MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG 3
BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG I: TRUNG TÂM TÀI CHÍNH VÀ VÀI NÉT VỀ TRUNG TÂM TÀI CHÍNH HỒNG CÔNG 7
1. 1. Một số vấn đề cơ bản 7
1.1.1. Khái niệm và sự hình thành trung tâm tài chính: 7
1.1.2. Đặc điểm của trung tâm tài chính: 9
1.1.3. Tiêu chí của trung tâm tài chính: 9
1.1.4. Các hoạt động chủ yếu tại trung tâm tài chính: 13
1.2. Vai trò của trung tâm tài chính đối với địa phương, quốc gia và thế giới 14
1.3. Vài nét về trung tâm tài chính Hồng Công: 16
1.3.1. Đặc điểm của trung tâm tài chính Hồng Công: 16
1.3.2. Cơ chế vận hành của nền kinh tế và trung tâm tài chính Hồng Công: 23
1.3.3. Vai trò của ngành dịch vụ tài chính đối với nền kinh tế Hồng Công 26
1.3.4. Hoạt động đầu tư ra và vào Hồng Công: 26
1.3.5. Vai trò của Hồng Công với nền kinh tế thế giới 29
CHƯƠNG II: HOẠT ĐỘNG CỦA TRUNG TÂM TÀI CHÍNH HỒNG CÔNG 31
2.1. Hệ thống ngân hàng: 31
2.2. Thị trường hối đoái và chính sách tỷ giá: 36
2.3. Thị trường chứng khoán: 38
2.4. Thị trường trái phiếu: 49
2.5. Thị trường phái sinh: 51
2.6. Thị trường mua bán và sáp nhập: 52
2.7. Thị trường Bảo hiểm: 54
CHƯƠNG III: BÀI HỌC KINH NGHIỆM XÂY DỰNG HÀ NỘI THÀNH TRUNG TÂM TÀI CHÍNH 57
3.1. Vài nét về hoạt động kinh tế, tài chính tại Hà Nội 57
3.2. Bài học kinh nghiệm của Trung tâm tài chính Hồng Công để xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính: 65
3.2.1. Lành mạnh hoá hoạt động các định chế tài chính tài chính: 65
3.2.2.Tiến hành tự do hoá hoạt động tài chính: 70
3.2.3. Đảm bảo công bằng cho các chủ thể trên thị trường tài chính: 76
3.2.4. Các chủ thể kinh tế chủ động hội nhập: 79
3.2.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hỗ trợ ngành tài chính: 82
3. 3. Giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính 83
3.3.1. Giái pháp, kiến nghị nhằm lành mạnh hoá hoạt động các định chế tài chính hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính: 83
3.3.2. Đề xuất, kiến nghị nhằm tự do hoá hoạt động tài chính hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính: 85
3.3.3. Đề xuất, kiến nghị nhằm đảm bảo công bằng cho các chủ thể tham gia thị trường để hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính: 87
3.3.4. Giải pháp, kiến nghị thúc đẩy sự chủ động hội nhập của các chủ thể hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính 89
3.3.5. Đề xuất, kiến nghị chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà Nội theo hướng hỗ trợ ngành tài chính nhằm xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính: 91
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
137 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1729 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trung tâm tài chính Hồng Công- Bài học kinh nghiệm cho Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụ như cơ quan quản lý ở Philippin can thiệp sâu vào nghiệp vụ đăng ký Công ty niêm yết là một cản trở của sự phát triển thị trường chứng khoán; hoặc chế độ phân bổ hạn ngạch phát hành đã tạo cơ hội cho các Công ty không phải là hoạt động hiệu quả nhất niêm yết cổ phiếu ở Trung Quốc.... Do vậy, trong giai đoạn đầu hình thành của thị trường chứng khoán, các chính sách, biện pháp quản lý không được tùy tiện nhưng cũng không nên cứng nhắc trong cả giai đoạn dài. Về lĩnh vực này có thể coi Hàn Quốc là bài học thành công về quản lý linh hoạt. Cơ sở của sự linh hoạt trong thay đổi chính sách quản lý là định hướng phát triển thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán cần nâng cao năng lực giám sát thông qua việc thành lập một ban giám sát riêng để xử lý các hoạt động tuân thủ bên cạnh chức năng giám sát của các ban chuyên môn; đầu tư hệ thống giám sát; tập trung đào tạo cán bộ giám sát vì thực tế tại các thị trường phát triển, việc điều tra các vụ thao túng thị trường phải mất từ 1-2 năm. Công việc điều tra rất khó khăn, đòi hỏi kinh nghiệm và chuyên môn cao. Vì thế, nhân sự của cơ quan giám sát phải rất chọn lọc để đủ khả năng kiểm tra, giám sát một lĩnh vực hết sức phức tạp và nhạy cảm với các khía cạnh chính trị - xã hội như thị trường chứng khoán để tránh các sai lầm mà Thái Lan và Philippin đã phạm phải. Trong hoạt động, Uỷ ban chứng khoán cần phối hợp cấp các ngành đảm bảo sự, tránh sự cô lập như trường hợp tại Philippin.
