỉ mục VI : Các điểm cần theo dõi, các điểm chưa được trả lời
VI.1. Các điểm cần theo dõi
VI.2. Các điểm chưa được trả lời
VI.3. Các yêu cầu chưa được thoả mãn
Chỉ mục TH.VII : Các sự kiện phát sinh sau niên độ kế toán
VII.1. Các sự kiện phát sinh sau niên độ kế toán
Chỉ mục này liệt kê các sự kiện phát sinh sau niên độ kế toán nhưng trước ngày phát hành báo cáo kiểm toán.
Chỉ mục VIII : Phí kiểm toán và thời gian làm việc.
VIII.1. Ngân sách kiểm toán và phân tích thời gian làm việc
VIII.2. Chi tiết thời gian làm việc.
Dự kiến thời gian và ghi chép thực hiện : Giấy tờ làm việc này là một bảng lịch trình về thời gian, số lượng, thành phần kiểm toán viên tiến hành các bước kiểm toán. Sau đó chỉ mục này đưa ra mức phí kiểm toán được tính dựa trên thời gian dự kiến. Công việc này giúp cho việc lập kế hoạch kiểm toán năm sau.
Các tài liệu khác :
IX.1. Giải trình của lãnh đạo doanh nghiệp khẳng định đã cung cấp đầy đủ các tài liệu cần thiết cho KTV
IX.2. Các thư trao đổi
IX.3. Các tài liệu khác
B.Hồ sơ làm việc
Lưu lại quá trình thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính của công ty khách hàng đối với từng phần hành cụ thể.
Ký hiệu giấy làm việc của AASC :
TT
Nội dung
Ký hiệu
1
Các vấn đề chung của kiểm toán
A
2
Các vấn đề chung của khách hàng.
B
3
Tiền.
C
Tiền mặt.
C1
Tiền gửi ngân hàng.
C2
4
Vật liệu, công cụ dụng cụ.
D
5
Tài sản.
E
Tài sản cố định.
E1
Hao mòn tài sản cố định
E2
6
Xây dựng cơ bản
F
7
Các khoản phải thu
G
Phải thu khách hàng
G1
Phải thu khác
G2
8
Tạm ứng
H
9
Nợ ngắn hạn
L
Vay ngắn hạn
L1
Nợ ngắn hạn
L2
Phải trả người bán
L3
10
Thuế
T
..
..
..
Quy định về đánh chỉ số trên giấy làm việc :
Trong mỗi mục của hồ sơ kiểm toán thì Giấy làm việc của AASC bắt buộc phải có các trang sau:
Trang 1: Trang kết luận
Trang 2 : Trang chương trình kiểm toán
Trang 3 : Trang giấy làm việc
Giấy làm việc bao gồm các thông tin bắt buộc sau :
Tên khách hàng
Ngày kết thúc niên độ
Khoản mục
Bước công việc
Người thực hiện
Ngày thực hiện
Người kiểm tra
Ngày kiểm tra
Ngoài ra giấy làm việc phải gồm :
Mục tiêu
Công việc thực hiện
Kết quả
Kết luận
Đặc điểm của giấy làm việc :
+ Có ích
+ Rõ ràng và dễ hiểu
+ Đầy đủ
+ Được tham chiếu
+ Đã được xem lại
Các câu hỏi tự kiểm tra :
Ngoài ra, AASC còn tự thiết kế cho mình một hệ thống các câu hỏi tự kiểm tra để xác định xem hồ sơ kiểm toán đã đầy đủ và hợp lý hay chưa. Nếu tất cả các câu hỏi được đặt ra nhận được câu trả lời là “có” thì có nghĩa rằng hồ sơ kiểm toán đã được hoàn thiện.
Tất cả các giấy làm việc đã được tham chiếu logic và hợp lý chưa ?
Các giấy làm việc đã được ghi đầy đủ các yếu tố bắt buộc chưa ?
Các biểu tượng và ký hiệu trên giấy làm việc đã được giải thích đầy đủ chưa ?
Mục tiêu kiểm toán, công việc thực hiện, kết quả và kết luận của các khoản mục được kiểm toán đã được thực hiện đầy đủ trên giấy tờ làm việc chưa, nguồn dữ liệu có được xác định trên các giấy tờ làm việc không ?
Tất cả các số dư trên trang đầu ( trang chủ) đã được tham chiếu chéo với các giấy làm chi tiết và với Bảng cân đối số phát sinh ( hoặc Bảng cân đối kế toán) chưa ?
Các bút toán điều chỉnh, nhận xét và các khác biệt trong kiểm toán đã được ghi chép đầy đủ và có căn cứ trên các giấy làm việc và đã được đánh tham chiếu chéo với các công việc kiểm tra chi tiết khi bút toán phát sinh lần đầu chưa ?
Mọi khác biệt trong kiểm toán được đề nghị xem xét có được ghi chép trong bảng tóm tắt các chênh lệch kiểm toán chưa điều chỉnh hay chưa ?
Các thủ tục kiểm toán đã được thực hiện đầy đủ và hoàn thành chưa.
Đã thu thập đủ các ghi chú trong phần thuyết minh báo cáo tài chính, các dữ liệu cần thiết để lập báo cáo và các vấn đề cần nêu trong thư quản lý chưa ?
Các chênh lệch về số liệu chưa được làm rõ, các vướng mắc chưa được giải đáp. Các tài liệu được cung cấp đã được làm rõ chưa. Được huỷ bỏ hay tiếp tục phải theo dõi ? Đã thể hiện trên giấy làm việc như thế nào ?
2.3. Hồ sơ kiểm toán của một vài khách hàng của AASC :
2.3.1. Hồ sơ kiểm toán của Công ty A:
Công ty A là một công ty cổ phần, đây là một khách hàng thường xuyên của AASC từ năm 2000 cho đến nay. Tuân thủ đúng theo mẫu chung do công ty quy định, hồ sơ kiểm toán, các giấy tờ làm việc xây dựng cho khách hàng A cũng được lập và lưu trữ theo quy định. Do là khách hàng thường xuyên trong nhiều năm nên hồ sơ kiểm toán của công ty A gồm 2 phần là hồ sơ kiểm toán chung và hồ sơ kiểm toán năm. Giống như mọi hồ sơ khác thì trong hồ sơ kiểm toán chung của công ty A cũng có những thông tin về khách hàng, địa chỉ, loại hình doanh nghiệp, ban giám đốc, các quyết định về thành lập, bổ nhiệm... Ngoài ra còn có thêm một số giấy tờ khác đó là :
Bản quy chế tài chính của công ty khách hàng: Vì khách hàng là một công ty cổ phần có cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán nên có nhiều những đặc điểm đặc thù riêng. Bản quy chế tài chính này gồm 61 điều quy định một cách rõ ràng về tất cả các vấn đề có liên quan đến hoạt động tài chính của công ty.
Công văn đề nghị xem xét việc áp dụng luật thuế GTGT của Tổng giám đốc công ty A và công văn phúc đáp của Cục trưởng Cục thuế.
Bản công bố thông tin chung về công ty khi tham gia vào thị trường chứng khoán gồm : cơ cấu bộ máy tổ chức, cổ phiếu xin đăng ký niêm yết, các nhân tố ảnh hưởng đến giá cả cổ phiếu, các báo cáo tài chính,..
Trong hồ sơ năm :
Cũng giống như những quy định trong hồ sơ chuẩn AASC hồ sơ năm của công ty A cũng được chia thành 2 loại : hồ sơ tổng hợp và hồ sơ làm việc.
