Luận văn Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Quá trình đổi mới của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã đan quyện chặt chẽ vào nhau. Không nên quên rằng toàn cầu hoá theo hướng tự do hoá mậu dịch và đầu tư là bối cảnh để Việt Nam có thể dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế làm ăn cũ , là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả . Những thành công đa đạt được qua 15 năm hội nhập sẽ được tiếp tục thúc đẩy khi chúng ta thực hiện các chương trình đầu tiên của tiến trình AFTA, AICO, AIA,. cũng như việc tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế WTO, WB,IMF,.

doc100 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1894 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kết kinh tế . Hậu quả là đã có không ít đơn vị kinh doanh của nhà nước lợi dụng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu để buôn bán vòng vèo kiếm lời , kể cả buôn bán Quota xuất nhập khẩu , xuất nhập khẩu trốn lậu thuế . Do có những hạn chế vướng mắc lớn trên đây , nên mặc dù chúng ta chủ trương phát triển một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và tự do hoá thương mại, nhưng trong thực tiễn vẫn còn nhiều trở lực kìm hãm sự thực thi các chủ trương , chính sách đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu , đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn gặp phải nhiều ràng buộc khó khăn bởi cơ chế “cấp”, “ phát”, “ xin”, “cho”. Do đó tình trạng cố “xin” để được “cho” các quyền được hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu , được ưu tiên bảo hộ sản xuất trong nước trước tình trạng hàng ngoại cạnh tranh , được miễn giảm hoặc thoái thuế ... đã trở thành hiện tượng phổ biến từ đó làm nảy sinh nhiều tệ nạn tiêu cực trong hoạt động thương trường . Thực trạng này nếu tiếp tục kéo dài , rõ ràng sẽ trở thành một bất lợi thế bởi không cạnh tranh nổi trong tình trang Việt Nam ngày càng mở rộng cửa để hàng ngoại nhập vào trước nàn sóng tự do hoá thương mại toàn cầu . 2. 3 Cơ cấu hàng xuất khẩu và nhập khẩu mất cân đối . Mặc dù đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ cả về qui mô giá trị và tốc độ tăng trưởng qua 15 năm đổi mới nhưng cơ cấu ngoại thương của Việt Nam còn bất cân đối lớn . Về xuất khẩu phần lớn còn là các hàng hoá dạng thô chiếm tỷ trọng tới 75-80% trong tổng giá trị xuất khẩu ( dầu thô, may mặc, hải sản, than đá ....). Cáchàng hoá có hàm lượng kỹ thuật cao ( điện tử , máy tính , hàng công nghiệp ...) hoặc hàng hoá qua chế biến còn quá ít . Trong khi đó cơ cấu nhập khẩu theo chiều hướng nhập siêu của ta còn rất lớn . Ngoài những nguyên liệu cần thiết nhập cho nhu cầu phát triển sản xuất và xây dựng cơ sở hạ tầng của nền kinh tế, tình trạng nhập khẩu tràn lan nhiều hàng hoá tiêu dùng kể cả các hàng tiêu dùng cao cấp , xa xỉ , trong đó không ít là hàng nhập lậu , trốn thuế ... đã là một thực trạng nhức nhối nhiều năm chưa giải quyết được. Riêng trong quan hệ thương mại Việt Nam và ASEAN , Việt Nam đã xuất sang thị trường các nước ASEAN khá nhiều mặt hàng nguyên liệu công nghiệp và nông sản thô như than ,thiếc , da thuộc, sản phẩm gỗ, cao su , cà phê, hạt điều ...Và ngược lại Việt Nam nhập từ thị trường các nước ASEAN ũng khá nhiều mặt hàng khác nhau trong đó chủ yếu là các nguyên liệu thiết bị công nghiệp và hàng tiêu dùng như xăng dầu , sắt thép đã qua sơ chế , hàng nông , lâm nghiệp , vòng bi , ôtô, thuốc nhuộm , nguyên liệu dược ... Tuy nhiên , cơ cấu ngoại thương giữa Việt Nam và ASEAN còn mất cân đối lớn . Riêng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN chiếm 30% giá tri nhập khẩu của Việt Nam , trong khi đó hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN chiếm chưa đầy 1% giá trị nhập khẩu của ASEAN. 2. 4 Biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam vừa quá đơn giản vừa quá phức tạp Tính chất đơn giản thể hiện ở chỗ : Danh mục thuế thường chỉ cớ một cột và chỉ có một tỷ lệ áp dụng chung cho cả nhóm. Trong biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành chưa thể hiện rõ đối với từng nước và nhóm nước . Mặt khác,các biểu thuế suất của Việt Nam còn nhiều điểm không rõ ràng và phức tạp : Thuế suất ràn trải quá rộng : thuế suất có 11 mức (từ 0-45% ) đánh vào hơn 60 nhóm hàng. Thuế nhập khẩu có tới 36 mức cho hơn 3000 mã nhóm hàng với mức thuế từ 0-200% . Quá nhiều mức thuế dưới 5% ( > 50% tổng danh mục hàng của biểu thuế nhập khẩu ) gây hạn chế thu ngân sách . Hiện nay ở Việt Nam còn có tình trạng cùng một mặt hàng nhưng các cơ quan thương mại , hải quan và doanh nghiệp lại gọi tên khác nhau nên đã gây nhiều vướng mắc và thiệt hại cho doanh nghiệp . Thông thường giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá do Bộ thương mại cấp chỉ ghi tên hàng hoá mà không ghi mã số của hàng hoá . Do đó khi làm thủ tục, hải quan phải tiến hành áp mã , việc áp mã này có thế trùng nhưng cũng có thể không trùng với mã số trong hệ thống theo dõi của Bộ thương mại . II . Kinh nghiệm một số nước có nền kinh tế tương đồng trong khu vực về vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Trong thực tế đã có nhiều quốc gia thực hiện hội nhập một cách thành công tận dụng được những ưu thế của hợp tác quốc tế, phát huy khai thác được lợi thế so sánh của nền kinh tế dân tộc, tạp ra sự phát triển vượt bậc của nền kinh tế quốc gia, nâng cao vị thế của mình trong phân công lao động quốc tế. Tuy vậy cũng không ít quốc gia phải trả gia cho những sai lầm trong quá trình hội nhập ngày nay dưới đây chúng ta khảo lược tiến trình hội nhập của một số quốc gia . Việc khảo lược này cũng nhằm rút ra cho ta những kinh nghiệm trong tham gia hội nhập sẽ được đề cập ở phần cuối của chuyên đề nghiên cứu này, vì vậy ở đây sẽ tập trung vào 3 quốc gia có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam, đó là Nhật Bản, Hàn quốc và Trung Quốc. 1 . Đối với Nhật Bản Việc tham gia vào quá trình quốc tế hoá được đặt ra và thực hiện vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX với phong trào Duy tân của chính phủ Minh Trị. Quá trình tham gia vào quốc tế hoá hay là sự hội nhập của Nhật Bản từ đó đến nay được chia làm ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên của quá trình quốc tế ở Nhật Bản bắt đầu từ Minh Trị Duy Tân. Vào thời kỳ này Nhật Bản đang phải đối mặt với yêu cầu mở cửa của các quốc gia Âu – Mỹ. Để tạo cơ sở cho sự phát triển đi lên Nhật Bản đã quyết định mở cửa, hội nhập nhằm tiếp thu những thành tựu của nền văn minh thế giới mà thực chất lúc này là văn minh Phương Tây. Chính phủ minh Trị