Trong thời gian tới, Uỷ ban chứng khoán cần sớm hoàn thiện đề án về chính sách phí, lệ phí đối với các đối tượng tham gia thị trường, trong đó có phí giao dịch để tránh tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh trên thị trường do số công ty chứng khoán được thành lập ngày càng tăng trong điều kiện thị trường tụt dốc. Chẳng hạn, có thể đưa ra mức giá sàn. Đồng thời, cần sớm ban hành quy chế người hành nghề chứng khoán, bên cạnh quy định trình độ cần lưu ý đạo đức nghề nghiệp nhằm quản lý tốt hơn đội ngũ môi giới, hạn chế những tiêu cực như trong thời gian gần đây, một nhân viên công ty chứng khoán sử dụng tiền, cổ phiếu trên tài khoản khách hàng cho các giao dịch cá nhân của họ.
3.2.3. Đảm bảo công bằng cho các chủ thể trên thị trường tài chính:
3.2.3.1. Thông tin công khai, minh bạch:
Trong quá trình phát triển của mình, Hồng Công luôn khẳng định lợi thế về pháp luật chặt chẽ, rõ ràng và mở cho các hoạt động tài chính; kinh nghiệm tài chính, quản lý chính quyền. Điều này tạo ra “ a level playing field” cho mọi thành viên trên thị trường (xem mục 1.3.2). Tự do hoá là bước đi cần thiết để hội nhập với kinh tế thế giới, tuy nhiên, trong quốc gia có hệ thống tài chính chưa phát triển, năng lực cạnh tranh của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính rất thấp, tự do hoá tài chính đồng nghĩa với việc dỡ bỏ những bảo hộ, những ưu đãi vốn có cho các chủ thể cung cấp dịch vụ trong nước. Sự chênh lệch về trình độ giữa các chủ thể trong và ngoài nước quá lớn thì tự do hoá tài chính sẽ là một thảm hoạ đối với hệ thống tài chính và nền kinh tế quốc gia. Tuy không tự tạo ra khủng hoảng nhưng tự do hoá vạch ra, làm nổi rõ những yếu kém vốn có của hệ thống này tài chính như: năng lực cạnh tranh kém của các chủ thể tham gia, sự hạn chế về năng lực của chính phủ trong điều hành nền kinh tế thị trường, sự thiếu hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật. Điều này có thể dẫn đến khủng hoảng. Vì thế, các chính sách và việc thực hiện chúng phải đảm bảo sự bảo vệ nhà đầu tư đặc biệt là nhà đầu tư nhỏ nhưng không làm cản trở, hạn chế hoạt động của các định chế tài chính. Hay nói cách khác, các chính sách cần hướng tới các chủ thể yếu thế trên thị trường trong quá trình thúc đẩy sự phát triển chung, tạo ra sự công bằng trên thị trường. Về công tác phát triển các nhà đầu tư, Uỷ ban chứng khoán có thể tham khảo kinh nghiệm của những nhà quản lý Hồng Công. Đó là luôn hướng các quy định vào việc bảo vệ nhà đầu tư nhỏ- một lực lượng đông đảo nhưng dễ bị tổn thương trứơc những biến động của thị trường. Ví dụ, một người giám đốc sở hữu phần lớn cổ phiếu trong công ty đã dùng số cổ phiếu này làm tài sản cầm cố tại một ngân hàng cho khoản vay cá nhân của mình. Sau đó, ông ta gặp thất bại trong việc kinh doanh. Ngân hàng do lo lắng về khả năng thu hồi vốn đã bán số cổ phiếu. Điều này gây ra biến động lớn đối với giá cổ phiếu nêu trên trên thị trường chứng khoán. Đó là những rủi ro ngoài tầm kiểm soát của nhà đầu tư vì họ không thể biết hoạt động cá nhân của các cổ đông lớn. Một rủi ro nữa cho nhà đầu tư mới (trên thực tế là rất nhiều) là vốn hoá thị trường của các công ty niêm yết là tương đối nhỏ. Điều đó khiến giá trên thị trường dễ bị ảnh hưởng. Tín hiệu giá trên thị trường khiến cho nhà đầu tư dễ bị lầm tưởng là công ty hoạt động đang ngày càng tốt (hoặc tồi hơn) trước những biến động lên xuống của giá. Nhưng thực tế là có những giao dịch liên tục được duy trì nhằm tác động lên giá chứng khoán. Một số người môi giới chứng khoán được thuê để mua hoặc ban cổ phiếu công ty niêm yết. Đây là một dạng đơn giản để tác động lên giá cổ phiếu. Khi giá cổ phiếu đạt tới một mức nào đó, cổ đông lớn bán cổ phiếu ra. Những nhà đầu tư nhỏ không thể nhận biết được điều này và bị lừa.