Trong hồ sơ tổng hợp cũng có những thông tin bắt buộc như Báo cáo kiểm toán, thư quản lý, báo cáo tài chính đã kiểm toán, các sự kiện phát sinh , những điểm cần theo dõi,..Trên cơ sở những thông tin được lưu trong hồ sơ chung và những thông tin về những thay đổi liên quan đến năm hiện hành mà kiểm toán viên vừa mới thu thập được kiểm toán viên đã đưa ra kế hoạch kiểm toán cho công ty khách hàng và đề xuất giá phí kiểm toán. Kế hoạch kiểm toán được lập riêng cho công ty cổ phần A như sau :
Sơ đồ phương pháp tiếp cận trong quá trình kiểm toán của AASC
đối với Công ty cổ phần A
Báo cáo
Lập kế toán tổng hợp
Xem xét hoạt động kinh doanhvà chiến lược kinh doanh
Tìm hiểu môi trường hoạt động
Thu thập thông tin
Chương trình kiểm toán
Kiểm toán báo cáo tài chính
Rà soát tình hình kiểm soát nội bộ
Rà soát hệ thống
Kiểm toán
Phối hợp hoạt động
Bên cạnh đó kiểm toán viên còn đưa ra bản chi tiết về tiến độ thực hiện bao gồm các bước công việc, dự kiến thời gian, địa điểm thực hiện,..
Trong hồ sơ làm việc :
Gồm tất cả các tài liệu giống như quy định của hồ sơ kiểm toán chuẩn như: trang kết luận, trang chương trình kiểm toán và trang giấy làm việc ghi chép lại các thủ tục kiểm toán đã được áp dụng kiểm toán các chu trình kinh doanh của công ty A và các khoản mục chi tiết như : Khoản mục tiền mặt, khoản mục thuế, khoản mục đầu tư dài hạn, khoản mục nợ phải trả, ..
Một số trang giấy tờ làm việc trong hồ sơ làm việc của công ty A :
Trang 1 : Trang kết luận
Tên khách hàng: Công ty cổ phần A Tham chiếu: C1S1
Niên độ kế toán:2004 Người thực hiện: VTTH
Khoản mục: 111 Tiền mặt tại quỹ (gồm cả ngân phiếu) Ngày thực hiện: 30/3 /2005
Kết luận kiểm toán
Công việc đã tiến hành
Công việc đã thực hiện với phần Tiền mặt tại quỹ (Gồm cả ngân phiếu)
đã tiến hành theo chương trình kiểm toán từ C1S3 đến C1S6
Các vấn đề phát sinh và kiến nghị
xem chi tiết trang: C1S2 và C1S18
Dựa vào kết quả công việc, theo ý kiến tôi, cơ sở dẫn liệu cho phần Tiền mặt tại quỹ
là thích hợp trên các khía cạnh trọng yếu và tổng số dư theo điều chỉnh là 98.811.198
là trung thực theo đúng các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung và lập nhất quán với các năm trước.
C1S2
1) Về chứng từ kế toán:
- Một số phiếu chi không có đủ chữ ký của những người GĐ, và thủ quỹ ( PC số...)
- Một số phiếu chi không có phần định khoản( PC số ...)
- Một số hoá đơn không ghi ngày tháng và có ngày tháng bị sửa chữa (PC số ...)
- Một số phiếu chi không có hoá đơn hoặc phiểu thu đi kèm ( PC số ...)
- Một số phiếu chi không có chữ ký người nhận tiền ( PC số...)
- Một số phiếu chi tiền tạm ứng không có giấy đề nghị tạm ứng
2) Về hạch toán kế toán.
- Trong kỳ đơn vị đang hạch toán vào chi phí các khoản chi phúc lợi như: chi 8/3, 20/10, chi tất niên, rằm trung thu...tổng số tiền là 21.303.000
- Đơn vị đang hạch toán vào chi phí một số khoản chi trên 100.000đ không có hoá đơn tài chính, tổng số tiền là 54.785.500
+ Chi cộng tác viên : 90.500.000 C1/7
+ Chi quét dọn văn phòng: 1.445.000 C1/15
+ Chi khác : 68.866.500 C1/7
- Đơn vị đang chi bằng tiền đối với chi bảo hộ lao động, số tiền:40.060.800.
Trang 2: Trang chương trình kiểm toán
AASC
Chương trình kiểm toán
Tên khách hàng:______________________
Niên độ kế toán:_______________________ Tham chiếu:___C1S3_________
_____________________________________________________________________
Tiền
Mục tiêu
- Ngân quỹ là có thực và thực sự có thể cho phép doanh nghiệp thực hiện các cam kết của mình
- Chia cắt niên độ phải được thực hiện một cách chính xác đối với các khoản nhập quỹ cũng như đối với các khoản xuất quỹ ( tính hữu hiệu và cách trình bày )
- Đối chiếu số liệu ngân hàng với số dư tiền gửi ngân hàng trong số kế toán và các yếu tố đưa ra đối chiếu phải được giải thích ( tính hiện hữu, tính chính xác, giá trị, tính sở hữu, cách trình bày )
Thủ tục kiểm toán
Tham chiếu
Người thực hiện
Ngày thực hiện
....
Tuỳ vào độ dài mà các trang chương trình làm việc sẽ được đánh tham chiếu từ C1S3 đến C1S4, C1S...
Trang 3: Trang giấy làm việc
Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán
và kiểm toán (AASC)
Tên khách hàng : Công ty cổ phần A
Niên độ : 31/12/2004 Tham chiếu : C1/1
Khoản mục : 111 Người thực hiện: VTTH
Bước công việc : Tổng hợp phát sinh Ngày thực hiện : 31/3/2005
Dư đầu kỳ
Tổng phát sinh
Dư cuối kỳ
Nợ
Có
Nợ
Có
Nợ
Có
CH A
7.000
120.000
150.000
8.000
CH B
8.000
139.000
110.000
6.000
Tổng
15.000
259.000
260.000
14.000
Ly f f L
Ly : Khớp với Báo cáo kiểm toán năm trước
(f) : Cộng dọc đúng
(L) : Khớp đúng với Bảng cân đối kế toán và sổ chi tiết.
Tiếp theo là các trang : Sổ tổng hợp tài khoản C1/2
Biên bản kiểm kê quỹ C1/3
Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán
và kiểm toán (AASC)
Tên khách hàng : Công ty cổ phần A
Niên độ : 31/12/2004 Tham chiếu : C1/4
Khoản mục : 111 Người thực hiện:VTTH
Bước công việc : Kiểm tra chi tiết Ngày thực hiện: 31/3/2005
Chứng từ
Nội dung
TKĐƯ
Số tiền
Ghi chú
SH
NT
PC 01
1/6
Trả tiền mua VPP
642
133
60.000
6.000
Hoá đơn GTGT không ghi ngày tháng
PC không có chữ ký của người nhận tiền
PC15
7/6
Trả tiền mua hàng
331
15.000.000
Không lưu kèm phiếu thu
Không có chữ ký của giám đốc trong PC
PC 27
15/6
Tạm ứng
141
2.000.000
Không có giấy đề nghị tạm ứng
…
…
….