trong những năm đầu đã cử nhiều đoàn chuyên gia sang phương Tây để học hỏi và tiếp nhận chuyên gia nước ngoài để đào tạo và hướng dẫn những tri thức mới. Trải qua quá trình quốc tế hoá thời Minh Trị, Nhật Bản đã từng bước thực hiện được ba mục tiêu lớn là “Phú quốc cường bình” “Văn minh khai hoá”, “Thực sản hưng nghiệp”, đứng vào hàng ngũ cường quốc thế giới. Điều đáng nói là vào cuối thập kỷ XIX không chỉ Nhật Bản mà nhiều quốc gia trong khu vực cũng ở vào tình trạng như Nhật Bản, song đã không đủ mạnh dạn, không đủ năng lực để quyết tâm mở cửa, hội nhập, tạo ra sự phát triển kinh tế làm cơ sở cho sự độc lập của quốc gia, mà đã bỏ qua cơ hội, chịu sự thống trị của tư bản phương Tây, tụt hậu rơi vào tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Giai đoạn thứ hai của quốc tế hoá ở Nhật Bản bắt đầu từ sau 1945. Cũng như nhiều Quốc gia khác, giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh Nhật cũng đi theo xu hướng bế quan toả cảng, làm kìm hãm xu thế quốc tế hoá. Thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai, dưới sự khống chế của quân đội đồng minh, Nhật tiến hành cải cách, từng bước mở cửa tiếp thu những kỹ thuật - công nghệ tiên tiến của Tây Âu và Mỹ. Điều đáng chú ý là ở thời kỳ này Nhật đã triển khai chương trình hội nhập có tính chiến lược chứ không phải hội nhập một cách chặt chẽ cho dù tiến trình phát triển chịu áp lực rất lớn từ phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Chiến lược này bao gồm nhiều mức độ khác nhau về hội nhập trong nhiều lĩnh vực và trong thời gian dài nhằm mục tiêu phục vụ có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế xã hội. Trong lĩnh vực thương mại Nhật đẩy mạnh xuất khẩu, bành trướng thế lực kinh tế ra bên ngoài, song lại duy trì một chế độ kiểm soát nhập khẩu nghiêm ngặt cả chính thức và phi chính thức. Các chính sách này đã tạo ra thế lợi cạnh tranh cho các Công ty của Nhật trên thị trường và khuyến khích họ tạo ra nguồn hàng xuất khẩu . Trong tiến trình mở cửa hội nhập, Nhật đã duy trì một cơ cấu khuyến khích mức giá đối với các nhà sản xuất vì vậy tạo ra sự khác biệt trong giá cả nội địa và giá quốc tế ( sự đồng nhất mức giá đó là một chỉ tiêu của hội nhập). Chính phủ Nhật đã có những quy định hạn chế về chủng loại và số lượng nhập khẩu cũng như số lượng các nhà nhập khẩu. Các hàng hoá nhập khẩu có tác dụng thúc đẩy xuất khẩu được ưu tiên, các hàng nhập có tính cạnh tranh đối với khuyến khích phát triển ngành công nghiệp non trẻ sẽ bị hạn chế. Lịch trình tự do hoá thương mại của Nhật Bản là khá dài. Thời gian đầu sau chiến tranh, các hạn ngạnh được sử dụng xem như công cụ chính để bảo hộ. Từ khi Nhật tham gia GATT các hạn chế này bắt đầu giảm đi. Tuy vậy trên thực tế cho đến năm 1963 Nhật Bản mới chính thức phải áp dụng điều 11 của GATT quy định các nước thành viên không được hạn chế nhập khẩu vì lý do nhập siêu. Từ khi gia nhập GATT mức độ tự do hoá thương mại được đẩy mạnh và tới năm 1963 chỉ còn 192 mặt hàng chưa được tự do hoá trong tổng số 2029 mặt hàng cuối năm 1960. Tuy vậy sau năm 1963 tiến trình tự do hóa lại bị chững lại.. Trên thực tế Nhật Bản muốn bảo hộ thị trường, tạo điều kiện thời gian và vốn để kích thích năng lực xuất khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá. Kết quả Nhật xuất siêu ngày càng tăng và nảy sinh áp lực quốc tế, nhất là từ Mỹ đòi Nhật đẩy nhanh tự do hoá. Vì vậy từ cuối những năm 60 Nhật gia tăng mức tự do hoá thương mại. Cho đến năm 1972 mức tự do hoá đã đạt được 95% chỉ còn lại một số hạn chế nhập khẩu đổi đối với sản phẩm công nghiệp. Cùng với tiến trình tự do háo mậu dịch Nhật Bản đã triển khai ưu tiên một chiến lược phát triển “đóng cửa” với đầu tư nước ngoài. So với tự do hoá thương mại, tự do hoá đầu tư ở Nhật Bản chậm hơn, và thực tế nó chỉ được thực hiện trong những năm 70. Chính vì vậy tỷ lệ đầu tư trực tiếp của nước ngoài và tỷ lệ sản xuất công nghiệp chế tạo của các hãng nước ngoài ở Nhật thấp hơn nhiều so với các nước tư bản phát triển khác trong suốt những năm 60 và 70. Tự do hoá đầu tư của Nhật chỉ được thực hiện ở những ngành mà Nhật Bản đủ sức cạnh tranh hoặc những ngành truyền thống, khả năng sinh lợi thấp, các nhà đầu tư nước ngoài dường như không quan tâm. Trong tiến trình tự do hoá đầu tư, Nhật Bản đã xây dựng những chương trình tỉ mỉ từng bước (cụ thể qua 5 lần tự do hoá tư bản). Đến lần thứ 5 năm vào ngày 1/5/1973 trừ 22 ngành còn tất cả được tự do hoá. Tiếp sau cuối năm 1974 ngành vi mạch, 5/1975 dược phẩm hoá và hoá chất công nghiệp cùng ngành công cụ điện tử chính xác, 12/1975 là ngành sản xuất và cho thuê máy tính điện tử, 1976 có ngành xử lý thông tin và phim, giấy ảnh được tự do hoá. Nếu như việc mở cửa, tự do hoá của Nhật bản diễn ra khá chậm thì ngược lại việc bành trướng kinh tế xâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế được chú trọng khuyến khích và đâỷ mạnh. Điều này trước hết được thể hiện ở mức gia tăng xuất khẩu và sau nữa là sự gia tăng của đầu tư ra nước ngoài của Nhật. Với chính sách đẩy mạnh xuất khẩu thông qua áp dụng lãi suất ưu đãi cho các xí nghiệp xuất khẩu và thiết lập các tổ chức khuyến khích thúc đẩy xuất khẩu như Ngân hàng xuất nhập khẩu, tổ chức xúc tiến mậu dịch (JETR0) v.v... đã góp phần gia tăng hàng hoá xuất khẩu, mở rộng thị phần, tăng thu nhập. Năm 1955 thị phần của Nhật trong xuất khẩu thế giới chỉ có 2,4% thì năm 1960 tăng lên 3,6% và năm 1970 tăng 6,9%. Với sự tăng mạnh xuất khẩu, nhất là vào sau năm 1960 đã dẫn đến thực tế là dư thừa trong cán cân thanh toán quốc tế. Đầu tư ra nước ngoài của Nhật trong giai đoạn thứ hai của quá trình quốc tế hoá bắt đầu xuất hiện và gia tăng mạnh vào nửa sau những năm 60. Số tiền đầy tư đã tăng từ mức bình quân hàng năm chưa tới 50 triệu USD trong giai đoạn năm 1957 - 1959 lên bình quân 130 triệu USD giai đoạn 1963 - 1965 và 900 triệu USD trong năm 1970. Xét về tốc độ gia tăng trong 10 năm (1963-1972)đạt 45%, nghĩa là vào loại cao nhất thế giới. Đầu tư của Nhật thời kỳ này chủ yếu nhằm vào khai thác tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sự phát triển nền công nghiệp dân tộc. Có thể nói kết thúc giai đoạn hai của quá trình quốc tế hoá ở Nhật Bản cũng là bước hoàn thành mục tiêu đặt ra là đuổi kịp các quốc gia phươn g Tây về trình độ phát triển kinh tế. Từ nửa sau của thập kỷ 70 lại đây . Nhật Bản đẩy mạnh quá trình bành trướng ra bên ngoài. Đặc biệt sau Hiệp nghị Plaza quá trình đầu tư ra nước ngoài càng mạnh mẽ .Nhiều người cho rằng thời kỳ này Nhật Bản bước vào một giai đoạn quốc tế hoá mới, thời đại Nhật