MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nghị quyết số 03 - NQ/TW ngày 16/7/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng ( khóa VIII) đã chỉ rõ: Bên cạnh việc phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải: “Xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hết sức coi trọng, bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn học truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [13, tr.24 -28]. Tinh thần của nghị quyết tiếp tục được bổ sung và khẳng định trong kết luận của hội nghị lần thứ 10, số 03 - KL/TW ngày 20/7/2004 của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của Việt Nam đương đại, cần đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc” [13, tr.150]. Như vậy, để thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong giai đoạn hiện nay, chúng ta phải tiến hành đồng thời nhiều phương pháp khác nhau. Trong đó, cần xuất phát từ truyền thống văn hóa của dân tộc, một trong những nhân tố tạo nên truyền thống đó là kho tàng văn học dân gian nói chung, ca dao, tục ngữ nói riêng đã được ông cha ta dày công xây dựng và lưu giữ. Mặt khác cần kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa của dân tộc với tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm tạo nên những giá trị bền vững về văn hóa cho nền văn minh của đất nước.
Trong tình hình hiện nay, văn học dân gian là nguồn tư liệu ít được khai thác về mặt triết học vì nó được không ít người xem là loại văn phong không uyên bác, có nhiều hạn chế, lạc hậu. Song, thật ra, trong thứ văn chương bình dân ấy đã ẩn chứa những khái niệm trừu tượng mà ở đó, chúng ta có thể thấy được năng lực tư duy, phán đoán, phân tích và nhận thức của con người về vũ trụ và con người. Chính vì thế, văn học dân gian là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Nói như tác giả cuốn “Triết lý trong văn hóa Phương Đông”, tại sao “ngày nay văn hóa dân gian đã trở thành một bộ môn khoa học thì hà cớ gì chúng ta - những người làm triết học - lại cứ khư khư đóng cửa, không mở sang lĩnh vực triết lý dân gian”, từ việc nghiên cứu triết lý dân gian “rất có thể chúng ta lại tìm ra, phát hiện ra mạch ngầm sâu thẳm của dân tộc” [15, tr.404 - 405].
Mặt khác, Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam Về chính sách khoa học và kỹ thuật cũng đã chỉ rõ: “Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc và sự thắng lợi của tư tưởng triết học Mác - Lênin ở Việt Nam” [1, tr.23] là một công việc hết sức cần thiết và có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay mà còn có ý nghĩa lâu dài.
Vì những lẽ đó, chúng tôi đã chọn đề tài: “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đề tài mà chúng tôi nghiên cứu tiếp cận là vấn đề có tính chất đặc thù ở một địa phương nên chưa được nghiên cứu nhiều, phần lớn các công trình nghiên cứu tập trung dưới góc độ văn hóa dân gian là chính.
Một số công trình có nội dung chứa đựng nhiều ca dao, tục ngữ có liên quan đến đề tài. Trước hết, là công trình sưu tập, nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan (1995), “Tục ngữ, ca dao Việt Nam”, Cao Huy Đỉnh (1974), “Tìm hiểu tiến trình văn hóa dân gian Việt Nam”, Đinh Gia Khánh (2000), “Văn học dân gian Việt Nam”. Ba cuốn sách nói trên, các tác giả đã làm rõ khái niệm, nguồn gốc, sự hình thành, phát triển, nội dung và các hình thức nghệ thuật của ca dao, tục ngữ Việt Nam nói chung. Ngoài ra, tác giả còn làm rõ mối quan hệ giữa ca dao, tục ngữ với các thể loại văn học dân gian khác.
Công trình sưu tập ca dao, tục ngữ công phu nhất, có nội dung phong phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản lần đầu vào năm 1928, tập 1 của bộ sách này giới thiệu khoảng 6500 câu tục ngữ của các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn được coi là một trong những công trình sưu tập tục ngữ Việt Nam có quy mô lớn.
Đáng chú ý là công trình nghiên cứu của: Triều Nguyên (2005)“Ca dao Thừa Thiên - Huế”, Nhà xuất bản Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên - Huế, Huế. Tác giả đã trình bày những nội dung phản ánh của ca dao Thừa Thiên - Huế về các vấn đề như: Ca dao về tình yêu quê hương đất nước, ca dao về tình cảm đôi lứa, ca dao về quan hệ hôn nhân - gia đình, ca dao đối đáp, trêu ghẹo và ca dao cổ động các phong trào cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Triều Nguyên (2000), “Tục ngữ Thừa Thiên - Huế”, Nhà xuất bản Sở văn hóa thông tin, Hà Nội. Tác giả đã làm rõ nội dung phản ánh của tục ngữ Thừa Thiên - Huế như: Tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, tục ngữ phản ánh mối quan hệ giữa con người với gia đình và xã hội
Lê Văn Chưởng (2010), “Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế”, Nhà xuất bản trẻ. Tác giả đã trình bày những nội dung của ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế. Đối với tục ngữ; đó là những câu tục ngữ nói thiên nhiên, về lao động sản xuất, về gia đình - xã hội và về đạo đức. Đối với ca dao; ca dao nói đến quê hương non nước trữ tình, nói đến tình yêu đôi lứa qua hai giai đoạn chào hỏi - làm quen và tỏ tình - kết duyên và ca dao nói về vấn đề hôn nhân - gia đình.
Luận văn đã nghiên cứu liên quan đến đề tài này là: Lương Thị Lan Huệ (2004), “Một số vấn đề triết học qua ca dao, tục ngữ Việt Nam”. Tác giả đã trình bày một số tư tưởng triết học trong ca dao, tục ngữ người Việt như: Tư tưởng triết học biểu hiện qua mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người đối với xã hội. Tác giả cũng đã rút ra một số nhận xét về ca dao, tục ngữ Việt Nam, nêu ý nghĩa triết học của ca dao, tục ngữ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Những công trình nghiên cứu trên đã đi sâu và làm sáng tỏ những vấn đề về ca dao, tục ngữ của Việt Nam nói chung cũng như của Thừa Thiên - Huế nói riêng. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, chúng tôi đi sâu nghiên cứu một khía cạnh cụ thể trong ca dao, tục ngữ đó là triết lý nhân sinh ở địa bàn là tỉnh Thừa Thiên - Huế. Nội dung đề tài thể hiện sự đan xen giữa tư tưởng triết học và văn học, vì vậy đối với chúng tôi đây là đề tài khá mới và hấp dẫn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Luận văn bước đầu làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống (nhân sinh quan, thế giới quan) của con người Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, vận dụng nó ở góc độ kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn làm rõ:
- Sự hình thành của ca dao, tục ngữ
- Một số vấn đề về ca dao, tục ngữ của Thừa Thiên - Huế
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tư tưởng triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế qua các công trình đã được xuất bản.
Phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung trong nội dung những câu ca dao, tục ngữ của Thừa Thiên Huế.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là những quan điểm và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin. Đó là sự kết hợp những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với nguyên tắc thống nhất giữa lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh và đối chiếu, khách quan và biện chứng trong việc nghiên cứu tư tưởng triết học.
6. Đóng góp của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu tương đối mới về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ ở Thừa Thiên - Huế, trên cơ sơ đó góp phần làm rõ những vấn đề và giá trị nhân sinh được thể hiên trong ca dao, tục ngữ tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có hai chương, 5 tiết.
94 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 4811 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g.
Về đạo làm người, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh khá đầy đủ những đức tính tốt đẹp của con người Huế. Đó là tình yêu gia đình, yêu quê hương xóm làng, yêu đồng loại, tinh thần lạc quan, trách nhiệm và lòng dũng cảm khi đối đầu với thảm họa do thiên nhiên và những kẻ thống trị gây ra để bảo vệ cuộc sống của bản thân và của cộng đồng. Những đức tính quý báu đó đã trở thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc và góp phần quan trọng trong quá trình dựng nước và giữ nước.
