LUẬN VĂN THẠC SỸ: "Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận"
MS: LVDL-DLH028
SỐ TRANG: 92
NGÀNH: Địa lý
CHUYÊN NGÀNH: Địa lý học
NĂM: 2010
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Điều là loại cây trồng có nhiều công dụng, có giá trị kinh tế cao, không chỉ là nguồn
thực phẩm cung cấp cho con người mà còn là nguồn nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế
biến.
Cây điều là cây nhiệt đới, nguồn gốc ở Brazil. Người Bồ Đào Nha là những người đầu
tiên đưa cây điều từ Brazil tới châu Á và châu Phi. Ngày nay trên thế giới cây điều đã được
trồng trên một vùng rộng lớn trong phạm vi từ vĩ tuyến 300
Nam đến 300
Bắc và trở thành
một cây có giá trị kinh tế lớn. Những nước trồng điều nhiều là Ấn Độ, Brazil, Mozambique,
Tanzania, Kenya.
Cây điều được du nhập vào nước ta từ thế kỷ XVIII, ban đầu được trồng phân tán
trong các vườn hộ gia đình và đồn điền. Sau năm 1975, cây điều được chọn là cây trồng phủ
xanh đất trống đồi trọc kết hợp lấy hạt, trái. Từ năm 1980 trở đi, cây điều được quan tâm mở
rộng diện tích trồng theo hướng thu hoạch hạt phục vụ cho chế biến xuất khẩu. Ngày nay, ở
Việt Nam các tỉnh có diện tích trồng điều lớn là Bình Phước, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình
Thuận
Bình Thuận là tỉnh nằm trong vùng duyên hải Nam Trung bộ, là vùng được thiên
nhiên ưu đãi cho cây điều phát triển với quy mô lớn. Nhiều năm nay, ngành trồng và chế
biến điều đã đóng góp đáng kể trong thu nhập kinh tế quốc dân của các địa phương và tỉnh.
Mặc dù hiện nay nhu cầu sản phẩm và thị trường tiêu thụ điều trong và ngoài nước là rất lớn
nhưng việc sản xuất và chế biến điều ở Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Thuận nói riêng
vẫn chưa đạt được kết quả tương xứng với tiềm năng của nó, đặc biệt là sự kết hợp giữa
trồng và chế biến điều còn rời rạc, chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, chưa hình thành
một cơ chế thống nhất, tính chất liên kết chưa được đảm bảo giữa nhà máy chế biến và vùng
nguyên liệu, hiệu quả kinh tế chưa cao.
Vì vậy, cần phải xây dựng được mô hình tổ chức sản xuất hợp lý có sự kết hợp giữa
vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến nhằm phát huy lợi thế của địa phương. Là người con
của địa phương, tôi chọn đề tài: “Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận”
làm đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nhỏ bé của mình giải quyết những vấn đề cụ thể, đưa
ngành phát triển đạt hiệu quả cao hơn.
2.Mục đích
-Tổng hợp cơ sở lý luận và thực tiễn về tổ chức lãnh thổ các ngành sản xuất nông
nghiệp (trồng và chế biến sản phẩm nông nghiệp).
-Phân tích hiện trạng phát triển ngành trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều, mối
quan hệ và hiệu quả của ngành tại tỉnh Bình Thuận .
-Đề xuất định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ giữa trồng và chế biến điều nhằm
đem lại hiệu quả cao hơn tại tỉnh Bình Thuận.
3.Nhiệm vụ
-Sưu tầm tư liệu về tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế, tập trung chủ yếu vào việc
trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều ở Bình Thuận.
-Phân tích cụ thể về tình hình trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều, mối quan hệ của
chúng và hiệu quả đạt được từ cây điều ở Bình Thuận.
-Xây dựng mô hình tổ chức lãnh thổ hợp lý và đề xuất giải pháp thực hiện có hiệu quả
ngành sản xuất điều ở tỉnh Bình Thuận.
4.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: tình hình trồng và chế biến sản phẩm từ cây điều và mối quan
hệ giữa trồng và chế biến điều ở Bình Thuận.
-Phạm vi nghiên cứu: địa bàn nghiên cứu chủ yếu là các khu vực trồng điều và các cơ
sở chế biến điều ở Bình Thuận.
5. Những công trình nghiên cứu có liên quan
-Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến nông sản cũng như kết hợp nông – công nghiệp đã
được nghiên cứu từ lâu và đi vào thực tiễn sản xuất của nhiều nước trên thế giới. Ở Việt
Nam, mô hình kết hợp nông – công nghiệp đã được nghiên cứu cả về mặt lí luận lẫn thực
tiễn.
-Với sự chú trọng quan tâm đầu tư phát triển của Đảng và Nhà nước đã có nhiều đề
tài, dự án, hội thảo nghiên cứu phát triển cây điều:
+ Đề tài “Xây dựng mô hình thâm canh cây điều ghép trên vùng đất cát đỏ Bình
Thuận” – KS.Tô Quang Bình – Sở Nông nghiệp Phát triển Nông thôn Bình Thuận
+ Dự án cây điều VIE 85/005 – Bình Thuận (1986 – 1992)
+ Báo cáo “Kĩ thuật trồng và thâm canh cây điều” – Sở Nông nghiệp Phát triển Nông
thôn Bình Thuận Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào cụ thể liên quan đến tổ chức lãnh thổ
cũng như việc quy hoạch, tổ chức có hiệu quả giữa vùng nguyên liệu với các cơ sở chế biến
nhằm phát huy lợi thế của ngành sản xuất cây điều. Đây cũng là nội dung cơ bản cho đề tài
nghiên cứu của luận văn dưới góc độ về Địa lý Kinh tế- Xã hội.
6.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1.Phương pháp luận
6.1.1.Quan điểm hệ thống
Bình Thuận là tỉnh cực nam của vùng duyên hải Nam Trung bộ, có mối quan hệ và
giao lưu kinh tế thuận lợi với các tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, các tỉnh nam
Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Sức hút của các trung tâm phát triển lớn như Thành
phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Nha Trang tạo điều kiện thuận lợi cho Bình Thuận tiếp thu
nhanh khoa học kỹ thuật, mở rộng liên kết và phân bố lại lực lượng sản xuất, hòa nhập vào
xu thế phát triển chung của cả nước.
Sản xuất và chế biến điều và các sản phẩm từ điều là một quá trình thống nhất giữa
các khâu trong một chu trình sản xuất – chế biến – tiêu thụ sản phẩm. Mối quan hệ giữa
trồng và chế biến điều phải được xem xét trong hệ thống sản xuất nông nghiệp và công
nghiệp của toàn tỉnh.
6.1.2.Quan điểm tổng hợp lãnh thổ
Đây là quan điểm cơ bản của Địa lý học. Tức là phải nghiên cứu các đối tượng trên
một lãnh thổ để thấy sự khác biệt của lãnh thổ đó trên cơ sở đánh giá tổng hợp các nhân tố
ảnh hưởng đến những nét khác biệt của vùng.
Đề tài trồng và chế biến điều cần được đặt trong bối cảnh kinh tế - xã hội của tỉnh
Bình Thuận có những nét đặc thù về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên,
kinh tế - xã hội, lịch sử phát triển, v.v để hình thành các khu vực trồng trọt năng suất cao,
các khu vực chế biến tập trung với nhiều sản phẩm chất lượng cao, có giá trị.
6.1.3.Quan điểm lịch sử viễn cảnh
Khi xem xét các quá trình phát triển và liên kết của các ngành phải chú ý đến quá khứ,
hiện tại và những dự báo cho tương lai. Mỗi một giai đoạn mang một số đặc điểm riêng. Vận
dụng quan điểm lịch sử trong việc nghiên cứu tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh
Bình Thuận nhằm đánh giá thực trạng của vấn đề trong từng giai đoạn nhất định. Quá trình
này phải được xem xét trong chiến lược phát triển ngành điều của tỉnh nói riêng và của cả
nước nói chung. 6.1.4.Quan điểm sinh thái và phát triển bền vững
Việc trồng và chế biến điều tác động rất lớn đến môi trường. Do vậy, quán triệt quan
điểm sinh thái trong nghiên cứu nhằm giảm thiểu những tổn hại đến môi trường sinh thái như
suy thoái đất, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên, v.v Việc thiết lập hệ thống liên kết
nông – công nghiệp trồng và chế biến điều cũng như việc đưa ra các giải pháp cho vấn đề
này cũng phải dựa trên quan điểm sinh thái và phát triển bền vững nhằm đảm bảo không làm
cạn kiệt tài nguyên và ô nhiễm môi trường của tỉnh Bình Thuận.
6.2.Phương pháp nghiên cứu
6.2.1.Phương pháp thu thập, thống kê và phân tích tổng hợp
Tiến hành thu thập tài liệu liên quan đến nội dung đề tài từ các nguồn: báo chí, thư
viện, trên mạng Internet, các dự án của các ban ngành, hội thảo .Từ đó, chọn lọc nội dung,
phân tích, tổng hợp và xử lý số liệu đảm bảo giá trị phục vụ cho nội dung nghiên cứu đề tài.