Trong lĩnh vực ngân hàng, độ mở của thị trường tài chính rất cao khi không có sự quản lý ngoại hối, có một cơ chế tự do với ngân hàng nước ngoài và quyền sở hữu tài sản.
Thông tin trên thị trường tài chính Hồng Công rất minh bạch. Tại đây có nhiều tổ chức định hạng tín dụng có uy tín. Các tổ chức này có vai trò đánh giá các tổ chức phát hành các công cụ tài chính, cung cấp thông tin cho các nhà đầu tư. Dựa trên các kết quả đó, các nhà đầu tư có công cụ để thẩm định, lựa chọn danh mục đầu tư, dự báo tình hình phát triển tổ chức phát hành và đưa ra quyết định đầu tư. Thông qua bảng xếp hạng tín dụng, nhà đầu tư sẽ hiểu rõ hơn về sức mạnh tài chính của các tổ chức đó, dễ dàng đánh giá các tổ chức tài chính có quan hệ kinh doanh hoặc quan tâm tới việc mua cổ phiếu trên thị trường chứng khoán của các công ty này. Các công ty định hạng tín dụng ở Hồng Công đã tận dụng lợi thế của người đi sau, bắt đầu trình tự từ bán thông tin, rồi mới đến đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp và vận dụng hệ thống chỉ tiêu có sẵn, trong đó, quan trọng nhất là của Anh Quốc, đó một cách phù hợp của đặc khu. Bên cạnh đó, Hiệp ước Basel II về an toàn vốn cho phép sử dụng công ty định mức tín nhiệm hoặc các tổ chức đánh giá tín dụng đủ điều kiện để tính toán mức rủi ro tín dụng của một khoản cho vay của ngân hàng... Tại thị trường Hồng Công, cũng có rất nhiều tên tuổi lớn của thể giới góp mặt như: Moody, Pricewaterhouse Coopers... Sự minh bạch, công khai thông tin ở Hồng Công đã khiến các nhà đầu tư an tâm, đầu tư mạnh mẽ vào thị trường.
3.2.3.2. Hệ thống thuế rõ ràng, đơn giản:
Hệ thống thuế ở Hồng Công rất đơn giản, rõ ràng và công bằng, thuế suất thấp. Chính quyền Hồng Công vừa công bố quyết định thuế suất chuẩn đối với cá nhân là 15% (thay từ mức 16%) và thuế thu nhập doanh nghiệp là 16% (thay mức 17.5%) trong 3 năm tới. Chính quyền Hồng Công chỉ đánh thuế các thu nhập và tiền lương có nguồn gốc trên lãnh thổ Hồng Công. Thu nhập và lợi nhuận từ các nguồn ngoài Hồng Công của người cư trú tại Hồng Công không có nghĩa vụ đóng thuế. Có thế nói, cá nhân, doanh nghiệp bình đẳng với nhau trước pháp luật. Mức thuế rõ ràng giúp hạn chế trốn thuế đồng thời, mức thuế thấp cũng không gây ra tư tưởng muốn trốn thuế.
Về giao dịch chứng khoán, Hồng Công áp dụng thuế tem do người bán chịu 50% và người mua chịu 50%, thuế suất 0.25% giá bán đối với giao dịch cổ phiếu, 0% với trái phiếu, việc sở hữu, lợi tức và thặng dư vốn không bị đánh thuế. Nếu đem so sánh với mức thuế của Anh Quốc (thuế tem do người bán chịu, thuế suất 0.5% giá bán đối với giao dịch cổ phiếu, 0% với trái phiếu); Singapore (thuế tem, thuế suất 0.2% giá bán đối với cổ phiếu và trái phiếu niêm yết, 0% với trái phiếu loại khác) thì mức thuế suất trên là cạnh tranh đối với từng bên mua và bên bán [28].
Hiện nay, Việt Nam đang có một hệ thống ưu đãi thuế vô cùng phức tạp với mục tiêu thúc đẩy đầu tư nói chung và tại các khu vực, các lĩnh vực và các hoạt động khuyến khích đầu tư nói riêng. Điều này gây khó khăn trong quản lý thuế cũng như tạo điều kiện cho những tiêu cực. Từ kinh nghiệm của Hồng Công có thể thấy yêu cầu đổi mới hệ thống thuế là cần thiết. Cụ thể, cần tiến hành đánh giá tổng thể các ưu đãi thuế và cải cách hệ thống hiện hành nhằm làm cho cho hệ thống thuế phổ cập trở nên hấp dẫn và cạnh tranh; rút ngắn và đơn giản hóa một số ưu đãi thuế và chỉ duy trì một số ít các loại hình ưu đãi nhằm phục vụ một vài mục đích cụ thể. Các hình thức ưu đãi chỉ nên hạn chế trong một số hình thức như giảm tạm thời thuế thu nhập doanh nghiệp cho một số vùng đặc biệt khó khăn và một số lĩnh vực mang tính chiến lược. Đơn giản hoá hệ thống thuế là giảm gánh nặng hành chính đối với các nhà đầu tư và các cơ quan quản lý thuế.