Nổi bật hơn cả trong quan niệm về đạo làm người thể hiện ở đạo lý Nhân - Nghĩa. Đạo lý Nhân - Nghĩa được khắc họa đậm nét trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế mang ý nghĩa triết học sâu sắc. Nhân - Nghĩa như là phương châm sống, là động lực để phát triển. Để sống có Nhân, có Nghĩa thì con người cần phải có lòng thương yêu gia đình, xóm làng, quê hương đất nước, đồng loại, phải biết giúp đỡ những người gặp khó khăn, sống cao thượng, biết bỏ qua những điều mà người khác không phải với mình:
- Chị ngã em nâng, đến khi chi ngã em bồng trên tay
- Chị em như trái bầu non
- Chị em như trái cau dày ngon ngọt, tràn đầy
Trong gia đình thì người anh, người chị phải là tấm gương sáng để cho các em noi theo:
Làm anh, làm ngã ngả mặt lên
Quan hệ dọc từ gia đình là chữ hiếu, quan hệ ngang là chữ đễ, quan hệ vợ chồng là chữ thuận:
Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn
Là sự thương yêu, chung thủy:
- Có chồng rồi thì phải thủ phận đi tu
Dù ai có trao gương vàng trước mặt, cũng giả mù đừng soi
- Chàng ơi đưa gói em mang,
Đưa dù em vác cho chồng đi không
Con cháu đối với ông bà thì phải thờ kính:
Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Tình yêu của người lao động không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ họ hàng, gia đình, hàng xóm, quốc gia mà cao hơn là tình yêu thương đồng loại. Tình yêu đó của con người được phản ánh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế không phải là cái trừu tượng, chung chung mà đã được thể hiện bằng hành động, bằng việc làm thiết thực.
Phạm trù “Nhân” bao giờ cũng gắn liền với phạm trù Nghĩa. Nghĩa chính là biểu hiện bằng hành động của điều Nhân. Nghĩa là lẽ phải, hành động phù hợp với luân thường đạo lý. Nhân - Nghĩa cao nhất là ở yên dân, là độc lập dân tộc thống nhất tổ quốc, vì vậy Nhân - Nghĩa là ngọn cờ đoàn kết toàn dân, là tiêu chí không thể thiếu của người văn minh hiện đại. Thấm nhuần tư tưởng Nhân - Nghĩa, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành lý luận như sau “Nhân là thật thà, yêu thương, hết lòng giúp đỡ, là “chịu cực khổ trước mọi người, là hưởng hạnh phúc sau thiên hạ”, là “không ham giàu sang, không sợ cực khổ, không sợ uy quyền”. Nghĩa là “ngay thẳng, thấy việc phải thì nói, không sợ người ta phê bình, luôn đúng đắn”.
Như vậy Nhân - Nghĩa chính là lòng yêu thương người, hành động vì lẽ phải. Người có Nhân - Nghĩa phải là người đặt lợi ích tập thể quốc gia lên trên lợi ích cá nhân mình với phương châm sống vì mọi người. So với điều Nghĩa thì điều Nhân là nền tảng, Nghĩa là lẽ sống, là mục tiêu mà con người cần vươn tới. Người có Nhân luôn luôn hành động vì Nghĩa, do đó Nhân là cội rễ, là nguyên nhân của mọi hành động có đạo đức.
Có thể nói tư tưởng Nhân - Nghĩa đã ăn sâu vào trong cách sống, phong tục tập quán của mọi người dân Việt Nam, trong đó có người dân Thừa Thiên - Huế, đã trở thành sức mạnh vật chất, là chất keo cố kết các thành viên trong xã hội, là cội nguồn của tinh thần đại đoàn kết dân tộc. Đạo lý Nhân - Nghĩa đã tạo nên sự cố kết vững chắc trong gia đình, hàng xóm, dân tộc, tạo thành tinh thần đoàn kết gắn bó cùng nhau giúp đỡ trong sản xuất, mùa vụ, trong cuộc sống hằng ngày, cùng nhau đoàn kết chống thiên tai địch họa. Lối sống Nhân - Nghĩa đã làm cho quan hệ giữa con người với con người trong xã hội thêm bền chặt, làm cho con người thêm gắn bó với quê hương đất nước. Bắt nguồn từ đạo lý sống Nhân - Nghĩa mà trong quá trình lao động, cùng dựng nước và giữ nước mà người dân đã xây dựng nên lòng yêu nước:
Nhiều điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng
Trong quan niệm về đạo làm người của người dân Thừa Thiên - Huế, ngoài việc sống có Nhân - Nghĩa, con người sống trong xã hội còn phải biết lễ nghĩa phép tắc “kính trên nhường dưới”, biết cách ứng xử với người khác, biết tôn sư trọng đạo, biết đến công ơn nuôi dưỡng của ông bà, tổ tiên, cha mẹ và những người có công lao to lớn đối với mình. Đạo làm người của con người còn được thể hiện ở lối sống có tình, có nghĩa:
Con ơi nhớ lấy lời khuyên
Chữ tình, chữ lý đi liền với nhau
Đó là lòng khoan dung độ lượng, trong gia đình đó là sự tha thứ lỗi lầm cho nhau; trong xã hội và đặc biệt là trong quan hệ với kẻ thù, vừa mềm dẻo, vừa kiên quyết, một khi đã kiên quyết thì rất kiên quyết, nhưng khi kẻ thù đã đầu hàng thi sẵn sàng tha thứ. Lòng khoan dung làm cho nhân dân dễ thích nghi với hoàn cảnh, thêm bạn bớt thù, được nhiều người yêu quý.
Qua việc tìm hiểu tư tưởng của người dân Thừa Thiên - Huế về đạo làm người thể hiện trong ca dao, tục ngữ, chúng ta thấy được lối tư duy của người dân lao động đã đạt đến trình độ khái quát hóa khá cao. Đáng chú ý trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là tư tưởng biện chứng mềm dẻo trong cách ứng xử, trong giao tiếp xã hội . Trong cư xử, nói năng phải nhẹ nhàng, ngọt ngào làm say đắm lòng người, còn cư xử nói năng lỗ mãng thì chẳng bao giờ được người yêu thích:
- Mật ngọt chết ruồi
- Mấy đời mắm mặn chết troi bao giờ
- Ăn nên đọi, nói nên lời
Hoặc trong cách ứng xử trong quan hệ vợ chồng thì:
Cơm sôi bớt lửa, chồng giận vợ bớt lời
Người Huế thường ít nói và dè dặt trong lúc chuyện trò
Đàn ông cười hoa, đàn bà cười nụ
Bởi, họ sợ nếu vô tình lỡ lời thì có thể dẫn đến cái bất lợi, đến bi kịch cho người khác và cả cái vô duyên của chính mình:
Lời nói gói tội, lời nói đọi máu.
Trong đối nhân xử thế cũng vậy. Tùy vào từng hoàn cảnh mà có hành động cho phù hợp, tránh kiểu ứng xử rập khuôn máy móc:
Tùy cơ ứng biến
Chính quan điểm biện chứng nhìn sự vật luôn vận động và biến đổi đã giúp cho người Huế có niềm tin, có tinh thần lạc quan trong cuộc sống.
Như vậy, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã phản ánh khá rõ tư tưởng của người dân về vấn đề đạo làm người, một trong những khía cạnh nổi bật trong xã hội. Quan niệm ấy đã thể hiện tính nhân văn sâu sắc của con người. Nó chỉ ra rằng, con người sống trong xã hội cần phải lấy tình yêu thương làm nền tảng, lấy lẽ phải chính nghĩa làm lẽ sống để vươn tới. Đạo làm người có ý nghĩa thiêng liêng, gắn bó với đời sống tâm linh, tin tưởng vào chân lý, vào lẽ phải, vào điều thiện, do đó đạo làm người đã có sức sống mãnh liệt, mãi mãi là phương châm sống, lý tưởng sống ở mọi thời đại mà con người cần vươn tới.
Ngoài khía cạnh đạo làm người, ca dao tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn phản ánh các quan hệ xã hội, đó là mối quan hệ giữa gia đình - xã hội. Những quan niệm hàm chứa trong tục ngữ liên quan đến gia đình và xã hội ở Huế cũng là cái chung của toàn xã hội. Huế là địa phương chịu ảnh hưởng khá đậm nét của văn hóa Nho giáo, một thời cực thịnh dưới triều Nguyễn, tiêu biểu là quyền gia trưởng của chế độ phụ hệ trong quan hệ vợ chồng. Dưới chế độ phong kiến, đạo lý Khổng Mạnh vẫn là đạo lý làm cơ sở cho các cuộc hôn nhân của người dân xứ Huế. Người chồng luôn giữ vai trò chính trong gia đình về mọi mặt mặc dù có “thuận vợ thuận chồng”, nhưng thực tế thì người vợ, người phụ nữ chỉ biết phục tùng, “phu xướng phụ tùy”. Một số câu tục ngữ đã thể hiện rõ quan niệm trên như:
Chồng ghét thì ra, mụ gia ghét thì vào
Dưới chế độ phong kiến, uy quyền của người chồng đã làm cho người vợ rất cực khổ, người vợ không còn biết gì đến tự do, luôn phải sống trong lễ nghĩa, phép tắc bó buộc “tứ đức, tam tòng”. Số phận của người vợ giống như hạt mưa sa. Sự cực khổ của người phụ nữ nói chung xét đến cùng là do chế độ phong kiến gây nên, một chế độ trao quyền “gả bán” trong việc hôn nhân vào tay người gia trưởng.