…
Ngày soát xét:
Người soát xét:
Đây là mô hình hồ sơ kiểm toán điển hình và phổ biến cho các khách hàng thường xuyên được lập theo mô hình hồ sơ chuẩn của Công ty. Việc tổ chức hồ sơ kiểm toán cho Công ty cổ phần A như trên là hợp lý, đầy đủ và khoa học bảo đảm cho việc tra cứu cũng như soát xét được dễ dàng. Tuy nhiên, mô hình hồ sơ kiểm toán vẫn còn bộc lộ một số hạn chế như thông tin chỉ được lưu trong hồ sơ kiểm toán trên giấy tờ mà không được lưu bằng hệ thống máy vi tính.
2.3.2. Hồ sơ kiểm toán của Công ty B :
Công ty B là một doanh nghiệp thương mại là khách hàng mới của AASC bắt đầu từ năm 2002 do vậy việc tổ chức hồ sơ kiểm toán cho Công ty B ngoài những điểm chung còn có nhiều điểm khác với những quy định chung về hồ sơ kiểm toán của Công ty. Vì đây là khách hàng mới nên toàn bộ những thông tin, tài liệu thu thập được đều được lưu trữ trong một hồ sơ làm việc. Nội dung của hồ sơ kiểm toán được sắp xếp theo các chỉ mục tổng hợp đánh ký hiệu như sau
Chỉ mục A: Các vấn đề chung của kiểm toán :
- Báo cáo của Ban Giám đốc.
- Báo cáo kiểm toán.
- Bảng cân đối kế toán.
- Bảng tổng hợp thu chi.
- Báo cáo quyết toán quỹ.
- Tình hình tăng giảm tài sản.
- Thuyết minh báo cáo tài chính.
Chỉ mục B : Các vấn đề chung của khách hàng :
Tài liệu này do khách hàng cung cấp
Quyết định thành lập công ty.
Thông báo điều chỉnh kế hoạch chi quản lý.
Biên bản kiểm kê.
Quyết định về việc trích quỹ.
Ngoài ra, hồ sơ kiểm toán còn lưu trữ giấy tờ làm việc của kiểm toán đối với mỗi phần hành hoặc khoản mục. Việc tiếp cận thực hiện kiểm toán cho mỗi khoản mục được tiến hành theo quy trình sau:
Đưa ra các mục tiêu kiểm toán đối với từng khoản mục.
Tìm hiểu về các chính sách kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ : việc tìm hiểu này được tiến hành thông qua Bảng câu hỏi, hoặc kiểm toán trực tiếp phỏng vấn điều tra để đạt được sự hiểu biết cần thiết. Bảng câu hỏi chỉ được thiết lập đối với những khoản mục, phần hành nào mà kiểm toán viên cho là có chứa nhiều rủi ro.
Các sai sót có liên quan và rủi ro kiểm toán
Quy trình kiểm toán :
+ Các thủ tục phân tích.
+ Các thủ tục kiểm tra chi tiết.
Cụ thể như sau :
Chỉ mục C : Chỉ mục về tiền gồm 2 chỉ mục chi tiết :
C1 : Tiền mặt
C2 : Tiền gửi ngân hàng.
Giấy tờ làm việc gồm các trang làm việc về đối chiếu số liệu và kiểm tra chứng từ được hình thành theo mẫu chung của Công ty.
Chỉ mục D : Vật liệu, công cụ dụng cụ.
Chỉ mục E : Tài sản cố định. Gồm 2 chỉ mục chi tiết là :
E1 : Tài sản cố định
E2: Hao mòn tài sản cố định.
Các bằng chứng do khách hàng cung cấp như Bảng chi tiết tài sản cố định, Báo cáo tăng giảm tài sản cố định, Bảng tính hao mòn tài sản cố định, ..
Chỉ mục F : Xây dựng cơ bản. Gồm :
Các trang làm việc về đối chiếu số liệu và kiểm tra chứng từ.
Chỉ mục G : Các khoản phải thu. Gồm :
G1 : Phải thu khách hàng.
G2 : Phải thu khác.
Chỉ mục H : Tạm ứng.
Chỉ mục I : Chi trước chi phí quản lý bộ máy.
Gồm các trang làm việc chi tiết về kiểm tra chứng từ, đối chiếu số liệu, và các trang làm việc tổng hợp như Tổng phát sinh Nợ, Tổng phát sinh Có của tài khoản 3111, 3118.
Chỉ mục J : Phải trả cho người nhận thầu.
Chỉ mục K : Thanh toán với người bán
K1 : Phải trả người cung cấp
K2 : Phải trả khác.
Vì B là doanh nghiệp thương mại nên công tác kế toán của công ty B chủ yếu liên quan đến các khoản phải thu và các khoản phải trả. Khi tiến hành kiểm toán kiểm toán viên cho rằng đối với khoản mục các khoản phải trả của Công ty B có nhiều rủi ro vì vậy khi tiến hành tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ và chính sách kế toán kiểm toán đã thiết lập một hệ thống các câu hỏi tập hợp trong Bảng câu hỏi như sau:
TT
Khoản mục
Nội dung
Trả lời
Ghi chú
Có
Không
1
Tính có thực
- Các khoản phải trả có đối tượng phải trả không? Có mở sổ chi tiết không?
- Định kỳ đơn vị có thực hiện đối chiếu danh sách các khoản phải trả nhà cung cấp với Báo cáo và Sổ chi tiết không? ( có biên bản không?)
- Các khoản thanh toán nợ và các khoản phải trả có đầy đủ chứng từ không?
ệ
ệ
ệ
2
Tính đầy đủ
- Các nghiệp vụ kinh tế phát sinh có được phản ánh ngay vào sổ kế toán không?
- Việc ghi chép chứng từ vào sổ kế toán có được kiểm soát để tránh bỏ sót các nghiệp vụ hay không?
- Cuối kỳ có tiến hành đối chiếu công nợ với nhà cung cấp không?
ệ
ệ
ệ
3
Tính chính xác
- Các khoản phải trả có theo đúng giá trị và phù hợp với chứng từ không? Có kiểm soát chứng từ không?
- Kế toán có theo dõi chi tiết các khoản nợ phải trả theo từng đối tượng và món nợ để có số dư cuối kỳ chính xác không?
- Đối chiếu Sổ cái, Sổ chi tiết, Báo cáo công nợ xem có khớp nhau không?
ệ
ệ
ệ
4
Giá trị
- Đơn vị có hạch toán các khoản phải trả đúng giá trị thực tế không?
- Đơn vị có đối chiếu các khoản công nợ với khách hàng không?
ệ
ệ
5
Tính đúng kỳ
- Các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến công nợ phải trả có được hạch toán đúng kỳ và đầy đủ không?
- Việc hạch toán các khoản nợ phải trả có được thực hiện đúng thời hạn quy định không?
- Có đối chiếu pháp định giữa hàng tồn kho và các khoản phải trả không?
ệ
ệ
ệ
6
Quyền và nghĩa vụ
- Doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán các khoản phải trả trên sổ hay không?
- Có chứng từ chứng minh các khoản phải trả không?
- Có theo dõi riêng các khoản phải trả không?
- Có hạch toán theo trình tự thời gian không?
- Có thường xuyên đối chiếu công nợ với nhà cung cấp không?
ệ
ệ
ệ
ệ
ệ
7
Phân loại
- Doanh nghiệp có mở Sổ chi tiết theo dõi cho từng đối tượng không?
- Có các khoản phải trả nội bộ không?
- Có theo dõi khoản phải trả theo từng thời hạn thanh toán không? Theo nội tệ, ngoại tệ, từng hoạt động không?
