Luận văn Tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thực hiện

Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trên đà hội nhập quốc tế và khu vực, yêu cầu củng cố nền nếp tài chính kế toán trong các đơn vị kinh tế ngày một cao. Theo đó, hoạt động kiểm toán trở thành nhu cầu tất yếu và ngày càng nhiều trong nền kinh tế. Hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính mang lại những thông tin trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao về báo cáo tài chính được kiểm toán, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các DNVVN trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, để đứng vững và phát triển, nhu cầu nâng cao chất lượng hoạt động trở nên ngày một cấp thiết, để khắc phục các thiếu sót, hạn chế còn tồn tại trong các đơn vị. Khách hàng của các công ty kiểm toán độc lập ngày nay không chỉ hạn chế ở các công ty lớn mà đang được mở rộng sang các DNVVN. Đây là khu vực có nhiều tiềm năng kiểm toán to lớn mà công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán Kiểm toán đang thực hiện nhiều chính sách phát triển.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1442 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính các doanh nghiệp vừa và nhỏ do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h vụ tư vấn kế toán kiểm toán Tên khách hàng: Công ty B Tham chiếu Niên độ kế toán: 31/12/2001 Người thực hiện Khoản mục: Ngày thực hiện:15/12/2002 Bước công việc: Kế hoạch kiểm toán Qua kiểm tra báo cáo tài chính của Công ty B, kiểm toán viên nhận định: Báo cáo tài chính của đơn vị còn một số chỉ tiêu chưa chính xác, số liệu hạch toán lãi > chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế trên báo cáo kết quả kinh doanh. Vì vậy, việc báo cáo lợi nhuận trước thuế và việc phân chia lợi nhuận là không chính xác. Kiến nghị: Đề nghị đơn vị thực hiện đúng theo chế độ báo cáo tài chính trong việc kiểm tra, đối chiếu số liệu trước khi lập báo cáo tài chính. Việc xem xét, đánh giá chung về báo cáo tài chính được kiểm toán viên chính thực hiện, trong khi đó việc thực hiện kiểm toán đối với từng khoản mục được các thành viên khác trong đoàn kiểm toán thực hiện song song nhằm tiết kiệm thời gian. Tuy nhiên, đối với các đối tượng khác hàng là các DNVVN, rủi ro tiềm tàng xảy ra lớn (cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, sự phân công phân nhiệm yếu, trình độ nghiệp vụ của nhân viên kế toán còn hạn chế…), hệ thống kiểm soát nội bộ kém hiệu quả. Vì vậy, trong quá trình kiểm tra chi tiết các báo cáo tài chính, kiểm toán viên của AASC luôn thận trọng xem xét ảnh hưởng của những khó khăn này đối với việc lập báo cáo tài chính của đơn vị. Từ những tài liệu được đơn vị cung cấp, cùng với những hiểu biết về hệ thống kiểm soát nội bộ đã đánh giá, kiểm toán viên tiến hành thực hiện các phương pháp kiểm toán. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, nếu có những vấn đề phát sinh, đoàn kiểm toán sẽ cùng thống nhất lại ý kiến để điều chỉnh chương trình kiểm toán cho phù hợp . Trong quy trình kiểm toán chung mà Công ty đề ra, phương pháp tiếp cận kiểm toán cho hầu hết các cuộc kiểm toán là theo khoản mục. Kiểm toán viên lần lượt đi khảo sát các khoản mục trên báo cáo tài chínhcủa công ty và đưa ra nhận xét trên giấy tờ làm việc của mình. Đối với các DNVVN, do hệ thống kiểm soát nội bộ yếu kém, nên việc thực hiện các thủ tục kiểm soát không đem lại hiệu quả. Vì vậy AASC thường bỏ qua khảo sát kiểm soát nộ bộ để tập trung kiểm tra chi tiết trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN. AASC tiến hành thực hiện những thủ thủ tục kiểm toán với các vấn đề trọng tâm, các thủ tục bao gồm thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết. Trong khi đó, tại các doanh nghiệp lớn, hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là khá hiệu quả nên phương pháp kiểm toán dựa trên phần lớn các đảm bảo từ hệ thống kiểm soát nội bộ. Vì vậy, quá trình kiểm toán công ty phải tiến hành qua khâu thực hiện kiểm tra kiểm soát, thông qua bảng câu hỏi do kiểm toán viên đặt ra. 3.1. Thủ tục phân tích: Kiểm toán viên thực hiện bước phân tích đánh giá khái quát các thông tin tài chính để xác định phạm vi có thể xảy ra rủi ro kiểm toán cũng như hiếu được bao quát về báo cáo tài chính. Tuy nhiên, đối với các DNVVN, kiểm toán viên thường không sử dụng các kế hoạch, dự toán của đơn vị để phân tích ( vì các kế hoach này thường không được xây dựng hiệu quả )mà căn cứ vào tài liệu mà khách hàng cung cấp để tính toán chênh lệch giữa năm nay và năm trước, từ đó đánh giá sơ bộ về tình hình kinh doanh của đơn vị, Quá trình kiểm tra phân tích ở khách hàng B được tiến hành qua việc tính toán và đánh giá một số chỉ tiêu khái quát tình hình hoạt động của Công ty theo số liệu trên báo cáo tài chính trong hai năm 2000 và 2001 như sau: Bảng5: Bảng phân tích khái quát tình hình hoạt động của Công ty B Chỉ Tiêu Năm 2000 Năm 2001 I. Bố trí cơ cấu vốn 1. TSCĐ/Tổng TS(%) 11,23% 10,30% 2. TSLĐ/Tổng TS(%) 88,77% 98,70% II. Tỷ suất lợi nhuận 1. Tỷ suất lợi nhuận/Doanh thu 3,12% 2. Tỷ lợi nhuận /Vốn 2,92% III. Tình hình tài chính 1. Tỷ suất nợ phải trả so với tổng tài sản 90,01% 86,74% 2. Khả năng thanh toán: a. Tổng quát: TSLĐ/Nợ ngắn hạn 98,62% 89,70% b. Thanh toán nhanh 37,72% 37,79% Qua bảng phân tích số liệu được lập, kiểm toán viên tìm hiểu nguyên nhân của các biến động trong kỳ kế toán. Qua phỏng vấn nhân viên khách hàng, kiểm toán viên được biết: 3 Trong kỳ, Công ty có một số thay đổi về tài sản cố định ( TSCĐ ) do thanh lý và mua sắm mới. 3 Khả năng thanh toán kém hơn là do mặc dù Công ty đã thanh toán một số nợ phải trả trong kỳ nhưng còn một số khoản nợ vẫn chưa được thu hồi. Kết thúc bước kiểm tra phân tích, kiểm toán viên luôn đưa ra kết luận chung về những biến động của các chỉ tiêu. Với thủ tục phân tích, kiểm toán viên có cái nhìn tổng quát về đơn vị được kiểm toán và chú ý đến những điểm bất thường, từ đó, kiểm toán viên thu thập bằng chứng kiểm toán trực tiếp bằng các thủ tục kiểm tra chi tiết. Kiểm tra chi tiết: Công việc tiếp theo trong quá trình kiểm toán là thực hiện kiểm tra chi tiết từng tài khoản. Đây là công việc chủ yếu và chiếm nhiều thời gian nhất trong cuộc kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN, khi mà kiểm toán viên xác định bỏ qua các thử nghiệm kiểm soát thì kiểm tra chi tiết là phương pháp chủ yếu để thu thập bằng chứng kiểm toán. Vì vậy, bước công việc này được đặc biệt chú trọng và có ý nghĩa đối với cuộc kiểm toán các DNVVN. Việc kiểm tra chi tiết được AASC tiến hành