Số liệu được tổng hợp và xử lý trên cơ sở dữ liệu của Cục Thống kê tỉnh Bình Thuận,
Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bình Thuận .Đồng thời, tôi cũng tham khảo
các số liệu được công bố trên sách, báo của các cơ quan khác như Viện Khoa học Kỹ thuật
Nông nghiệp miền Nam.
6.2.2.Phương pháp điều tra thực địa
Để có các số liệu cơ bản và có cái nhìn thực tế để nhận xét đúng các yếu tố ảnh hưởng
cũng như thực trạng trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận nên tôi đã đi thực tế đến các
cơ quan ban ngành có liên quan, đến một số hộ gia đình nông dân gắn bó lâu dài với nghề
trồng điều. Đồng thời tôi cũng tham khảo ý kiến về những khó khăn, kiến nghị đến việc
trồng và chế biến điều từ một số cán bộ, chuyên gia và hộ nông dân.
6.2.3.Phương pháp bản đồ, biểu đồ
Đây là phương pháp đặc trưng trong nghiên cứu các vấn đề về Địa lý. Xây dựng một
số bản đồ liên quan tới nội dung đề tài và xây dựng một số sơ đồ, biểu đồ thể hiện đối tượng
nghiên cứu một cách trực quan cho việc phân tích đánh giá và so sánh số liệu giữa các năm.
6.2.4.Phương pháp dự báo
Dự báo xu hướng phát triển của từng ngành, từng vùng là công việc cần thiết không
thể thiếu được của nghiên cứu địa lý. Trong nội dung nghiên cứu của mình, tôi cố gắng đưa
ra những dự báo có cơ sở khoa học về việc phát triển ngành điều trên các phương diện: diện
tích trồng điều, sản lượng điều, khả năng đáp ứng nhu cầu cho người tiêu dùng, tình hình
xuất nhập khẩu điều và dự báo về khả năng phát triển tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận trong chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh nói riêng và cả nước nói
chung.
6.2.5.Phương pháp hệ thống thông tin địa lý (GIS)
Hệ thống phần mềm thông tin địa lý (GIS) được sử dụng phổ biến để lưu trữ, phân
tích, xử lý các thông tin không gian lãnh thổ. Hệ GIS cho phép chồng xếp các thông tin địa
lý để thấy được nét đặc trưng riêng cho đối tượng địa lý. Đề tài chủ yếu sử dụng phần mềm
MapInfo để tính toán, thiết kế, biên tập bản đồ, vẽ biểu đồ, đồ thị minh họa cho nội dung đề
tài.
7.Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và mục lục của đề tài thì nội dung chính của đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ sản xuất nông – công nghiệp
Chương 2: Tiềm năng và thực trạng tổ chức lãnh thổ ngành sản xuất điều ở Bình Thuận
Chương 3: Định hướng và giải pháp tổ chức lãnh thổ sản xuất điều ở Bình Thuận
92 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1981 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n kết chặt chẽ với vùng nguyên liệu sản xuất điều. Sự
liên kết giữa nông dân sản xuất điều với các nhà máy chế biến chưa chặt chẽ, chưa có sự
ràng buộc với nhau
Qua thực trạng trên cho thấy việc kết hợp chặt chẽ giữa trồng và chế biến điều là hết
sức cần thiết nhằm phát triển sản xuất bền vững ngành điều của tỉnh Bình Thuận nói riêng và
Việt Nam nói chung.
3.1.2.Nhu cầu thị trường về sản phẩm từ điều
Hiện nay, trên thế giới nhu cầu về thị trường tiêu thụ các sản phẩm từ điều là rất lớn,
nhất là nhân điều. Các thị trường tiêu thụ điều lớn có thể kể tới là Bắc Mỹ tiêu thụ khoảng
50% tổng số lượng nhân điều thế giới, tiếp theo là Liên minh châu Âu (EU) chiếm 29%, các
nước châu Á chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc chiếm 15%, còn lại là các nước khác. Ấn Độ
xuất khẩu được khoảng 100.000 – 125.000 tấn nhân điều mỗi năm. Hoa Kỳ, Hà Lan, Các
tiểu Vương quốc Ả rập thống nhất, Anh và Nhật Bản là những khách hàng chính của Ấn Độ.
Trong khi đó, khách hàng chính của Việt Nam là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Anh, Úc, Hồng
Kông….Từ năm 2000 cho tới nay, ngành điều Việt Nam không ngừng lớn mạnh và trưởng
thành để giữ vị trí số 1 thế giới về xuất khẩu nhân điều. Với nhu cầu tiêu thụ điều lớn mạnh
như vậy thì việc đầu tư phát triển ngành điều trở thành một trong những ngành mũi nhọn
trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam nói chung và Bình Thuận nói riêng là việc làm hết sức
cần thiết và cần có sự quan tâm, đầu tư của Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương
trong tỉnh.
3.1.3.Định hướng chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh
- Quy hoạch các vùng điều trọng điểm của tỉnh tập trung vào 6 huyện là Hàm Tân,
Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc và Bắc Bình.
- Liên kết sản xuất giữa nông nghiệp và công nghiệp sẽ làm thay đổi tính chất lao
động, sử dụng nguồn lao động hợp lý hơn trong từng khâu sản xuất, cơ cấu của từng ngành
sẽ được hoàn thiện, trình độ xã hội hóa được nâng cao một cách đáng kể, nguồn vốn đầu tư
cho quá trình tái sản xuất ngày càng lớn và hiệu quả kinh tế ngày càng được nâng cao.
- Hoàn thiện mối liên kết giữa khâu trồng và khâu chế biến điều ở Bình Thuận.
- Xây dựng các vùng điều tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa nhằm nâng cao hiệu
quả kinh tế, góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu cây trồng là động lực để phát triển
nông nghiệp, nông thôn của tỉnh.
- Khai thác có hiệu quả quỹ đất đai và điều kiện tự nhiên để tăng nhanh diện tích trồng
điều theo hướng tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích, gắn việc sử dụng đất với bảo vệ
môi trường, đảm bảo sự phát triển bền vững lâu dài.
- Phủ xanh cơ bản các diện tích đất trống đồi trọc bằng cây điều ở những nơi có khả
năng trồng được điều đồng thời tập trung cải tạo, khôi phục diện tích điều hiện có của các
huyện và loại bỏ một số vườn điều cho năng suất thấp, sản lượng hạt kém.
- Phát triển các vùng điều gắn với tổ chức tốt việc thu mua, chế biến và tiêu thụ sản
phẩm đồng thời cần đầu tư công nghệ chế biến hiện đại cho các cơ sở chế biến hạt điều trong
tỉnh.
- Đưa cây điều thực sự trở thành cây cứu cánh của các hộ nông dân nghèo trong công
cuộc xóa đói giảm nghèo nói riêng và công cuộc phát triển kinh tế của tỉnh nhà nói chung.
3.2.Định hướng tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều
3.2.1.Định hướng tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều
- Nhiệm vụ trọng tâm ngành nông nghiệp của tỉnh trong 10 năm tới là đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, phát triển nền nông nghiệp có tỷ suất
hàng hóa cao trên cơ sở đi vào chuyên canh một số cây trồng và vật nuôi có lợi thế của địa
phương. Quản lý chặt chẽ và sử dụng có hiệu quả đất nông nghiệp, áp dụng rộng rãi các
thành tựu khoa học và công nghệ sinh học trong sản xuất mà trọng tâm là khâu giống, thủy
lợi, cơ giới hóa; tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ nông
nghiệp. Trong ngành trồng trọt, đặc biệt cây công nghiệp lâu năm, trong những năm gần đây
tỉnh đang có sự quan tâm, đầu tư phát triển các cây công nghiệp đặc biệt là cây điều. Theo
Quyết định số 1713/2002/QĐ- CT UBBT ngày 10/07/2001 của Chủ tịch UBND Tỉnh về việc
Quy hoạch phát triển cây điều tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2001- 2010, diện tích điều trong
toàn tỉnh được quy hoạch 30.500 ha, trong đó trồng mới là 6.800 ha và có khả năng diện tích
điều sẽ được mở rộng hơn nữa trong tương lai.
Trên cơ sở xác định hướng và mục tiêu phát triển của ngành trong cơ cấu chiến lược
phát triển nông nghiệp của tỉnh trong những năm tới, theo tôi thì ngành điều ở Bình Thuận
hiện tại và trong vòng 10 – 15 năm tới nên phát triển với diện tích khoảng 40.000 – 50.000
ha mới đảm bảo cung cấp lượng nhân điều khi nhu cầu thị trường trong và ngoài nước ngày
càng tăng. Vấn đề ở Bình Thuận là cần tập trung cao đẩy nhanh năng suất, chất lượng điều,
xây dựng kịp thời các cơ sở chế biến điều và các sản phẩm khác từ điều.
- Quy hoạch các vùng nguyên liệu điều ổn định và tổ chức lãnh thổ trồng điều tập
trung vào các huyện có diện tích lớn như Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc.
Bên cạnh việc quy hoạch cần có sự đầu tư quan tâm, chăm sóc và cải tạo các vườn điều, thay
thế các giống điều cũ trồng bằng hạt bằng các giống điều ghép có khả năng chịu hạn tốt và
cho năng suất cao như ĐDH 135, ĐDH 07, ĐDH 149, ĐDH 2907, PN1, LG1, CH1, KP-11,
KP-12, EK-24….