ệ
ệ
ệ
8
Trình bày
- Các khoản phải trả có được trình bày và thuyết minh trên Báo cáo tài chính theo quy định không?
ệ
Chỉ mục L : Các khoản trích theo lương
L1 : Bảo hiểm y tế
L2 : Bảo hiểm xã hội
L3 : Kinh phí công đoàn.
Chỉ mục M : Các khoản thu trước
M1 : Thu trước BHYT bắt buộc
M2 : Thu trước BHYT tự nguyện
Và một số chỉ mục tổng hợp khác.
Theo cách tổ chức hồ sơ kiểm toán cho Công ty B như đã trình bày ở trên đây cho thấy những điểm sau :
Thứ nhất, việc sắp xếp các chỉ mục tổng hợp theo trình tự như trên là rõ ràng, dễ tìm thông tin dễ tra cứu. Vì các chỉ mục tổng hợp được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái khi kiểm toán viên muốn tìm thông tin trong hồ sơ kiểm toán của Công ty B chỉ cần đối chiếu xem thông tin cần tìm thuộc chỉ mục tổng hợp nào sau đó mở chỉ mục đó ra là có thể tìm được.
Thứ hai, việc kiểm tra soát xét công việc kiểm toán trên hồ sơ kiểm toán được thực hiện một cách dễ dàng thông qua các chỉ mục.
Tuy nhiên, một điều rõ ràng là các thông tin trong hồ sơ kiểm toán không có một sự liên kết chặt chẽ với nhau ngoài mối liên hệ “dọc” từ tổng hợp đến chi tiết như vậy thì công việc kiểm tra soát xét sẽ không đưa lại kết quả cao. Đồng thời, việc tổ chức hồ sơ kiểm toán như trên là hợp lý khi quy mô công tác kiểm toán nhỏ nhưng sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi tiến hành kiểm toán những khách hàng lớn vì lượng thông tin cần lưu trữ lớn việc đánh số thứ tự và lập hồ sơ kiểm toán như vậy sẽ không đáp ứng được những yêu cầu đề ra. Vì vậy, cách thức tổ chức hồ sơ kiểm toán này chỉ phù hợp với những khách hàng kiểm toán năm đầu tiên còn đối với những khách hàng thường xuyên( được kiểm toán từ 2 năm trở lên) Công ty cần tổ chức hồ sơ kiểm toán giống như hồ sơ kiểm toán lập đối với Công ty A ở trên.
3. Nhận xét đánh giá về hệ thống hồ sơ kiểm toán tại công ty AASC
Trong suốt thời gian hơn 14 năm từ ngày thành lập, AASC luôn phát huy tiềm lực của mình và luôn đặc biệt quan tâm đến chất lượng các dịch vụ mình cung cấp. Chính điều đó đã nâng cao uy tín của Công ty đối với khách hàng, và AASC luôn là một trong hai Công ty kiểm toán đầu ngành của kiểm toán Việt Nam.
Vấn đề đổi mới cho phù hợp với sự phát triển của thời đại luôn được chú ý. Với Hồ sơ kiểm toán, Công ty đã xây dựng cho mình hệ thống Hồ sơ chuẩn từ năm 2002. Đó là mồ hình Hồ sơ kiểm toán của Tây âu có sửa đổi theo quy định của Bộ Tài chính và quy định riêng của Công ty. Tuy đã có rất nhiều cố gắng để hoàn thiện hệ thống hồ sơ kiểm toán nhưng thực tế cho thấy vẫn còn một số hạn chế yêu cầu Công ty cần nhanh chóng sửa đổi sao cho phù hợp và giúp cho công tác kiểm toán ngày càng tốt hơn.
Mô hình hồ sơ kiểm toán Tây Âu là mô hình hồ sơ kiểm toán gắn liền với phương pháp kiểm toán thủ công. Qua nghiên cứu có thể kết luận rằng chính phương pháp kiểm toán thủ công này đã đem lại cho mô hình hồ sơ kiểm toán này những ưu, nhược điểm riêng :
* Ưu điểm của mô hình Hồ sơ kiểm toán tại AASC
Thứ nhất: công tác kiểm toán của Công ty đa số được thực hiện bằng phương pháp thủ công nên yêu cầu về trang thiết bị ( trong đó có Hồ sơ kiểm toán ) là không quá lớn. Kiểm toán viên có thể tự mình hoàn thiện giấy tờ làm việc mà không cần sự trợ giúp của hệ thống máy tính. Chi phí cho trang thiết bị phục vụ kiểm toán vì thế mà thấp dẫn đến chi phí cho cuộc kiểm toán cũng thấp.
Thứ hai: Trong mô hình Hồ sơ này, tính chủ động của kiểm toán viên được phát huy cao độ. Tuỳ thuộc vào từng cuộc kiểm toán khác nhau mà kiểm toán viên có thể đưa ra những thủ tục kiểm toán sao cho phù hợp nhất. Các giấy tờ làm việc trong Hồ sơ được lập một cách linh động phụ thuộc nhiều vào khả năng xét đoán của kiểm toán viên và đặc điểm của khách hàng. Hồ sơ kiểm toán không nhất thiết phải đầy đủ như trong Hồ sơ mẫu đã quy định. Tài liệu nào không cần thiết thì không nhất thiết phải thu thập. Điều này đã tiết kiệm được thời gian và công sức của kiểm toán viên. Khi kiểm toán viên có trình độ nghiệp vụ cao, có sự am hiểu sâu sắc đối với khách hàng thì kiểm toán viên có thể đưa ra những phán xét mang tính nghề nghiệp hết sức nhanh chóng và chính xác.
Thứ ba: Phần lớn khách hàng của AASC là những khách hàng lâu năm. Thông qua Hồ sơ thường trực, kiểm toán viên đã có được những am hiểu nhất định về đặc điểm hoạt động kinh doanh của khách hàng, tính liêm chính của Ban giám đốc Công ty khách hàng, về những yếu tố ảnh hưởng đến Báo cáo tài chính của khách hàng, về chất lượng hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy kiểm toán viên có thể đưa ra những nhận xét đánh giá về rủi ro kiểm toán mà không cần quá nhiều các thủ tục kiểm toán. Từ đó giảm thiểu được thời gian, chi phí mà hiệu quả cuộc kiểm toán không hề bị giảm sút.
Thứ tư: Kết cấu Hồ sơ kiểm toán của AASC rất khoa học, tiện lợi cho bảo quản và tra cứu. Việc sắp xếp chỉ mục từ chi tiết đến tổng hợp, đánh số tham chiếu cụ thể làm cho người sử dụng Hồ sơ có thể dễ dàng tra cứu từ giấy tờ chi tiết đến tổng hợp và ngược lại.
Thứ năm: Hồ sơ chuẩn của AASC được lập dựa trên Hồ sơ kiểm toán theo mô hình Tây âu, có sự đóng góp ý kiến của nhiều chuyên gia có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm kiểm toán lâu năm nên vừa mang tính khoa học vừa mang tính trung thực. Hồ sơ chuẩn được sử dụng hướng dẫn cho tất cả các cuộc kiểm toán với những quy định chặt chẽ về lập, lưu giữ và sắp xếp giấy tờ làm việc. Thông qua hệ thống Hồ sơ kiểm toán, người kiểm tra có thể kiểm soát được toàn bộ các công việc, thủ tục và quy trình kiểm toán.