theo từng khoản mục, đối với tất cả các tài khoản cần kiểm toán, kiểm toán viên tiến hành tổng hợp số dư trên sổ cái, sổ chi tiết, so sánh số dư trên các báo cáo tài chính. Từ đó đánh giá được các biến động để thực hiện các thủ tục kiểm toán phù hợp trong phần hành kiểm tra chi tiết. Quá trình kiểm tra chi tiết đối với các DNVVN được đặc biệt chú ý trong kiểm tra chứng từ sổ sách vì đây được đánh giá là khâu yếu trong các DNVVN với mức độ rủi ro cao. Về chứng từ kế toán. Theo quy định về chứng từ kế toán ban hành theo QĐ số 186 TC/ CĐKT ngaỳ 14/3/1995 của Bộ Tài chính thì mọi nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong hoạt động sản suất kinh doanh, trong việc sử dụng kinh phí, thu chi ngân sáhc của mọi đơn vị, kế toán đều phải lập chứng từ. Các chứng từ phải đảm bảo hợp lý, hợp lệ, ghi chép đầy đủ, rõ ràng và chung thực. Tuy nhiên tại các DNVVN, do hạn chế về cung cách quản lý, hệ thống thông tin, hệ thống kế toán nên khâu lập và quản lý chứng từ còn lỏng lẻo, thiếu nghiêm túc: Các chứng từ lập thiếu chỉ tiêu, hoá đơn không được đánh số thứ tự. Do đó rủi ro tập trung ở mức độ cao, kiểm toán viên phải thu thập bằng chứng nhiều hơn để giảm rủi ro ở mức độ tối thiểu, kiểm toán viên tập trung kiểm tra mẫu chọn với số lượng lớn. Tổ chức hệ thống tài khoản kế toán. Theo quy định các doanh nghiệp phải áp dụng hệ thống tài khoản theo chế độ của Nhà nước, theo hệ thống tài khoản Quốc gia. Nhưng tại các DNVVN, các tài khoản kế toán thường được sử dụng ghép, một tài khoản có thể phản ánh nhiều loại tài sản, chẳng hạn tài khoản 152 - theo dõi cả về nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, tài khoản 155 vừa theo dõi thành phẩm vừa theo dõi hàng hoá… dẫn tới việc hạch toán ghi chép của doanh nghiệp thường bị nhầm lẫn, sai sót. Do đó, trong kiểm tra chi tiết khoản , kiểm toán viên rất chú ý tới nội dung của các tài khoản và ảnh hưởng của chúng tới việc ghi chép sổ sách cũng như lên báo cáo tài chính. Tổ chức sổ kế toán: Theo quy định trong chế độ kế toán doanh nghiệp hiện hành, doanh nghiệp phải căn cứ vào hệ thống tài khoản kế toán, chế độ, thể lệ kế toán của nn và yêu cầu kế toán của Nhà nước và yêu cầu quản lý tại đơn vị để mở đầy đủ sổ kế toán tổng hợp và chi tiết cần thiết. Doanh nghiệp phải căn cứ vào quy mô, đặc điểm hoạt động sản suất kinh doanh, yêu cầu quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ kế toán để lựa chọn hình thức sổ kế toán phù hợp và nhất thiết phải tuân thủ mọi nguyên tắc cơ bản của hình thức sổ kế toán về các mặt: Loại sổ, kết cấu, mối quan hệ và sự kết hợp giữa các loại sổ, trình tự và kỹ thuật ghi chép sổ kế toán. AASC ý thức điểm yếu đối với các DNVVN trong việc sử dụng hệ thống sổ kế toán là không đầy đủ và thích hợp, việc ghi chép đôi khi bị bỏ sót, việc trình bày sổ khó theo dõi. Vì vậy kiểm toán viên thường tập trung kiểm tra chi tiết trên nhiều trang sổ hơn là đối với doanh nghiệp lớn. Theo kế hoạch kiểm toán , kiểm toán viên quyết định tăng cường kiểm tra chi tiết để thu thập được bằng chứng kiểm toán đầy đủ và hiệu quả. Việc kiểm tra chi tiết được tiến hành đối với từng khoản mục: ồ Tài khoản ( TK ) tiền mặt: Theo kinh nghiệm của kiểm toán viên, tiền mặt là khoản mục trọng yếu đối với các DNVVN vì nó có liên quan tới nhiều khoản mục khác và có rủi ro cao, vì vây, việc kiểm tra tài khoản này đòi hỏi phải có sự thận trọng để đảm bảo tính hiệu quả. Việc kiểm tra chi tiết khoản mục tiền mặt được triển khai qua các bước: [ Bước 1: Kiểm toán viên tiến hành đối chiếu các số dư tiền mặt. Đối chiếu SDĐK trên báo cáo tài chính với sổ cái năm trước và với sổ chi tiết tiền mặt. Đối chiếu số dư cuối kì ( SDCK ) trên báo cáo với sổ chi tiết và biên bản kiểm kê nếu có. Việc đối chiếu số dư của khách hàng B không dựa vào biên bản kiểm kê vì việc kiểm kê của khách hàng chỉ mang tính hình thức, biên bản kiểm kê không có sự phê duyệt, thủ trưởng vừa là thủ quỹ đơn vị. Bảng 6: Kiểm tra tiền mặt Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty tư B Ngày kết thúc niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK tiền mặt Bước công việc: Số liệu theo sổ chi tiết Số dư 1/1/2001: 49.627.988 v Tổng phát sinh nợ: 3.231.061.767 Tổng phát sinh có: 3.275.907.201 Dư cuối kì: 94.782.494 @ v: Khớp với sổ cái. @: Khớp với bảng cân đối kế toán. [ Bước 2: Lập bảng kê chi tiết cho từng khoản mục: Lập bảng kê chi tiết là bước quan trọng trong quá trình kiểm toán chi tiết không chỉ đối với TK tiền mặt mà còn đối với hầu hết các TK khác. Bảng kê chi tiết tiền mặt của công ty B được kiểm toán viên lập ra dựa trên số liệu của sổ chi tiết TK tiền mặt và sổ cái Bảng 7: Bảng kê chi tiết TK tiền mặt Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty B Niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK tiền mặt Bước công việc: Lập bảng kê phát sinh Số liệu theo sổ chi tiết Số dư 1/1/2001: 49.627.988 v Tổng phát sinh nợ: 3.231.061.767 Tổng phát sinh có: 3.275.907.201 Dư cuối kì: 94.782.494 v Chi tiết: Tổng phát sinh nợ Rút tiền gửi về quỹ: 430.963.500 Thu về cung cấp dịch vụ: 2.779.634.220 Thu thanh lý TS: 1.234.215 Thu khác: 19.229.832 Tổng phát sinh có: Trả lương: 1.050.636.700 Mua tài sản: 107.900.262 Chi tạm ứng: 70.202.650 Chi BHXH;30.121.560 Chi trả nhà cung cấp: 1.020.166.128 Sản xuất chung: 296.426.031 Chi phí quản lý; 632.107.323 Nộp thuế: 635.400 Chi khác: 63.711.257 v: Khớp với sổ cái Khớp với bảng cân đối kế toán [ Bước 3: Kiểm tra sổ nhật ký quỹ: Để phát hiện ra những khoản tiền không bình thường về mặt giá trị, các đối ứng TK sai so với diễn giải kiểm toán viên tiến hành kiểm tra sổ nhật ký quỹ của đơn vị. Việc xem xét này đối với các khách hàng khác nhau là rất khác nhau. Hệ thống kiểm soát nội bộ tại B và K được đánh giá là yếu nên kiểm toán viên tiến hành kiểm tra sổ nhật ký quỹ một cách chi tiết hơn, trên nhiều trang sổ hơn. Trong khi đó, việc kiểm tra đối với công ty H chỉ tập trung trên só dư đầu kỳ và cuôí kỳ. Bảng 8: Kiểm tra sổ nhật ký quỹ Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty B Ngày kết thúc niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK tiền mặt Bước công việc: Kiểm tra sổ quỹ - Tổng số thu luỹ kế từng tháng, quý trên sổ quỹ của đơn vị chưa thể hiện chính xác do kế toán đã cộng só thu được trong tháng với số dư đầy năm. - Số dư đầu năm và cuối năm giữa sổ quỹ và bảng cân đối kế toán chưa khớp nhau. - Kiểm kê quỹ của đơn vị chỉ là hình thức, thực chất không kiểm kê. Việc xem xét không chỉ dừng lại trên sổ sách mà kiểm toán viên còn tiến hành đối chiếu tới tận chứng từ để khẳng