Người vợ trong gia đình đã đem sức lao động và kinh nghiệm của mình đóng góp rất nhiều vào công việc sản xuất và kiến thiết xóm làng, đất nước, song vẫn phải ở vào địa vị thấp kém trong xã hội. Lý do chính là chế độ hôn nhân trong xã hội cũ đã đặt ngươi vợ vào địa vị thấp kém đó. Cho dù người vợ có làm ra bao nhiêu của cải thì cũng đều được coi là của người chồng và do người chồng quản lý; tất cả mọi tài sản trong gia đình đều do người chồng thừa kế và quyết định. Nghĩa là, người vợ dù có lao động, có làm ra của cải nhưng lại không được hưởng thụ mà luôn phụ thuộc vào người chồng. Chính sự phân biệt đối xử trên đã làm cho người vợ không bao giờ có sự độc lập về kinh tế. Tuy nhiên, bằng tình yêu thương gia đình, với lòng thủy chung sâu sắc với người chồng, người vợ biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống hôn nhân - gia đình, kết quả của tình yêu đó đã vượt qua được bức tường thành của lễ giáo phong kiến, giữa vòng vây của thứ lễ giáo nghiệt ngã.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn phản ánh tổ chức gia đình và mối quan hệ của những người trong gia tộc. Trong gia tộc nếu có người làm quan thì cả họ sẽ được che chở, giúp đỡ:
- Một người làm quan cả họ được cậy
- Một người làm bậy cả họ mất nhờ
Một số câu ca dao, tục ngữ nói về các hiện tượng lịch sử - xã hội về các nhân vật lịch sử và cả những biến động về kinh tế, chính trị, ảnh hưởng đến đời sống của nhân dân. Qua những câu ca dao và tục ngữ đó chúng ta có thể biết được người dân Huế đã sống và đấu tranh như thế nào, có những tập quán và thị hiếu gì. Huế là xứ sở thanh bình của thơ và mộng. Nhưng cũng có lúc dậy lên những biến động, chẳng hạn loạn Chày Vôi ở Khiêm Lăng, dưới triều vua Tự Đức. Việc thao túng triều đình của hai ông Tường, ông Thuyết:
Nước Nam có bốn anh hùng
Tường gian, Viêm dối, Khiêm khùng, Thuyết ngu
Thời cuộc rối ren dưới triều vua Hàm Nghi và Đồng Khánh:
Gẫm xem thế sự thêm rầu
Ở giữa Đồng Khánh hai đầu Hàm Nghi
Hay vua chúa cũng bị thất điên bát đảo:
Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn, vua mất, vua thua chạy dài”
(vua còn: Đồng Khánh, vua mất: Kiến Phúc, vua thua: Hàm Nghi)
Nguyễn đi rồi Nguyễn lại về
Chúa Trịnh mất nước, vua Lê hãy còn
Đầu cha lấy làm đuôi con
Mười bốn năm tròn hết số thì thôi
Ca dao, tục ngữ không trực tiếp trình bày cụ thể những hiện tượng lịch sử - xã hội, trong tuyệt đại đa số trường hợp, ca dao, tục ngữ phán ánh thông qua những tư tưởng khẳng định hoặc phủ định của các phán đoán, suy lý, kết luận. Thực ra đó chỉ là những biểu hiện của một gia đoạn nhất định của xã hội. Những vấn đề nảy sinh trong xã hội, chẳng hạn những nhận xét, những lời khuyên răn về mối quan hệ của mình, của người, về mối quan hệ riêng - chung ấy đã phản ánh tâm lý và hành động thực tiễn của con người sống trong xã hôi thời kỳ phong kiến.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế khi phản ánh các vấn đề xã hội cũng đã phản ánh sâu sắc tâm lý: “Trọng phú khinh bần” của con người trong xã hội:
- Giàu ba họ cũng bần, bần ông nội cũng xa
- Phú quý đa nhân hội, bần cùng bà nội cũng xa
Trong khi phản ánh những quan hệ tốt của con người, của gia đình và xã hội, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn là vũ khí sắc bén để lên án, phê phán đối với những con người và những hiện tượng gây ảnh hưởng xấu, làm vẩn đục bầu không khí trong lành của xã hội. Đó là thói tham lam, keo kiệt, ích kỷ của con người, thói thu dấu của mình nhưng lại hay moi móc người khác, lợi dụng lúc người khác gặp khó khăn để cướp đoạt tài sản:
- Của người bồ tát, của mình lạt buộc
- Cơm ăn chẳng hết thì treo
Việc làm chẳng hết thì kêu xóm làng
- Duồng gió bẻ măng
- Coi đồng tiền như chiếc nốc
- Đục nước béo cò
- Khó mà dễ ở dễ ăn
Giàu thì cửa ngáng, cửa ngăn khó vào
- Ngoài miệng thì niệm nam mô
Trong lòng thì chưa một bồ dao găm
Và cả sự xem thường tính mạng, nhân phẩm của người khác:
- Coi người như rác như rơm
- Coi người bằng nửa con mắt
Vấn đề đạo đức của con người trong xã hội được đặt lên hàng đầu, đó là một quan niệm truyền thống của người Việt nói chung. Tại Thừa Thiên - Huế thời Nguyễn triều không những chỉ Nho giáo mà cả Phật giáo cũng phát triển, cho nên có rất nhiều ca dao, tục ngữ liên quan đến đạo đức mang màu sắc Phật giáo. Người Huế luôn cho rằng:
Có đức mặc sức mà ăn
Nổi bật hơn cả là những câu nói về sự trung thực và lòng vị tha trong buôn bán cũng như trong các mối quan hệ xã hội khác. Đây là nói về cái tâm của con người, không cần dụng cụ lớn mà cần đong đầy, nhiều lời nói tốt đẹp không bằng một vài hành động:
Đong đầy hơn nậy (lớn) đọi
Vấn đề khác nổi lên trong xã hội, được ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh khá rõ là vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Hàng loạt câu ca dao, tục ngữ nói về vấn đề này như:
- Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan
- Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quyét lá đa
- Dùi đánh đục, đục đánh săng
Đấu tranh giai cấp phản ánh trong những câu ca dao, tục ngữ là cuộc đấu tranh của nhân dân lao động chống lại giai cấp bóc lột trong chế độ phong kiến. Cuộc đấu tranh ấy còn mang tính chất tự phát, còn mơ hồ, thậm chí còn không ít mâu thuẫn.
Như vậy, khi tìm hiểu tính triết lý sống từ các khía cạnh xã hôị qua ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, chúng ta thấy được mối quan hệ của chúng với thời điểm lịch sử chúng xuất hiện. Qua đó chúng ta hiểu được quan điểm của nhân dân đối với các hiện tượng ấy. Những kinh nghiệm thực tiễn trong lao động, trong đời sống cộng đồng, trong đấu tranh giai cấp cũng như những tư tưởng chính trị - xã hội và tâm lý - đạo đức của nhân dân rất đáng được tìm hiểu sâu hơn trên cái nền của bức tranh lịch sử xã hội của thời đại.
2.3. Một số nhận xét ban đầu qua việc tìm hiểu triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
2.3.1. Những dấu hiệu của tư tưởng biện chứng trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
Từ xa xưa, ở con người đã hình thành loại kiến thức có tính chất phổ biến về cả tự nhiên, về xã hội và cả bản thân con người. Đó là sản phẩm tinh thần của con người trong quá trình lao động và biến đổi thế giới. Loại kiến thức đó chưa được đúc kết thành hình thức lý luận thuần túy (hình thức khái niệm, phạm trù) mà mới chỉ dưới dạng triết lý xen kẽ với tư duy hình tượng. Dù chưa thành hệ thống khái niệm chặt chẽ nhưng chúng lại có vị trí quan trọng trong đời sống tình thần của con người. Loại tư tưởng này rải rác ở nơi này hay nơi kia trong di sản tinh thần của các thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.