Riêng trong lĩnh vực chứng khoán, thuế cần tập trung điều chỉnh đối với hoạt động giao dịch chuyển nhượng cổ phần, cổ phiếu, quyền mua cổ phiếu theo nguyên tắc: Khuyến khích đầu tư dài hạn hơn ngắn hạn, khuyến khích các giao dịch trên thị trường chính thức hơn là các giao dịch trên thị trường OTC. Đối tượng chịu điều chỉnh của chính sách thuế cần không phân biệt nhà đầu tư là tổ chức hay cá nhân, nhà đầu tư trong nước hay nước ngoài, nhà đầu tư có hiện diện hay không hiện diện tại Việt Nam, nhằm góp phần kiểm soát dòng vốn, hướng tới công khai minh bạch, tạo thuận lợi và khuyến khích phát triển thị trường chính thức, thu hẹp thị trường không chính thức.
3.2.4. Các chủ thể kinh tế chủ động hội nhập:
3.2.4.1. Chủ động áp dụng các tập quán, thông lệ quốc tế, quy định được thừa nhận rộng rãi
Một trung tâm tài chính không thể thiếu các doanh nghiệp mạnh- nơi tạo ra hàng hoá là các công cụ tài chính và tạo ra nguồn vốn đầu tư cho trung tâm tài chính ấy. Tại Hồng Công, có các doanh nghiệp hàng đầu trong các lĩnh vực bảo hiểm, ngân hàng, du lịch, vận tải, dệt may, điện dân dụng, chế tạo máy, thương mại… Bên cạnh đó, còn có một lượng dồi dào các doanh nghiệp từ Trung Quốc đại lục, từ các quốc gia khác trong khu vực niêm yết trên thị trường chứng khoán Hồng Công. Các doanh nghiệp- dù trong nước hay nước ngoài đều được điều chỉnh bởi Sắc lệnh Công ty, quy định niêm yết được thừa nhận tại nhiều nước trên thế giới.
Hồng Công có hệ thống các quy định kế toán và kiểm toán phát triển. Được thành lập từ Sắc lệnh kế toán chuyên nghiệp 1/1973, Hiệp hội Kế toán Hồng Công (nay là Viện Chứng nhận Kế toán Công tại Hồng Công) là tổ chức duy nhất được cấp phép cho kế toán viên theo pháp luật. Các quy định khác được đưa ra chi tiết trong Quy định Kế toán chuyên nghiệp. Hiện tại, Dự thảo Hội đồng Báo cáo tài chính được đệ trình (chịu ảnh hưởng chủ yếu từ quy trình ở Hoa Kỳ và Châu Âu, đặc biệt là quy định phá sản các công ty ở Châu Âu). Nếu có hiệu lực, văn bản này đánh dấu bước ngoặt trong chuyển từ mô hình hệ thống tài chính tự điều chỉnh sang mô hình tự điều chỉnh có sự quản lý, tương tự như mô hình cải cách đang được thực hiện ở các lĩnh vực khác thuộc thị trường tài chính.
Từ tháng 1/2005 đến nay, có hai hệ thống kế toán được áp dụng tại Hồng Công là tiêu chuẩn kế toán Hồng Công 32 và 39, hai hệ thống rất gần với các tiêu chuẩn kế toán áp dụng ở Cộng đồng Châu Âu [25].
Riêng trong lĩnh vực Ngân hàng, Sắc lệnh Ngân hàng năm 1986 (mục 2.1.1.1.) thể hiện nhu cầu thực hiện “các tập quán tốt nhất” trong lĩnh vực Ngân hàng tại Hồng Công. Chính sự hội nhập chủ động một cách hệ thống trên cơ sở áp dụng những tập quán, thông lệ quốc tế được thừa nhận rộng rãi, đặc biệt là tại khu vực phát triển là cộng đồng Châu Âu, đã giúp hoạt động ngân hàng tại đây đạt tiêu chuẩn ngân hàng quốc tế, đáp ứng được những yêu cầu khắt khe của các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút được các ngân hàng lớn trên thế giới mở rộng mạng lưới, tiếp tục khẳng định vai trò của Hồng Công như là một trung tâm ngân hàng offshore. Một trong những nội dung quan trọng của “các tập quán tốt nhất” là chuẩn mực an toàn vốn là Nguyên tắc Basel II, quy định về duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, trích lập dự phòng rủi ro, áp dụng tiêu chuẩn phân loại nợ theo thông lệ quốc tế.