định các phát hiện qua kiểm tra chi tiết chứng từ thu chi. [ Bước 4: Kiểm tra chọn mẫu chứng từ: Trong kiểm tra chi tiết chứng từ, vấn đề được kiểm toán viên quan tâm nhất là quy mô mẫu cần kiểm tra và phương pháp chọn mẫu. Việc quyết định kiểm tra chọn mẫu nhiều hay ít phụ thuộc phần lớn vào hệ thống kiểm soát nội của khách hàng và vào thời gian kiểm toán. Đối với các khách hàng có hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động tốt, AASC thường chọn mẫu từ 20-25%. Còn đối với khách hàng mà kiểm toán viên đã quyết định dùng kiểm tra chi tiết là chủ yếu thì quy mô mẫu chọn có thể lên tới 60-65% (thậm chí có thể kiểm tra tổng thể nếu kiểm toán viên thấy cần thực hiện). Phương pháp chọn mẫu có thể theo nội dung thu chi chủ yếu của khách hàng được tìm hiểu qua quá trình kiểm tra sổ sách hoặc theo thời gian phát sinh nghiệp vụ. Đối với Công ty B, kiểm toán viên chọn 10 chứng từ phát sinh trong quý I, 10 chứng từ ở quý II và 10 chứng từ cuối quý III để chứng từ lựa chọn mang tính tổng quát, số lượng mẫu chọn này chiếm 70% trong tổng số phiếu thu, phiếu chi của Công ty. Việc kiểm tra chứng từ thu được thực hiện với quy mô mẫu nhỏ hơn so với chứng từ chi. Mẫu chọn được tiến hành kiểm tra chi tiết và đối chiếu từ chứng từ gốc tới sổ sách để kiểm tra tính trọn vẹn trong việc vào sổ kế toán. Bên cạnh đó, việc lựa chọn chứng từ với nội dung nào để kiểm tra phụ thuộc vào nhận định của kiểm toán viên, phụ thuộc vào nội dung thu chi chủ yếu của khách hàng mà kiểm toán viên nhận thấy qua việc tìm hiểu sổ sách, từ đó, kiểm toán viên đưa ra hướng lựa chọn hợp lý. Qua kiểm tra chi tiết TK tiền mặt, kiểm toán viên tiến hành tổng hợp các phát hiện thu thập được trên giấy tờ làm việc. Tuỳ thuộc vào tính chất của sai phạm mà kiểm toán viên đưa ra quyết định lập bút toán điều chỉnh, hay viết vào thư quản lý. Bảng 9: Kiểm tra chứng từ tiền mặt Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty tư vấn xây dựng B Ngày kết thúc niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK tiền mặt Bước công việc: Kiểm tra chứng từ - Một số phiếu chi chưa ghi họ tên người nhân tiền, chưa ghi dòng đã nhận đủ số tiền viết bằng chữ… - Một số phiếu chi có giá trị trên 100.000đ không có hoá đơn tài chính. - Một số phiếu chi có ghi định khoản không khớp với định khoản trên sổ kế toán. - Một số khoản chi không phục vụ mục đích kinh doanh nhưng vẫn hạch toán vào TK tạm ứng. - Việc kiểm kê quỹ tiền mặt chỉ mang tính hình thức, biên bản kiểm kê không có chữ ký của kế toán trưởng và giám đốc đơn vị. Với những sai phạm này kiểm toán viên quyết định kiến nghị với ban giám đốc và đưa vào thư quản lý. Việc kiểm toán các tài khoản khác cũng được thực hiện tương tự như đối với TK tiền mặt. ồ TK tiền gửi ngân hàng ( TGNH ): Đối với TK TGNH, số dư được đối chiếu với sổ cái và thư xác nhận của ngân hàng. Thư xác nhận của ngân hàng do Công ty khách hàng lập và gửi đi. Ngoài những thông tin về tiền gửi, kiểm toán viên có thể yêu cầu xác nhận thêm thông tin về tiền vay để phục vụ kiểm toán các khoản mục khác. Ngoài ra kiểm toán viên còn có thể sử dụng các bảng sao kê của ngân hàng để đối chiếu. Tài khoản này thường được đánh giá là ít tồn tại sai phạm nên kiểm toán viên không cần phải tập trung nhiều để thu thập bằng chứng. ồ TK tạm ứng: Quá trình kiểm tra chi tiết tài khoản cũng được thực hiện qua các bước tương tự như đối với TK tiền mặt, từ khâu đối chiếu số dư, kiểm tra chi tiết tài khoản qua chọn mẫu một số nghiệp vụ phát sinh trên sổ chi tiết và đối chiếu tới chứng từ gốc, kiểm tra chế độ tạm ứng, thủ tục tạm ứng… Bảng 10: Kiểm tra chi tiết tạm ứng Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty tư vấn xây dựng B Niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK tạm ứng Bước công việc: Kiểm tra chi tiết - Đơn vị đang tạm ứng cho nhiều trường hợp ứng tiền cho mục đích cá nhân chứ không thực hiện nhiệm vụ kinh doanh. - Nhiều đối tượng nhận tiền tạm ứng cho mục đích cá nhân của mình từ các năm trước đến hết năm 2001 vẫn chưa hoàn trả đơn vị. Dựa trên những phát hiện này, kiểm toán viên quyết định đề nghị đơn vị lập bút toán điều chỉnh số dư của các khoản tạm ứng ngoài mục đích kinh doanh là 79.800.000đ, đề nghị hạch toán sang TK 1388: Nợ TK 1388: 79.800.000 Có TK 141: 79.800.000 Kiểm toán viên kiến nghị đơn vị cần có biện pháp thu hồi nợ vay để giải quyết những khoản nợ tồn đọng nêu trên, tránh tình trạng chiếm dụng vốn của đơn vị. Các phát hiện này được đưa vào thư quản lý để góp ý cho khách hàng. ồ TK hàng tồn kho: Theo quyết định 1177/QĐ/BTC ngày 23/12/1996 về việc ban hành chế độ kế toán DNVVN thì việc hạch toán TK ghép được chấp nhận. Tuy nhiên, điều này dẫn tới việc hạch toán, ghi chép sổ sách thường bị nhầm lẫn. Vì vậy, AASC kiến nghị các doanh nghiệp nên sửa đổi các TK này theo hướng chi tiết: TK 152: Nguyên vật liệu TK 153: Công cụ dụng cụ TK 155: Thành phẩm TK 156: Hàng hoá. Điều này hoàn toàn phù hợp với Quyết định số 144/2001/QĐ-BTC về việc sửa đổi bổ sung chế độ kế toán DNVVN. Mặt khác, khâu quản lý, bảo quản hàng tồn kho trong các DNVVN thường là yếu vì doanh nghiệp không có đủ kho bãi bảo quản, quá trình nhập xuất hàng không được kiểm soát chặt chẽ, rủi ro tiềm tàng cao. Từ đó, kiểm toán viên tiến hành kiểm tra chi tiết Tk hàng tồn kho với tính thận trọng cao. Bảng 11: Kiểm tra chi tiết hàng tồn kho Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty B Niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK hàng tồn kho Bước công việc: Kiểm tra chi tiết - Ngoài kho hàng tại đơn vị, Công ty còn gửi hàng tại kho An Phú. - Việc kiểm kê hàng tồn kho chỉ mang tính hình thức, không đảm bảo nguyên tắc, biên bản kiểm kê không có chữ ký phê duyệt. ồ TK TSCĐ: Đối với các DNVVN, tình hình biến động TSCĐ trong kỳ thường không nhiều nhưng do trình độ quản lý yếu kém nên việc theo dõi TSCĐ thường vi phạm chế độ. Vì vậy, kiểm toán viên tập trung kiểm tra chi tiết đối với toàn bộ khoản mục này. Vấn đề được kiểm toán viên chú ý là các chính sách về TSCĐ, sổ sách theo dõi, việc hạch toán hao mòn TSCĐ. Qua kiểm tra tình hình biến động TSCĐ tại công ty B, kiểm toán viên phát hiện thấy: Bảng 12: Kiểm tra TK TSCĐ Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty tư vấn xây dựng B Niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK TSCĐ Bước công việc: Kiểm tra chi tiết - Công ty không mở sổ chi tiết TSCĐ, không có thẻ TSCĐ. - Đơn vị đang hạch toán và theo dõi một số tài sản không đủ tiêu chuẩn là TSCĐ - Kiểm tra hao mòn TSCĐ qua việc đối chiếu số khấu hao đơn vị trích với số liệu theo