- Để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho các nhà máy hoạt động sản xuất liên tục trong
năm thì cần đầu tư phát triển, quy hoạch các vùng nguyên liệu ổn định, đồng thời mỗi nhà
máy cần xây dựng kho bảo quản nhằm dự trữ nguồn nguyên liệu để phục vụ cho việc sản
xuất được kéo dài liên tục trong năm đảm bảo công suất chế biến của mỗi nhà máy và bảo
quản tốt được chất lượng sản phẩm chế biến.
- Việc xây dựng hệ thống các cơ sở chế biến là một trong những nhiệm vụ chiến lược
quan trọng của tỉnh. Để đảm bảo cho quá trình hiện đại hóa và việc sản xuất phát triển ổn
định thì cần kết hợp xây dựng một số nhà máy quy mô vừa và nhỏ hiện đại, vừa phải tiếp tục
duy trì các cơ sở chế biến thủ công để không gây xáo trộn quá lớn trong sản xuất. Trong kế
hoạch 10 hoặc 15 năm tới chúng ta có thể xây dựng một số cơ sở chế biến trên các vùng
trọng điểm có diện tích lớn như Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc. Nhằm đa
dạng hóa sản phẩm, khi xây dựng các nhà máy công nghiệp với công suất chế biến lớn thì
Nhà nước và các doanh nghiệp cần đầu tư, trang bị máy móc thiết bị hiện đại nhằm tạo nên
một hệ thống dây chuyền sản xuất khép kín từ khâu sơ chế đến khâu tinh chế.
Việc quy hoạch, tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều hiện nay là việc làm cần thiết
và thiết thực. Đứng trước thực tế nền sản xuất xã hội, thì ngành trồng điều không thể tách rời
với việc chế biến sản phẩm từ điều và ngược lại, ngành chế biến điều cũng không thể tiến
hành riêng lẻ mà hai quá trình này phải có sự ràng buộc hữu cơ với nhau trong mọi công
đoạn sản xuất để tạo nên một chu trình sản xuất hoàn chỉnh từ khâu đầu (trồng điều) đến khi
chế biến ra sản phẩm cuối cùng (nhân điều và một số sản phẩm khác).
Để việc kết hợp giữa trồng và chế biến điều trong tỉnh được diễn ra thuận lợi thì cần
thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa trồng và chế biến điều. Bên cạnh việc quy hoạch các
vùng nguyên liệu điều ổn định thì cần xây dựng thêm các nhà máy chế biến điều đặt tại các
vùng nguyên liệu nhằm giảm bớt chi phí vận chuyển, cung cấp kịp thời nguồn nguyên liệu
phục vụ cho sản xuất.
- Ngoài ra, Nhà nước cần tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng nhất là phát triển hệ thống
giao thông, thông tin liên lạc, mạng lưới điện, nước và các công trình phúc lợi khác, sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông, trao đổi sản phẩm hàng hóa, đi lại nhanh chóng và kịp
thời. Trước mắt cần xây dựng hệ thống đường nối các xã trong huyện, nối các huyện trong
tỉnh với các cơ sở chế biến công nghiệp với nhau, tiến tới hoàn chỉnh hệ thống đường bộ đến
các xã, thôn vùng sâu, tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hóa, khoa học kỹ thuật. Muốn
giảm được chi phí vận chuyển không có cách nào khác là xây dựng hệ thống giao thông đảm
bảo lưu thông dễ dàng, các phương tiện vận chuyển nhanh chóng đưa sản phẩm tươi sống
nguyên liệu đến cơ sở chế biến kịp thời.
- Về nguồn lao động: cần đào tạo và sử dụng nguồn lao động truyền thống tại địa
phương, sử dụng lực lượng lao động trồng điều vào làm các khâu ở các nhà máy chế biến
công nghiệp như khâu chế biến bánh kẹo, nước giải khát, rượu, cồn… Thông qua quá trình
lao động đó, nhận thức về lao động công nghiệp và lao động nông nghiệp dần dần sẽ được
chuyển hóa và nâng cao, đời sống văn hóa, vật chất của người nông dân được cải thiện, giảm
bớt chênh lệch về thu nhập đã tồn tại nhiều năm nay.
Cây điều là loại cây công nghiệp dễ trồng, sinh trưởng phát triển tốt trong nhiều tiểu
vùng khí hậu khác nhau trong tỉnh. Cây điều có lợi thế về giá trị kinh tế và thực phẩm của
hạt, thân dùng làm gỗ, củi, vốn đầu tư thấp, phù hợp với người nghèo. Do đó, về mặt chủ
trương của tỉnh đã xác định cây điều là một trong những loại cây công nghiệp lâu năm có giá
trị kinh tế cao và có tác dụng phủ xanh đất trống đồi trọc góp phần cải tạo môi trường sinh
thái, giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp và lao động phổ thông ở thành thị hiện
nay.
3.2.2.Những giải pháp
3.2.2.1.Xây dựng mô hình thực hiện ở Bình Thuận
Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức và
phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích phát triển sản xuất hàng hóa,
khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của mọi công dân và các tổ chức xã hội, giải
phóng sức sản xuất, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, phát huy tính
bình đẳng trong môi trường luật pháp và môi trường kinh doanh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, thúc đẩy sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì thế, trước nhu cầu
phát triển của mỗi ngành và những thực tế khách quan, chúng ta có thể tự chọn cho mình
hướng phát triển có lợi nhất và phù hợp với cơ chế thị trường.
Để hoàn thiện cho việc tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở Bình Thuận đạt hiệu
quả cao, có thể chọn và phát triển một số mô hình liên kết sau:
+ Mô hình liên kết thông qua hình thức hợp đồng kinh tế
Trong quá trình sản xuất, các hộ nông dân luôn đối mặt với ba yêu cầu của sản xuất
nông nghiệp mà bản thân họ rất khó đáp ứng là vốn, công nghệ và thị trường. Phương thức tổ
chức sản xuất nông sản theo hợp đồng cho phép đáp ứng được các yêu cầu trên một cách tốt
nhất. Phương thức hợp đồng là liên kết lợi ích và hiệu quả giữa nông dân sản xuất nguyên
liệu và doanh nghiệp chế biến. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến gắn với thế mạnh
của từng vùng, gắn với vùng nguyên liệu và hệ thống kinh doanh thương mại.
Phương thức hợp đồng là một phương thức quản lý sản xuất tốt, tạo được mối liên kết
nông công nghiệp trong nền kinh tế. Với mô hình liên kết thông qua phương thức hợp đồng
sẽ đem lại nhiều tác dụng to lớn như:
- Khi hợp đồng trực tiếp giữa nông dân và nhà máy chế biến thì một phần lợi nhuận
của mua bán trung gian chuyển sang cho nông dân trực tiếp sản xuất, xóa bỏ dần tầng lớp
mua bán trung gian. Vùng nguyên liệu được chủ động hơn về nguồn vốn.
- Những rủi ro về sản xuất và tiêu thụ được giảm bớt trong quá trình sản xuất nguyên
liệu, chế biến điều người nông dân không phải gánh chịu tất cả.
- Qua hình thức hợp đồng kinh tế, có thể kết nối thông tin hai chiều giữa thị trường
tiêu thụ điều với người sản xuất, nhờ đó mà đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng
nông sản, tăng khả năng cạnh tranh.
- Hợp đồng kinh tế còn tạo mối gắn kết giữa nhà máy chế biến công nghiệp với vùng
nguyên liệu. Mối gắn kết này tạo thế ổn định trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp.
Điều kiện cơ bản để phát triển thành công phương thức hợp đồng là phải có chính sách
phù hợp của Chính phủ và sự tham gia, ủng hộ, khuyến khích của các cơ quan chuyên ngành
và chính quyền địa phương.
+ Mô hình xây dựng tổ hợp tác sản xuất điều ở từng vùng
Tổ hợp tác trồng điều là một hình thức tổ chức sản xuất- kinh doanh- dịch vụ của nông
dân trồng điều trong vùng, có quy mô nhỏ, kết cấu tổ chức đơn giản. Tổ hợp tác sản xuất
điều được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của một số nông dân trong vùng, có chung một số
nhu cầu cho sản xuất và cử ra một ban tổ chức dịch vụ để thay thế, giải quyết những công
việc cho tổ.
Tùy theo khả năng hoạt động mà quy mô của tổ hợp tác có thể mở rộng theo từng
khâu hoặc nhiều khâu dịch vụ trong sản xuất điều như: khâu làm đất, khâu vay vốn, khâu vật
tư nông nghiệp, khâu liên hệ các cơ sở chế biến để tiêu thụ nguyên liệu điều của các thành
viên trong tổ.
Những tồn tại hiện nay ở Bình Thuận cần được quan tâm là việc trồng và chế biến
điều chưa có quan hệ chặt chẽ, chưa có sự ràng buộc nào cả, đôi khi còn bị tư thương điều
tiết giá cả và nguyên liệu làm cho các nhà máy hoạt động thiếu ổn định.
Cần phải xóa bỏ ranh giới ngăn cách giữa người trồng điều và nhà máy chế biến, để
nhà máy chế biến gắn với vùng nguyên liệu, mới có thể đưa hiệu quả sản xuất lên cao hơn.