3.2.4.2. Các chủ thể trên thị trường chủ động gắn kết, hội nhập với thị trường và thế giới
Trung tâm tài chính này có một chính sách cởi mở với chủ thể nước ngoài, dòng thông tin tự do và hiệu quả, các ngân hàng và môi giới tài chính tại Hồng Công sẵn sàng cạnh tranh hiệu quả với bất kỳ đối thủ của Hồng Công ở bất kỳ nơi nào. Một trong những lợi thế của Hồng Công so với một số trung tâm tài chính khác như Thượng Hải, Singapore, Nhật Bản... chính là phổ biển tiếng Anh. Bên cạnh đó, Hồng Công còn có những cơ sở đào tạo uy tín, có chất lượng như University of Hongkong
Đây là điều kiện thuận lợi để mọi chủ thể trên thị trường tài chính giao lưu, hợp tác, liên kết với các đối tác nước ngoài. Hồng Công có quan hệ gần gũi với thị trường toàn cầu, quốc tế hóa sâu sắc hơn rất nhiều so với nhiều trung tâm tài chính lớn hơn, bao gồm cả New York, với gần 60% các hoạt động ngân hàng của Hồng Công được định danh bằng ngoại tệ, với nhiều công ty đa quốc gia lớn và trụ sở chính của các tổ chức nước ngoài. Hơn nữa, thị trường tài chính hoà hợp được với những đổi mới trên thị trường vốn toàn cầu. Thành phố duy trì được thế mạnh của một trung tâm tài chính với sự liên kết với châu Á cũng như Trung Quốc đại lục. Vì thế, thành phố được coi là thành phố thế giới.
Ở Hồng Công, xu thế chung các doanh nghiệp áp dụng cạnh tranh “thắng- thắng”- kiểu cạnh tranh kết hợp với hợp tác, cả hai đều có thể cùng tồn tại, mạnh lên và đều thu được lợi ích riêng phù hợp với mục tiêu phát triển của mình. Sự liên kết kinh tế liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, có thể thực hiện theo hai hướng: Giữa các doanh nghiệp cùng ngành với nhau; Giữa các doanh nghiệp với các doanh nghiệp ngành khác.
Động lực của sự phát triển các chủ thể là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua nỗ lực cải cách chính sách và hành động theo hướng tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Chính quyền Hồng Công thiết lập các thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường mua bán và sáp nhập… trong đó khuyến khích các thành phần thị trong và ngoài nước tham gia. Hoạt động liên kết được tăng cường, trong giai đoạn hội nhập, cạnh tranh giữa các chủ thể không phải là cuộc chiến sống còn bởi hoạt động kinh doanh luôn có liên quan mật thiết giữa các chủ thể với nhau: chia sẻ thông tin kinh nghiệm, quản trị điều hành, hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, cung ứng dịch vụ. Sự liên kết là tất yếu bởi không một doanh nghiệp nào hoạt động bình thường nếu không có hoạt động hỗ trợ bình đẳng và thân thiện từ các doanh nghiệp khác. Có thể lấy lĩnh vực ngân hàng làm ví dụ. Thật vậy, nếu một ngân hàng nào đó gặp bất trắc trong hoạt động, dẫn tới tình trạng phá sản. Điều đó sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới đối thủ cạnh tranh bởi tính dây chuyền trong hoạt động hệ thống ngân hàng.
Trên lĩnh vực chứng khoán, SFC tích cực tiếp xúc, hợp tác với các Trung tâm, Sở giao dịch tại các quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển như Anh, Mỹ, Nhật Bản... và đang phát triển Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... Công tác này vừa giúp SFC học hỏi kinh nghiệm, vừa có thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong cũng như ngoài nước trong niêm yết trên thị trường tại thị trường chứng khoán Hồng Công và nước ngoài. Hoạt động giao dịch trên Thị trường chứng khoán Hồng Công đã kết nối và liên thông với thị trường vốn quốc tế. Trung tâm lưu ký chứng khoán đã góp phần phát triển một trung tâm lưu ký chung trong khu vực, tạo điều kiện giao dịch thuận tiện và dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư [36].
Trên lĩnh vực thuế, Bộ Tài chính Hồng Công chủ động thương lượng để tránh đánh thuế trùng với các doanh nghiệp này. Hiện tại, Hồng Công đã có thoả thuận tránh đánh thuế trùng với Trung Quốc lục địa, Bỉ và Thái Lan, đang thương thảo với Luxembourg, Cộng hoà Séc, Italia, Kuwait, Macao, Hà Lan, Pakistan và Việt Nam [31].