kiểm tra ( do kiểm toán viên tính toán lại ), kiểm toán viên phát hiện có chênh lệch là 7.547.390đ. Qua kiểm tra được biết nguyên nhân là do đơn vị trích thiếu khấu hao TSCĐ xe ô tô. Trên cơ sở những phát hiện của mình, kiểm toán viên đề nghị đơn vị sửa chữa và đề cập đến các vấn đề này trong thư quản lý. ồ TK tiền lương: Tại các DNVVN, việc tuyển dụng và quản lý nhân sự thường theo hợp đồng trực tiếp giữa người lao động và công ty, do đó, cơ chế tiền lương khá phức tạp, công tác quản lý lao động do chủ doanh nghiệp trực tiếp đảm nhiệm nên rủi ro tiềm tàng về khoản mục tiền lương cao. Vì vậy, kiểm toán viên rất quan tâm tới các chế độ lương và các khoản trích của đơn vị. Trong cuộc kiểm toán công ty B, kiểm toán viên thấy đơn vị chưa hạch toán lương qua TK 334, nguyên nhân được kế toán lý giải là việc hạch toán lương thẳng vào chi phí sẽ bớt được việc phải qua TK trung gian- TK 334. Kiểm toán viên không nhất trí với ý kiến này và yêu cầu đơn vị hạch toán theo đúng chế độ qua TK 334, đồng thời sẽ ghi ý kiến này vào thư quản lý. ồ Khoản mục thuế: Đối với các DNVVN, khoản mục thuế thường tập trung nhiều sai phạm do hạn chế về trình độ kế toán cũng như do yêu cầu của chủ doanh nghiệp. Vì vậy, trong quá trình kiểm toán, khoản mục thuế được kiểm toán viên đặc biệt quan tâm, qua kiểm tra tại khách hàng B về khoản mục thuế giá trị gia tăng đầu vào, kiểm toán viên phát hiện sai phạm do hạch toán sai TK và đã ghi lại trên giấy tờ làm việc: Bảng 13: Kiểm tra thuế giá trị gia tăng đầu vào Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty tư vấn xây dựng B Niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: TK TSCĐ Bước công việc: Kiểm tra chi tiết SDĐK: Phát sinh nợ: 12.591.017 Ag: Khớp với báo cáo và sổ chi tiết Phát sinh có: SDCK: 12.591.017 Chi tiết phát sinh nợ: Tháng 9: 190.036 Tháng 10: 14.637 Tháng 11: 7.461.566 Tháng 12: 4.924.778 ( * ) ( * ): Đã kiểm tra 100% chứng từ. Bút toán điều chỉnh do khấu trừ sai tài khoản: Nợ TK 133: 1.904.610 Có TK241: 1.904.610 Qua kiểm tra khách hàng K, kiểm toán viên phát hiện: 3 Việc hạch toán thuế thu nhập doanh nghiệp ( TNDN ) của đơn vị là sai quy định. Theo quy định, thuế suất thuế TNDN là 32%, trong khi đó, đơn vị đang tính thuế TNDN phải nộp với mức thuế suất 25%. 3 Từ đó, kiểm toán viên kiến nghị đơn vị áp dụng dúng mức thuế suất và kê khai hạch toán bổ sung số thuế TNDN còn thiếu. Quá trình kiểm tra chi tiết được thực hiện tương tự đối với các khoản mục khác. Sau đó, nhóm kiểm toán cùng nhau bàn bạc, thống nhất lập ra danh mục các bút toán cần điều chỉnh từ những sai phạm phát hiện trong kiểm tra chi tiết. Bảng này được gửi cho khách hàng để làm cơ sở sửa chữa sai phạm. Kiểm toán viên tiến hành tập hợp ý kiến của đơn vị xem đơn vị chấp nhận đIều chỉnh phần nào và đề nghị đơn vị giải trình về sai phạm, nếu khách hàng chấp nhận điều chỉnh theo, kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán về báo cáo tài chính đã được sửa chữa. Còn nếu khách hàng không chấp nhận điều chỉnh, kiểm toán viên phải căn cứ vào mức độ trọng yếu của sai phạm trên báo cáo tài chính, từ đó đưa ra ý kiến chấp nhận hay bác bỏ hoặc từ chối đưa ra ý kiến. Trước khi đưa ra ý kiến kiểm toán chính thức trên báo cáo kiểm toán , kiểm toán viên lập biên bản làm việc, trong đó tập hợp những ý kiến sau quá trình kiểm toán về chứng từ, sổ sách kế toán, về phương pháp hạch toán …của các khoản mục đã kiểm tra. Đây là một việc làm rất khoa học, giúp kiểm toán viên một lần nữa đánh giá lại toàn bộ quá trình kiểm toán đã thực hiện, là cơ sở để đánh giá trong bước tiếp theo. Qua kiểm toán khách hàng B, kiểm toán viên lập biên bản làm việc trong đó ghi những nhận xét chung về chứng từ và việc hạch toán sổ sách của đơn vị. Bảng 14 : Trích biên bản làm việc đối với khách hàng B: Công ty Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán Tên khách hàng: Công ty tư vấn xây dựng B Niên độ kế toán: 31/12/2001 Khoản mục: Bước công việc: Biên bản làm việc Về chứng từ, sổ sách kế toán: Chứng từ lưu giữ dễ xem, tuy nhiên còn nhiều sai phạm: - Trên chứng từ chưa ghi đầy đủ các dòng: kèm theo … chứng từ gốc Đã nhận đủ số tiền (bằng chữ ) - Khi thanh toán tạm ứng Công ty chưa mở sổ theo dõi tạm ứng chi tiết để tiện cho việc theo dõi số tiền phải thu của cán bộ công nhân viên. - Chứng từ thanh toán còn thiếu nhiều ( không có chứng từ gốc )-Ví dụ: - Phiếu chi 11 ngày 13/1: Chi 4.213.000đ không có chứng từ kèm theo. Đây là khoản chi giao dịch nhưng không có danh sách kí nhận. - Phiếu chi số 107 ngày 5/5: Chi phí hết 2.334.000 nhưng chỉ có bản kê thanh toán như ăn uống, bồi dưỡng, vé ô tô… , không có chứng từ gốc. - Nhiều khoản vay cá nhân của nhân viên Công ty đã được hạch toán vào TK tạm ứng, đây là khoản Công ty bị ứ đọng vốn. - Khoản chi cho đội văn nghệ từ năm 2000 nhưng đến năm 2001, Công ty mới đưa vào chi phí ( hạch toán không đúng niên độ kế toán ) ……. Bảng này cũng là căn cứ để kiểm toán viên đưa ra ý kiến sau kiểm toán và lập thư quản lý cho các khách hàng. Hoàn thành kiểm toán : Đây là giai đoạn cuối cùng của một cuộc kiểm toán , trong giai đoạn này, kiểm toán viên phải lập báo cáo kiểm toán nêu rõ ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị và lập thư quản lý. Nhưng để đạt được một báo cáo kiểm toán đảm bảo được tính chính xác của các kết luận kiểm toán, kiểm toán viên phải tiến hành thêm một số bước trong giai đoạn hoàn thành kiểm toán này. Đặc biệt, đối với khách hàng là các DNVVN, kiểm toán viên rất chú trọng tới bước hoàn thành kiểm toán này. AASC nhận thức ý kiến kiểm toán đưa ra phải đảm bảo chính xác dựa trên lượng bằng chứng thu thập đầy đủ để đảm bảo giảm thiểu rủi ro ở mức tối thiểu. Vì vậy, trước khi đưa ra ý kiến kiểm toán chính thức, AASC luôn chú trọng soát xét chất lượng kiểm toán một cách nghiêm túc qua các bước: Soát xét giấy tờ làm việc: Giấy tờ làm việc của kiểm toán viên được soát xét bởi kiểm toán viên chính, người trực tiếp phụ trách cuộc kiểm toán trên các mặt: Tình hình kinh doanh của khách hàng có được hiểu đúng hay không. Quá trình kiểm toán có được thực hiện đầy đủ, theo đúng quy định của công ty và tuân thủ chuẩn mực hay không. Mục tiêu kiểm toán có đạt được hay không Giấy tờ làm việc có được lưu lại đầy đủ, bằng chứng thu thập được đầy đủ và hiệu lực hay không. Những vấn đề được phát hiện trong quá trình kiểm toán có được thông báo cho khách hàng và có được giải quyết hay không. Việc thực hiện soát xét đối với các công việc của toàn nhóm kiểm toán để đánh giá việc tuân thủ quy trình kiểm toán đề ra, từ đó xem xét việc