Bản hoá, thời đại quốc tế hoá thực hiện xuất khẩu văn hoá. Ngày 27/2/1986 trong bài diễn văn tại Quốc hội, một quan chức Nhật Bản đã nói. “Quá khứ chúng ta đã tiếp thu và tiêu hoá văn hoá nước ngoài một cách nhiệt tâm, còn đối với nỗ lực truyền bá văn hoá chúng ta lại rất sao nhãng. Điều đó phải tiến hành phân tích , cần phải có quyết tâm ra sức truyền bá văn hoá Nhật Bản ra thế giới, khiến mọi người hiểu Nhật Bản”. Trên thực tế hai thập kỷ qua Nhật Bản luôn là một trong những cường quốc xuất khẩu, mức dư thừa mậu dịch ngày càng tăng, là một trong những nhà đầu tư quốc tế và cung cấp ODA lớn nhất thế giới. Trong chiến lược phát triển của mình Nhật cũng luôn tranh thủ mọi khả năng để khảng định vị trí trên chính trường quốc tế đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Tư tưởng về hình thành một khu vực đồng tiền chung của Châu á giống như EU cũng nằm trong xu hướng trên. Rõ ràng là gắn liền với xu thế tất yếu của việc gia tăng mối quan hệ phụ thuộc vào nhau trong nền kinh tế thế giới và nguồn gốc sâu xa của nó là sự phát triển của khoa học công nghệ, các quốc gia tư bản phát triển đang tranh thủ để biến các giá trị, các chuẩn mực của đời sống xã hội của riêng mình thành cái chung, về thực chất là muốn đóng vai trò lãnh đạo, thống trị thế giới. Điều này không chỉ dẫn đến nghi ngại của quốc gia đang phát triển với toàn cầu hoá mà còn làm gia tăng mâu thuẫn cho sự “đụng độ” các chiến lược của quốc gia tư bản lớn . Các quốc gia tư bản luôn đòi hỏi các nước phải tự do hoá, phải mở cửa thị trường, nhưng chính họ lại đặt ra những tiêu chuẩn, những điều kiện để cản trở và làm giảm lợi thế trong kinh doanh của quốc gia đang phát triển. Đây là một trong những lý do của sự đổ vỡ của Hội nghị cấp Bộ trưởng của Trung ương tại Seattle tháng 3/1999. Điều này cho ta thấy ngày nay không thể có hội nhập mà lại không tự do hoá và ngược lại, hai mặt này của qúa trình toàn cầu hoá thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau. 2 . Đối với Hàn Quốc Việc tham gia hội nhập vào nền kinh tế thế giới có chậm hơn Nhật Bản và cũng vì vậy các kinh nghiệm của Nhật Bản đã được Hàn Quốc tiếp nhận và vận dụng khá thành công. Cho nên chúng ta có thể thấy tiến trình hội nhập của Hàn Quốc đều mang bóng dáng những bước đi của Nhật Bản. Vào cuối thế kỷ XIX, Hàn Quốc cũng đứng trước yêu cầu cải cách, chấm dứt sự tự cô lập và thực hiện đại hoá. Tuy vậy cũng giống như Việt Nam, Hàn Quốc không tranh thủ được thời cơ, không nhận thức rõ yêu cầu bức thiết của hiện đại hoá mà giới quan liêu Hàn Quốc đương thời đã miễn cưỡng mở cửa trước tác động bên ngoài theo hiệp ước Kanghwado. Kết quả Hàn Quốc rơi vào vòng phụ thuộc, trở thành nước thuộc địa. Qúa trình hiện đại hoá và hội nhập vào nền kinh tế quốc tế của Hàn Quốc chính thức bắt đầu từ đầu thập kỷ 60. Như trên đã nói, giống như Nhật Bản, Hàn Quốc đã triển khai một tiến trình hội nhập có tính chất linh hoạt, không hội nhập chặt chẽ, toàn phần ngay với nền kinh tế thế giới. Từ chính sách bảo hộ cao với một chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu thời kỳ những năm 50 chuyển sang chính sách đề cao hướng ngoại, thực hiện một nền kinh tế mở. Song mức độ mở cửa rất khác nhau theo tiến trình thời gian cũng như từng ngành, từng lĩnh vực kinh tế. Trong lĩnh vực thương mại đầu những năm 60, chính phủ đã có cải cách theo hướng hoà nhập vào nền thương mại quốc tế. Năm 1964 với việc phá giá đồng bản tệ, thực hiện giảm thuế nhập khẩu hàng hoá. Tuy vậy các mặt hàng được giảm thuế không nhiều, chủ yếu là những hàng phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và những sản phẩm liên quan đến kỹ thuật công nghệ tiên tiến . Đồng thời thông qua hạn ngạch và thuế chính phủ vẫn kiểm soát chặt chẽ các hoạt động nhập khẩu. Tiến trình tự do hoá nhập khẩu diễn ra khá chậm chạp với mục đích bảo vệ thị trường, thúc đẩy xuất khẩu. Năm 1967 chính phủ quy định 792 mặt hàng được phép tự do nhập khẩu và 118 mặt hàng cấm nhập. Đến năm 1978 còn 50 mặt hàng cấm nhập. Năm 1961 việc giảm thuế đối với doanh thu xuất khẩu được thực hiện. Cuối những năm 1960 tiếp tục giảm thuế đối với những thiệt hại và chi phí xuất khẩu gặp phải khi phát triển thị trường xuất khẩu. Từ năm 1970 thực hiện miễn thuế cho những khoản thu từ xuất khẩu. Tổng giá trị các khoản thuế được miễn hoặc giảm cho các khoản thu từ xuất khẩi lên tới 200% tổng kim ngạch xuất khẩu vào giữa Thập kỷ 70. Đối với các mặt hàng chiến lược chính phủ đã quy định rõ lịch trình giảm thuế quan. Chẳng hạn đối với sản phẩm điện tử mức thuế giảm xuống còn 30% năm 1988; 20% năm 1989 ; 16% năm 1990; 13% năm 1991, 10% năm 1992 và 8% vào năm 1993. Trong lĩnh vực công nghiệp ô tô chính phủ cũng đã bảo hộ thời gian dài suốt từ năm 60 cho đến 1986 mới xóa bỏ mọi hạn chế đối với ngành này. Nhìn chung cho đến nay Hàn Quốc đã đạt tỷ lệ do tự hoá nhập xuất khẩu 99,9% (còn 8 mặt hàng bị hạn chế nhập), theo kế hoạch đến 1/2001, Hàn Quốc sẽ tự do hoá 100%. Trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp chính phủ cũng có những quy định rất chặt chẽ trong suốt những năm 60 - 70. Luật FDI ở Hàn Quốc nhìn chung không khuyến khích FDI. Các Công ty nước ngoài bị hạn chế trong việc cạnh tranh với Công ty trong nước, các Ngân hàng nước ngoài cũng không được phép cạnh tranh tiền gửi tại địa phương, tài trợ cho xuất khâủ hay làm chủ sở hữu các bất động sản.... Cho mãi tới năm 1980 Chính phủ mới nới lỏng sự kiểm soát của các đồng vốn đầu tư của Hàn Quốc. Năm 1981 cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được phép phát hành trứng khoán ở nước ngoài. Năm 1997 Luật FDI được sửa đổi theo tiêu chuẩn của OECD. Cho đến nay về cơ bản Hàn Quốc đã thực hiện tự do hoá đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài đối xử công bằng như các nhà đầu tư Hàn Quốc. Tính ra hiện taị chỉ còn 29 trong tổng số 1149 hạng mục kinh doanh ở Hàn Quốc một phần hoặc hoàn toàn chưa mở cửa cho đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực tài chính Chính phủ Hàn Quốc cũng triển khai cách nhằm tạo lập cơ chế khuyến khích tập trung nguồn lực cho phát triển hàng xuất khẩu. Tuy nhiên xét về tiến trình và mức độ hội nhập cũng mang tính giai đoạn chứ không phải hội nhập nhanh, toàn phần với nền tài chính thế giới. Cụ thể sau 2 lần điều chỉnh lãi suất, mức lãi suất cho tới năm 1966 vẫn thấp hơn rất nhiều mức lãi trên thị trường tự do. Năm 1961 Chính phủ đã quốc hữu hoá toàn bộ Ngân hàng thương mại và năm 1964 triển khai áp dụng hệ thống đảm bảo của Chính phủ đối với các khoản vay nước ngoài. Bước vào Thập kỷ 