Nghiên cứu ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế nói về mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên hoặc về quan hệ gia đình và xã hội, chúng ta bắt gặp một số yếu tố biện chứng. Cư dân Huế sống chủ yếu vào nghề nông nghiệp, phụ thuộc vào thiên nhiên nên phong cách sống của người dân lao động là sống hòa hợp với thiên nhiên, tôn trọng thiên nhiên. Xuất phát từ quan niệm phải sống hòa hợp với thiên nhiên, trong nhận thức của người dân đã có sự thừa nhận sự tồn tại khách quan của thế giới. Bằng trực quan cảm tính, các tác giả ca dao, tục ngữ đã nhận thấy mối liên hệ qua lại giữa các sự vật và hiện tượng; sự vật và hiện tượng này có thể ảnh hưởng, hoặc làm biến đổi sự vật và hiện tượng khác. Chẳng hạn câu tục ngữ:
- Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa
- Có choái thì cây mới leo, có cột có kèo mới có đòn tay
Cho thấy các sự vật và hiện tượng trong tự nhiên nương tựa vào nhau để cùng tồn tại. Khi liên tưởng đến con người thì chúng ta cũng thấy con người không tồn tại đơn độc mà luôn gắn liền với gia đình và xã hội. Tuy vậy cũng có cũng có trường hợp sự vật hoặc hiện tượng nào đó không có tác động, ảnh hưởng gì đến sự vật hay hiện tượng kia. Chẳng hạn câu tục ngữ:
Có cô thì chợ cũng đông, cô đi lấy chồng thì chợ vẫn đông vui
Sở dĩ con người có được nhận thức như vậy là vì qua quá trình tác động vào tự nhiên, con người đã làm cho giới tự nhiên bộc lộ những thuộc tính vốn có của nó. Đó chính là mối liên hệ phổ biến, sự vận động và phát triển không ngừng của các sự vật và hiện tượng. Ví dụ, qua lao động người dân thấy được các hiện tượng tự nhiên như nắng mưa, lũ lụt, hạn hán, các loài động vật và thực vật có mối quan hệ ảnh hưởng qua lại lẫn nhau. Nhờ có khả năng quan sát tinh tế và sự tích lũy kinh nghiệm người dân đã rút ra được những hiể biết quý báu, từ đó dự đoán khá chính xác về các hiện tượng tự nhiên nhằm phục vụ cho lao động sản xuất và cuộc sống của mình, giúp con người thích nghi được với hoàn cảnh sống, đồng thời hạn chế được những thiệt hại do tự nhiên gây ra.
Trong quá trình lao động và nhận thức, người lao động đã thấy được mối quan hệ và sự tác động qua lại giữa tự nhiên và con người, giữa các hiện tượng tự nhiên với cuộc sống của chính con người. Từ nhận thức đó, con người cũng hiểu được rằng, không phải chỉ giới tự nhiên có quan hệ với con người mà cả trong xã hội con người có mối quan hệ, ảnh hưởng và phụ thuộc lẫn nhau. Khi nói về sự biến động và phát triển của xã hội, ca dao Thừa Thiên - Huế có câu:
Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa
Rõ ràng, ở đây, thể hiện tư tưởng duy vật và đồng thời cũng thể hiện quan niệm về sức mạnh của quần chúng nhân dân trong việc tạo nên những biến cố lịch sử, thay đổi chế độ xã hội, Như vậy, con người đã thấy được rằng các hiện tượng trong tự nhiên và trong xã hội đều luôn có sự thay đổi, chứ không phải là cái bất biến.
Bằng những sự quan sát các hiện tượng riêng lẻ, con người dần dần nhận ra sự liên hệ tính tất yếu, sự lặp lại và tác động lẫn nhau giữa các hiện tượng trong tự nhiên và trong đời sống xã hội. Trong quá trình lao động và nhận thức, con người hiểu được rằng, trong thế giới tự nhiên và trong xã hội luôn tồn tại mặt đối lập nhau như nắng - mưa, ngày - đêm, chiến tranh - hòa bình, tốt - xấu, và chính chúng tạo thành chỉnh thể thống nhất của tự nhiên và xã hội.
Có những câu tục ngữ nói lên mâu thuẫn tất yếu trong một xã hội có áp bức, bóc lột, đó là mâu thuẫn giữa giai cấp thống trị giàu có và nhân dân lao động nghèo khổ; mâu thuẫn ấy không thể điều hòa được:
- Đàn anh bắt vạ, đàn em hạ roi
- Có của lấy của che thân, không của lấy thân thế của
Trong xã hội, những người giàu có, hoặc thuộc tầng lớp trên nếu có tội thì họ sẽ dùng tiền của chạy tội để được yên thân, còn những người nghèo khổ, tầng lớp dưới thì phải lấy thân xác ra chịu đòn, chịu phạt hoặc chịu tù tội. Bất lực trước tình trạng bất công có khi con người buộc phải tự bằng lòng với cuộc sống hiện tại của mình và tự an ủi rằng “số trời đã định”.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế cũng cho thấy người lao động đã phần nào nhận thức được xu hướng của sự phát triển, phần nào đã hiểu được rằng khi thêm “lượng” thì sẽ dẫn đến sự biến đổi về “chất ”, tạo ra “chất mới”. Có một số câu tục ngữ nói đến quá trình tích lũy về lượng đẫn đến sự biến đổi về chất như:
- Tích tiểu thành đại
- Năng nhặt, chặt bị
- Lấy ngắn nuôi dài
- Góp gió thành bão
Thông qua quan hệ “lượng - chất”, con người hiểu được rằng trong cuộc sống không được vội vàng, nếu vội vàng làm điều gì đó khi chưa có đủ điều kiện thì sẽ thất bại. Vì thế:
- Chưa học bò chớ lo học chạy
- Đừng vội ăn nóng mà hư
Càng lâu, càng chín, càng nhừ mới ngon
Mọi cái, mọi chuyện rồi cũng sẽ đâu vào đó, không nên quá nôn nóng, vội vàng mà hỏng việc:
Ngựa loong coong, ngựa cũng đến bến, voi trun trên, voi cũng đến đò
Quan hệ lượng đủ chất đổi còn thể hiện ở khía cạnh “chưa đủ” nữa:
Người sao một hẹn thì nên
Người sao chín hẹn thì quên cả mười
Có một điều kiện nào đó khiến cho khả năng (một hẹn) thành hiện thực (nên), cũng có một điều kiện nào đó khiến cho khả năng (chín hẹn) vượt quá hiện thực (quên cả mười). Vậy là không chỉ lượng đủ thì chất mới đổi mà lượng chưa đủ chất cũng đổi, đây chính là ý nghĩa thứ hai của biện chứng là không nên tuyệt đối hóa mặt nào cả, quy luật lượng đủ khiến chất đổi đã được tư duy dân gian chứng tỏ rằng nó cũng có mặt đối lập của nó, và nó cũng rất “thuận lý” dù ban đầu nghe có vẽ rất “nghịch lý”.
Tuy chưa có câu ca dao, tục ngữ nào nói đến quy luật phủ định của phủ định nhưng nội dung của quy luật được phản ánh thông qua nhận xét, phán đoán, khẳng định của người dân. Những trải nghiệm của cuộc sống đã cho con người thấy được rằng các sự vật và hiện tượng đều có quá trình sinh ra, tồn tại và mất đi; rằng các sự vật và hiện tượng có sự thay thế lẫn nhau, cái cũ sẽ mất đi, cái mới sẽ xuất hiện; cái mới hình thành, phát triển trên cơ sở cái cũ, cái mới ấy không phải là mới hoàn toàn mà chính là cái cũ ở một dạng tồn tại cao hơn:
Phi cổ bất thành kim
Tục ngữ có nói đến mối quan hệ tất nhiên - ngẫu nhiên. Chẳng hạn:
- Bổ bò nhằm khi khế rụng
- Đứt gánh gặp lại đòn triêng
Theo tư duy dân gian thì cái tất yếu là cái nhất thiết phải diễn ra, còn cái ngẫu nhiên là cái xảy ra như thế nào thì người ta khó mà đoán biết được. Rõ ràng, trong việc nhận thức cái tất nhiên và ngẫu nhiên, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã phác họa được khá nhiều đương nét, màu sắc độc đáo.
Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng, nội dung và hình thức cũng được ca dao và tục ngữ Thừa Thiên - Huế nói đến ở nhiều góc độ khác nhau rất thực tế và khá linh hoạt. Nội dung, bản chất bao giờ cũng được bộc lộ qua hình thức, qua hiện tượng. Do đó, có thể căn cứ vào hình thức, hiện tượng để kết luận về nội dung, bản chất của sự vật:
Trông mặt, đặt tên
Tuy nhiên, nhận thức bản chất của sự vật thông qua hiện tượng hoặc hình thức không phải lúc nào cũng chính xác, nên cần phải cảnh giác với những hiện tượng xuyên tạc bản chất:
- Bên ngoài lồng lộng như gương
Bên trong nát bét như đường trâu đi
Giữa nội dung và hình thức, giữa bản chất và hiện tượng theo quan niệm dân gian thì nội dung và bản chất bên trong là cái giữ vai trò quyết định, hơn hẳn hình thức bên ngoài:
- Xấu người đẹp nết, còn hơn đẹp người
- Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Hiện tượng và hình thức bên ngoài không làm nên bản chất của sự vật, khó có thể biết được thực chất bên trong của mỗi sự vật khi ta mới chỉ nắm bắt cái hình thức bên ngoài hấp dẫn của nó:
Ai biết chi trong quả ổi
Hiện tượng và hình thức phong phú hơn nội dung và bản chất. Bản chất và nội dung là cái tương đối ổn định, ít biến đổi; còn hiện tượng và hình thức là cái thường xuyên biến đổi. Như Lênin nhấn mạnh: “Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt thường biến mất, không bám chắc, không ngồi vững bằng bản chất” [23, tr.137].
Một biểu hiện khác nữa của tính biện chứng trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là sự bàn luận về cái chung, cái giống nhau và cái khác biệt của các sự vật hiện tượng. Có cái chung, cái giống nhau về bản chất:
- Ếch nào chả là thịt
- Máu trâu cũng như máu bò
Những cũng có cái chung không giống nhau về bản chất:
- Chim với phượng cũng kể là loài hai chân
Thú với kỳ lân cũng kể là loài bốn vó
Trong đời sống xã hội, còn có những sự tương hợp mang tính khác biệt:
- Thầy nào, trò ấy
- Tiền nào của ấy
- Nồi nào vung ấy
Chúng đều là sự mô tả, phản ánh sự ảnh hưởng, gắn bó giữa những cái vốn là đối lập nhau. Những sự đối lập trên là khá rõ, song chúng lại có mối quan hệ gắn bó với nhau, chi phối, quy định lẫn nhau.
Một điều đáng quan tâm là khi đề cập đến vấn đề sự thống nhất của những cái khác biệt, đối lập, ca dao và tục ngữ không chỉ dừng lại ở việc khái quát, nhận xét mang tính triết lý về cuộc sống, về hoạt động, về phẩm chất tốt hoặc tật xấu của con người, mà từ những hiện tượng phổ biến đó, đã nêu ra những phương châm xử thế sao cho thỏa đáng; mọi hành vi, cử chỉ của con người đều phải chú ý đến tính luân lý chứ không được tùy tiện muốn sao thì làm vậy. Chẳng hạn, khi nói về cách trao gửi tiền và cao hơn là trao gửi con người thì:
- Chọn mặt gửi vàng
- Chọn người gửi của
- Tìm nơi có đức gửi nhân
- Tìm nơi có nhân gửi của
Trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế, phạm trù nguyên nhân - kết quả cũng đã được đề cập đến. Đó là những hiện tượng luôn gắn bó với cuộc sống của con người, có nguyên nhân thì nhất định có kết quả, có kết quả là có nguyên nhân. Những câu tục ngữ như:
- Ở lành thì gặp lành
Ở ác gặp ác rành rành chẳng sai
- Đời cha ăn mặn, đời con khát nước
- Cha mẹ giàu con có, cha mẹ khó con không
- Có tích mới dịch nên tuồng
Đều cho thấy hiện tượng này sinh ra hiện tượng kia, hiện tượng kia là kết quả của hiện tượng này, không có hiện tượng nào xuất hiện mà không có nguyên nhân của nó.
Bên cạnh đó, người Huế rất coi trọng vấn đề nhận thức. Nhận thức bắt đầu bằng sự hiểu biết, muốn hiểu biết phải có học hỏi:
- Có học mới biết, có học mới khôn
- Có học mới hay, có cày mới biết
Nhận thức phải là một quá trình mới đạt tới chân lý khách quan, đồng thời quá trình nhận thức là do thực tiễn kiểm nghiệm, thực tiễn đặt ra nhu cầu nhiệm vụ cho nhận thức:
- Học đi đôi với hành
- Đi một ngày đàng, học một tràng khôn
Những câu ca dao, tục ngữ đều dựa trên sự quan sát trực tiếp để nói đến các sự vật và hiện tượng cụ thể, nhưng xét về ý nghĩa thì nó lại mang tính phổ quát và có những yếu tố biện chứng, chứa đựng triết lý sống sâu sắc của con người. Những yếu tố biện chứng vừa nêu trên chưa dựa trên cơ sở hay có sự chỉ đạo của tri thức khoa học, mà chỉ ở mức độ mầm mống. Mặc dù vậy, những tư tưởng có yếu tố biện chứng đó trong ca dao, tục ngữ có tác dụng tích cực đối với việc tìm hiểu, cải biến thế giới tự nhiên và xã hội. Vì vậy chúng luôn chiếm một vị trí quan trong trong tư tưởng của người dân xứ Huế.
2.3.2. Tính mâu thuẫn và không nhất quán trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
Sự mâu thuẫn về tư tưởng là một nét nổi bật và phổ biến trong ca do, tục ngữ Thừa Thiên - Huế. Có những mâu thuẫn về tư tưởng trong ca dao và tục ngữ một phần do sự nhận thức của người dân chủ yếu là nhận thức kinh nghiệm chưa được hệ thống hóa ở trình độ thế giới quan và nhân sinh quan hoàn chỉnh, thống nhất; chưa thể hiện được tính triết lý nhất quán sâu sắc. Mặt khác những mâu thuẫn về tư tưởng ấy cũng phản ánh chính ngay những mâu thuẫn giữa lý tưởng sống của người dân với thực tế cuộc sống của xã hội có giai cấp, có áp bức bóc lột. Những mâu thuẫn này đến lượt chúng lại là nguồn gốc của những sự ngả nghiêng, của những mâu thuẫn trong lối sống mà ca dao và tục ngữ phản ánh, đồng thời chúng cũng thể hiện tính mềm dẻo, linh hoạt của nhân dân trong những hoàn cảnh cụ thể. Điều này nói lên tính chất muôn màu, muôn vẻ, tính phức tạp trong mối quan hệ giữa con người với con người trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Khi nói về sự mâu thuẫn trong tư tưởng cũng có ý kiến cho đó là biểu hiện của tính bảo thủ, lạc hậu, kìm hãm sự phát triển, là biểu hiện của sự nhận thức thấp kém chủ yếu dựa vào những tri thức kinh nghiệm hẹp hòi. Ngay cả những tư tưởng tích cực trong ca dao và tục ngữ phản ánh bản chất tốt đẹp của người lao động, phản ánh những truyền thống tốt đẹp của nhân dân, của dân tộc cũng nhiều khi chịu ảnh hưởng hay ít nhất cũng khoác cái vỏ ngoài của những tư tưởng thống trị thời đại lúc bấy giờ. Song, những mâu thuẫn về tư tưởng trong tục ngữ không chỉ phản ánh những mâu thuẫn trong thế giới quan và nhân sinh quan của nhân dân lao động, những mâu thuẫn trong “bộ luật” xử thế, trong lối sống của thời đạị. Những mâu thuẫn về tư tưởng trong ca dao, tục ngữ còn là một biểu hiện của sự nhận thức của nhân dân về những mâu thuẫn trong lý tưởng sống, giữa những truyền thống đạo đức tốt đẹp với hiện thực xấu xa, với thực tế cay đắng của cuộc sống hiện tại.
Nhiều câu tục ngữ nói về các hiện tượng và những cách suy nghĩ không phù hợp với lý tưởng sống của nhân dân, không có ý nghĩa như những lời khuyên răn, mà ngược lại như những lời chê trách hay đã kích:
- Cha bòn, con phá
- Cha làm thầy, con đốt sách
- Bằng mặt không bằng lòng
- Có đỏ mà nỏ có thơm
- Chân đi giày, tay đi dù, khu ỉa trịn
- Ngoài miệng thì niệm nam mô
Trong lòng thì ngậm một bồ dao găm
Nói về vinh - nhục, sướng - khổ:
- Chẳng thà ăn dĩa muối rang
Còn hơn ăn vàng vừa khóc vừa than
- Nước giữa dòng khi trong khi đục
Trang anh hùng khi nhục khi vinh
Nói về may - rủi, họa - phúc:
- May hó long, rủi xong máu
- Tránh ác, mắc ó, chê vò vọ, mắc cua vành
- Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí
Nói về chuyện khôn - dại:
- Dại nhà khôn chợ mới ngoan
Khôn nhà dại chợ thế gian chê cười
- Khôn ngoan ba chốn bốn bề
Đừng cho ai lấn, chớ hề lấn ai
Bản thân cách gọi của nhân dân về những hiện tượng tiêu cực như vậy cũng bao hàm thái độ mỉa mai, chua chát đối với cuộc sống.