Thứ sáu: Trong điều kiện của nước ta hiện nay nói chung và trong điều kiện của AASC hiện nay nói riêng thì việc tổ chức Hồ sơ kiểm toán theo mô hình này là hoàn toàn phù hợp. Với cơ sở vật chất còn chưa đầy đủ, trình độ khoa học công nghệ còn chưa cao thì tổ chức Hồ sơ như thế này sẽ tiện lợi hơn. Không yêu cầu quá cao về trình độ vi tính và tiếng Anh đối với kiểm toán viên, không yêu cầu cao về chi phí bảo quản lưu giữ.
Bên cạnh những ưu điểm nêu trên thì vẫn còn một số nhược điểm sau:
* Nhược điểm của mô hình tổ chức hệ thống Hồ sơ kiểm toán tại AASC
Trong điều kiện hiện nay, với sự phát triển không ngừng của khoa học kỹ thuật, sự bùng nổ của công nghệ thông tin thì mô hình Hồ sơ kiểm toán của AASC cũng đã thể hiện nhiều hạn chế. Nhất là khi mô hình kiểm toán Bắc Mỹ mà đại diện là Hồ sơ kiểm toán AS/2 ra đời và thể hiện nhiều ưu việt hơn hẳn. So sánh hai mô hình này, ta càng thấy rõ những hạn chế của mô hình Hồ sơ kiểm toán Tây Âu.
Thứ nhất: Mô hình Hồ sơ kiểm toán AASC sử dụng phương pháp thủ công trong việc lập các giấy tờ làm việc, do vậy công việc ghi chép tính toán của kiểm toán viên rất phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức mà độ chính xác không cao. Trong khi đó mô hình AS/2 thì giấy tờ làm việc được thiết kế trên phần mềm AS/2, độ chính xác cao mà lại nhanh chóng. Các giấy tờ làm việc được hình thành trên máy vi tính và tuân theo những mẫu thiết kế sẵn nên nhanh chóng thuận tiện.
Thứ hai: Giấy tờ làm việc được lập theo phương pháp thủ công nên sau khi lập giữa các giấy tờ không có mối liên hệ chặt chẽ. Sự liên kết giữa các giấy tờ này chỉ là sự liên kết từ giấy tờ tổng hợp đến giấy tờ làm việc chi tiết và ngược lại. Nhược điểm là thông tin giữa các chỉ mục không gắn bó chặt chẽ với nhau, không hình thành nên đường đi của thông tin xuyên suốt Hồ sơ. Khi muốn đưa các thông tin liên quan với nhau, kiểm toán viên lại phải tìm kiếm thông tin trên các giấy tờ làm việc khác để ghi chép vào. Điều này khiến cho thông tin bị lặp lại nhiều lần trong Hồ sơ kiểm toán khiến kiểm toán viên phải mất thêm thời gian, công sức cũng như vật chất để hình thành nên giấy tờ làm việc. Còn với mô hình AS/2 việc liên kết giấy tờ trong Hồ sơ rất chặt chẽ. Việc thiết lập giấy tờ làm việc được vi tính hoá giúp cho luồng số liệu chạy tự động nên liên kết chặt chẽ giữa các phần, các chỉ mục của Hồ sơ. Khi kiểm toán viên sử dụng phần mềm, máy tính sẽ yêu cầu điền lần lượt vào các giấy tờ làm việc mà không được bỏ qua. Điều này giúp các kiểm toán viên không bỏ sót giấy tờ làm việc.
Thứ ba: Cũng chính vì các giấy tờ làm việc trong Hồ sơ tại AASC chỉ có mối liên hệ dọc mà không có mối liên hệ ngang giữa các giấy tờ cùng cấp độ chi tiết và giữa các chỉ mục tổng hợp nên việc soát xét, giám sát kết quả trong các bước kiểm toán gặp rất nhiều khó khăn. Công tác kiểm tra tốn nhiều thời gian và hiệu quả không cao.
Thứ tư: Hồ sơ kiểm toán đã hoàn thành được lưu trữ ngay tại phòng làm việc của nhóm kiểm toán viên đã thực hiện cuộc kiểm toán đó. Hồ sơ kiểm toán được tổ chức chỉ dưới dạng giấy tờ làm việc mà không lưu giữ trên các đĩa mềm. Như vậy Hồ sơ sẽ dễ bị hư hỏng, mất mát, thất lạc, việc lưu trữ chiếm nhiều diện tích và bất tiện khi phải mang theo bởi kích thước các Hồ sơ thường lớn và rất cồng kềnh.Trong khi đó việc lưu trữ Hồ sơ kiểm toán trong mô hình AS/2 được thực hiện bằng cả hai cách là trên giấy tờ làm việc và trên đĩa mềm. Việc lưu giữ như vậy có độ an toàn cao hơn. Đặc biệt là lưu giữ bằng đĩa mềm thì gọn nhẹ, thuận tiện cho tra cứu. Theo mô hình AS/2, các Hồ sơ được vi tính hoá, các máy tính được nối mạng với nhau nên việc trao đổi thông tin bằng thư điện tử về các bước công việc rất thuận tiện, thuận tiện cho việc kiểm soát của các cấp quản lý đối với tiến độ cuộc kiểm toán.
Thứ năm: Do Hồ sơ kiểm toán được lập một cách thủ công nên công tác kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm và khả năng xét đoán của kiểm toán viên. Đây là ưu điểm vì nó tăng khả năng hoạt động độc lập của kiểm toán viên, rút ngắn thời gian cho cuộc kiểm toán nhưng hậu quả là rủi ro kiểm toán trong trường hợp này tương đối cao, nhất là với những khách hàng mới.
Chương III : Phương hướng hoàn thiện tổ chức hệ thống hồ sơ kiểm toán tại AASC
1. Sự cần thiết phải đổi mới của hồ sơ kiểm toán.
Yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế đối với công tác kế toán, kiểm toán :
Như chúng ta đã biết, toàn cầu hoá và xu thế hội nhập đã làm thay đổi căn bản những diễn biến trong nền kinh tế thế giới. Ngày nay, thương mại dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng và chiếm một tỷ trọng khá lớn trong giao dịch thương mại toàn cầu. Vấn đề tự do hoá thương mại dịch vụ đã trở thành mối quan tâm ngày càng lớn của các quốc gia đặc biệt là các nước đang phát triển. Trong các vòng đàm phán song phương và đa phương các ngành dịch vụ quan trọng như vận tải, tài chính, thông tin, môi trường,... luôn được được đưa ra thảo luận.
Mở cửa dịch vụ tài chính luôn được coi là vấn đề quan trọng nhất. Phần lớn các quốc gia trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều sức ép từ các nước phát triển, yêu cầu mở cửa ngành dịch vụ tài chính cho cạnh tranh nước ngoài. Tuy nhiên, việc mở cửa ngành dịch vụ tài chính là vấn đề rất nhạy cảm, các quốc gia đều phải có các bước đi thận trọng. Đây là một trong những lý do giải thích cho thực tế là các nước đang phát triển thời gian qua đã rất dè dặt trong việc mở cửa dịch vụ tài chính.
Hội nhập kinh tế nói chung và hội nhập về dịch vụ tài chính nói riêng là xu thế tất yếu là yêu cầu khách quan trong bối cảnh phát triển kinh tế hiện tại và Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này. Trong xu thế toàn cầu hoá, tiến trình mở cửa nền kinh tế của Việt Nam cũng cho thấy quá trình tự do hoá không chỉ dừng lại ở các quan hệ giao dịch thương mại hàng hoá mà còn mở rộng đối với quan hệ cung cấp dịch vụ. Trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ Việt Nam đã cam kết mở cửa 55 trong số 155 phân ngành dịch vụ khác nhau trong đó có dịch vụ kế toán và kiểm toán trên cơ sở hoạt động về dịch vụ của tổ chức thương mại thế giới (WTO).