Việc phá bỏ sự ngăn cách giữa người trồng điều và cơ sở chế biến trước hết là sớm kiện toàn
và xác lập tổ chức kinh tế hợp tác. Xúc tiến thành lập các tổ hợp tác trồng điều ở từng địa
phương. Tổ hợp tác trồng điều sẽ trở thành đơn vị trung chuyển cho quá trình sản xuất và chế
biến. Gắn kết nông dân với nhà máy chế biến và loại bỏ tầng lớp tư thương thao túng thị
trường.
Đa phần các nông dân trồng điều trong tỉnh là những hộ nông dân có diện tích canh tác
nhỏ, nguồn vốn ít, việc đầu tư cho cây trồng cũng gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, việc hợp tác
giữa các hộ nông dân trồng điều với nhau nhằm mục đích ổn định sản xuất.
+ Mô hình trồng mới, thâm canh điều ghép và gắn kết với các cơ sở chế biến phù
hợp với điều kiện ở Bình Thuận
Với điều kiện khí hậu và đất đai phù hợp với việc trồng điều, Bình Thuận có thể phát
triển diện tích 40.000 ha điều, trong đó trồng mới 6.000 ha điều ghép giống mới và thâm
canh diện tích đã trồng nhằm đưa năng suất và sản lượng lên cao. Cần quy hoạch các vùng
điều tập trung vào 6 huyện là Hàm Tân, Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận
Nam và Bắc Bình. Đồng thời các nhà máy chế biến hạt điều hiện có trong tỉnh cần được duy
trì nhằm ổn định sản xuất và chế biến của một số vùng. Còn lại một ít vùng nguyên liệu chưa
có nhà máy chế biến thì cần tận dụng khả năng tích lũy vốn của địa phương, xây dựng thêm
một số nhà máy chế biến. Bên cạnh việc xây dựng các nhà máy chế biến thì cũng cần phải
tiếp tục duy trì các cơ sở chế biến thủ công hạt điều.
Các nhà máy chế biến cần có sự đầu tư về chất lượng sản phẩm, tạo ra nhiều sản phẩm
có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Hiện nay, quá trình chế biến điều
trong tỉnh chỉ dừng lại ở việc sơ chế ra nhân điều, chưa thực hiện được quá trình tinh chế,
chưa tạo ra được các sản phẩm tiêu dùng ngay có chất lượng như bánh, kẹo, mứt, nước uống,
rượu….do đó Nhà nước cần có sự liên kết với các doanh nghiệp tư nhân trong tỉnh quan tâm,
đầu tư cho các nhà máy chế biến về cơ sở vật chất, trang bị máy móc, thiết bị theo một dây
chuyền khép kín, hiện đại nhằm tạo ra chất lượng các sản phẩm cao hơn đáp ứng nhu cầu của
thị trường.
Việc chế biến hiện nay chỉ chú trọng chế biến hạt điều để lấy sản phẩm nhân điều, còn
các phần khác của điều như quả điều, vỏ hạt điều… lại bị bỏ đi nên hàng năm nguồn nguyên
liệu bị lãng phí là rất lớn. Quả điều thì có thể chế biến thành nhiều sản phẩm có giá trị như
nước uống, siro, bánh kẹo, rượu…, còn vỏ hạt điều là nguyên liệu để chế tạo sơn, verni, keo
dán, chất dẻo…Ở tỉnh Bình Thuận nói riêng và Việt Nam nói chung, thì việc chế biến quả
điều chưa được chú trọng, chỉ mới chế biến hạt để lấy nhân điều. Để khắc phục tình trạng bỏ
lãng phí quả điều sau khi đã lấy hạt, chúng ta có thể tận thu quả điều để chế biến thành các
sản phẩm dùng hàng ngày trong điều kiện hộ gia đình ở những vùng trồng điều. Mặt khác,
cần đầu tư cho việc nghiên cứu tận dụng chế biến quả điều trên quy mô công nghiệp hoặc
những cụm chế biến vừa và nhỏ. Giải quyết được điều đó sẽ tạo thêm sản phẩm cho xã hội
và tăng thêm thu nhập cho người nông dân.
Trong những năm vừa qua, tình hình sản xuất và chế biến điều ở Bình Thuận vẫn chưa
đạt được kết quả cao, chưa có sức thuyết phục, chưa hình thành một cơ chế thống nhất, tính
chất liên kết chưa được đảm bảo giữa nhà máy chế biến với vùng nông thôn sản xuất nguyên
liệu để nói lên tính ổn định, tình trạng nguyên liệu lúc thừa, lúc thiếu, tranh chấp quyền lợi
giữa nông dân và nhà máy diễn ra và kéo dài trong ngành trồng và chế biến điều. Vì thế, mô
hình trồng mới, thâm canh điều ghép ở các vùng nguyên liệu và gắn kết với các cơ sở chế
biến là một mô hình phù hợp nhất với điều kiện hiện nay của tỉnh.
3.2.2.2.Xác định quy mô vùng nguyên liệu
Hạt điều là nguyên liệu cung cấp trực tiếp cho các cơ sở chế biến nên sau khi thu
hoạch, hạt điều phải được đưa ngay về nhà máy, các cơ sở chế biến càng nhanh càng tốt. Do
đó việc thiết lập vùng nguyên liệu là rất cần thiết bởi vì vùng nguyên liệu càng tập trung,
khoảng cách vận chuyển rút ngắn lại, công việc thu hoạch điều và việc vận chuyển về cơ sở
chế biến sẽ kịp thời hơn.
Các vùng cụ thể :
+ Vùng 1 với diện tích khoảng 7.520 ha gồm các huyện Bắc Bình, Hàm Thuận Bắc và
Phan Thiết.
+ Vùng 2 với diện tích khoảng 12.000 ha gồm các huyện Hàm Thuận Nam và Hàm
Tân.
+ Vùng 3 với diện tích khoảng 7.500 ha gồm các xã trồng điều của huyện Tánh Linh.
+ Vùng 4 với diện tích khoảng 8.000 ha gồm các xã trồng điều của huyện Đức Linh.
Việc xác định quy mô vùng nguyên liệu là một trong những nội dung quan trọng
quyết định quy mô xây dựng cơ sở chế biến và ngược lại. Đối với tỉnh Bình Thuận hiện nay
vấn đề này có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức toàn bộ lãnh thổ trồng và chế biến
điều của từng huyện và cả tỉnh, trong kế hoạch phát triển tổng thể nền kinh tế từ nay đến năm
2020. Ngoài ra, việc xác định vùng nguyên liệu và cơ sở chế biến phải căn cứ vào nhu cầu xã
hội trước mắt và lâu dài, vào khả năng thực của tỉnh. Khi hai yếu tố này đạt tới mức thăng
bằng thì chính nó sẽ thúc đẩy ngành phát triển có hiệu quả và lâu bền.
Bình Thuận nói riêng và cả nước nói chung là một trong những vùng có điều kiện phát
triển cây điều với điều kiện đất đai, khí hậu, nguồn nước rất thích hợp với cây điều. Nhờ giá
trị kinh tế của điều nên nhiều hộ nông dân đã trồng điều với diện tích lớn. Tuy có những biến
động theo thời gian, nhưng đến nay cây điều vẫn tồn tại phát triển không ngừng mở rộng tạo
nguyên liệu cho ngành sản xuất nhân điều và một vài sản phẩm khác.
Đối với ngành trồng điều ở Bình Thuận nếu như chúng ta không thiết lập được các
vùng sản xuất ổn định, để rồi liên kết chặt chẽ với ngành chế biến, cung cấp nguyên liệu cho
chế biến thì không thể đạt được mục đích sản xuất. Đã đến lúc chúng ta phải thiết lập cho
được quy mô các vùng nguyên liệu để tạo ra một địa bàn cung cấp ngắn nhất, thuận lợi nhất
cho các cơ sở chế biến, giảm bớt chi phí vận chuyển không cần thiết.
3.2.2.3.Xây dựng hệ thống cơ sở chế biến
Để thực hiện hoàn chỉnh lãnh thổ trồng và chế biến điều ở Bình Thuận, bên cạnh việc
thiết lập các vùng nguyên liệu sản xuất ổn định thì việc xây dựng hệ thống các cơ sở chế biến
cũng là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng của tỉnh.
Cơ sở khoa học đảm bảo cho quá trình hiện đại hóa và mở rộng nhà máy là nhu cầu về
nhân điều và một số sản phẩm khác từ điều ngày càng tăng theo mức gia tăng dân số trong
nước và một số nước trên thế giới.
-Nguồn nguyên liệu cung cấp ngày càng nhiều
-Nhà máy đã đi vào sản xuất chế biến từ lâu với quy trình công nghệ tương đối
hoàn chỉnh.
-Có lực lượng lao động truyền thống tại chỗ dồi dào.
-Nhà máy đã và đang được đầu tư cải tiến dây chuyền công nghệ.
-Tạo việc làm cho người lao động trồng điều và công nhân trong nhà máy ổn
định, thời gian sản xuất liên tục, cuộc sống được nâng cao hơn. Trong thời gian 10 – 15 năm
tới các nhà máy này phải được hoàn chỉnh đồng bộ các khâu của toàn bộ dây chuyền sản
xuất ngang tầm với các nhà máy hiện đại trên thế giới. Mặt khác cần tiếp tục xây dựng một
số nhà máy quy mô vừa và nhỏ hiện đại.