90 những chính sách trên tỏ ra không còn hiệu quả và thực tế những sự kiểm soát của Chính phủ laị gây những cản trở cho sự phát triển kinh tế, góp phần đẩy tới tình trạng khủng hoảng. Vì vậy năm 1993 chính phủ đã tiến hành cải cách hệ thống tài chính đẩy tới việc tự do hoá tài chính theo hướng hội nhập quốc tế và khu vực. Cho đến nay ngày 1/7/1998 nhiều hạn chế về vay vốn tín dụng đã được xoá bỏ. Chính phủ khuyến khích hình thức thanh toán theo kỳ hạn và thanh toán trả góp, xóa bỏ những hạn chế về thanh toán đối với xuất khẩu. Cho phép các nhà đầu tư tự do đầu tư vào chứng khoán nội địa và mua cổ phần của các công ty trong nước. Tháng 4/1999 Hàn Quốc bãi bỏ Luật quản lý thị trường ngoại hối, thay bằng Luật giao dịch thị trường ngoại hối theo đó xoá bỏ những hạn chế về giao dịch thị trường ngoại hối và giao dịch trong nước về ngoại tệ đối với các tổ chức tài chính và kinh doanh. Cho phép các nhà xuất khẩu Hàn Quốc thành lập các tập đoàn tài chính thương mại có thể thực hiện bằng ngoại tệ. Theo kế hoạch, đến năm 2001 sẽ tự do hoá giao dịch ngoại hối . Phát triển nền kinh tế theo hướng hội nhập không chỉ là việc mở cửa thị trường trong nước, thực hiện tự do hoá mà còn là việc đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu ra bên ngoài về thực chất taọ ra sự gắn kết của nền kinh tế dân tộc với thị trường thế giới, làm tăng quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Bên cạnh đó để phù hợp xu thế toàn cầu hoá, chính phủ Hàn Quốc cũng khuyến khích các hoạt động đầu tư ra bên ngoài. Đầu tư ra nước ngoài của Hàn quốc chủ yếu tập trung vào khu vực Đông Nam á vì nơi đây có nguồn nguyên liệu và nhân công rẻ, do vậy giá thành sản phẩm thấp hơn nhiều ở Hàn Quốc. Bên cạnh đó thị trường Mỹ cũng là nơi được các nhà kinh doanh Hàn quốc chú ý trong đó tập trung lĩnh vực ti vi màu, luyện thép và bất động sản ... Hiện nay Hàn Quốc đầu tư vào 50 nước trên thế giới, trong đó vào khu vực châu Mỹ là 45% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài, Đông Nam á và Thái Bình Dương 41%, các nước trung cận động 7,4%... tính ra đến năm 1989 Hàn Quốc có 70 công ty đã xây dựng các chi nhánh ở 16 quốc gia trên thế giơí. Năm 1995 Hàn Quốc đã đưa ra một chiến lược tham gia quá trình toàn cầu, xem đó như một chiến lược phát triển dân tộc để đưa Hàn quốc thành một quốc gia có vai trò chủ chốt trong các vấn đề của thế giới. Chiến lước tham gia toàn cầu hoá của Hàn Quốc xác định rõ lịch trình của các bước sau : Trước tiên và quan trọng nhất, giáo dục phải được toàn cầu hoá. Điều đó có nghĩa hệ thống giáo dục phải được cải cách triệt để, để đào tạo một số lượng đủ những công dân trẻ, sáng tạo và dám làm – những lãnh đạo tương lai của đất nước. Giáo dục phải được định hướng lại, hướng về việc bồi dưỡng tính chất và tính sáng tạo, óc sáng kiến, tinh thần kỹ luật tự giác và tính cạnh tranh phải được nhấn mạnh. Hơn nữa những cải cách giáo dục cơ bản này kết hợp với công nghệ tin học hiện đại Hàn Quốc có thể nâng năng lực trí tuệ lên những trình độ cao nhất. Thứ hai , các hệ thống luật pháp và kinh tế phải được cải cách để đáp ứng được trình độ hoàn hảo của thế giới. Quy tắc của luật pháp và sự tuân thủ trật tự cơ bản phải chiếm ưu thế. Nghề luật cũng phải được cải cách và trật tự kinh tế cũng phải được toàn cầu hoá. Tất cả mọi giao dịch kinh tế phải minh bạch và tự do và cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh phải được đảm bảo. Các tổ chức tài chính cũng phải trở nên có tính cạnh tranh hơn và chế độ thuế khoá phải trở nên công bằng hơn. Ngoài ra các quan hệ giữa lao động và quản lý phải có tính chất xây dựng và hợp tác hơn. Thứ ba, chính trị và các phương tiện thông tin cũng phải hướng về sự toàn cầu hoá một cách vững chắc hơn. Các chính đảng phải ganh đua mạnh mẽ hơn về mặt tư tưởng và sự lựa chọn chính sách và phải phấn đấu hơn nữa để trao đổi tinh thần dân chủ trong đảng mình và chuẩn bị một thế hệ sắp tới của các nhà lãnh đạo chính trị. Nếu các chính khách có khả năng lãnh đạo và tập hợp được nhân dân, quá trình bầu cử không những phải được thực hiện một cách công bằng và công khai, mà bản thân các chính khách cũng phải cố gắng đặc biệt để phát triển tài năng chuyên môn trong lĩnh vực cụ thể của các vấn đề công cộng và để có thể đại diện một cách hữu hiệu hơn cho các tầng lớp khác nhau của xã hội. Quốc hội cần hoạt động có hiệu quả hơn và làm cho chính trị phong phú hơn. Các phương tiện thông tin cũng phải tự cải tổ để trở thành một công cụ công khai thực sự không thiên vị. Thứ tư, cả chính phủ quốc gia lẫn chính quyền địa phương phải được làm cho có tính toàn cầu hoá. Giờ đây, cần phải bãi bỏ các qui định hành chính để phát triển ột mức tối đa tính sáng tạo trong khu vực tư nhân. Tuy nhiên chính quyền sẽ vẫn tiếp tục tham gia một cách tích cực vào các khu vực như thương mại , lao động và môi trường – những nơi cần có một số quy định để duy trì trật tự . Hành chính tổ chức phải trở nên hữu hiệu và kinh tế như những công ty kinh doanh quản lý giỏi về mặt cung cấp những dịch vụ công cộng. Một “chính phủ nhỏ bé hữu hiệu” và một chính phủ khéo léo và mềm dẻo” là những mục tiêu hàng đầu của những nỗ lực của chính quyền tiến tới toàn cầu hoá. Đồng thời, sự tự quản của địa phương phải được củng cố để các cộng đồng địa phương có thể tham gia vào cuộc cạnh tranh lành mạnh với nhau và để tăng lên tối đa tiềm lực đầy đủ của các cộng đồng, và như vậy là có thể đương đầu một cách thắng lợi và với những thách thức của sự toàn cầu hoá. Thứ năm, Hàn Quốc phải tham gia một cách tích cực hơn nữa vào những nỗ lực toàn cầu bảo vệ môi trường. Mọi người phải phối hợp hành động để tạo nên một cộng đồng kiểu mẫu thân thiện với môi trường trong đó không chỉ thế hệ hiện tại mà cả thế hệ tương lai sống hài hoà với thiên nhiên. Thứ sáu, văn hoá và cách tư duy phải được toàn cầu hoá. Người Hàn Quốc phải phát huy sự phong phú vốn có của nền văn hoá truyền thống của mình và hoà nhập với nền văn hoá thế giới. Lúc đó họ phải tiến ra trước thế giới với một tinh thần rộng mở và tự hào với nền văn hoá riêng của mình và kính trọng nền văn hoá của các dân tộc khác. 3 . Đối với Trung Quốc Quá trình mở cửa tự do hoá thị trường nội địa và hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới cũng diễn ra một cách linh hoạt và có tính chiến lược giống như Nhật Bản và Hàn Quốc. Trung quốc đã xác định lịch trình hội nhập trên cơ sở phát triển năng lực của nền kinh tế nội điạ chứ không hội nhập chặt chẽ và toàn phần ngay với nền kinh tế thế giới. Chiến lược hội nhập như vậy đã được các