thu thập bằng chứng kiểm toán có đầy đủ hay và thích hợp hay không, làm cơ sở đưa ra ý kiến kết luận kiểm toán . Đánh giá tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán : Kiểm toán viên phải đánh giá bằng chứng thu thập được từ tất cả các nguồn, đánh giá tính hiệu lực của bằng chứng kiểm toán dựa vào nguồn gốc và bằng chứng. Bằng chứng kiểm toán được đánh giá qua việc soát xét giấy tờ làm việc, kiểm tra lại các thủ tục kiểm toán đã được áp dụng, kiểm tra biên bản làm việc… Nếu kiểm toán viên nhận thấy bằng chứng thu thập không đầy đủ hoặc thích hợp để đưa ra ý kiến kiểm toán thì kiểm toán viên sẽ thực hiện ngay các thủ tục kiểm toán bổ sung hoặc đưa ra ý kiến chấp nhận từng phần hay ý kiến từ chối. Đánh giá xem liệu báo cáo tài chính sau kiểm toán còn tồn tại sai phạm trọng yếu hay không; Việc đánh giá này dựa trên kết luận về tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán và dựa trên những phát hiện không được điều chỉnh, việc xem xét này giúp kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán chính xác để không làm ảnh hưởng tới uy tín của công ty kiểm toán. Đánh giá việc trình bày và thuyết minh trên báo cáo tài chính: AASC luôn cố gắng đứng trên quan điểm người sử dụng báo cáo tài chính để đánh giá việc trình bày báo cáo tài chính có theo đúng quy định, dễ hiểu từ đó có kiến nghị với khách hàng. Phát hành báo cáo kiểm toán và gửi thư quản lý: Kết quả của toàn bộ cuộc kiểm toán được ghi lại trên báo cáo kiểm toán phát hành trong đó nêu rõ ý kiến của kiểm toán viên về tính trung thực, hợp lý của báo cáo tài chính của công ty khách hàng. Qua các bước công việc trong khâu hoàn thành kiểm toán , kiểm toán viên nêu ý kiến trong báo cáo kiểm toán theo 4 dạng: ý kiến chấp nhận toàn phần, ý kiến loại trừ, ý kiến bác bỏ và ý kiến từ chối. Nếu phát hành báo cáo chấp nhận từng phần hoặc từ chối đưa ra ý kiến hay bác bỏ, AASC luôn nêu rõ lý do của những ý kiến không chấp nhận đó. Bảng 15 : Báo cáo kiểm toán cho công ty B Số hiệu: Hà Nội, ngày 15 tháng 2 năm 2002 BáO CáO KIểM TOáN Kính gửi: Ban giám đốc công ty B Chúng tôi đã tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính của Công ty niên độ kế toán kết thúc ngày 31/12/2001, bao gồm: - Bảng cân đối kế toán - Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh - Thuyết minh báo cáo tài chính Việc lập và trình bày báo cáo tài chính thuộc trách nhiệm của Ban lãnh đạo công ty. Trách nhiệm của chúng tôi là đưa ra ý kiến nhận xét về tính trung thực, hợp lý của các báo cáo tài chính dựa trên kết quả kiểm toán của chúng tôi. Công việc kiểm toán của chúng tôI được tiến hành theo đúng các quy định về kế toán và kiểm toán độc lập ở Việt Nam và các chuẩn mực quốc tế được thừa nhận. Chúng tôi cho rằng công việc kiểm toán của chúng tôi đã đưa ra những cơ sở hợp lý, làm căn cứ cho ý kiến của chúng tôi. * ý kiến kiểm toán viên: Chúng tôi không thể tham gia kiểm kê tiền mặt và hàng tồn kho của đơn vị tại ngày 31/12/2001, với những tài liệu hiện có tại đơn vị, chúng tôi không thể kiểm tra lại tiền mặt và hàng tồn kho tại thời điểm trên bằng các thủ tục kiểm toán khác. Đơn vị chưa có đầy đủ biên bản đối chiếu công nợ với các khách hàng tại thời điểm 31/12/2001. Theo ý kiến của chúng tôi, ngoại trừ những ảnh hưởng ( nếu có ) đến báo cáo tài chính vì những lí do nêu trên, báo cáo tài chính sau khi đã đIều chỉnh theo ý kiến của kiểm toán viên, đã phản ánh trung thực, hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu tình hình tài chính của công ty tại thời đIểm 31/12/2001. Các báo cáo được lập phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán Việt Nam hiện hành và các quy định pháp lý có liên quan. Công ty Dịch Vụ Tư Vấn Tài Chính Chủ nhiệm Kiểm toán Kế toán và Kiểm toán Kiểm toán viên Giám đốc Chứng chỉ kiểm toán viên Số: Bảng 14 : Thư quản lý ( Công ty B ) Kèm theo các báo cáo kiểm toán , AASC còn lập thư quản lý gửi tới khách hàng với mục đích giúp khách hàng ngăn ngừa, hạn chế sai phạm, tăng cường khả năng quản lý, nâng cao hiệu quả hoạt động. Những ý kiến đề xuất này chỉ mang tính chất góp ý nhưng lại rất có ý nghĩa trong việc củng cố nề nếp tài chính kế toán của đơn vị, đặc biệt là đối với các DNVVN. Bảng 16: Thư quản lý Số: TC/TV kiểm toán Hà Nội ngày 15 tháng 2 năm 2002 Thư quản lý Kính gửi: Ban giám đốc công ty B. Thực hiện hợp đồng kinh tế số 215/HĐ kiểm toán ngày 5/2/2002 giữa công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán và công ty B, chúng tôi đã tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính niên độ 2001 của Công ty và đã có nhận xét về báo cáo tài chính tại báo cáo kiểm toán ngày 15/2/2002. Trong quá trình kiểm toán , chúng tôi xem xét một số khía cạnh quan trọng của hệ thống kế toán và kiểm soát nội bộ của Công ty. Kèm theo thư này, chúng tôi xin gửi tới quý ngài những đề xuất nhằm giúp Công ty khắc phục những điểm yếu mà chúng tôi nhận thấy trong quá trình kiểm toán . Những vấn đề trình bày trong thư quản lý này được chúng tôi rút ra từ việc thực hiện các thủ tục kiểm toán toán thông thường, chủ yếu nhằm giúp chúng tôi trình bày ý kiến về báo cáo tài chính. Do đó, ý kiến của chúng tôi không bao gồm tất cả đề xuất nhằm hoàn thiện hệ thốnh kế toán và kiểm soát nội bộ mà một cuộc kiểm toán toàn diện có thể đưa ra. Nhân dịp này, chúng tôi xin bày tỏ ý kiến cảm ơn chân thành đối với Ban giám đốc Công ty cùng toàn thể lãnh đaọ và nhân viên phòng kế toánđã giúp chúng tôi trong quá trình thực hiện kiểm toán . Kính thư Giám đốc: Phần III Một Số GiảI Pháp Nhằm Hoàn Thiện Công Tác Tổ Chức Kiểm toán Tài Chính Doanh Nghiệp Vừa Và Nhỏ TạI AASC Mục tiêu: Qua tìm hiểu lý luận, nghiên cứu thực tiễn từ đó trong phần III đưa ra một số nhận xét về điểm mạnh, điểm yếu của Công ty trong quy trình thực hiện kiểm toán. Qua đó đưa ra một số ý kiến đề xuất góp phần hoàn thiện công tác kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN tại AASC. Nội dung: - Đánh giá những điểm mạnh và những tồn tại trong công tác tổ chức kiểm toán các DNVVN tại AASC - Đưa ra một số ý kiến đề xuất đối với Công ty về hồ sơ kiểm toán, đánh giá trọng yếu rủi ro, tổ chức kiểm toán và tiến trình hội nhập quốc tế của AASC và đề xuất đối với Chính phủ. Đánh giá công tác tổ chức kiểm toán tài chính các DNVVN tại AASC: Để đạt được những thành tựu như ngày nay, công ty tư vấn tài chính kế toán và kiểm toán AASC đã tự vượt qua rất nhiều khó khăn, thách thức. Kết quả mà AASC đạt được là cả một quá trình phấn đấu không mệt mỏi của toàn bộ tập thể cán bộ nhân viên cũng như ban giám đốc công ty. Trải qua