Việc xây dựng các nhà máy chế biến quy mô vừa và nhỏ tại địa phương phù hợp với
việc quản lý, hành chính, tổ chức ở các địa phương, giúp quá trình thực hiện sản xuất chế
biến tiến hành nhanh chóng hơn, thu ngắn được khoảng cách vận chuyển từ vùng trồng điều
đến cơ sở chế biến, đồng thời tạo điều kiện đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các khâu : lai
tạo giống, tăng năng suất, tăng chất lượng trong điều, các khâu của quy trình công nghệ chế
biến ở địa phương được dễ dàng thuận lợi hơn. Ngoài ra nó còn tạo được việc làm cho người
lao động ở các địa phương, nâng cao thu nhập, mức sống cho gia đình của họ.
Do khả năng tích lũy vốn còn quá ít cùng với mức độ tăng trưởng của nền kinh tế còn
ở mức thấp nên không thể cùng một lúc xây dựng hàng loạt các nhà máy ở các huyện của
tỉnh Bình Thuận. Chúng ta phải vừa kết hợp xây dựng một số nhà máy quy mô nhỏ hiện đại,
vừa phải tiếp tục duy trì các cơ sở chế biến thủ công để không gây xáo trộn quá lớn trong sản
xuất. Trong kế hoạch 10 hoặc 15 năm tới chúng ta có thể xây dựng một số cơ sở chế biến
trên các vùng trọng điểm có diện tích lớn :
+ Xây dựng nhà máy chế biến ở huyện Hàm Thuận Bắc, công suất chế biến 10 – 12
tấn/ngày với chu trình khép kín, sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ.
+ Xây dựng nhà máy chế biến ở huyện Hàm Tân, công suất chế biến 15 -17 tấn/ngày
với chu trình khép kín, sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ.
+ Xây dựng nhà máy chế biến ở huyện Tánh Linh, công suất chế biến 12 -15 tấn/ngày
với chu trình khép kín, sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ.
+ Xây dựng nhà máy chế biến ở huyện Đức Linh, công suất chế biến 14 -16 tấn/ngày
với chu trình khép kín, sử dụng nguồn nhân lực tại chỗ.
Như vậy theo tôi, hướng phát triển mối quan hệ giữa trồng và chế biến điều ở Bình
Thuận, như đã trình bày bên cạnh việc cần thiết phải thiết lập các vùng nguyên liệu có quy
mô nhất định đảm bảo sản xuất ổn định có hiệu quả thì phải xây dựng được một số các cơ sở
chế biến, cụ thể trong thời gian 10 hoặc 15 năm tới ít nhất cũng phải xây dựng khoảng 3 – 4
cơ sở chế biến quy mô nhỏ hiện đại, công suất khoảng 15 tấn/ngày. Điều đó là cần làm và có
đủ khả năng làm được.
Khi xây dựng các nhà máy quy mô nhỏ cần phải có trang thiết bị đồng bộ hiện đại, với
hệ thống dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh, thực hiện ngay việc chế biến các sản phẩm khác từ
điều đồng thời với quá trình sản xuất nhân điều, ngoài ra cần xây dựng hệ thống xử lý nước
thải, phế thải sau khi chế biến nhằm bảo vệ môi trường xung quanh. Chỉ có như vậy mới phát
huy được vai trò hạt nhân trong lãnh thổ sản xuất vùng, đưa sản xuất đạt hiệu quả cao, góp
phần nâng cao đời sống người lao động, tạo được sự liên kết chặt chẽ, khăng khít về các mặt
sản xuất, tiêu thụ sản phẩm ở trong nước và các nước khác trên thế giới.
Quá trình tổ chức lãnh thổ sản xuất nông – công nghiệp trồng và chế biến điều ở Bình
Thuận nói riêng và các tỉnh khác trong cả nước nói chung đã và đang được nghiên cứu, các
cơ quan quản lý sản xuất nông nghiệp quan tâm, nhưng từ nhiều năm nay thực hiện chưa đạt
kết quả cao, chưa có sức thuyết phục lớn. Nguyên nhân cơ bản là chưa tìm được những biện
pháp đúng hoặc những biện pháp thực hiện chưa triệt để.
3.2.2.4.Xác định địa bàn tiêu thụ
Trong những năm gần đây, mặc dù có những biến động mạnh, nhưng ngành điều Việt
Nam đang khẳng định vị trí của mình trên thị trường thế giới và đang mở rộng địa bàn tiêu
thụ cả trên thị trường nội địa. Nhu cầu tiêu dùng hạt điều trong nước đang tăng lên theo nhịp
độ tăng thu nhập của dân cư. Vì vậy, tiềm năng phát triển đối với ngành điều là rất lớn cả
trên thị trường thế giới và trong nước.
Với vị trí địa lý của Bình Thuận là một trong những điều kiện thuận lợi để phát triển
sản xuất và mở rộng thị trường trong và ngoài nước. Thị trường nước ngoài như Trung Quốc,
Châu Âu là những khách hàng thường xuyên nhập hạt điều của Bình Thuận. Ngoài ra, nhu
cầu thị trường trong nước cũng đang có tiềm năng.
Thị trường tiêu thụ hạt điều ở Bình Thuận không những ở trong nước mà còn ở nhiều
nước trên thế giới. Đây chính là cơ sở và động lực thúc đẩy Bình Thuận phát huy thế mạnh
về tiềm năng của ngành trồng và chế biến điều trong tương lai.
3.2.2.5. Nguồn vốn đầu tư, khoa học kỹ thuật và xây dựng cơ sở hạ tầng
+ Nguồn vốn đầu tư: Phần lớn các hộ nông dân trồng điều là những hộ nghèo không
đủ vốn đầu tư cho chăm sóc nên năng suất bình quân của cây điều đạt chưa cao. Người trồng
điều thường phải sử dụng vốn tự có để trồng, do thiếu vốn nên năng suất, chất lượng không
cao và hiệu quả là lợi nhuận thấp. Do đó, việc quan tâm đầu tư hợp lý vốn cho nông dân
trồng điều là hết sức cần thiết:
- Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư để phát triển cây điều ở các hộ nông dân.
- Nhà nước hàng năm phải chủ động giành khoản ngân sách đầu tư thỏa đáng cho công
tác nghiên cứu khoa học, đặc biệt là công tác tuyển chọn và lai tạo giống điều cho năng suất
cao và chất lượng tốt.
- Đảm bảo đủ lượng vốn vay cho công tác cải tạo thâm canh vườn điều cũ, đồng thời
lồng ghép các chương trình được sử dụng vốn của ngân hàng dành cho người nghèo, vốn của
các chương trình: giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, định canh định cư vùng kinh tế
mới,…đặc biệt vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số để có thể hỗ trợ thêm
nguồn vốn ưu đãi cho việc cải tạo vườn điều của một số hộ nông dân.
- Nhà nước cần hỗ trợ nguồn vốn đầu tư cho việc xây dựng các cơ sở chế biến hạt điều
cũng như công nghệ, trang thiết bị, máy móc nhằm nâng cao năng suất cũng như chất lượng
sản phẩm.
+ Khoa học kỹ thuật: Tăng cường cán bộ kỹ thuật cho các huyện có diện tích vườn
điều tập trung lớn để hướng dẫn kỹ thuật trồng dặm, chăm sóc, cải tạo và bảo quản chăm sóc
sau thu hoạch.
- Tập trung đầu tư nghiên cứu bảo vệ thực vật cho cây điều để đảm bảo khắc phục tình
trạng giảm sản lượng điều do lây nhiễm sâu bệnh hiện nay.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học và tăng cường công tác chuyển giao công
nghệ thâm canh điều.
- Đổi mới công nghệ chế biến điều, tận dụng các sản phẩm từ điều để đa dạng hóa sản
phẩm. Nghiên cứu các biện pháp sử dụng phế phụ phẩm và chống ô nhiễm môi trường cho
các nhà máy chế biến.
- Thông qua công tác khuyến nông của Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bình Thuận đã
chuyển giao thành công tiến bộ khoa học kỹ thuật và được người sản xuất áp dụng rộng rãi
nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hạt điều, trong đó chủ yếu là sử dụng giống điều
ghép cao sản để trồng mới thay thế các vườn điều cũ trước đây trồng bằng hạt, đã già cỗi và
thoái hóa (năng suất chỉ đạt khoảng 2 – 3 tạ/ha). Đồng thời, nông dân cũng áp dụng các biện
pháp kỹ thuật cải tạo thâm canh cây điều để tăng năng suất (tỉa tán hàng năm, bón phân, tưới
nước…). Để đẩy mạnh phát triển điều ghép, từ năm 2001 đến nay, Tỉnh đã ban hành chính
sách hỗ trợ từ 50 – 80% giá giống để nông dân đầu tư trồng mới.
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng: là biện pháp quan trọng và rất cần thiết nhằm góp phần
thúc đẩy cho quá trình phát triển kinh tế- xã hội trên phạm vi từng lãnh thổ nhất định. Phát
triển hệ thống giao thông, thông tin liên lạc, mạng lưới điện, nước và các công trình phúc lợi
khác, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc lưu thông, trao đổi sản phẩm hàng hóa, đi lại và sinh
hoạt đảm bảo sự ổn định và phát triển lâu bền cho cả tỉnh.