Bên cạnh việc phản ánh những tri thức, kinh nghiệm và quan niệm dân gian một cách đa dạng, phong phú, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế còn thể hiện tính chất trái ngược nhau của các sự vật, hiện tương. Cùng một sự vật, sự việc, nhưng có nhiều cách nhìn, cách đánh giá khác biệt như:
- Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau
- Ăn cỗ đi sau, lội bàu đi trước
- Mãnh hổ nan địch quần hồ
- Quần hồ bất như độc hổ
Hiện tượng này có thể được giải thích là do tục ngữ được sáng tác từ nhiều tầng lớp, địa bàn, thời điểm khác nhau. Sự trái nghĩa nhau ở một số câu tục ngữ được đông đảo nhân dân lao động thừa nhận, bởi thiếu nó thì cuộc sống trở nên khô cứng. Và mỗi khi con người không đạt được điều mong muốn hoặc một chuẩn mực, một sự khôn khéo được thừa nhận, không tìm thấy sự chống đỡ về mặt đạo đức, tâm lý xã hội thì dễ rơi vào bi kịch tinh thần. Cho nên dù: “Ăn cỗ đi trước lội nước theo sau” được coi là điều khôn cần học, thì: “Ăn cỗ đi sau lội bàu đi trước”, lại là việc làm của trang dũng cảm, vị tha.
Dù con trai theo cơ chế phụ hệ, nam quyền của xã hội cũ có nhiều ưu thế so với con gái, nhưng không phải ai cũng may mắn có con trai, và như vậy thì lấy gái làm trai, mà con gái cũng tỏ ra không kém cạnh:
Mười con trai không bằng lỗ tai con gái
Những mâu thuẫn trong tư tưởng của người lao động, một mặt, phản ánh sự tác động tiêu cực của hình thái tổ chức xã hội có giai cấp đối với tư tưởng, tâm lý và hành vi của con người, đối với mối quan hệ giữa những con người với nhau trong gia đình và xã hội. Mặt khác, với tính cách là biểu hiện của tư tưởng, nhiều khi chúng không hề đối lập về nội dung tư tưởng và những truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân. Trái lại chúng có tác dụng bổ sung, hướng dẫn để nhân dân áp dụng, phát huy những truyền thống đạo đức ấy một cách thực tế, phù hợp với những đối tượng và những hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời, cũng chính trên cơ sở đó, sự hiểu biết sâu sắc về con người và về việc đời cũng chính là sự phản ánh cuộc đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực trong tư tưởng, tâm lý, hành vi con người; với những hiện tượng xấu trong mối quan hệ giữa con người với nhau. Đặc biệt, qua sự phản ứng và đấu tranh với giai cấp bóc lột và bộ máy thống trị của nhà nước phong kiến, mà tư tưởng nhân đạo và dân chủ trước kia của nhân dân lao động đã có sự chuyển biến, đã phát triển thành những tư tưởng chính trị - xã hội làm cơ sở cho cuộc đấu tranh giai cấp của nhân dân thời phong kiến.
2.3.3. Vấn đề kinh nghiệm trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế
Kinh nghiệm hiểu theo nghĩa hẹp đó là sự kiểm nghiệm tri thức của con người bằng sự quan sát hiện thực xung quanh hay bằng thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, còn hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ thực tiễn xã hội của con người trong quá trình lao động, để duy trì sự tồn tại của mình, chống lại sức mạnh của kẻ thù. Thực tiễn xã hội cho phép ta thu nhận và khái quát đúng đắn những tài liệu về tự nhiên, xã hội và ý thức của con người. Xét theo ý nghĩa đó thì mọi lý luận khoa học chân chính đều dựa trên kinh nghiệm, đều là sự khái quát và là kết luận rút ra từ kinh nghiệm. Kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức, đồng thời là tiêu chuẩn của chân lý.
Nhận thức của con người bắt đầu từ sự quan sát các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan, bằng sự tri giác trực tiếp hoặc nhìn thấy, sờ mó được. Nhận thức dừng lại ở giai đoạn cảm tính thì chỉ mới thấy được những biểu hiện bên ngoài, chưa phản ánh được bản chất của sự vật, do vậy là nhận thức phiến diện, có thể dẫn đến sự nhầm lẫn hoặc ảo tưởng. Điều đó có nghia là nhận thức kinh nghiệm thường ngày không thể ngay lập tức mang lại cái nhìn đúng đắn về bản chất của sự vật và hiện tượng.
Nhận thức của người dân Huế trong quá trình sinh sống và lao động chủ yếu dựa vào những tri thức kinh nghiệm. Điều này thể hiện ở chổ những câu ca dao, tục ngữ do người dân sáng tác là kết quả của việc quan sát trực tiếp những sự vật và hiện tượng cụ thể của tự nhiên, xã hội và đời sống hàng ngày của con người. Chẳng hạn qua việc quan sát các hiện tượng của tự nhiên, người lao động đã đúc kết được những kinh nghiệm để dự báo về thời tiết như:
- Ong vò vẽ làm tổ bụi gai
Thấp thời lụt nhỏ, cao thời lụt to
- Cóc nghiến răng, đang nắng thì mưa
- Kiến cánh vỡ tổ bay ra, bão táp mưa sa tới gần
Hoặc trải qua nhiều năm tháng chịu thiệt hại vì bão, lụt, người dân Thừa Thiên - Huế, đặc biệt là những người đi lại trên sông nước, đánh bắt thủy hải sản đã có kinh nghiệm trong việc nắm bắt được chu kỳ ngày tháng bão lụt hằng năm:
- Ông tha mà bà chẳng tha
Mồng 5 tháng 9, 23 tháng 10
- Nào ai đi lông, ngoài khơi
Mùng 5 tháng 9, bão rơi phải về
Do đó nhận thức trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là nhận thức mang tính kinh nghiệm bằng sự quan sát hiện thực xung quanh trong quá trình sinh sống, lao đông sản xuất của người dân, chủ yếu mang tính chủ quan, tuy nhiên cái chủ quan đó dần dần cũng trở thành cái phổ biến trong xã hội, trở thành kỷ năng sống của người dân.
Sự nhận thức bằng kinh nghiệm có tác dụng to lớn đối với người dân trong quá trình lao động sản xuất và sinh hoạt cộng đồng. Nhận thức kinh nghiệm cơ bản xuất phát từ hoạt động thực tiễn xã hội của nhân dân lao động, nên ít nhiều đã mang tính chân lý. Chính vì chủ yếu đang dựa vào kinh ngiệm, cho nên nhận thức của con người xứ Huế thể hiện trong ca dao, tục ngữ không chịu sự gò bó cứng nhắc, khuôn mẫu hoặc quá trừu tượng.
Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Trước hết, sự nhận thức dựa vào kinh nghiệm, tuy rằng có thể tích lũy được một số kiến thức có tác dụng trực tiếp đối với hoạt động thực tiễn của con người nhưng nó chưa đem lại cho con người sự hiểu biết đầy đủ, chính xác, cũng chưa thể dẫn tới những chân lý phổ biến.
Mặt khác, bằng sự nhận thức kinh nghiệm nhiều khi gặp phải các mâu thuẫn, vì chỉ dựa vào những cái gì trực tiếp nên sự nhận thức đó chủ yếu chỉ nhìn thấy các sự vật, hiện tượng trong trạng thái tách biệt nhau mà thường không nhìn thấy các sự vật trong mối liên hệ phổ biến, với những quy luật bên trong của chỉnh thể. Dạng nhận thức bằng kinh nghiệm có xu hướng bị tuyệt đối hóa, coi đó là những chân lý tuyệt đối. Vì vậy, khi áp dụng nhận thức kinh nghiệm vào những trường hợp cụ thể của cuộc sống, tầm nhìn đã hạn chế, khiến cho không tránh khỏi tính chất chủ quan, thậm chí cố chấp, bảo thủ, cản trở đó sự phát triển của nhận thức.