hơn 10 năm hoạt động xây dựng và phát triển, công ty đã tự khẳng định mình và trở thành một trong những tổ chức chuyên nghành đầu tiên và lớn nhất ở Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, kế toán và kiểm toán . Với phương châm chinh phục khách hàng bằng trình độ nghề nghiệp, xây dựng niềm tin trên hiệu quả và chất lượng của các dịch vụ, thoả mãn được những như cầu khắt khe nhất của khách hàng chính vì vậy, lượng khách hàng tìm đến Công ty ngày càng nhiều các khách hàng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như ngân hàng, bảo hiểm, dầu khí, xây dựng, thương mại… đều tỏ ra rất hài lòng với chất lượng dịch vụ của công ty. Mặt khác, Công ty luôn chú trọng nghiên cứu mở rộng thị trường trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt giữa các công ty kiểm toán độc lập hiện nay. Nếu như trong những năm đầu hoạt động, khách hàng của các công ty kiểm toán chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài, các tổng công ty thì tới nay, mạng lưới khách hàng đã được mở rộng, các DNVVN cũng đang dần nhận thức được ý nghĩa, vai trò của dịch vụ kiểm toán. Vì vậy lượng khách hàng là các DNVVN có nhu cầu kiểm toán ngày càng nhiều, nhận thức được điều này, Công ty đánh giá khu vực DNVVN có tiềm năng cao để tập trung phát triển. Trong quá trình xây dựng và trưởng thành, AASC đã phải đương đầu với không ít khó khăn và luôn phải nỗ lực không ngừng trong việc khắc phục những khó khăn mà công ty phải đối mặt: g Khó khăn trước hết đối với AASC là yếu tố thị trường, ngành nghề kiểm toán ngày một phát triển, kéo theo sự ra đời của hàng loạt công ty kiểm toán độc lập trong và ngoài nước. Công ty gặp phải sư cạnh tranh quyết liệt từ phía các công ty kiểm toán lớn, đặc biệt là từ phía các công ty kiểm toán nước ngoài đã có nhiều năm kinh nghiệm và uy tín rộng rãi. Trong điều kiện đó, để có thể nâng cao năng lực cạnh tranh, AASC buộc phải hạ mức phí kiểm toán và không ngừng nâng cao năng lực chuyên môn của mình. g Về phía khách hàng: Thái độ, nhận thức của phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam về hoạt động tư vấn, kiểm toán còn khá dè chừng. Vì vậy, trong quá trình kiểm toán , các kiểm toán viên còn gặp nhiều cản trở. Mặc dù Công ty đã có nhiều chính sách ưu đãi dành cho đối tượng DNVVN nhưng lượng khách hàng này còn rất hạn chế. Thêm vào đó, tại các DNVVN, nền nếp tài chính kế toán thường rất yếu, vì vậy trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên thường gặp phải khó khăn trong việc thu thập tài liệu, chứng từ sổ sách không được cung cấp đầy đủ. Chính vì vậy, kiểm toán viên của AASC phải nỗ lực hết mình để khắc phục những khó khăn đó, để hoàn thành kiểm toán với chất lượng dịch vụ đảm bảo. Tuy nhiên, ngoài những khó khăn phải đối mặt, công ty cũng đã có nhiều thuận lợi trong hoạt động: g Thuận lợi trước tiên là nội lực của công ty, AASC có ban giám đốc năng động, sáng tạo , có năng lực quản lý cao và đội ngũ nhân viên nhiệt tình, ham học hỏi và có trình độ chuyên môn cao. g Qua hơn 10 năm hoạt động, với kiến thức và kinh nghiệm của mình, công ty đã gây dựng được niềm tin đối với các khách hàng, duy trì được một lượng lớn khách hàng thường xuyên. Mặt khác, công ty luôn chú ý tới các chính sách khách hàng để tiếp cận với khách hàng mới, nhờ các chính sách hợp lý, hàng năm, công ty đều đạt được nhiều hợp đồng mơí. g Môi trừơng hoạt động kiểm toán ngày nay đã có nhiều bước tiến, nhiều chế độ, chính sách mới được ban hành, đặc biệt là việc ban hành 16 chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, theo đó, công tác kiểm toán tài chính được thực hiện một cách hiệu quả hơn. Nhìn chung, công tác kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán tài chính các DNVVN nói riêng của AASC được đánh giá là tốt. Công tác kiểm toán luôn được triển khai một cách khoa học, đảm bảo hiệu quả, tuân thủ đúng quy trình kiểm toán chung mà công ty xây dựng và vận hành linh hoạt với từng khách hàng cụ thể quy trình kiểm toán báo cáo tài chính DNVVN gồm 3 bước: 3Lập kế hoạch kiểm toán 3 Thực hiện kiểm toán 3 Hoàn thành kiểm toán Các bước trong quy trình kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN đều tuân thủ theo đúng chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Việt Nam, đồng thời phát huy được những kinh nghiệm của kiểm toán viên. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai cụ thể từng bước công việc, kiểm toán viên cũng còn gặp nhiều khó khăn. Lập kế hoạch kiểm toán: Đây là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng tới toàn bộ cuộc kiểm toán, để thực hiện bước công việc này một cách hiệu quả, AASC đã đề ra các bước công việc cần thực hiện bao gồm: 3 Tìm hiểu về tình hình kinh doanh của khách hàng 3 Thu thập thông tin cơ sở 3Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ. 3 Lập chương trình kiểm toán. Nhìn chung giai đoạn này được AASC coi trọng và thực hiện khá tốt. Tuy nhiên, trong quá trình thu thập thông tin, các kiểm toán viên còn gặp phải khó khăn từ phía khách hàng, do còn nhiều yếu kém tồn tại trong các DNVVN, kiểm toán viên luôn phải đặt ra mức rủi ro cao để đưa ra ý kiến kết luận chính xác nên kiểm toán viên phải luôn tôn trọng nguyên tắc thận trọng mang tính nghề nghiệp. Giai đoạn thực hiện kiểm toán: Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán được lập, AASC thực hiện kiểm toán một cách toàn diện, riêng đối với các DNVVN, hệ thống kiểm soát nội bộ được đánh giá là kém hiệu quả nên có thể bỏ qua một số thủ tục kiểm soát để tiến hành theo hướng tập trung kiểm tra chi tiết. Với mức rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát cao, lượng bằng chứng cần thu thập lớn, như vậy khối lượng công việc phải tiến hành nhiều nhưng thời gian thực hiện hạn chế. Vì vậy, kiểm toán viên đã vận dụng linh hoạt các phương pháp kiểm toán để thu thập lượng bằng chứng cần thiết, đảm bảo độ tin cậy nhưng phỉa tính đến chi phí và thời gian thực hiện. Hình thức tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính tại AASC là phân đoạn theo tài khoản, mỗi tài khoản có thể được thực hiện bởi các kiểm toán viên khác nhau nhưng luôn có sự phối kết chặt chẽ giữa các kiểm toán viên. Kiểm tra chi tiết được tiến hành theo từng khoản mục, tài khoản. Trong đó, khâu kiểm tra chứng từ gốc, sổ sách kế toán luôn được chú trọng trong các DNVVN, số lượng mẫu chọn lớn thậm chí có thể lên tới 100% nếu có nhiều dấu hiệu nghi vấn. Vì vậy, do yêu cầu về thời gian, đôi khi kiểm toán viên phải thực hiện kiểm toán một cách linh hoạt cuộc kiểm toán không theo kế hoạch. Kết thúc kiểm