- Hệ thống giao thông: là huyết mạch của nền kinh tế, nó có ý nghĩa rất lớn đối với
bất cứ ngành sản xuất nào. Giá thành sản phẩm được quy định ở hai yếu tố chính là các chi
phí sản xuất và chi phí vận chuyển. Vì thế mà vừa phải giảm chi phí sản xuất vừa phải giảm
chi phí vận chuyển mới có thể hạ giá thành sản phẩm. Muốn giảm được chi phí vận chuyển
không có cách nào khác là xây dựng hệ thống giao thông đảm bảo lưu thông dễ dàng, các
phương tiện vận chuyển nhanh chóng đưa sản phẩm tươi sống nguyên liệu đến cơ sở chế
biến kịp thời.
Bình Thuận cần tập trung xây dựng giao thông đường bộ phục vụ trong tỉnh, vận
chuyển các sản phẩm hàng hóa, đi lại nhanh chóng, kịp thời. Trước mắt xây dựng hệ thống
đường nối các xã trong huyện, nối các huyện trong tỉnh với các cơ sở chế biến công nghiệp
với nhau, tiến tới hoàn chỉnh hệ thống đường bộ đến các xã, thôn vùng sâu, tạo điều kiện cho
việc trao đổi hàng hóa, khoa học kỹ thuật.
Nhìn chung, mạng lưới giao thông trên địa bàn tỉnh Bình Thuận phân bố tương đối
đều và đang tiếp tục phát triển. Hệ thống các tuyến giao thông ven biển, các đường nối liền
quốc lộ với các vùng dân cư, khu kinh tế, khu du lịch và mạng lưới giao thông nông thôn
được đầu tư nâng cấp ngày càng hoàn thiện, bảo đảm nhu cầu vận chuyển hành khách và
hàng hóa được thuận lợi.
- Điện: Điện khí hóa nông thôn, cung cấp điện cho đời sống sinh hoạt và vận hành
máy móc sản xuất là việc làm cần được thực hiện trước. Nhu cầu đặt ra là làm thế nào để
nguồn điện có đủ cung cấp cho toàn bộ quá trình sản xuất chế biến.
Hiện nay, nguồn điện năng cung cấp còn thiếu, hệ thống lưới điện chưa đồng bộ, phần
nhiều chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt, còn phục vụ cho sản xuất công nghiệp và nông
nghiệp thì chưa cao. Do đó, việc xây dựng hệ thống điện nhất thiết phải do Nhà nước và
chính quyền địa phương các cấp chủ động đầu tư thực hiện, các hộ nông dân, các xí nghiệp
có trách nhiệm cùng tham gia đóng góp vốn xây dựng. Thực hiện tốt việc cung cấp điện cho
sản xuất kinh doanh còn tạo điều kiện nâng cao trình độ văn hóa, sinh hoạt của người dân
nông thôn, giúp quá trình chuyển hóa cuộc sống nông thôn tiến gần cuộc sống thành thị.
Kết hợp xây dựng kịp thời các cơ sở y tế khám chữa bệnh cho các vùng nông thôn và
khu công nghiệp mới xây dựng là việc làm cũng rất quan trọng cùng với một hệ thống các
trường học các cấp, nhanh chóng đưa cuộc sống ổn định, người dân yên tâm sản xuất, tích
cực bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hóa khoa học kỹ thuật, vận dụng vào sản xuất có hiệu
quả hơn.
- Nước: Nước là yếu tố chi phối khả năng khai thác tiềm năng nông nghiệp của tỉnh.
Do lượng mưa hàng năm thấp, mùa khô kéo dài nên cũng đã ảnh hưởng ít nhiều đến sản xuất
nông nghiệp của tỉnh. Đối với cây điều cần phải có hệ thống thủy lợi thích ứng với nó vì ở
từng giai đoạn phát triển của điều yêu cầu nước khác nhau, chỉ thực hiện tưới tiêu chủ động,
kịp thời mới thu được hiệu quả trồng điều cao. Công việc này Nhà nước và các cấp chính
quyền địa phương phải tập trung giải quyết kết hợp sự đóng góp sức lao động của các hộ
nông dân.
Những năm gần đây, tỉnh đã đầu tư xây dựng một số công trình thủy lợi nhằm phục
vụ nước cho sinh hoạt và sản xuất của người dân. Do đó, nguồn nước cũng được đảm bảo
cung cấp kịp thời, đầy đủ cho sản xuất nông nghiệp nói chung và đối với các thời kỳ sinh
trưởng, phát triển của cây điều nói riêng.
3.2.2.6. Đào tạo và sử dụng nguồn lao động
Là vấn đề cần có biện pháp giải quyết kịp thời cùng với từng bước tổ chức lại sản xuất
nông nghiệp ở tỉnh nói chung và ngành trồng điều nói riêng. Với số dân hơn 1 triệu người,
trong đó có khoảng 591.650 người lao động (2009). Nguồn lao động nông nghiệp chiếm hơn
53,2%, trình độ văn hóa thấp, khả năng sử dụng máy móc hiện đại, ứng dụng tiến bộ khoa
học vào sản xuất rất hạn chế. Vấn đề cần quan tâm là chất lượng lao động và việc sử dụng số
lao động này. Do đó trình độ chuyên môn, khả năng giao tiếp và hiểu biết xã hội của lực
lượng lao động phải được nâng cao hơn. Vì thế mà cần phải thực hiện nhanh quá trình công
nghiệp hóa nông nghiệp, thành thị hóa nông thôn.
Việc xây dựng các cơ sở chế biến công nghiệp đối với cây điều ở các huyện là một
trong những mục đích làm thay đổi hoạt động lao động nông nghiệp sang dạng lao động
công nghiệp. Các cơ sở chế biến nhất thiết phải sử dụng phần lớn số lao động trồng điều tại
các huyện vào một số khâu như: sau khi thu hoạch xong một bộ phận lao động chuyển sang
phân xưởng chế biến rượu, bánh kẹo, giấm ăn, cồn…, nếu thực hiện được như vậy thì chắc
chắn sẽ tạo được sự gắn bó chặt chẽ, khăng khít hơn giữa trồng và chế biến, thời gian lao
động được tận dụng triệt để hơn. Thông qua quá trình lao động đó, nhận thức về lao động
công nghiệp và lao động nông nghiệp dần dần sẽ được chuyển hóa và nâng cao, đời sống văn
hóa, vật chất của người nông dân được cải thiện, giảm bớt chênh lệch về thu nhập đã tồn tại
nhiều năm nay.
3.2.2.7. Xây dựng hệ thống tổ chức và những chính sách phù hợp
+ Hệ thống tổ chức quản lý:
Nhà nước và các cấp chính quyền cần có sự thống nhất từ tỉnh đến những địa phương
sản xuất điều, quản lý chặt chẽ từ khâu trồng đến khâu chế biến thành sản phẩm điều. Vai trò
của các cơ quan chính quyền các cấp từ trên xuống chỉ nên dừng lại ở việc theo dõi, kiểm tra
các đơn vị sản xuất thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước, mà không tham gia vào việc điều
hành trực tiếp quá trình sản xuất. Việc điều hành toàn bộ sản xuất và tiêu thụ phải do các đơn
vị cụ thể thực hiện, có như vậy mới chủ động được kế hoạch sản xuất kinh doanh của từng
đơn vị.
+ Các chính sách:
- Chính sách phát triển: Nhà nước cần quy hoạch cơ cấu cây trồng hiện nay ở Bình
Thuận, nhất là cây điều nhằm ổn định diện tích gieo trồng trong những năm tới, tránh hiện
tượng cây điều phải tranh chấp với các loại cây trồng khác nhất là cây cao su, gây biến động
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong vùng. Với định hướng quy hoạch phát triển cây
điều của tỉnh đến năm 2010 trong chiến lược phát triển nông nghiệp của Bình Thuận thì diện
tích điều là 30.500 ha.
Trên cơ sở xác định hướng và mục tiêu phát triển của ngành trong cơ cấu chiến lược
phát triển nông nghiệp của tỉnh trong những năm tới, theo tôi thì ngành điều ở Bình Thuận
hiện tại và trong vòng 10 – 15 năm tới nên phát triển với diện tích khoảng 40.000 – 50.000
ha mới đảm bảo cung cấp lượng nhân điều khi nhu cầu thị trường trong và ngoài nước ngày
càng tăng. Chúng ta phải có kế hoạch phát triển ngành điều trong nước, vừa đảm bảo chủ
động sản xuất, tiêu thụ vừa phát huy được tiềm năng của từng vùng. Vấn đề ở Bình Thuận là
cần tập trung cao đẩy nhanh năng suất, chất lượng điều, xây dựng kịp thời các cơ sở chế biến
điều và các sản phẩm khác từ điều.