chuyên gia đánh giá, xem như một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành tựu ngoạn mục hơn hai thập kỷ cải cách vừa qua của Trung Quốc. Quá trình mở cửa hội nhập của Trung Quốc được đánh dấu bởi Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá IX của Đảng Cộng sản Trung Quốc (tháng 12/1978). Kể từ đó cho đến nay quá trình mở cửa, cải cách hội nhập ở Trung Quốc đã trải qua 3 giai đoạn và trong suốt tiến trình đó luôn luôn quán triệt phương châm thận trọng, từng bước và hội nhập với nhiều tầng nấc. Giai đoạn một của cải cách chủ yếu diễn ra ở nông thôn trong lĩnh vực nông nghiệp. Giai đoạn hai bắt đầu từ năm 1984 với việc chuyển trọng tâm cải cách sang các doanh nghiệp quốc doanh, cải cách lĩnh vực giá cả, chú trọng phát huy vai trò của một số thành phố trung tâm. Giai đoạn ba từ 1992 trở lại đây cải cách một cách đồng bộ. Trong cải cách nền kinh tế đã từng bước mở cửa đối ngoại. Trong lĩnh vực thương mại Trung Quốc đã thực hiện những cải cách theo hướng tự do hoá từng bước , tình trạng gò bó độc quyền của cơ quan ngoại thương Trung ương đã bị phá bỏ. Cuối năm 1994 chỉ tiêu pháp lệnh vể tổng mức xuất khẩu được xoá bỏ. Các chủ thể tham gia hoạt động ngoại thương tăng lên nhanh chóng. Tính đến cuối năm 1997, cả nước có 16.658 xí nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu các loại, bao gồm 7.678 công ty ngoại thương, 7.803 xí nghiệp sản xuất kinh doanh ngoại thương, 925 viện nghiên cứu khoa học, 260 cơ quan vật tư thương nghiệp. Ngoài ra còn có 2.737 cơ sở buôn bán tiểu ngạch biên giới . Vào năm 1980 Trung Quốc mới có quan hệ với 177 nước và khu vực thì đến 1997 đã có quan hệ với 227 quốc gia và vùng lãnh thổ. Để tạo điều kiện cho nông dân tự do hoá trong trao đổi buôn bán, Trung Quốc đã thực hiện giảm sự kiểm soát của Nhà nước đối với lưu thông vật tư, hàng hoá. Trước cải cách có 120 loại sản phẩm công nghiệp do Nhà nước quản lý, đến năm 1997 còn 60 chủng loại. Trước cải cách có 259 chủng loại vật tư do Nhà nước quản lý phân phối thì đến năm 1987 còn 23. Trong xuất khẩu trước cải cách Nhà nước trực tiếp quản lý 870 loại hàng nay giảm xuống chỉ còn 36 loại và loại hàng mà Nhà nước thu mua trước kia là 65 loại thì nay chỉ còn 20 loại. Nếu như trước khia Nhà nước quyết định giá cả thì thông qua từng bước cải cách đã chuyển sang do thị trường xác định. Vào năm1984 quy định giá bán sản phẩm tư liệu sản xuất vượt mức kế hoạch nhìn chung không được cao hơn hoặc thấp hơn 20% giá quy định. Năm 1985 đã xoá qui định này. Năm 1986 số sản phẩm hàng hoá áp dụng chế độ hai giá cũng còn khá cao/ Cho đến nay thì hầu như hàng hoá do thị trường điều tiết giá cả (90% tổng kim ngạch bán lẻ tiêu dùng, 80% kim ngạch thu mua sản phẩm nông nghiệp và cũng khoảng 80% trong thu mua hàng tư liệu sản xuất). Cùng với từng bước tự do trong mậu dịch, Trung Quốc đã tiến hành mở cửa theo giai đoạn và quy mô tăng dần với đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trước cải cách FDI không được phép thâm nhập vào Trung Quốc. Từ khi mở cửa vốn đầu tư nước ngoài vào Trung quốc mỗi ngày một tăng lên. Từ năm 1979 đến 1998 Trung Quốc đã thu hút được 573,5 tỷ USD, trong đó 63% là FDI, xâm nhập vào 20 ngành kinh tế, từ 100 nước và khu vực trên thế giới. Mức FDI vào Trung quốc vào những năm vừa qua chiếm tới 50% tổng FDI vào các nước đang phát triển. Trung Quốc đang đứng thứ hai trong số 10 nước hàng đầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Sở dĩ Trung Quốc thu hút được nhiều vốn là do lợi thế so sánh trong môi trường đầu tư, trong đó phải kể đến những cải thiện về chế độ thuế, lợi nhuận, giá đất và các luật lệ kinh doanh ngày càng phù hợp với thông lệ quốc tế, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư. Điều đáng chú ý trong thu hút vốn nước ngoài của Trung Quốc là có xác định rất rõ ràng lĩnh vực, mức độ cho phép FDI hoạt động. Thời kỳ đầu cải cách Trung Quốc chỉ cho phép FDI vào một số ngành : Khai thác, năng lượng, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp hoá chất, luyện kim, chế tạo máy .v.v... Năm 1995 Trung Quốc đưa ra 18 hạng mục khuyến khích FDI , 15 hạng mục hạn chế, 13 hạng mục cấm FDI. năm 1996 có tới 527 cơ quan đại diện về tiền tệ và vốn đầu tư nước ngoài ở Trung Quốc, 140 chi nhánh ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài và 8 công ty bảo hiểm nước ngoài hoạt động ở Trung Quốc. Bên cạnh mở cửa thu hút vốn nước ngoài , Trung Quốc cũng tích cực mở rộng năng lực kinh doanh của các doanh nghiệp vượt biên giới quốc gia, hội nhập vào quá trình kinh doanh quốc tế. Nếu thời kỳ đầu cải cách chỉ có vài xí nghiệp thì nay toàn Trung Quốc có 5976 Xí nghiệp hoạt động kinh doanh ở nước ngoài. Trong số 225 nhà thầu khoán quốc tế được bầu chọn năm 1997, thì Trung Quốc có 27. Các xí nghiệp này của Trung Quốc hiện đang hoạt động trên 160 quốc gia và vùng lãnh thổ. Cho đến cuối 1997 Trung Quốc đã đạt được 71,7 tỷ USD hợp đòng hợp tác kinh tế đối ngoại với mức doanh thu là 48,2 tỷ USD và đã có 1,54 triệu lượt người đi lao động ở nước ngoài. Riêng trong lĩnh vực tiền tệ đến cuối năm 1999 Trung Quốc có 46 doanh nghiệp tham gia vào thị trường vốn quốc tế, cung cấp hơn 10 tỷ USD tiền vốn. Cùng với hoạt động kinh doanh Trung Quốc cũng khá tích cực tham gia các hoạt động của tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực. Trung quốc là thành viên của APEC, có quan hệ chặt chẽ với ASEAN và đang tích cực vận động gia nhập WTO. Rõ ràng là Trung Quốc đang tích cực hội nhập vào nền kinh tế quốc tế. Mức độ phát triển của ngoại thương, của FDI và những cải cách thị trường theo hướng tự do hoá minh chứng cho điều đó. Song cũng cần thâý là mức độ hội nhập của Trung Quốc còn hạn chế . Trung Quốc tỏ ra thận trọng với quá trình tự do hoá và hội nhập quốc tế, cho dù họ luôn ý thức rằng hội nhập là tất yếu. Kinh nghiệm và cũng là thành công của Trung Quốc trong lĩnh vực cải cách đối ngoại có thể đúc rút lại, “Một là loại bỏ mô thức đóng cửa hoặc đóng cửa, xây dựng quốc sách cơ bản vể cải cách mở cửa, thiết lập cơ chế kinh tế mở cửa, hai là mạnh dạn tiếp thu mọi thành quả văn minh, xã hội loài người bao gồm cả chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, lợi dụng triệt để hai nguồn tài nguyên hai thị trường trong ngoài; ba là hình thành lý luận đặc khu kinh tế và kinh tế hướng ngoại, bốn là xử lý đúng đắn mối quan hệ cải cách mở cửa với tự lực cánh sinh”. Tóm lại đối với các quốc gia trên thay vì hội nhập một cách triệt để và toàn diện với nền kinh tế thế giới, họ chỉ hội nhập có mức độ và theo những hướng nhất định