3.2.4.3. Đơn giản và giảm thời gian làm thủ tục liên quan tới hoạt động đầu tư:
Theo quy định kinh doanh của Hồng Công, người kinh doanh được tự do từ khi thiết lập, hoạt động và đóng cửa một doanh nghiệp. Việc đăng ký mới một doanh nghiệp rất nhanh chóng, số thời gian trung bình trên thế giới là 43 ngày thì tại Hồng Công, doanh nghiệp chỉ mất chưa đến một nửa thời gian trên. Để nhận một giấy phép kinh doanh, trung bình trên thế giới là 234 ngày thì tại Hồng Công, thời gian ngắn hơn nhiều. Thủ tục phá sản rất đơn giản và ít tốn kém. Hiện tại, thời gian cấp phép cho một quỹ đầu tư mạo hiểm xuống còn 4-8 tuần [31]. Cơ quan quản lý cấp phép cần thường xuyên chăm sóc, quan tâm đến nhu cầu nhà đầu tư bằng cách thiết lập hệ thống theo dõi nhà đầu tư được máy tính hoá, theo dõi nhà đầu tư ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên, qua khâu đăng ký. Sau đó, bố trí mỗi cán bộ chuyên theo dõi những khách hàng là nhà đầu tư riêng và xây dựng quan hệ với nhà đầu tư ấy. Nhờ hệ thống này, chính quyền có thể nắm bắt rất nhanh những vấn đề mà nhà đầu tư gặp phải và tìm cách giải quyết.
Thời gian cấp phép đầu tư ở Việt Nam đã giảm xuống 5 ngày (từ ngày 15/02/2008 theo quy định của Sở Kế hoạch và Đầu tư), tuy vậy, các thủ tục và giấy phép, bước đăng ký còn rườm rà. Kinh nghiệm của Ấn Độ, Thái Lan có thể là những giải pháp hay. Việc xin phép đầu tư ở Ấn Độ rất đơn giản nhờ hệ thống đăng ký điện tử (trực tuyến) còn chính quyền Thái Lan trao thẩm quyền cấp phép đầu tư cho một số văn phòng xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Nhà đầu tư sau khi tiếp xúc với văn phòng xúc tiến của Thái Lan gần nhất để tìm hiểu thông tin và cơ hội kinh doanh, nếu có nguyện vọng có thể làm thủ tục tại ngay nơi đó.
3.2.5. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hỗ trợ ngành tài chính:
Khuynh hướng quốc tế hoá của ngành dịch vụ tài chính Hồng Công là rất rõ ràng. Từ những thập niên 80 của thế kỷ trước, các hoạt động sản xuất trực tiếp đã được các doanh nghiệp Hồng Công chuyển về Trung Quốc đại lục, nơi có nguồn đầu vào rẻ như nguyên, nhiên liệu, nhân công… Các doanh nghiệp ở Hồng Công chỉ đóng vai trò thương mại và thanh toán. Hiện tại, ngành dịch vụ luôn chiếm hơn 90% GDP (Bảng 1.2) trong đó, ngành tài chính -ngân hàng, bảo hiểm thuộc bốn ngành quan trọng hàng đầu (Bảng 1.3). Những đặc điểm này rất phù hợp với yêu cầu của một trung tâm tài chính và sự phát triển của các ngành dịch vụ đã hỗ trợ sự phát triển của trung tâm tài chính.
3. 3. Giải pháp, kiến nghị nhằm xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính
3.3.1. Giái pháp, kiến nghị nhằm lành mạnh hoá hoạt động các định chế tài chính hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính:
3.3.1.1. Giái pháp để các định chế tài chính lành mạnh hoá hoạt động:
Các định chế tại tại Hà Nội cũng cần có chính sách thu hút nhân tài. Đây là điều kiện tiên quyết để có các dịch vụ có chất lượng cao. Muốn vậy, có thể tuyển dụng các chuyên gia giỏi, có trình độ, kinh nghiệm, thậm chí là người nước ngoài vào vị trí cấp cao, áp dụng biện pháp kiểm soát theo kiểu phương Tây, cho phép người đứng đầu mỗi định chế có quyền được sa thải những giám đốc điều hành không hiệu quả. Nâng cao hiệu quả Quản lý thông qua đổi mới cơ chế điều hành, kiểm tra và thẩm quyền ban hành các quyết định nghiệp vụ.
Ngân hàng thương mại:
Các Ngân hàng cần tăng năng lực tài chính, đặc biệt là vốn chủ sở hữu. Nội dung này cần coi là mục tiêu trong phát triển thị trường tài chính. Trước mắt, cần đạt tỷ lệ an toàn trên vốn là 8% theo quy định của Luật các Tổ chức Tín dụng và theo thông lệ quốc tế thông qua phát hành trái phiếu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn để tăng tích luỹ. Các ngân hàng cũng có thể mạnh dạn phát hành cổ phiếu dưới dạng cổ phần không tham gia quản lý (như cổ phiếu ưu đãi) để tăng vốn điều lệ. Các ngân hàng, đặc biệt ngân hàng thương mại cổ phần cần thúc đẩy huy động, sát nhập để tăng quy mô và tính chuyên nghiệp đáp ứng yêu cầu cạnh tranh hội nhập.
Bên cạnh đó, các Ngân hàng cần nhanh chóng thúc đẩy tiến trình cơ cấu lại nợ, giải quyết những khoản nợ tồn đọng, ngăn chặn nợ xấu phát sinh, nỗ lực thay đổi mục tiêu hoạt động theo hướng Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế trong đó doanh thu dịch vụ chiếm tỷ trọng chủ yếu thông qua tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng công nghệ nhằm đa dạng hoá các sản phẩm, hình thức huy động vốn, đổi mới công nghệ thanh toán như Internet banking, phone banking... .