Trong khuôn khổ ASEAN, năm 1995 các nước ASEAN đã ký kết Hiệp định khung về hợp tác dịch vụ ASEAN. Trên cơ sở các lộ trình định hướng mở cửa thị trường về dịch vụ tài chính và dịch vụ hỗ trợ kinh doanh được các Chính phủ thông qua Bộ Tài chính đã xây dựng các cam kết về dịch vụ kế toán, kiểm toán của Việt Nam với các nước ASEAN. Mức cam kết được xây dựng trên cơ sở cơ chế hiện hành, lấy Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam làm cam kết sàn.
Trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ Việt Nam cam kết một lộ trình mở cửa cụ thể : Sau hai năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực sẽ bỏ các hạn chế về phạm vi kinh doanh. Sau 3 năm sẽ bỏ hạn chế cấp giấy phép nhu cầu phát triển đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Mỹ.
Đối với tổ chức thương mại thế giới (WTO) : Mặc dù chưa chính thức đi vào cam kết tự do hoá thương mại dịch vụ đối với WTO, APEC, và ASEAN nhưng Chính phủ Việt Nam cũng đã thông qua lịch trình hội nhập với mục tiêu đến 2020 Việt Nam sẽ hội nhập với nhập hoàn toàn với quốc tế trong lĩnh vực kế toán kiểm toán gồm 3 giai đoạn :
Giai đoạn 1 (2000 - 2005) : Chuẩn bị những tiền đề cần thiết cho hội nhập giai đoạn củng cố các yếu tố môi trường pháp lý và các điều kiện cơ sở hạ tầng cần thiết khác để phát triển ngành dịch vụ kế toán, kiểm toán theo hướng hội nhập, đồng thời cũng phải phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước. Trong giai đoạn này, chúng ta cho phép các công ty kế toán, kiểm toán tiếp tục đầu tư hoạt động tại Việt Nam, khuyến khích các công ty, các tổ chức nước ngoài liên doanh với các công ty, tổ chức Việt Nam nhằm chuyển giao kỹ thuật, thúc đẩy các công ty trong nước phát triển.
Giai đoạn 2 (2006 - 2010) : Giai đoạn củng cố hội nhập đây là thời kỳ tiếp tục hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động kế toán kiểm toán. Với các tiền đề đã được xây dựng ở giai đoạn trên, tới giai đoạn này, chúng ta sẽ chủ động tham gia vào tiến trình hội nhập. Các dịch vụ kế toán, kiểm toán của Việt Nam sẽ được cung cấp ra nước ngoài và các công ty của Việt Nam có thể tham gia điều hành và nắm giữ các công ty kế toán, kiểm toán ở nước ngoài đồng thời cho phép các công ty kế toán, kiểm toán mới đầu tư vào Việt Nam.
Giai đoạn 3(2011- 2020) : Giai đoạn hội nhập năng động. Việt Nam sẽ hội nhập hoàn toàn với quốc tế trong lĩnh vực kế toán và kiểm toán.
Khi các ngành phát triển thông qua trao đổi công nghệ và toàn cầu hoá thì bản chất và phạm vi các giao dịch quốc tế kéo theo sự mở rộng các dịch vụ kế toán, kiểm toán. Mặt khác do tính vượt trội so với các nghề nghiệp khác kế toán, kiểm toán được đặt lên vị trí hàng đầu trong việc thông qua các nguyên tắc của Hiệp định về thương mại dịch vụ (GATS) của WTO. Trong quá trình tự do hoá và toàn cầu hoá, việc cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán có thể được diễn ra trong các quan hệ song phương và đa phương theo các hình thức sau :
Một tổ chức nghề nghiệp hoặc một chuyên gia ở nước này có thể cung cấp dịch vụ cho một khách hàng ở nước khác.
Một công ty mẹ ở một nước khác, thuê kiểm toán ở nước mà công ty con hoạt động để kiểm toán công ty con và báo cáo cho công ty mẹ.
Thiết lập mạng chuyên gia mà thành viên là chuyên gia của nhiều nước khác nhau.
Một tổ chức nghề nghiệp đến làm việc tạm thời hoặc thường xuyên và lâu dài tại một nước khác.
Tổ chức các dự án dài hạn đòi hỏi phải đi lại thường xuyên giữa khách hàng và kiểm toán viên đến các nước khác nhau.
Quá trình hội nhập kế toán, kiểm toán tạo nên những cơ hội to lớn cho ngành kế toán, kiểm toán Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra những thách thức ngặt nghèo đòi hỏi phải có những giải pháp hữu hiệu để vượt qua và phát triển.
Trong trật tự thương mại toàn cầu các chuyên gia kế toán, kiểm toán giỏi của Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để làm việc và có thu nhập cao ở nước ngoài. Đồng thời họ cũng phải cạnh tranh gay gắt các chuyên gia kiểm toán khu vực và thế giới không những ở nước ngoài mà ngay chính tại thị trường trong nước. Nền kinh tế toàn cầu hóa đòi hỏi và chỉ chấp nhận các dịch vụ kế toán, kiểm toán hoàn hảo có chất lượng cao được cung cấp bởi các chuyên gia có đủ trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, bản lĩnh và có đạo đức nghề nghiệp.
Hơn nữa, kiểm toán là một ngành dịch vụ mà những lợi ích mà nó mang lại cao hơn rất nhiều so với chi phí phải bỏ ra. Khách hàng có quyền nhận được các dịch vụ tốt nhất với giá cạnh tranh. Thách thức lớn nhất đối với các ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và kế toán, kiểm toán nói riêng trong tiến trình hội nhập là xuất phát điểm và trình độ còn thấp, công nghệ, tổ chức, trình độ chuyên môn và quản lý còn non yếu so với nhiều nước trong khu vực và thế giới, môi trường pháp lý còn đang trong quá trình hoàn thiện. Với trình độ phát triển như hiện nay nếu không tự đổi mới và nâng cao chất lượng dịch vụ và khả năng cạnh tranh các công ty kế toán, kiểm toán sẽ phải đối đầu với khả năng mất thị phần và bị loại bỏ khỏi cuộc chơi trong tiến trình hội nhập. Chính vì vậy đổi mới để hội nhập, đổi mới để tham gia toàn cầu hóa là một yêu cầu tất yếu khách quan như chính vấn đề đổi mới vậy.
Yêu cầu của bản thân vấn đề tổ chức hệ thống hồ sơ kiểm toán trong sự nghiệp đổi mới :
Kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng là một loại hình dịch vụ hoàn toàn mới mẻ nhưng lại có tốc độ phát triển rất nhanh. Đứng trước yêu cầu của tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá chúng ta cần phải đổi mới một cách nhanh chóng và toàn diện công tác kế toán, kiểm toán nhằm đáp ứng một cách tốt nhất mọi nhu cầu của khách hàng, tạo thế cạnh tranh cho các ngành dịch vụ nói chung và kế toán kiểm toán nói riêng.