2.3.4. Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế - bộ phận cấu thành văn hóa Huế
Văn hóa Huế đó là một nền văn hóa của sự hài hòa và gắn bó mật thiết giữa con người và môi trường sống. Môi trường tự nhiên được con người biến đổi vì chính cuộc sống của mình và con người trình biến đổi tự nhiên, đã sáng tạo nên lịch sử và văn hóa Huế.
Văn hóa Huế, được làm giàu bởi dòng văn học dân gian, trong đó có sự đóng góp to lớn của ca dao, tục ngữ, chính. Chính vì thế ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã trở thành một bộ phận quan trọng của văn hóa Huế.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế có ý nghĩa quan trọng và ảnh hưởng to lớn đến văn hóa Huế. Đó là sự tổng hợp những kiến thức của nhân dân lao động thời xưa về những vấn đề của cuộc sống và lao động sản xuất của con người. Những kiến thức ấy tuy còn gắn chặt với kinh nghiệm nhưng so với tất cả những kiến thức văn học dân gian khác thì nó là dạng kiến thức tiến gần hơn cả dạng kiến thức khoa học mà nhân dân lao động thời xưa có thể đạt được.
Khi ánh sáng khoa học chân chính chưa tìm đến với cuộc sống của người lao động thì bằng sự đúc kết kinh nghiệm qua ca dao, tục ngữ, người lao động đã biết đấu tranh chống lại thiên tai, địch họa, chống áp bức, bóc lột bất công trong xã hội, khơi dậy tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, góp phần vào sự hình thành và phát triển của nền văn hóa.
Mặc dù vẫn còn tồn tại một số khía cạnh mang tính chất duy tâm, siêu hình, bị coi là lỗi thời, lạc hậu, nhưng nhìn chung ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế hàm chứa những giá trị và luôn in dấu ấn đậm nét trong đời sống văn hóa của người Huế. Những gì mà ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế phản ánh là bài học quý báu cho cuộc sống hiện tại và được sử dụng như những phương tiện nhận thức cuộc sống, coi đó là chân lý, là lẽ sống. Những giá trị đó mang ý nghĩa tinh thần to lớn, được lưu giữ trở thành truyền thống văh hóa tốt đẹp, làm nổi bật tinh thần yêu nước thương nòi, uống nước nhớ nguồn của dân tộc.
Ngày nay, khi đất nước đang trên đà phát triển kinh tế thì đồng thời cũng phải phát triển văn hóa với tính cach là nền tảng tinh thần của xã hội. Cần phải thấy rõ rằng những giá trị của ca dao, tục ngữ trong tiến trình phát triển văn hóa. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để thế hệ trẻ hiểu được những giá trị của văn hóa Huế, trước hết là các giá trị trong kho tàng ca dao, tục ngữ nhằm kế thừa được những tư tưởng tiến bộ và gạt bỏ những tư tưởng đã lạc hậu, lỗi thời.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế ra đời khi chưa có sự trợ giúp của tri thức khoa học chân chính, cùng với nền sản xuất lạc hậu, đó là nguồn gốc của sự mê tín dị đoan, duy tâm, siêu hình và cả thói ích kỷ hẹp hòi.
- Chớ thấy miếu rách mà khinh
Miếu rách mặc miếu thần linh hãy còn
- Thuận thiên giả tồn, thuận nghịch diệt vong
- Của mình thì gác lên trên, của người thì tha cho mòn
Những hạn chế này vẫn luôn hiện diện trong đời sống văn hóa Huế, làm ảnh hưởng đến sự phát triển của nó. Do đó, việc lọai bỏ những gì lạc hậu, phản tiến bộ trong ca dao, tục ngữ là một quá trình đầy khó khăn, bởi chúng đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, phong tục tập quán của cộng đồng xã hội.
Triết học Mác chỉ ra rằng trong phát triển có sự kế thừa. Quá trình xác lập cái mới thì cái cũ không đứng ngoài cuộc, quá khứ không bao giờ biến mất hoàn toàn mà nó vẫn để lại dấu ấn nhất định đối với hiện tại, nó tham gia vào việc xác lập cái mới. Do đó, trong việc nhận thức những nội dung mà ca dao, tục ngữ phản ánh, chúng ta cần làm rõ những giá trị của chúng, phải biết kế thừa và phát huy những giá trị tích cực. Bởi lẽ, ca dao, tục ngữ đã phản ánh được những mặt, những thuộc tính chung nhất của một lớp các sự vật, hiện tượng và phạm vi ứng dụng đã vượt ra khỏi điều kiện kinh tế xã hội cụ thể của một thời đại cụ thể, đồng thời chúng đã cung cấp cho chúng ta một khối lượng lớn kiến thức khá chính xác về tự nhiên, về con người, về xã hội. Nhiều nội dung của ca dao, tục ngữ là những triết lý không chỉ đúng ở trong quá khứ, mà còn đúng ở cả hiện tại, không chỉ đúng trong lĩnh vực tự nhiên mà còn đúng cả trong lĩnh vực xã hội và tư duy. Một số triết lý về thế giới quan và nhân sinh quan được phản ánh trong ca dao, tục ngữ đã được thực tiễn kiểm nghiệm, là điểm tựa tinh thần trong việc xây dựng nền văn hóa mới.
Ca dao, tục ngữ là một trong những cái nôi nuôi dưỡng và phát huy lòng yêu nước, đề cao lòng nhân ái và tình cảm gắn bó từ trong gia đình, họ tộc đến dân tộc, cho các thế hệ mai sau. Hơn thế nữa những giá trị văn hóa tốt đẹp được lưu giữ trong ca dao, tục ngữ như tư tưởng coi trọng nhân nghĩa, tôn sư trọng đạo, đề cao lao động, lòng chung thủy, tình cảm gắn bó cộng đồng, đặc biệt là tinh thần yêu nước, lòng thương người sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái đều là giá trị cần được kế thừa và lưu truyền cho các thế hệ mai sau.
Trong giai đoạn hiện nay, khi con người được xem là mục tiêu số một, là nguồn lực chủ yếu để xây dựng và phát triển đất nước thì con người cần phải có những đức tính và phải đáp ứng được những yêu cầu về mặt nhân cách sau đây:
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý thức vươn lên, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết vói nhân dân thế giơi trong sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội;
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước cộng đồng, có ý thức bảo vệ môi trường sống;
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật sáng tạo, năng suất cao, vì lợi ích bản thân gia đình, tập thể và xã hội;
- Có ý thức tập thể, đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung, xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc Việt nam;
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biêt, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực [9, tr.58].
Những yêu cầu về mặt nhân cánh đạo đức đối với con người Việt Nam hiện nay chính là sự tiếp tục, sự mở rộng, sự đổi mới và nâng cao những giá trị văn hóa tốt đẹp mang truyền thống của dân tộc. Chính ca dao, tục ngữ mang đến tư tưởng nhân văn, đạo đức, lối sống, những kinh nghiệm của cha ông về lao động sản xuất, về đời sống xã hội sẽ tham gia tích cực trong việc xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa tiên tiến, hiện đại.
Mặt khác, chúng ta đang sống trong thời đại của khoa học và công nghệ, trong toàn cầu hóa. Để tồn tại và phát triển, chúng ta phải hội nhập với thế giới. Con đường hội nhập sẽ đưa đất nước phát triển nhanh hơn. Tuy nhiên, ngoài những mặt tích do hội nhập mang lại, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều thử thách to lớn, đó là sự suy thoái về giá trị đạo đức cá nhân và giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp. Thực tế ở Huế trong những năm vừa qua, trong đời sống xã hôi đã có những biểu hiện xem nhẹ những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc, chạy theo lối sống không lành mạnh. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã làm cho con người coi trọng đông tiền hơn tình nghĩa, sẵn sàng quay lưng lại với những giá trị đạo đức, chạy theo lối sống hưởng thụ, thực dụng phi nhân cách. Vì đồng tiền mà để xảy ra cảnh con cái hành hung cha mẹ, anh em bỏ nhau, vợ chồng ly tán. “Đó là một thứ tự do mậu dịch không có lương tâm, nó làm cho quan hệ giữa người với người chìm xuống dòng nước lạnh giá của sự tính toán ích kỷ, bởi vì ngoài lời ích trần trụi và lối tiền trao cháo múc lạnh lùng đến vô tình thì nó chẳng có mối liên hệ nào khác nữa [24, tr.600].