Công ty chứng khoán
Trong điều kiện thị trường suy giảm như hiện nay, các công ty chứng khoán tăng năng lực tài chính, ứng dụng công nghệ đảm bảo an toàn giao dịch, triển khai các sản phẩm mới, trong đó có các nghiệp vụ phái sinh trên thị trường thay vì cạnh tranh thông qua giảm phí. Điều này tạo ra sự an toàn và ổn định cho thị trường. .
Công ty bảo hiểm
Cần tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. Phát triển nhiều sản phẩm mới ngoài những sản phẩm truyền thống như bảo hiểm trách nhiệm (trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm). Phát triển kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm qua đại lý và môi giới bảo hiểm đi liền với tinh giảm biên chế cán bộ bảo hiểm khai thác trực tiếp. Cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục bán bảo hiểm, giám định tổn thất và bồi thường nhanh gọn chính xác.
3.3.1.2. Kiến nghị nhằm lành mạnh hoá hoạt động của các định chế tài chính
Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục thiết lập và hoàn thiện các quy chuẩn theo thông lệ quốc tế về chỉ số an toàn vốn, cụ thể là Nguyên tắc Basel II. Tích cực triển khai mô hình cung cấp và dự báo thông tin. Phát triển hệ thống thu thập xử lý thông tin tài chính NH dựa trên những chuẩn mực quốc tế. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ an toàn tín dụng, như tăng cường chất lượng dịch vụ của Trung tâm thông tin tín dụng, thực hiện đánh giá tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm.
Riêng các sản phẩm tín dụng, đa dạng trên cơ sở luật hóa các quan hệ tín dụng, đổi mới thủ tục theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
NHNN đóng vai trò chủ đạo trong việc thúc đẩy sự hình thành mô hình công ty môi giới trên thị trường tiền tệ Việt Nam trong thời gian tới. Căn cứ vào kinh nghiệm ở các nước và đặc điểm kinh tế hiện nay ở Việt Nam thì các công ty này phải là tổ chức có tư cách pháp nhân, có giấy phép hoạt động do NHNN cấp hàng năm. Có thể tồn tại dưới hình thức công ty cổ phần giữa các ngân hàng thương mại trong nước với một số công ty môi giới nước ngoài. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài tối đa là 49% vốn điều lệ. Tổ chức hình thành chịu sự chi phối của Luật Doanh nghiệp và sự kiểm soát của NHNN. Đối tượng hoạt động của công ty môi giới sẽ là các luồng vốn ngắn hạn, mua bán ngắn hạn các giấy tờ có giá, ngoại tệ. Các công ty này chủ yếu là cung cấp dịch vụ về tiền gửi liên Ngân hàng, giấy tờ có giá, ngoại hối… qua đó mà thu phí môi giới. Ở Hồng Công, vốn điều lệ quy định cho các công ty môi giới tiền tệ khoảng 640.000 USD. Ở Việt Nam, mức vốn điều lệ có lẽ sẽ nhỏ hơn trong bối cảnh thị trường còn nhỏ bé và đang trong quá trình xây dựng.
Uỷ ban Chứng khoán
Với vai trò là cơ quan quản lý thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán cần đóng vai trò tích cực huy động các nguồn lực từ những thành viên trong Hiệp hội Chứng khoán, phối hợp với Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) để hình thành và đưa ra cơ chế hoạt động Quỹ bình ổn chứng khoán. Trong đó, tách việc mua để hỗ trợ thị trường và việc kinh doanh mua vào bán ra theo chức năng đầu tư mà SCIC được giao, mức độ công bố thông tin liên quan đến việc mua vào của đơn vị này. Đối với các giao dịch theo tính chất đầu tư thì SCIC vẫn cần tuân thủ quy định về công bố thông tin trong trường hợp giao dịch của cổ đông nội bộ hoặc của cổ đông lớn.
Đồng thời, cần sớm ban hành quy chế người hành nghề chứng khoán để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, bên cạnh quy định trình độ cần lưu ý đạo đức nghề nghiệp nhằm quản lý tốt hơn đội ngũ môi giới, hạn chế những tiêu cực như trong thời gian gần đây, một nhân viên công ty chứng khoán sử dụng tiền, cổ phiếu trên tài khoản khách hàng cho các giao dịch cá nhân của họ.
Bộ Tài Chính
Thông qua sử dụng đòn bẩy kinh tế là chính sách thuế, thúc đẩy hình thành: tổ chức tư vấn định giá nợ, các tổ chức làm dịch vụ thu nợ, các công ty mua bán nợ... nhằm thúc đẩy việc xử lý các khoản nợ xấu, giải phóng vốn tồn đọng của các doanh nghiệp. Trong đó, trước tiên, cần đẩy mạnh giải quyết nợ xấu tại các ngân hàng nhằm lành mạnh hoá hệ thống này.