Trong công tác kiểm toán thì hồ sơ kiểm toán luôn đóng một vai trò quan trọng : Nó không chỉ chứa đựng những nguồn thông tin cần thiết của mỗi cuộc kiểm toán như đã nêu trong phần chức năng của hồ sơ kiểm toán mà thông qua hồ sơ kiểm toán chúng ta có thể đánh giá được công nghệ kiểm toán. Vì vậy, các công ty kiểm toán cần phải hoàn thiện hồ sơ kiểm toán sao cho việc sử dụng các thông tin đã thu thập được lưu trữ trong hồ sơ kiểm toán có hiệu quả. Công việc này đòi hỏi các công ty kiểm toán phải có một mô hình hồ sơ kiểm toán được xây dựng phù hợp với điều kiện thực tế, các tài liệu thông tin được sắp xếp khoa học dễ tra cứu, dễ xử lý. Đây là vấn đề rất phức tạp vì hồ sơ kiểm toán được hình thành phụ thuộc vào công nghệ kiểm toán của từng công ty kiểm toán, nếu công tác kiểm toán chủ yếu được thực hiện thủ công thì hồ sơ kiểm toán cũng được lập thủ công thể hiện toàn bộ quá trình làm việc của kiểm toán viên. Như thế muốn đổi mới thì yêu cầu đầu tiên là phải đổi mới công nghệ kiểm toán. Trong điều kiện hiện nay chúng ta chưa có đủ điều kiện tạo ra một phần mềm kiểm toán nhưng trước mắt chúng ta đã có điều kiện để trang bị hệ thống máy vi tính, ứng dụng các thành tựu mới nhất của ngành công nghệ thông tin giúp các kiểm toán viên giảm một phần đáng kể các công việc phải thực hiện, giảm thời gian, tăng độ chính xác của công tác kiểm toán.
Trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá, kiểm toán là ngành dịch vụ có tính cạnh tranh cao vì vậy công ty kiểm toán nào có khả năng cung cấp cho khách hàng dịch vụ có chất lượng cao thì công ty đó sẽ được lựa chọn. Chính vì thế bản thân công tác kiểm toán cần được đổi mới trong từng khâu từ việc thu thập các thông tin cho đến việc xử lý các thông tin đó sao cho kiểm toán viên có thể đưa ra được ý kiến xác đáng nhất về tình hình tài chính của đơn vị khách hàng.
2. Phương hướng hoàn thiện tổ chức hồ sơ kiểm toán tại AASC.
Với những ưu, nhược điểm nêu trên của mô hình hồ sơ kiểm toán đang được áp dụng tại AASC, Công ty cần có những giải pháp nâng cao mức độ hoàn thiện của mô hình hồ sơ kiểm toán này, sao cho phù hợp với môi trường làm việc mang tính chất đặc thù của Công ty.
Trước mắt, về phía Công ty cần cố gắng hiện đại hoá hệ thống các trang thiết bị đặc biệt là hệ thống máy vi tính. Thực tế hiện nay cho thấy mô hình hồ sơ kiểm toán mà Công ty đang áp dụng gây khó khăn khi tiến hành kiểm toán cho các công ty khách hàng có quy mô lớn, hiện đại vì khối lượng công việc rất lớn, lượng thông tin nhiều nên dễ gặp sai sót đồng thời việc lưu trữ các tài liệu cũng rất khó khăn. Vì vậy, Công ty cần có những sửa đổi sao cho phù hợp với yêu cầu mới đặt ra.
Ngoài ra Công ty cần nâng cao hơn nữa quy trình đào tạo, thường xuyên mở các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn cho các kiểm toán viên cũng như các kỹ năng bổ trợ để giúp cho kiểm toán viên phát huy được toàn bộ năng lực của mình trong công tác kiểm toán. Đây cũng là một yêu cầu cần thiết khi Công ty muốn đưa vào áp dụng những phương pháp kiểm toán hiện đại thì yêu cầu về trình độ của kiểm toán viên phải cao vì thế AASC cần có những biện pháp để khuyến khích các kiểm toán viên tự trau dồi kiến thức, trình độ chuyên môn, tăng uy tín phục vụ khách hàng.
Đối với mô hình hồ sơ kiểm toán của AASC thì đây là vấn đề phức tạp vì hồ sơ kiểm toán luôn gắn liền với phương pháp kiểm toán, có được phương pháp kiểm toán khoa học và hợp lý sẽ có thể thành lập được hồ sơ kiểm toán với những thông tin đầy đủ và chính xác. Vì vậy, Công ty cần phải hoàn thiện hơn nữa quy trình kiểm toán của mình để có thể cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Riêng về vấn đề lưu trữ hồ sơ kiểm toán Công ty nên thực hiện lưu trữ bằng cả hai phương tiện : máy tính và sổ sách để tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo quản đồng thời việc tra cứu và soát xét cũng trở nên dễ dàng hơn.
Về lâu dài, Công ty nên đổi mới mô hình hồ sơ kiểm toán này bằng một mô hình khác có nhiều tính ưu việt hơn để có thể đáp ứng được những yêu cầu mới đặt ra. Trong khi chờ đợi sự ra đời của một phần mềm kiểm toán áp dụng chung cho công tác kiểm toán Công ty cần tìm cho mình một phương pháp kiểm toán nói chung và một mô hình hồ sơ kiểm toán nói riêng sao cho phù hợp với điều kiện của Công ty.
Kiến nghị đối với Nhà nước đặc biệt là Bộ Tài chính
Hiện nay AASC cũng như các công ty kiểm toán độc lập khác ở nước ta đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn khiến cho hoạt động kiểm toán chưa thực sự xứng đáng với tầm quan trọng của nó. Do vậy, đã đến lúc Nhà nước cần phát huy cao độ vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế để đề ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kiểm toán thông qua các chính sách hướng vào những vấn đề quan trọng.
Về phía Bộ Tài chính, trên cương vị là cơ quan chủ quản của Công ty cần có sự quan tâm đầu tư hơn nữa đặc biệt là các chế độ chính sách để tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty kiểm toán trong đó có AASC thực hiện tốt công việc của mình. Bộ Tài chính cần nhanh chóng soạn thảo và ban hành hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam trong đó quy định rõ ràng và chi tiết từng vấn đề của công tác kiểm toán sao cho phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay. Mặc dù hiện nay đã có 33 Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam được ban hành nhưng đó chỉ là một phần rất nhỏ trong các Chuẩn mực chung, Chuẩn mực kỹ thuật nghiệp vụ và Chuẩn mực báo cáo. Chuẩn mực Kiểm toán không chỉ có chức năng hướng dẫn cho tất cả hoạt động kiểm toán trong nước mà còn là cơ sở để kiểm tra, kiểm soát và đánh giá chất lượng kiểm toán. hệ thống Chuẩn mực Kiểm toán phải phù hợp với điều kiện nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng cần nhanh chóng sửa đổi và hoàn thiện hệ thống các chế độ chính sách một cách nhất quán để tạo điều kiện thuận lợi cho các kiểm toán viên thực hiện tốt công tác kiểm toán đúng theo những quy định hiện hành. Nhà nước cần xây dựng hành lang pháp lý tạo nên khung luật lệ cần thiết cho hoạt động kiểm toán như Luật, Pháp lệnh về kiểm toán trong đó quy định nguyên tắc tổ chức, đối tượng, nội dung kiểm toán,.. Riêng đối với vấn đề đối tượng kiểm toán cần có quy định chặt chẽ hơn đó là báo cáo tài chính của doanh nghiệp phải được kiểm toán viên độc lập xác nhận trước khi công khai. Nâng cao hơn nữa tính pháp lý của báo cáo kiểm toán.