toán : Thông qua việc tổng hợp bằng chứng thu thập được, AASC phát hành báo cáo kiểm toán căn cứ trên chuẩn mực kiểm toán Việt Nam và quốc tế. Tuy nhiên, đối với các DNVVN, các báo cáo tài chính thường không được đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần do còn nhiều sai phạm. Vì vậy, kiểm toán viên phải có tính thận trọng nghề nghiệp, kiểm toán viên phải soát xét giấy tờ làm việc, đánh giá tính đầy đủ và thích hợp của bằng chứng kiểm toán trước khi đưa ra ý kiến kiểm toán chính thức. Kiến nghị phương hướng hoàn thiện công tác tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN tại AASC. Ngoài những việc đã thực hiện được AASC còn có hạn chế trên một số mặt. Sau đây, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính do AASC thực hiện. \ Về việc ghi chép trên giấy làm việc: Việc ghi chép lại những công việc đã thực hiện là yêu cầu quan trọng trong công tác kiểm toán . ISA 230 – Lưu tài liệu kiểm toán có khẳng định “Chuyên gia kiểm toán phải thu thập tài liệu liên quan đến những vấn đề quan trọng để có được những yêú tố chứng thực, làm cơ sở cho ý kiến kiểm toán và để chứng minh rằng công tác kiểm toán đã được tiến hành phù hợp với các chuẩn mực kiểm toán quốc tế”. Các tư liệu kiểm toán đó bao gồm các tài liệu do kiểm toán viên lập hay thu thập và lưu trữ trong quá trình thực hiện công tác kiểm toán . Do đó, AASC nên ghi chép lại những gì đã thực hiện trong quá trình kiểm toán một cách đầy đủ về tính chất, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán đã được thực hiện cũng như kết quả của các thủ tục này. Việc ghi chép tài liệu đầy đủ và khoa học sẽ giúp kiểm toán viên chính có điều kiện bao quát chặt chẽ công việc, giúp các thành viên trong đoàn kiểm toán phối hợp chặt chẽ, hiệu quả cũng như làm cơ sở cho cuộc kiểm toán các năm tiếp theo. Trong quá trình thực hiện kiểm toán, các kiểm toán viên của AASC luôn có sự phối hợp chặt chẽ và sự cẩn trọng trong các bước công việc. Nhưng đôi khi, các bước lên kế hoạch về lịch trình, phạm vi kiểm toán cũng như một số thủ tục kiểm tra chi tiết không được ghi chép lại nên quá trình giám sát không phát huy được tới hiệu quả tối đa. Đối với AASC, việc ghi chép rất có ích cho công tác kiểm toán . Vì vậy, Công ty nên có quy định và kiểm tra chặt chẽ hơn nữa về các giấy tờ làm việc. Mặt khác Công ty có thể xây dựng bản mẫu in sẵn chuyên dụng cho việc thực hiện các thủ tục kiểm toán. Tác giả xin đưa ra mẫu chương trình kiểm toán dựa trên mẫu hướng dẫn của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 300: Chương trình kiểm toán Khách hàng: Người lập: Ngày: Năm tài chính: Người soát xét: Ngày: Danh mục các phần hành Phần hành Người thực hiện Thời gian Phần tổng hợp Hệ thống kế toán và KSNB Vốn bằng tiền Các khoản đầu tư ngắn hạn Các khoản phải thu Hàng tồn kho Tài sản lưu động khác Chi sự nghiệp TSCĐ hữu hình TSCĐ vô hình và TSCĐ khác Các khoản đầu tư dài hạn Chi phí xây dựng cơ bản dở dang Cầm cố, ký cược ký quỹ dài hạn Các khoản phải trả ngắn hạn Các loại thuế Vay nợ dài hạn Nguồn vốn, quỹ và lợi nhuận chưa phân phối Nguồn kinh phí Doanh thu Giá vốn hàng bán Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp Thu nhập khách Chi phí khác. \ Đối với việc đánh giá trọng yếu rủi ro: Đánh giá trọng yếu rủi ro là bước công việc rất quan trọng trong các cuộc kiểm toán và đã được quy định trong chuẩn mực kiểm toán . Nó là cơ sở thiết kế chương trình kiểm toán , xác định các khoản mục cần tập trung kiểm tra. Tuy nhiên, trên thực tế việc đánh giá trọng yếu những rủi ro thường phụ thuộc vào nhận định chủ quan của kiểm toán viên, AASC chưa xây dựng mẫu những tiêu chí chung để xác định tính trọng yếu và rủi ro. Qua đây tôi xin kiến nghị một số cơ sở đánh giá trọng yếu rủi ro: - Trên phương diện báo cáo tài chính: 3 Sự liêm khiết, kinh nghiệm, hiểu biết của ban giám độc 3 Trình độ vàkinh nghiệm chuyên môn của kế toán. 3 Những áp lực bất thường đối với ban giám đốc. 3 Đặc điểm hoạt động của đơn vị 3 Các nhân tố ảnh hưởng đến lĩnh vực hoạt động - Trên phương diện số dư tài khoản và loại nghiệp vụ: 3 Việc xác định số dư và số phát sinh của các TK và nghiệp vụ kinh tế 3 Mức độ dễ bị mất mát, biển thủ tài sản: phát sinh nghiệp vụ với số lượng lớn, thời gian dài… 3 Mức độ phức tạp cuả nghiệp vụ 3 Việc ghi chép các nghiệp vụ bất thường. Trên cơ sở mức trọng yếu rủi ro được đánh giá, kiểm toán viên sẽ có căn cứ để lập chương trình kiểm toán một cách có khoa học, hiệu quả, bố trí hợp lý các thử nghiệm cơ bản để đảm bảo cho công tác kiểm toán đạt kết quả tốt. \ Trong tổ chức kiểm toán các DNVVN: Các DNVVN hiện đang là đối tượng được nhà nước quan tâm, đây cũng là khu vực mà AASC coi là có tiềm năng lớn và có nhiều chính sách thu hút khách hàng qua việc nâng cao chất lượng dịch vụ , qua chính sách giá phí ưu đãi...Trong việc tổ chức thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN, kiểm toán viên nên tập trung ở một số vấn đề: 3 Hệ thống kiểm soát nội bộ trong các DNVVN thường được đánh giá là yếu, đặc biệt là trong khâu chứng từ, sổ sách. Vì vậy, kiểm toán viên nên đưa ra những kiến nghị chi tiết về phần này. AASC đã có những đề xuất nhất định đối với khách hàng trên thư quản lý. Tuy nhiên, sau khi vạch ra những điểm yếu cho khách hàng, công ty kiểm toán có thể tham vấn cho khách hàng về cách thức sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống KSNB… 3 Việc cập nhật thông tin về các chế độ, quy định kế toán tài chính của các DNVVN cũng rất kém hiệu quả. Do đó, trong phần kiến nghị của mình kiểm toán viên nên đưa thêm một số ý kiến về việc áp dụng các văn bản mới. Chẳng hạn như việc ban hành chuẩn mực kế toán Việt Nam có thể gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp, Hoặc những chế độ bổ sung, sửa đổi các quy định của Chính phủ mà khách hàng chưa nắm bắt được…AASC nên tham vấn cho khách hàng trong việc triển khai thực hiện. 3 Việc hạch toán thuế trong các DNVVN cũng thường gặp phải sai phạm, đặc biệt việc lưu trữ chứng từ hoá đơn – cơ sở của việc hạch toán thuế và là cơ sở cho cơ quan thuế kiểm tra – còn chưa được chú trọng. Với tính chất sở hữu tư nhân hoặc do một số người hùn vốn, người lãnh đạo các DNVVN thường chỉ chú ý tới hiệu quả công tác nên việc thu chi thường không có chứng từu chứng minh. Do đó, khâu quản lý chứng từ, sổ sách còn lỏmg lẻo. AASC cũng nên có ý kiến tham vấn cho khách hàng về vấn đề này trong những đề xuất kiến nghị của mình. \ Về tiến trình hội nhập quốc tế của AASC: Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước và xu thế hội nhập quốc tế, các công ty kiểm toán độc lập của Việt Nam đang trên bước đường phát triểnmạnh mẽ, Nhà nước đã và đang thực hiện nhiều biện pháp nhằm giúp các công ty kiểm toán Việt Nam trưỏng thành và nhanh chóng hội nhập với xu thế hợp tác toàn cầu. Hiệp định thương mại Việt – Mĩ có đề cập tới các chính sách tăng cường, mở rộng dịch vụ tài chính kế toán, kiểm toán giữa các quốc gia, tiến trình ra nhập AFTA của Việt Nam cũng mở ra nhiều tiềm năng to lớn cho ngành kiểm toán…Đây vừa là cơ hội vừa đặt ra nhiều thách thức lớn đối với các công ty kiểm toán Việt Nam. Trong bối cảnh đó AASC cũng luôn không ngừng vươn lên để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập. Hiện nay, Công ty đang cộng tác với nhiều Công ty kiểm toán quốc tế. Theo cơ chế vận động của nền kinh tế mở, việc thực hiện các hợp đồng kiểm toán liên quốc gia đang là vấn đề được các công ty kiểm toán rất quan tâm. Tuy nhiên, để có quan hệ hợp tác chặt chẽ và hiệu quả với các công ty kiểm toán quốc tế. Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam cần được chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, đặc biệt là việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cũng như trình độ ngoại ngữ cho đội ngũ nhân viên để tương xứng với nhu cầu hội nhập. Con người luôn là yếu tố được quan tâm đặc biệt nhằm đảm bảo dịch vụ được cung cấp với chất lượng cao nhất. Chính vì vậy, không ngừng nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên là điều kiện tiên quyết đối với các Công ty kiểm toán. AASC đã có truyền thống chú trọng tới đào tạo nhân viên, nhưng để bắt kịp với xu thế hội nhập quốc tế, Công ty cần chú trọng hơn nữa các chính sách đào tạo, ngoài việc tăng cường chất lượng đào tạo trong nước, Công ty nên có các chính sách mở rộng quy mô đào tạo, cử những nhân viên có trình độ cao ra nước ngoài để học tập kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn.. \ Về phía Chính phủ: Chính phủ đã và đang có nhiều chính sách hỗ trợ cho ngành kiểm toán, nhiều chính sách, chế độ, chuẩn mực kiểm toán lần lượt được ban hành tạo tiền đề pháp lý cho hoạt động kiểm toán phát triển… Tuy nhiên, ngoài những cải tiến về mặt pháp lý, tạo môi trường phát triển cho hoạt động kiểm toán, Chính phủ cũng cần có các biện pháp hỗ trợ các công ty kiểm toán độc lập về vốn, về đào tạo nhân sự để các công ty kiểm toán Việt Nam bắt kịp với tiến trình hội nhập quốc tế. AASC là một đơn vị trực thuộc Bộ Tài chính nhưng Công ty phải tự trang trải, bù đắp mọi chi phí trên cơ sở lấy thu bù chi, hạch toán kinh doanh tự chủ. Vì vậy để nâng cao chất lượng dịch vụ qua việc cử nhân viên học tập ở nước ngoài hay việc tìm hiểu các kỹ thuật tiên tiến của thế giới đối với AASC còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế về kinh phí. Vì vậy, Chính phủ cần có các biện pháp hỗ trợ cụ thể về vốn đối với các công ty kiểm toán độc lập, tạo điều kiện cho các công ty phát huy tối đa thế và lực trong tiến trình hội nhập. Kết luận Thực tiễn của quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước trong những năm qua và những đóng góp của ngành kiểm toán đã ngày càng chứng minh vai trò quan trọng của hoạt động kiểm toán Việc nghiên cứu và vận dụng quy trình kiểm toán báo cáo tài chính nói chung và kiểm toán tài chính các DNVVN nói riêng là vấn đề rất quan trọng đối với các công ty kiểm toán độc lập. Từ những kiến thức nghiên cứu đó, kiểm toán viên vận dụng linh hoạt vào trong từng cuộc kiểm toán cụ thể. Quy trình kiểm toán của AASC trong từng cuộc kiểm toán cụ thể được tiến hành theo các bước trong quy trình chung và được vận dụng phù hợp với từng đối tượng khách hàng. Quá trình tìm hiểu và hoàn thành luận văn đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo Tô Văn Nhật cùng toàn thể các anh chị trong Công ty nhưng do còn nhiều hạn chế về kiến thức và phương pháp tiếp cận nên bài viết không tránh khỏi những sai sót. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự góp ý và cảm thông của người đọc. Một lần nữa, tôi xin được bày tỏ sự cảm ơn trân trọng tới thầy giáo và Quý công ty. Lời mở đầu Trong bối cảnh nền kinh tế đất nước đang trên đà hội nhập quốc tế và khu vực, yêu cầu củng cố nền nếp tài chính kế toán trong các đơn vị kinh tế ngày một cao. Theo đó, hoạt động kiểm toán trở thành nhu cầu tất yếu và ngày càng nhiều trong nền kinh tế. Hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính mang lại những thông tin trung thực, khách quan, có độ tin cậy cao về báo cáo tài chính được kiểm toán, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao chất lượng quản lý của doanh nghiệp. Đặc biệt đối với các DNVVN trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, để đứng vững và phát triển, nhu cầu nâng cao chất lượng hoạt động trở nên ngày một cấp thiết, để khắc phục các thiếu sót, hạn chế còn tồn tại trong các đơn vị. Khách hàng của các công ty kiểm toán độc lập ngày nay không chỉ hạn chế ở các công ty lớn mà đang được mở rộng sang các DNVVN. Đây là khu vực có nhiều tiềm năng kiểm toán to lớn mà công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán Kiểm toán đang thực hiện nhiều chính sách phát triển. Qua thực tiễn các cuộc kiểm toán báo cáo tài chính của các DNVVN cho thấy hiệu quả mà công tác kiểm toán mang lại rất lớn. Nhiều DNVVN sau kiểm toán đã có được nhiều cải tiến quan trọng góp phần nâng cao chất lượng quản lý và công tác kế toán doanh nghiệp. Mặc dù lý luận cho kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN không được luận giải chuyên sâu nhưng xuất phát từ nhu cầu thực tế, tác giả xin mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Tổ chức kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN do Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán thực hiện.” Ngoài lời nói đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 phần: Phần 1: Cơ sở lý luận chung về kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN. Phần 2: Thực trạng hoạt động kiểm toán báo cáo tài chính các DNVVN do AASC thực hiện. Phần 3: Một số ý kiến đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm toán tài chính các DNVVN tại AASC. Trong quá trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế về kiến thức nên tác giả không thể không có những thiếu sót về lý luận cũng như những luận giải chủ quan, do đó bài viết không thể tránh khỏi những sai sót. Với tinh thần học hỏi, cầu tiến, tác giả rất mong nhận được sự chỉ đạo và hướng dẫn của các thầy cô giáo và các kiểm toán viên trong Công ty để hoàn thiện đề tài.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33902.doc
Tài liệu liên quan