có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế trong suốt tiến trình công nghiệp hoá. Đó chính là kiểu hội nhập có tính chiến lược và trong quá trình này vai trò của nhà nước được chú trọng với tư cách là người điều tiết nhịp độ hội nhập. Khác với Trung Quốc, hai quốc gia Nhật Bản và Hàn Quốc đã thực hiện một chính sách bảo hộ khá chặt chẽ, tạo ra điều kiện cho việc nâng cao sức cạnh tranh của các ngành kinh tế trong điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu và xâm nhập vào môi trường kinh doanh khu vực và toàn cầu. Trong điều kiện của sự gia tăng xu thế toàn cầu hoá hiện nay Trung Quốc đã kết hợp khá thành công giữa mở cửa từng bước với quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế và tham gia mở rộng mạng lưới kinh doanh quốc tế của mình. Kết quả của những nền kinh tế này là những bài học kinh nghiệm rất bổ ích cần tham khảo cho ta hiện nay. III . Một số giải pháp cơ bản để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Để khắc phục những tồn tại trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới , đồng thời để nâng cao hiệu quả tham gia của Việt Nam không chỉ trong lĩnh vực thương mại , đầu tư mà còn trong các lĩnh vực liên kết khác , đòi hỏi Việt Nam cần có những giải pháp đồng bộ và hiệu quả , có sự tham gia của nhiều nghành hữu quan. Phần này xin đưa ra một số giải pháp cơ bản sau : 1 .Ưu tiên phát triển các nghành sản xuất kinh doanh mặt hàng Việt Nam có lợi thế so với các nước trong khu vực . Trong giai đoạn đầu tham gia AFTA,APEC,ASEM,... Chúng ta nên chọn những nghành mà lợi thế so sánh có thể phát huy tác dụng nhiều nhất : đó là những nhgành dựa trên nguồn lao động dồi dào, có thể tiếp thu tay nghề nhanh , nguồn tài nguyên đa dạng và phong phú ( có thể nói đây là những lợi thế so sánh trước mắt được quy định bằng những đặc tính kinh tế hiện đại). Như vậy , chỉ có thể đảm bảo trong thời gian tương đối ngắn những mặt hàng sản suất trong nước này có thể cạnh tranh được , trước tiên là trong thị trường nội địa , sau đó là thị trường nước ngoài . Một số nghành sản suất có lợi thế so sánh nhiều nhất sau đây cần được ưu tiên phát triển : Ngành nông sản : Gạo , Cà phê và hạt điều là những mặt hạng nông sản có kim ngạch lớn trong thương mại Việt Nam – ASEAN . Hầu hết khối lượng xuất khẩu sang ASEAN thực chất được chuyển khẩu sang thị trường chính là Châu Âu và Mỹ (cà phê , hạt điều)và khắp các châu lục (gạo) . Nói chung , nông sản có nhiều cơ hội thâm nhập thị trường ASEAN và qua đó thâm nhập vào các thị trường khác trên thế giới. Nhu cầu gạo trên thế giới vẫn có tăng , Việt Nam vẫn dư gạo để xuất khẩu. Hiện nay trong nông nghiệp đã xuất hiện xu thế chuyển sang canh tác gạo giống mới , thuộc loại cao cấp . Kể từ năm 2003 , danh mục nông phẩm chế biến nhậy cảm bắt đầu được đưa vào thực hiện CEPT , Việt Nam có cơ hội thuận lợi hơn để xuất khẩu gạo sang các nước ASEAN . Nhìn chung , xuất khẩu gạo có thể tăng , đặc biệt Việt Nam có thể cạnh tranh với Thái Lan trong xuất khẩu gạo cao cấp vào các thị trường này và nếu giành ưu thế , Việt Nam xẽ đẩy nhanh xuất khẩu gạo sang các thị trường khác trên thế giới. Các mặt hàng nông sản có thể coi là một trong những thế mạnh trong xuất khẩu của Việt Nam . Tuy nhiên , đây là những mặt hàng hết sức nhạy cảm và thông thường trong thương mại quốc tế thường được các nước áp dụng các biện pháp và chính sách bảo hộ , trợ giá ở mức độ cao . Vì vậy , đối với những mặt hàng này , chúng ta xây dựng một hệ thống các chính sách ổn định với mức độ ưu đãi cao và đặc biệt là tập trung để khuyến khích phát triển công nghệ chế biến trong nước đối với những mặt hàng này để nâng cao vị thế của hàng hoá Việt Nam trong thương mại quốc tế . Ngành dệt May So với các nước khác , ngành dệt may của Việt Nam có ưu thế hơn về nguồn nhân công có văn hoá , cần cù , thông minh và lương không cao . Thêm vào đó , thị trường nội địa rộng lớn , đang phát triển nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu . Nhu cầu trong nước và ngoài nước đang diễn ra mạnh mẽ xu hướng đa dạng hoá và yêu cầu cao hơn , biến đổi nhanh hơn . Tuy nhiên, ta cũng kém lợi thế hơn về công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý . Sự hiện diện của nhãn hàng Việt Nam trên thị trường thế giới còn ở mức thấp , điều kiện tiếp cận nguồn vốn còn rất hạn chế . Hầu hết các doanh nghiệp chưa làm chủ được công đoạn tạo mẫu , chọn mẫu hợp thị hiếu và chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các sản phẩm có sức cạnh tranh thuộc khoang tiếp thị loại cao . Do đó , để chiếm lĩnh thị trường , nâng cao khả năng cạnh tranh trong ngành dệt và tạo tiền đề cho ngành may mặc , Việt Nam cần thu hút đầu tư và liên doanh với nước ngoài . Bên cạnh một số sản phẩm mà chúng ta có lợi thế so sánh tương đối lớn , còn một số ngành khác , mặc dù hiện đang được nhập khẩu với một số lượng tương đối lớn , nhưng thực tế chúng ta cũng có nhiều điểm lợi thế cần được tích cực khai thác để nâng cao khả năng cạnh tranh . Khai thác lợi thế tương đối về lực lượng lao động dồi dào với khả năng tiếp thu tay nghề nhanh , những ngành hàng điện , điện tử , ... sẽ là những ngành thích hợp để phát huy lợi thế sau này của Việt Nam . Nhìn chung , các ngành công nghiệp này được phát triển từ cơ sở của công nghiệp lắp ráp và là những ngành sản xuất được phát triển nhiều ở các nước đang phát triển để sử dụng nguồn lực về sức lao động và chuyển giao những công nghệ không phải là hàng đầu từ những nước phát triển . Tuy nhiên , những ngành sản xuất đòi hỏi phải có một thời gian nhất định để tạo thế phát triển và tạo thế đưngs trên thị trường Việt Nam . Đây là một vấn đề hết sức khó khăn vì thị trường trong nước đã tràn ngập hàng hoá của các nước lớn , các nước phát triển cũng như của các nước ASEAN . Do đó , trong giai đoạn phát triển ban đầu của những ngành sản xuất này , việc sử dụng đầu tư nước ngoài trực tiếp dưới các hình thức xí nghiệp liên doanh hay xí nghiệp 100% vốn nước ngoài và việc chuyển giao công nghệ sẽ là những tiền đề hết sức quan trọng . 