Cần có sự thống nhất giữa các văn bản pháp quy của Nhà nước. Sự thống nhất phải được xuyên suốt từ trung ương đến địa phương, các tổ chức kinh doanh cũng như các cơ quan quản lý điều hành.
Như vậy, môi trường pháp lý tốt sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho thuận lợi cho tất cả các thành viên trong xã hội và đương nhiên hệ thống kiểm toán sẽ căn cứ vào các văn bản chế độ ban hành để thực hiện chức năng của mình, nâng cao hơn nữa tính chuẩn xác của số liệu kiểm toán. Khi đó kết quả kiểm tra giữa thuế, kiểm toán, thanh tra sẽ trở nên thống nhất giảm thiểu những thủ tục phiền hà cho doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra của Nhà nước. Đặc biệt trong giai đoạn tới khi thị trường chứng khoán chính thức đi vào hoạt động thì hoạt động kiểm toán là rất quan trọng để cung cấp các thông tin tài chính cho mọi người. Do đó, Nhà nước cần phải có một chính sách cần thiết cho hoạt động kiểm toán độc lập.
3. Các giải pháp hoàn thiện.
Thứ nhất: Về lâu dài, Công ty nên cố gắng hiện đại hoá hệ thống trang thiết bị đặc biệt là hệ thống máy vi tính. Thực tế hiện nay cho thấy mô hình Hồ sơ kiểm toán mà Công ty đang áp dụng gây khó khăn khi tiến hành kiểm toán cho các Công ty có quy mô lớn, hiện đại vì khối lượng công việc rất nhiều, lượng thông tin lớn nên dễ gặp sai sót, đồng thời việc lưu giữ các tài liệu cũng rất khó khăn. Vì vậy Công ty cần có những sửa đổi sao cho phù hợp với yêu cầu mới đặt ra.
Thứ hai: Để chuẩn bị cho việc chuyển đổi sang một mô hình Hồ sơ kiểm toán ưu việt hơn và áp dụng phương pháp kiểm toán hiện đại hơn thì ngay bây giờ Công ty nên mở những lớp bồi dưỡng về nghiệp vụ cho kiểm toán viên cũng như các kỹ năng bổ trợ để giúp kiểm toán viên phát huy được toàn bộ năng lực của mình và theo kịp sự biến đổi.
Trong khi chờ đợi sự chuyển đổi sang một mô hình Hồ sơ kiểm toán khác hiện đại hơn thì từ giờ Công ty nên lưu giữ Hồ sơ kiểm toán bằng cả hai phương tiện: trên giấy tờ và trên các đĩa mềm để tạo điều kiện cho bảo quản, đồng thời việc tra cứu và soát xét cũng trở nên dễ dàng hơn.
Trên đây là một số phân tích và kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống hồ sơ kiểm toán áp dụng tại Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) với mong muốn đóng góp những nghiên cứu nhỏ bé của mình hoàn thiện hơn nữa mô hình hồ sơ kiểm toán tại Công ty. Khi đưa ra những kiến nghị này em mong muốn rằng các nhà lãnh đạo Công ty có những quan tâm nhất định về tính khả thi của nó, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hơn mô hình hồ sơ kiểm toán của Công ty, từng bước đưa Công ty phát triển hơn nữa, tạo dựng uy tín đối với khách hàng trong nước, trong khu vực và trên toàn thế giới.
Kết luận
Hoạt động kiểm toán là một loại hình dịch vụ mới mẻ ở Việt Nam, ra đời cùng với sự chuyển đổi cơ chế kinh tế. Tuy mới ra đời nhưng kiểm toán Việt Nam đã phát triển hết sức nhanh chóng, thể hiện rõ vai trò và sự đóng góp to lớn của mình trong công cuộc đổi mới đất nước.
Trong điều kiện hiện tại khi mà xu thế hội nhập và toàn cầu hoá đang tạo cơ hội cho kiểm toán nước ngoài được tự do cạnh tranh với kiểm toán trong nước thì kiểm toán đang đứng trước rất nhiều khó khăn. Để có thể tồn tại và phát triển được thì đòi hỏi rất nhiều sự nỗ lực từ phía các Công ty kiểm toán. Công ty dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC cũng sẽ phải có những thay đổi lớn cho phù hợp với yêu cầu mới, để ngày càng nâng cao chất lượng các dịch vụ cung cấp.
AASC đã áp dụng một cách khoa học sáng tạo các chuẩn mực, lý luận vào thực tế kiểm toán. Để đạt được những thành tựu như hiện nay, Công ty đã trải qua nhiều chặng đường khó khăn và thử thách. Cùng với những biến đổi to lớn của đất nước, AASC đã và đang ngày càng lớn mạnh, phát triển cả về quy mô lẫn chất lượng. Hướng tới việc hội nhập dịch vụ kế toán và kiểm toán vào năm 2005, AASC đang cố gắng chuẩn hoá các quy trình kiểm toán theo hướng phù hợp với chuẩn mực quốc tế và Việt Nam.
Qua nghiên cứu hồ sơ kiểm toán tại AASC cho thấy mô hình hồ sơ kiểm toán mà Công ty đang áp dụng được xây dựng phù hợp với Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam và phù hợp với điều kiện thực tế tại Công ty. Công việc kiểm toán từ khi có thư mời kiểm toán cho đến khi kết thúc cuộc kiểm toán được xuất hiện một cách đầy đủ có hệ thống trong hồ sơ. Mỗi chỉ mục, giấy tờ làm việc được đánh số, phân loại một cách chi tiết có hệ thống tham chiếu làm cho hồ sơ thực sự rõ ràng, dễ hiểu. Mặc dù vậy bên cạnh những ưu điểm hồ sơ kiểm toán AASC vẫn còn một số hạn chế như là việc liên kết các giấy tờ làm việc chưa thực sự chặt chẽ, mô hình kiểm toán vẫn chưa được vi tính hoá nên còn phải thực hiện thủ công nên việc kiểm tra soát xét cũng như lưu trữ còn gặp nhiều khó khăn,... đòi hỏi Công ty phải có những biện pháp tự đổi mới để phù hợp với điều kiện mới đặc biệt là trong tiến trình hội nhập và toàn cầu hoá.
Với nội dung của chuyên đề lớn, thời gian nghiên cứu có hạn và khả năng kiến thức thực tế còn nhiều hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được sự góp ý, đánh giá của các thày cô.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn TS. Ngô Trí Tuệ và các anh chị đang công tác tại phòng Kiểm toán các ngành sản xuất vật chất tại Công ty Dịch vụ tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán (AASC) đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Tài liệu tham khảo
Auditing
Alvin.Al.Arenns - Jame.K.Lobbecker
Hệ thống chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam.
NXB Tài chính, Hà Nội 9/1999, 6/2001.
Chuẩn mực Kế toán, Kiểm toán quốc tế
NXB Thống kê 2/2002
Hồ sơ kiểm toán mẫu AASC ( Hồ sơ chuẩn AASC).
Kiểm toán
Vương Đình Huệ - NXB Tài chính - 1996.
6. Kiểm toán tài chính
GS.TS Nguyễn Quang Quynh - NXB Tài chính -Tháng 7/2001
7. Lý thuyết kiểm toán
GS. TS Nguyễn Quang Quynh - NXB Giáo dục - Tháng 11/1999
8. Sổ tay kiểm toán viên AASC
Tài liệu nội bộ
Các tạp chí chuyên ngành
Một số tài kiệu khác
Mục lục
Trang
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33867.doc