- Chính sách tín dụng: Nhà nước cần có chính sách về vốn vay cho nông dân trồng
điều từ các ngân hàng tín dụng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Ngoài ra cần ưu tiên
giải quyết cho nông dân trồng điều vay vốn trả chậm, lãi suất ưu đãi trong điều kiện đầu tư
cho các thiết bị, cơ giới kỹ thuật phục vụ sản xuất. Đồng thời tăng nguồn vốn vay trung hạn
và dài hạn cho các cơ sở chế biến điều và nâng cao vốn đầu tư cho nông dân trồng điều trên
mỗi đơn vị diện tích gieo trồng.
- Chính sách thuế và tài chính: Với chủ trương lấy nông nghiệp làm nền tảng cho sự
phát triển các ngành kinh tế khác trong giai đoạn hiện nay. Đảng và Nhà nước cần có những
chính sách ưu đãi về thuế nông nghiệp, nhất là các ngành có giá trị xuất khẩu, trong đó có
ngành sản xuất điều. Có như vậy mới kích thích nông dân tham gia xây dựng, phát triển kinh
tế hợp tác trồng điều ở các địa phương. Cây điều chủ yếu được trồng ở vùng sâu, là cây góp
phần xóa đói giảm nghèo và có tác dụng phủ xanh đất trống đồi núi trọc, nên Nhà nước và
chính quyền địa phương cần xem xét để miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong 5 năm đầu
tính từ khi trồng cây để khuyến khích nông dân trồng mới, chăm sóc, thâm canh cây điều.
- Chính sách giá cả: Vấn đề giá cả mua bán nguyên liệu đóng vai trò rất quan trọng
trong việc bình ổn về sản xuất cũng như chế biến trong kinh tế thị trường. Giá thu mua điều
có ý nghĩa quyết định đối với việc tồn tại hay triệt tiêu ngành trồng điều. Nhiều năm qua do
chính sách giá cả không ổn định gây ra sự biến động lớn về diện tích trồng điều ở các huyện,
một số hộ nông dân đã phá bỏ vườn điều không trồng điều nữa, do đó nguồn nguyên liệu
cung cấp cho các cơ sở chế biến bị biến động theo, nhà máy hoạt động kém hiệu quả. Việc
điều chỉnh giá cả cho phù hợp với từng thời kỳ là vấn đề cần được vận dụng linh hoạt, giải
quyết kịp thời mới có sức thuyết phục, thúc đẩy sản xuất phát triển. Để giúp nông dân trồng
điều không bị thua thiệt khi giá mua bán nguyên liệu điều bấp bênh, không ổn định, Nhà
nước cần đưa ra những chính sách cụ thể để can thiệp nhằm bảo vệ quyền lợi cho nông dân
ổn định giá thu mua điều.
Ngoài ra thì việc xây dựng thang giá phù hợp, ổn định là vấn đề cấp thiết đối với nhà
nước và các cơ sở liên kết. Bên cạnh giá mua nguyên liệu thì giá cung ứng các loại phương
tiện thiết yếu cho người trồng điều như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cũng cần phải thống
nhất trong các đơn vị với một thời gian nhất định.
- Chính sách xây dựng quỹ hỗ trợ xuất khẩu điều: Điều sản xuất chủ yếu là để xuất
khẩu nên dễ gặp rủi ro khi tiến hành sản xuất. Do vậy, để tạo điều kiện xuất khẩu ổn định,
tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế, Nhà nước cần xây dựng quỹ hỗ trợ xuất khẩu
điều, để ngành điều chủ động về kinh phí, tự trang trải và bù đắp những thâm hụt do giá cả
thị trường thế giới xuống thấp gây thua lỗ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh điều, tránh tình
trạng gây thua lỗ cho người trồng điều dẫn đến chặt phá vườn điều, làm ảnh hưởng đến hoạt
động của các cơ sở chế biến, lao động thiếu việc làm, xáo trộn trật tự xã hội nông thôn.
Ngoài ra thì việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, tìm đầu ra cho ngành điều là vấn đề
cũng cần được quan tâm, từ đó đầu tư thích đáng cho công nghệ chế biến những sản phẩm
thị trường có nhu cầu, chẳng hạn như bánh kẹo, rượu, cồn,…Trong thời gian đầu, Nhà nước
cần trợ giá cho ngành phát triển sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu của
thị trường trong và ngoài nước, có như vậy mới kích thích sản xuất tiếp tục phát triển.
- Chính sách bảo vệ môi trường sản xuất: Sản xuất và chế biến điều thường đòi hỏi
nguồn nguyên nhiên liệu phong phú và đa dạng, có tác động to lớn đến môi trường, do vậy
việc sản xuất và chế biến điều cần chú ý tới việc giữ gìn và bảo vệ môi trường. Cơ quan quản
lý Nhà nước về môi trường ở địa phương cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, quản lý
thực thi nghiêm chỉnh pháp luật môi trường trong quá trình sản xuất và chế biến điều.
LƯỢC ĐỒ HƯỚNG TỔ CHỨC LÃNH THỔ TRỒNG VÀ CHẾ BIẾN
ĐIỀU Ở BÌNH THUẬN
3.2.3.Một số kiến nghị
+Với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cần:
- Chỉ đạo triển khai sớm việc rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển điều trên
toàn quốc và ở từng tỉnh để có một quy hoạch về điều ổn định lâu dài, phù hợp với điều kiện,
lợi thế của từng vùng và cung cấp điều trong nước và thế giới.
- Chỉ đạo rà soát, đánh giá lại quy trình trồng, chăm sóc đến thu hoạch và sau thu
hoạch điều và đưa ra những quy trình chuẩn về chất lượng sản phẩm đối với từng loại điều
theo vùng sản xuất đồng thời tổ chức việc quảng bá các quy trình đó tới từng hộ nông dân và
trang trại theo vùng đã xác định. Tạo căn cứ để xác định nguồn gốc sản phẩm điều và là cơ
sở để các doanh nghiệp xây dựng và quảng bá thương hiệu về sản phẩm điều của mình.
- Tập trung hỗ trợ nông dân trồng điều và doanh nghiệp chế biến điều, hạ giá thành
sản xuất mà trước hết là giảm chi phí đầu vào. Hạ giá thành cho người trồng điều cần được
triển khai theo hướng thay đổi cơ cấu giống và áp dụng các biện pháp kỹ thuật, thâm canh
tăng năng suất cây trồng và nâng cao chất lượng.
- Tăng cường liên kết các nhà khoa học kỹ thuật với nông dân và các doanh nghiệp
chế biến điều. Rà soát, xây dựng quy hoạch lại phát triển công nghiệp chế biến điều theo
từng vùng sản xuất. Cân đối quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu với công nghiệp chế biến
đồng thời đưa ra quy định nếu doanh nghiệp nào không đầu tư vào trồng mới, cải tạo, nâng
cấp vùng nguyên liệu điều thì không được tham gia kinh doanh điều.
- Xây dựng quy định về phát triển công nghiệp chế biến theo hướng tăng tỉ lệ sản
phẩm tinh chế, nâng cao hàm lượng công nghệ trong các sản phẩm điều tiêu thụ trong nước
cũng như xuất khẩu ra nước ngoài.
+ Tỉnh Bình Thuận
- Cây điều theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế là cây thích hợp với người
nghèo, do vốn đầu tư ban đầu thấp, yêu cầu về chăm sóc không cao, không quá tốn kém nên
người trồng điều đã ít chú ý đến các khâu chăm sóc, cải tạo và nâng cấp vườn điều dẫn đến
sản lượng đạt thấp. Do đó Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần có sự hỗ trợ về
vốn, giúp nông dân thay đổi cây điều giống cũ, năng suất thấp sang điều giống mới cho năng
suất cao đồng thời triển khai rộng công tác khuyến nông tới từng người dân đang và sẽ trồng
điều.
- Nhà nước và các cấp chính quyền địa phương cần hỗ trợ, cung cấp cho các hộ
nông dân trồng điều về thông tin thị trường, giá cả và những yêu cầu của sản xuất điều trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Cây điều rất phù hợp với điều kiện sản xuất của nông dân
nghèo. Thị trường điều chưa có dấu hiệu bão hòa, sản xuất nguyên liệu điều trong tỉnh chưa
cung cấp đủ nhu cầu của các cơ sở chế biến hiện có, hàng năm các cơ sở chế biến này
thường phải nhập khẩu một lượng điều lớn để đảm bảo quá trình chế biến được diễn ra liên
tục. Điều này nói lên rằng sản xuất điều nguyên liệu đang có nhiều điều kiện thuận lợi và là
cơ hội lớn đối với người trồng điều.
- Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho việc tiêu thụ, đảm bảo giá cả ổn định và
đầu ra có lãi để nông dân yên tâm đầu tư sản xuất, duy trì vườn điều đồng thời chuyển giao,
ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật mới về giống, kỹ thuật thâm canh vào sản xuất, công nghệ chế
biến, sơ chế hạt điều nhằm tăng năng suất, hiệu quả kinh doanh.
- Nhà nước và các cơ quan ban ngành cần tiếp tục lập kế hoạch và phát triển lâu
dài, xây dựng và hoàn thiện các cơ sở chế biến, các vùng trồng điều, các lãnh thổ trồng và
chế biến điều, thực hiện quá trình chuyển hóa từ lao động nông nghiệp sang lao động công
nghiệp phù hợp với xu thế phát triển của nền nông nghiệp hiện đại.