Trong xã hội đã xuất hiện cách sống xa lạ, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc; nạn tham nhũng, quan liêu, buôn lậu, các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng, lớp thanh niên ngày càng phai nhạt lý tưởng của Đảng; một số cán bộ Đảng viên thoái hóa biến chất, sa đọa về lối sống đạo đức. Đặc biệt, trong xã hội đã nảy sinh “nạn sùng bái nước ngoài”, coi thường những giá trị văn hóa truyền thống. Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa, trong đó có những giá trị được đúc kết trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế.
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2
Nghiên cứu ca dao, tục ngữ Huế, chúng ta rút ra được những triết lý nhân sinh sâu sắc, phản ánh tư tưởng, quan điểm của nhân dân lao động về những vấn đề của cuộc sống, của lao động sản xuất. Tính triết lý đó được biểu hiện khá đầy đủ và rõ nét trong mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên, trong quan niệm về đời người và trong các vấn đề về xã hôi. Tất cả như hòa quyện vào nhau, trở thành công cụ hữu hiệu để nhận thức, cải tạo tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
Nếu như người lao động nhận thức hiện thức khách quan nhằm mục đích phục vụ cho lao động sản xuất để nâng cao đời sống của mình, thì những triết lý nhân sinh được rút ra trong ca dao, tục ngữ đã phục vụ cho mục đích đó. Vì vậy, nó đã trở thành cẩm nang, là kim chỉ nam cho cuộc đấu tranh vì sự sinh tồn và phát triển của con người.
Ở rất nhiều phương diện, ca dao, tục ngữ có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của văn hóa Huế, nó trở thành một bộ phận làm phong phú, đa dạng nền văn hóa Huế. Quá trình nghiên cứu, tìm hiểu ca dao, tục ngữ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, góp phần vào việc xây dựng nền văn hóa mới, nền văn hóa tiên tiến, đầm đà bản sắc Huế nói riêng và bản sắc dân tộc nói chung.
KẾT LUẬN
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là sản phảm văn hóa tinh thần, cho đến nay đã trở thành một kho tàng lý luận phong phú, đa dạng, phản ánh rõ nét đời sống vật chất và tinh thần của người dân lao động xứ Huế, có ý nghĩa về mặt. Việc nghiên cứu, kế thừa những yếu tố tích cực, tiến bộ trong ca dao, tục ngữ Huế có ý nghĩa lý luận và thực tiễn việc giữ gìn và truyền thụ tư tưởng đạo đức, lối sống nhân văn thuần phong mỹ tục của dân tộc nói chung và Thừa Thiên - Huế nói riêng.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế đã cung cấp cho chúng ta một lượng kiến thức lớn, một hệ thống triết lý nhân sinh khá phong phú về thế giới tự nhiên, về đời sống con người, về xã hội và cả mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa tự nhiên - con người - xã hội. Tuy chưa đạt đến tầm triết học, đặc biệt là khi khoa học chưa phát triển nhưng những gì mà người lao động bình dân đạt được về mặt nhận thức thể hiện trong ca dao, tục ngữ thật đáng để cho chúng ta suy nghẫm, tìm hiểu và nghiên cứu một cách sâu sắc.
Lấy thế giới khách quan làm đối tượng nghiên cứu của nhận thức, ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là sự đúc kết những kinh thông qua việc quan sát các sự vật, hiện tượng cụ thể. Tuy những sự đúc kết đó còn mang tính trực quan, cảm tính, tính phổ quát và trừu tượng hóa chưa cao nhưng đã có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ phản ánh được những mặt, những thuộc tính, đôi khi cả tính quy luật của một lớp sự vật, hiện tượng, không chỉ giúp chúng ta cái nhìn về hiện thực khách quan mà còn tạo nên ở chúng ta sự lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống, ở khả năng làm thay đổi cuộc sống và khả năng biến đổi tự nhiên phục vụ cho con người.
Ca dao, tục ngữ Thừa Thiên - Huế là di sản quý báu, là những viên ngọc quý của đời sống tinh thần, được xem như là những giá trị trong kho tàng triết lý của dân tộc mà chúng ta cần và có thể chọn lọc, kể thừa trong cuộc sống hiện nay và có ý nghĩa nhất định trong việc góp phần xây dựng lối sốn nhân văn, khoan dung, độ lượng và nói chung là một nhân cách phù hợp với yêu cầu của thời đại.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản việt Nam (1981), Nghị quyết về chính sách khoa học và kỹ thuật. Lưu hành nội bộ.
2. Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên (2002), Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Lê Văn Chưởng (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế , Nxb Trẻ.
4. Việt Chương (2007), Từ điển thành ngữ tục ngữ Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Nghĩa Dân (2000), Đạo làm người trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, Nxb Thanh Niên.
6. Nguyễn Nghĩa Dân (2001), Lòng yêu nước trong văn học dân gian Việt Nam, Nxb Hội nhà văn.
7. Chu Xuân Diên (1998), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Khoa học và xã hội Hà Nội.
8. Chu Xuân Diên (2000), Văn hóa dân gian - Mấy vấn đề phương pháp luận và thể loại nghiên cứu, Nxb Giáo dục.
9. Đảng Cộng Sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 - Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính tri Quốc gia, Hà Nội.
10. Giáo trình triết học Mác - Lênin (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. M. Gorki (1970), Bàn về văn học, tập 1, Nxb văn học, Hà Nội.
12. Lương Viên Hải (2008), “Văn hóa - triết lý và triết học”, Tạp chí triết học, số 10, tr.17 - 23.
13. Đào Thanh Hải (2004), Hệ thống các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo về công tác tư tưởng - văn hóa trong tình hình mới, Nxb Văn hóa thông tin.
14. Phạm Thị Thúy Hằng (2005), Những tư tưởng triết học trong truyện kể dân gian Việt Nam, luận văn cao học.
15. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý văn hóa Phương Đông, Nxb Đại học Sư Phạm.
16. Đỗ Lan Hiền (2005), “Những nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn học dân gian”, tạp chí Triết học, số 6 (169), tr.23 - 27.
17. Trần Hoàng (1998), Ca dao, dân ca Bình Trị Thiên, Nxb Thuận Hóa, Huế.
18. Trần Hoàng (2005), Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19. Lương Thị Lan Huệ (2004), Một số vấn đề Triết học qua ca dao, tục ngữ Việt Nam, luận văn cao học.
20. Phúc Khánh (1961), Thử tìm hiểu những yếu tố tư tưởng triết học trong thần thoại Việt Nam. Luận văn cao học.
21. Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2002), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
22. Nguyễn Lân (2006), Từ điển và thành ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
23. V.I Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
24. C.Mác và Ph.Ăngghen (2000), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
25. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. C.Mác và Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
27. C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin (1977), Về văn học và nghệ thuật, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Triều Nguyên (2000), Tục ngữ Thừa Thiên Huế, Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội.
29. Triều Nguyên (2005), Ca dao Thừa Thiên Huế, Nxb Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Huế.
30. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ, ca dao dân ca Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Lê Chí Quế (2004), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
32. Hồ Sỹ Quý (1998), “Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý”, tạp chí Triết học, số 3 (153), tr 56 -59.
33. Vũ Tiến Quỳnh (1998), Ca dao, tục ngữ, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.
34. Hoàng Tiến Tựu (1900), Văn học dân gian Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
35. Hoàng Tiến Tựu (1992), Bình giảng ca dao, Nxb Hà Nội.
36. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ, Mátxcơva
37. Phan Ngọc Thu (1985), Thơ ca dân gian, Nxb Sở văn hóa thông tin.
38. Phương Thu (2004), Ca dao, tục ngữ Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.
39. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử triết học Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Lê Huy Thực (2005), “Tiêu chí kiểm định đạo đức qua ca dao, thơ ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 9 (172), tr.40 - 44.
41. Lê Huy Thực (2005), “Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam”, tạp chí Triết học, số 9 (172), tr.40 - 41.
42. Trường CĐSP Huế, (1979), Văn học dân gian Phú Lộc.
43. Trung tâm nghiên cứu Quốc gia học (2005), Tiếng Huế, người Huế và văn hóa Huế, Nxb Văn học, Hà Nội.
44. Trường ĐHSP Huế (1987), Văn học dân gian Bình Trị Thiên.
45. Nguyễn Hữu Vui (2004), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị quốc Quốc gia, Hà Nội.
46. Viện khoa học xã hội Việt Nam (2002), Tổng tập văn học dân gian người Việt, Nxb Khoa học và xã hội.
47. Viện ngôn ngữ học (2004), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẳng.
48. Vũ Nhị Xuyên (1995), Văn học dân gian xứ Huế, Nxb Thuận Hóa.
MỤC LỤC
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
LỜI CAM ĐOAN