2. Tăng hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá Hiện nay hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn thấp , hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là những sản phẩm khai thác từ tự nhiên hoặc cả những sản phẩm từ tự nhiên không tái tạo , những sản phẩm nông lâm ngư nghiệp chưa qua chế biến hoặc chế biến thô . Còn các sản phẩm công nghiệp nghèo về chủng loại , chất lượng kém , giá thành cao do công nghệ lạc hậu lại tiêu tốn vật tư , nguyên liệu năng lượng . Với thực trạng như vậy mà không được thay đổi , cải thiện thì hội nhập sẽ là nguy cơ chứ không phải là cơ hội . Chính vì vậy , nâng cao hiệu quả và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam . Do đó phải xét lại quy hoạch phát triển và kế hoạch đầu tư của tất cả các ngành , địa phương và doanh nghiệp nhà nước trên cơ sở đánh giá chính xác và phân tích sâu sắc tính cạnh tranh của sản phẩm trong nước , kể cả hàng hoá và dịch vụ . Tiêu chuẩn ở đây là : cơ cấu sản xuất và đầu tư phải hướng vào các sản phẩm tận dụng được lợi thế so sánh của đất nước , tạo ra những sản phẩm có khả năng cạnh tranh , đáp ứng nhu cầu trong nước và thế giới . Mọi phương án sản phẩm đều phải đặt trong quan hệ so sánh về chất lượng và giá cả so với hàng nưóc ngoài , yêu cầu này đặt ra càng nghiêm ngặt đối với các sản phẩm mới . Các sản phẩm thay thế nhập khẩu cũng phải phấn đấu sau một thời gian nhất định phải đảm bảo được chất lượng và giá cả có sức cạnh tranh với hàng nước ngoài . Những thứ trong nước cần , nhưng điều kiện và khả năng sản xuất trong nước về cả trước mắt và lâu dài đều khó khăn thì cần cân nhắc phương án đầu tư sản xuất trong nước với việc nhập khẩu hàng từ nước ngoài . Ngược lại , những sản phẩm tuy sức tiêu thụ không cao nhưng có lợi thế cạnh tranh , thị trường thế giới có nhu cầu mạnh thì mạnh dạn đầu tư phát triển , tăng cường xuất khẩu để có ngoại tệ nhập khẩu những hàng hoá trong nước chưa sản xuất được . 3. Thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư Tận dụng triệt để khả năng về thu hút đầu tư từ những nước trong và ngoài khu vực ASEAN để khai khai thác lợi thế sẵn có của Việt Nam về tài nguyên , sức lao động và thị trường mới ; xây dựng một môi trường đầu tư thuận lợi hơn so với các nước thành viên khác của ASEAN (xây dựng một môi trường đầu tư mang tính cạnh tranh cao) với chính sách ưu đãi rõ ràng và ổn định , những thuận lợi về cơ sở hạ tầng , cụ thể gồm : Bổ xung và hoàn thiện hơn nữa các chính sách đầu tư nước ngoài trực tiếp như chính sách góp vốn , chính sách công nghệ và kỹ thuật , chính sách đất đai và nhà ở cho người nước ngoài , chính sách lao động , tiền lương , chính sách bảo hiểm ... Cải tiến , tạo thuận lợi lớn cho các hoạt động đầu tư nước ngoài trong các thủ tục hành chính như các thủ tục cấp giấy phép đầu tư , kinh doanh xuất nhập khẩu , thủ tục cấp đất , cấp giấy phép xây dựng , thủ tục hải quan ... Cần tập trung hơn nữa tới các vấn đề ưu tiên hoàn thiện cơ sở hạ tầng liên quan đến đầu tư trực tiếp như hệ thống giao thông , điện nước , bến Cảng , thông tin liên lạc, ... Tập trung vào kế hoạch giáo dục , đào tạo để nhanh chóng có được đội ngũ lao động có trình độ cao. Xây dựng một danh mục cụ thể các ngành nghề , lĩnh vực cần được ưu tiên khuyến khích đầu tư nước ngoài trực tiếp , danh mục này gồm: 1) Những ngành cần thu hút đầu tư của những nước công nghiệp phát triển với mục đích sản xuất để xuất khẩu . Đối với những khu vực này cần chú trọng giám sát ưu tiên đầu tư với công nghệ hợp lý và tiên tiến . Khi thực hiện các biện pháp khuyến khích đầu tư cho những ngành này, cần tập trung chú trọng phân tích đầu ra về khả năng tiêu thụ sản phẩm , khả năng cạnh tranh , nhất là khi yếu tố giá thành của sản phẩm được đặt trong điều kiện không còn các hàng rào bảo hộ thuế quan và phi thuế quan . Chính các yếu tố của đầu ra sẽ quyết định đến quy mô , hình thức đầu tư , vấn đề này càng hết sức được quan tâm quản lý , nhất là đối với các hình thức đầu tư từ vốn ngân sách hay vốn nước ngoài . Cần hết sức tránh tình trạng đầu tư ồ ạt vào một số ngành mà không tính đến khả năng cạnh tranh có thể đẫn đến phá sản hàng loạt dự án đầu tư và tăng nợ nước ngoài. 2) Những ngành sử dụng nhiều lao động với mục đích tạo thêm việc làm và thu nhập cho người lao động . Đây là lợi thế rất lớn cho Việt Nam trong khi nhiều nước trên thế giới , đặc biệt là những nước trong khu vực đang mất dần lợi thế cạnh tranh về sức lao động và chuyển đần sang các nghành công nghệ cao . 4.Hoàn thiện hệ thống thuế quan Những định hướng về chính sách thuế trong điều kiện Việt Nam hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới được xác định theo hai mục tiêu chính : cố gắng hạn chế phần giảm thu ngân sách khi thực hiện các cam kết về giảm thuế nhập khẩu , đồng thời sử dụng hệ thống thuế như một công cụ kinh tế vĩ mô , khuyến khích sản xuất và xuất khẩu góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam . Hai mục tiêu này cần được thực hiện thông qua toàn bộ hệ thống thuế bởi vì nó có tác động đến các nhà sản xuất và xuất khẩu không những chỉ có các mức thuế suất của thuế nhập khẩu mà cả các loại thuế khác đặc biệt là thuế doanh thu , thuế lợi tức , thuế đối với đầu tư nước ngoài . Việc hoàn thiện sắc thuế này sẽ góp phần giảm nhẹ bớt phần giảm thu của ngân sách từ việc giảm thuế nhập khẩu . Đối với thuế xuất khẩu , nên áp dụng mức thuế tối thiểu để khuyến khích tối đa xuất khẩu . Tuy nhiên , vẫn cần có các mức thuế riêng cho xuất khẩu nguyên liệu dạng thô , sản phẩm trong nước đang cần không khuyến khích , mặt hàng có tỷ suất lợi nhuận cao do chênh lệch giá trị trong nước và quốc tế. Mặt hàng có thể xuất khẩu được và thị trường xuất khẩu là một vấn đề khó khăn đối với các doanh nghiệp vì tính cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam kém và không có thị trường ổn định vì vậy ta không nên tăng số tiền phải nộp cho ngân sách quá mức đối với xuất khẩu tức là không nên có khoản phụ thu, nếu cần thì điều chỉnh bằng thuế xuất . Đối với thuế nhập khẩu , các mức thuế suất cần được nghiên cứu sửa đổi một cách hợp lý để phù hợp với trình độ và tình hình kinh tế hiện nay của các ngành sản xuất trong nước , căn cứ trên sự phân tích thị trường và chiến lược, khả năng sản xuất của các ngành . Những mức thuế suất này sẽ là những công cụ quan trọng thiết lập cơ chế bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước , thực hiện chính sách thu hút đầu tư nước ngoài đồng thời khuyến khích sự cạnh tranh nhằm đảm bảo nền sản xuất có hiệu quả . Các mức thuế nhập khẩu một mặt được giảm xét đối với một số mặt hàng nhất định , một số mặt hàng có thể nâng lên , như vậy sẽ bù đắp được những thiếu hụt ngân sách khi cắt giảm thuế mà vẫn thực hiện được quy định của hội nhập với các nước và khu vực . Ngoài ra , các mức thuế suất của biểu thuế cũng cần phải được nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện các mức thuế suất ưu đãi , thuế phổ thông , thuế suất tạm thời, ...phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện thuận lợi khi tham gia vào các tổ chức kinh tế , thương mại . Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các chính sách thuế cần phải đơn giản hoá các mức thuế trong biểu thuế xuất nhập khẩu tức là giảm dần số lượng các mức thuế khác nhau trong biểu thuế . Việc đơn giản hoá từ biểu thuế sẽ tạo điều kiện quản lý tốt hơn, tránh thất thu thuế đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trong nước cải tiến kỹ thuật , công nghệ mới để tạo ra sản phẩm có chất lượng và giá rẻ . Phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập với khu vực và thế giới Một trong những yếu tố quan trong đảm bảo việc tham gia có hiệu quả vào quá trình hội nhập là cần có một đội ngũ lao động được đào tạo tốt về chuyên môn và khoẻ mạnh về thể chất . Do đó , phát triển nguồn nhân lực phải là ưu tiên hàng đầu . Đồng thời , để đáp ứng những đòi hỏi của các tiêu chuẩn quốc tế , nhà nước cần chú trọng đến chính sách đào tạo và tái đào tạo lực lượng lao động cho phù hợp với những thay đổi và yêu cầu của thị trường khu vực và thế giới , cần có thị trường lao động linh hoạt hơn . Bên cạnh đó chúng ta phải tranh thủ sự hỗ trợ kỹ thuật của ban thư ký ASEAN , APEC , ASEM ,...các nước và các tổ chức quốc tế khác trong việc giúp ta đào tạo lực lượng cán bộ đáp ứng được yêu cầu của của họ khi cần thiết . Trước mắt cần xây dựng , phát triển các trường đại học và cao đẳng theo mạng lưới hợp lý để hình thành một số trường đại học có chất lượng đào tạo ngang tầm với những trường đại học có chất lượng cao trong khu vực . Tiếp tục đổi mới chương trình, nội dung , phương pháp giảng dạy và phương thức đào tạo đội ngũ lao động có chất lượng cao , đặc biệt là trong các ngành kinh tế , kỹ thuật mũi nhọn, công nghệ cao. Gắn việc hình thành các khu công nghiệp , khu công nghệ cao với hệ thống các trường đào tạo nghề . Đưa số học sinh , công nhân kỹ thuật tăng trung bình 11 – 12% Thứ hai là đổi mới cơ bản công tác quản lý và tổ chức giáo dục ; xây dựng hệ thống giáo dục nhằm tạo điều kiện cho mọi người có thể học tập suốt đời theo hướng thiết thực , hiện đại , gắn chặt với yêu cầu của xã hội . Hoàn thiện cơ chế , chính sách và luật pháp để đảm bảo sự nghiệp giáo dục phát triển ổn định , chất lượng , hiệu quả đáp ứng nhu cầu về nguồn nhân lực cho đất nước phát triển nhanh và bền vững . Thứ ba là nhà nước giành tỷ lệ ngân sách chính đáng , kết hợp đẩy mạnh xã hội hoá , phát triển giáo dục và đào tạo . Huy động và sử dụng có kết quả mọi nguồn lực cho giáo dục và đào tạo . Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát triển giáo dục và đào tạo . Chủ động giành một lượng ngân sách thích đáng để tăng nhanh số học sinh , sinh viên, nghiên cứu sinh được đào tạo ở các nước phát triển . Kết luận Quá trình đổi mới của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới đã đan quyện chặt chẽ vào nhau. Không nên quên rằng toàn cầu hoá theo hướng tự do hoá mậu dịch và đầu tư là bối cảnh để Việt Nam có thể dứt khoát đoạn tuyệt với cơ chế làm ăn cũ , là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc hội nhập kinh tế quốc tế một cách hiệu quả . Những thành công đa đạt được qua 15 năm hội nhập sẽ được tiếp tục thúc đẩy khi chúng ta thực hiện các chương trình đầu tiên của tiến trình AFTA, AICO, AIA,... cũng như việc tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế WTO, WB,IMF,... Dù muốn hay không chúng ta phải đối phó với các thách thức to lớn. Song đó là cái giá phải trả cho sự tăng trưởng, cái giá của việc tạo dựng môi trường thương mại và đầu tư có đặc tính cạnh tranh cao, là sự hỗ trợ khu vực tư nhân nhằm thực hiện tốt các chương trình kinh tế vĩ mô của nhà nước. Những chân trời hợp tác quốc tế đang rộng mở , Việt Nam đang đi đúng hướng . Từ AFTA đến APEC và WTO , cùng với việc tham gia vào các định chế kinh tế toàn cầu như WB, IMF, chúng ta sẽ hội nhập ngày càng cao hơn vào nền kinh tế thế giới để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá của mình . Các tài lịệu tham khảo chính Robert Hue: chủ nghĩa cộng sản , một dự án mới ; Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh , H.1999. Tự do hoá và toàn cầu hoá : Rút ra những kết luận đối với công cuộc phát triển, Viện quản lý kinh tế TW dịch , H.1998. Toàn cầu hoá quan điểm và thực tiễn , kinh nghiệm quốc tế , NXB Thống kê , H.1999. David C.Korten: Khi các tập đoàn thống trị thế giới , dịch H. 1999. Toàn cầu hoá và vấn đề hội nhập quốc tế của Việt Nam , viện KTTG , 1999. Ngân hàng thế giới : Bước vào thế kỷ 21, NXB chính trị quốc gia ( dịch) H.1999. Ban phương Nam: Những thách thức ở phương Nam , NXB Chính trị quốc gia (dịch), H. 1996. John Naisbitt: Tám xu hướng phát triển của châu á , NXB Chính trị quốc gia, H.1998. Dự báo thế kỷ 21, NXB Thống kê (dịch), H. 1998. Bộ ngoại giao : Các tổ chức Quốc tế và Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, H. 1998. Tạp chí cộng sản số 4 tháng 2/2000. Zbigniew Brzezinski , Bàn cờ lớn NXB Chính trị quốc gia, H. 1998. Caroline Thomas , Peter Wilkin: Globallization and the South, Mac Millan press, London. 1997. Ankie Hoogvelt: Globalization and the poscolonical Word: The new political economy of development , MacMillan press , London 1997. Robert , J. Holton : Glo balization and Nation state Lon Don , MacMillan press, 1998. Võ Tá Hân – Trần Quốc Hùng – Vũ Quang Việt : Châu á từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21, NXB Tp. Hồ Chí Minh, 2000. Võ Đại Lược – Kim Ngọc : Các khối kinh tế và mậu dịch trên thế giới , NXB, chính trị quốc gia ,H. 1996. Từ diễn đàn Siatơn : Toàn cầu hoá và tổ chức thương mại thế giới , NXB chính trị quốc gia , H. 2000. Thế giới hai đồng tiền : Giữa hội nhập và phải hội nhập , NXB Thống kê , H. 1999. Viện thông tin khoa học xã hội , khu vực hoá và toàn cầu hoá - hai mặt của tiến trình hội nhập quốc tế , H. 2000. Viện thông tin khoa học xã hội . Toàn cầu hoá và khu vực hoá : cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển , H. 2000. Báo nhân dân số 23 tháng 4 năm 2001. Chuyên đề ngiên cứu khoa học cấp Bộ tại viện nghiên cứu KTTG “ Bối cảnh quốc tế và sự lựa chọn chiến lược Việt Nam” ( năm 2000). Kinh tế 1999- 2000 Việt Nam và thế giới . Kinh tế Châu á - Thái Bình Dương tháng 3, 6,9,12, năm 2000. Nghiên cứu kinh tế tháng 5, 8, 9, 10 năm 2000. Những vấn đề kinh tế thế giới tháng 1,5 năm 2000. 28. Danh mục hàng hoá và thuế xuất các mặt hàng của Việt Nam thực hiện hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ( CEPT của các nước ASEAN cho năm 2000) .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33838.doc
Tài liệu liên quan