+ Các địa phương trồng điều: Hầu hết các vùng trồng điều trong tỉnh là những
vùng đất xấu, thiếu nước tưới, những hộ nông dân trồng điều ít có khả năng, điều kiện về tài
chính nên việc thâm canh vườn điều còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, các địa phương trồng
điều trong tỉnh cần có sự liên kết và hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm ổn định sản xuất đồng
thời áp dụng các biện pháp kỹ thuật trong việc thâm canh tăng năng suất vườn điều.
+ Các cơ sở kinh doanh xuất nhập khẩu điều: Hầu hết các doanh nghiệp chế biến
điều trong tỉnh còn hoạt động đơn lẻ, chưa gắn kết, chưa có được các hoạt động mang tính
tập thể, chưa chia sẻ với nhau nhằm tận dụng các cơ hội kinh doanh trong hoạt động chế biến
và tiêu thụ điều. Do đó các doanh nghiệp chế biến điều cần nâng cao sức mạnh và có sự liên
kết chặt chẽ hơn nữa trong hoạt động kinh doanh của mình.
- Việc chế biến ở các doanh nghiệp hiện nay chỉ dừng lại ở việc chế biến ra nhân
điều, chưa có sự đa dạng hóa sản phẩm. Do đó, các doanh nghiệp chế biến điều cần tiếp tục
cải tiến trình độ công nghệ để nâng cao hơn nữa năng lực chế biến của mình. Muốn nâng cao
giá trị gia tăng của sản phẩm thì các cơ sở chế biến cần phải có sự nâng cấp và đầu tư hơn
nữa dây chuyền chế biến các sản phẩm từ điều từ đó tạo nên một hệ thống dây chuyền khép
kín trong sản xuất.
- Cần giữ vững và duy trì thị trường xuất khẩu nhân điều ở nước ngoài và tiếp tục
mở rộng tiêu thụ điều ở trong nước đồng thời nâng cấp về chất lượng mẫu mã và kiểu cách
đóng gói.
+ Cơ sở chế biến và người nông dân trồng điều: Giữa các hộ nông dân trồng điều
và các cơ sở chế biến cần có sự liên kết chặt chẽ và ràng buộc với nhau về các khâu trong
quy trình sản xuất. Cần ứng dụng linh hoạt mô hình liên kết thông qua hình thức hợp đồng
kinh tế bằng cách nhà máy hỗ trợ vốn cho nông dân trồng điều trong các khâu trồng, chăm
sóc, thu hoạch và ngược lại các hộ trồng điều cũng phải thực hiện đúng các quy định như đã
ghi trong hợp đồng như chăm sóc, nâng cấp, cải tạo vườn điều, đảm bảo chất lượng, giao
đúng số lượng nguyên liệu và đúng thời gian,….
KẾT LUẬN
Cây điều bắt đầu được biết đến như một loại cây trồng có giá trị kinh tế ở nước ta mới
chỉ trong vòng 20 năm nay. Đặc biệt, trong 6 năm qua kể từ khi có Quyết định của Thủ
tướng Chính phủ về Đề án phát triển điều đến năm 2010, ngành sản xuất điều đã phát triển
mạnh mẽ cả về diện tích, năng suất, sản lượng điều thô, nhân điều và kim ngạch xuất khẩu.
Thiên nhiên đã ưu đãi cho cây điều ở nước ta nói chung và Bình Thuận nói riêng
những điều kiện tối ưu về các yếu tố khí hậu, đất đai để phát triển với quy mô lớn, năng suất
cao. Nguồn lao động dồi dào có kinh nghiệm trong việc trồng và chế biến điều. Tuy nhiên,
tình hình sản xuất và chế biến điều vẫn chưa có một cơ chế thống nhất. Sự kết hợp giữa trồng
và chế biến điều chưa có sự liên kết chặt chẽ với nhau, nên kết quả chưa đáp ứng với nhu cầu
phát triển của nền kinh tế hiện nay và chưa khai thác hết tiềm năng của nó. Nếu tiếp tục duy
trì tình trạng này thì phải chấp nhận ngành sản xuất với hiệu quả thấp. Vì vậy, cần phải tổ
chức lại hoạt động sản xuất và chế biến điều nhằm khai thác triệt để tiềm năng đưa hiệu quả
sản xuất điều ngày càng phát triển cao hơn.
Nội dung trong đề tài thực hiện nhằm góp phần giải quyết những vấn đề trên. Qua đề
tài này, tôi đã thu được một số kết quả nghiên cứu về tổ chức lãnh thổ trồng và chế biến điều
thể hiện trong đề tài:
- Đề tài có tính kế thừa các quan điểm và cơ sở lý luận về tổ chức lãnh thổ sản xuất
nông – công nghiệp của các tác giả trong và ngoài nước. Trên cơ sở đó nghiên cứu về tổ
chức lãnh thổ trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận trong điều kiện phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước.
- Dưới góc độ địa lý kinh tế- xã hội, đề tài đánh giá đầy đủ các nguồn lực chủ yếu ảnh
hưởng đến trồng và chế biến điều ở Bình Thuận trong thời gian qua.
- Đề tài phân tích mối quan hệ giữa trồng và chế biến điều, tính hiệu quả kinh tế đem
lại từ việc trồng và chế biến điều đối với nông dân và giá trị kinh tế của tỉnh.
- Đề tài đề xuất một số giải pháp cho việc trồng và chế biến điều ở tỉnh Bình Thuận
nhằm tăng hiệu quả kinh tế cao đúng với tiềm năng của tỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Xuân Bá, Trần Kim Hào, Nguyễn Hữu Thắng (2006), Doanh nghiệp nhỏ và vừa của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
2. Tô Quang Bình (2004), Xây dựng mô hình thâm canh cây điều ghép trên vùng đất cát đỏ
Bình Thuận, Đề tài khoa học
3. KS. Nguyễn Mạnh Chinh, TS. Nguyễn Đăng Nghĩa (2008), Trồng, chăm sóc và phòng trừ
sâu bệnh cây điều, NXB Nông nghiệp
4. TS Đàm Nguyễn Thùy Dương, TS Nguyễn Văn Luyện (2005), Nghiên cứu tổ chức lãnh
thổ nông- công nghiệp trồng và chế biến cây công nghiệp ngắn ngày, cây thực
phẩm ở các quận, huyện ngoại thành thành phố Hồ Chí Minh, Đề tài cấp Bộ.
5. Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam,
NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. PGS. TS Phạm Xuân Hậu (1993), Nghiên cứu việc kết hợp giữa trồng và chế biến mía ở
các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội.
7. Trịnh Thị Ái Hoa (2007), Chính sách xuất khẩu nông sản Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
8. Trần Đức Minh (2002), Nghiên cứu mối quan hệ nông- công nghiệp giữa trồng và chế
biến cây sắn (khoai mì) ở Tây Ninh, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành Địa lý Kinh tế-
Xã hội.
9. PGS.TS Đặng Văn Phan – PGS.TS Nguyễn Kim Hồng (2006), Địa lí kinh tế - xã hội Việt
Nam thời kỳ hội nhập, NXB Giáo dục.
10. PGS.TS Đặng Văn Phan (2008), Tổ chức lãnh thổ nông nghiệp Việt Nam, NXB Giáo
dục.
11. Bùi Thị Hồng Phương (2007), Tổ chức lãnh thổ nông- công nghiệp trồng và chế biến nho
ở Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận, Luận văn thạc sĩ Địa lý học.
12. Mai Thị Thanh Xuân, Ngô Đăng Thành (2006), Phát triển công nghiệp chế biến nông
sản ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2007), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội.
14. Lê Thông, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Minh Tuệ (2004), Địa lí kinh tế - xã hội Việt Nam,
NXB Đại học Sư phạm.
15. GS.TS Nguyễn Kế Tuấn (Chủ biên), (2006), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp
và nông thôn ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia
16. TS. Nguyễn Xuân Trình (Chủ biên) (2006), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đến
sản xuất, chế biến và tiêu thụ một số nông sản ở Việt Nam: qua nghiên cứu trường
hợp chè, cà phê và điều, NXB Lí luận Chính trị, Hà Nội.
17. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bình Thuận (2001), Dự án Quy hoạch phát
triển cây điều tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2001- 2010.
18. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Bình Thuận (2005), Kỹ thuật trồng và thâm
canh cây điều, Báo cáo chuyên đề.
19. Sở Nông Lâm nghiệp Bình Thuận (1992), Thí nghiệm nghiên cứu và phát triển cây điều
tại Bình Thuận, Báo cáo chuyên đề.
20. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (2003), Lý lịch một số giống điều có
triển vọng, Báo cáo chuyên đề.
21. Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp (1998), Dự án quy hoạch phát triển cây điều
Việt Nam thời kỳ 1999- 2010.
22. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam (1999), Kỹ thuật thâm canh điều, Báo
cáo chuyên đề.
23. Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam (2004), Nghiên cứu các giải pháp khoa
học công nghệ và thị trường để phát triển vùng điều nguyên liệu phục vụ chế biến
và xuất khẩu. Đề tài khoa học.
Các trang web:
http//www.quadieuvangbinhphuoc.gov.vn
http//www.agroviet.gov.vn
http//www.binhthuan.gov.vn
http//www.google.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVDLDLH028.pdf