3.3.2. Kiến nghị nhằm tự do hoá hoạt động tài chính hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính:
3.3.2.1. Tăng tiềm lực cạnh tranh của nền kinh tế và các chủ thể hướng tới tự do hoá hoạt động tài chính:
Ngân hàng Nhà nước:
Quá trình tự do hoá thị trường tài chính cần bắt đầu trên cơ sở xác định mức độ yếu kém của hệ thống Ngân hàng, đánh giá mức độ rủi ro của hệ thống này bởi trong điều kiện hiện tại, ngân hàng thương mại vẫn là kênh dẫn vốn chủ yếu.
Mở rộng thành viên tham gia giao dịch trên thị trường liên ngân hàng cả nội và ngoại tệ cho tất cả các Tổ chức tín dụng. Bổ sung và đa dạng hóa các công cụ trên thị trường, ngoài tín phiếu kho bạc nhà nước, chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu... còn phát triển các công cụ phái sinh như: forward, swap, optiontạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại khai thác vốn trên thị trường tiền tệ nhanh chóng và hiệu quả.
Uỷ ban Chứng khoán:
Đối với thị trường chứng khoán, cần khuyến khích mở rộng và phát triển các yếu tố nội tại: hàng hóa, các Công ty phát hành, Công ty chứng khoán và nhà đầu tư để đưa ra các giải pháp thúc đẩy thị trường. Trong đó, nhà đầu tư đóng vai trò quan trọng. Bên cạnh việc phát triển hệ thống nhà đầu tư trong nước và ngoài nước thì rất cần khuyến khích các định chế đầu tư chuyên nghiệp, trong đó có các quỹ đầu tư. Tuy vậy, để khắc phục tình trạng hiện nay, trên thị trường, quỹ đóng chiếm đa số, có thể thành lập các công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ sau đó phát triển thành các quỹ đầu tư dưới dạng pháp nhân, nhờ đó tăng tính thanh khoản, sau đó thành lập các quỹ đầu tư đại chúng, và cuối cùng là quỹ mở. Đặc biệt cần khuyến khích việc thành lập các qũy đầu tư đầu tư dài hạn vào thị trường tài chính. ... Nhưng trong số các nhà đầu tư có tổ chức, cần nghiêm cấm các doanh nghiệp không chuyên về đầu tư tài chính để ngăn ngừa nguy cơ thị trường bong bóng và giảm giá sẽ luôn xảy ra; nghiêm cấm các công ty con trong cùng một tập đoàn đầu tư chéo lẫn nhau, trong đó, không ngoại trừ yếu tố thao túng về giá, làm giảm tính minh bạch của thị trường.
Trong thời gian tới, Uỷ ban chứng khoán cần nghiên cứu để đề xuất với Ngân hàng Nhà nước cơ chế cho phép các công ty phát hành cổ phiếu tăng vốn được thu tiền bằng ngoại tệ, giúp công ty có lợi thế chủ động trong việc nhập khẩu máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu.
Uỷ ban chứng khoán cũng học hỏi kinh nghiệm các nước, gắn với điều kiện cụ thể trong nước để xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh cho thị trường chứng khoán phái sinh, khuyến khích sự phát triển của các công cụ phái sinh nhằm thúc đẩy thị trường tài chính phát triển: hạn chế rủi ro trong đầu tư, tăng tính thanh khoản của các loại chứng khoán trên thị trường tài chính, tăng số lượng hàng hóa trên thị trường tài chính, giảm chi phí giao dịch, góp phần ổn định và phát triển thị trường tài chính.
3.3.2.2. Tự do hoá cần tiến hành theo lộ trình:
Ngân hàng Nhà nước:
Việc thực hiện tự do cần thận trọng, với những bước đi rất cụ thể. Trước hết, tự do hóa tài chính nội địa thông qua từng bước tự do hóa ổn định lãi suất. Biện pháp kiểm soát được chuyển từ mệnh lệnh, hành chính sang gián tiếp thông qua các công cụ chính sách tiền tệ. Đồng thời, xây dựng lộ trình thực hiện tự do hoá lãi suất căn cứ trên trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung. Nới lỏng cơ chế điều hành lãi suất theo hướng thị trường để tạo điều kiện cho thị trường tài chính phát triển theo chiều sâu. Tiếp theo là duy trì tính ổn định của đồng tiền trong nước trên cơ sở ổn định tăng trưởng kinh tế để củng cố niềm tin của người dân và nhà đầu tư, tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng đồng tiền Việt Nam.
NHNN cần giảm dần các biện pháp điều tiết tỷ giá mang tính hành chính như khống chế tỷ giá kỳ hạn, hạn chế biên độ trong xác định tỷ giá kinh doanh... để tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường và quen dần với các công cụ phòng chống rủi ro tỷ giá, để tỷ giá dần cần được xác định dựa trên cung cầu tiền tệ. NHNN chỉ can thiệp gián tiếp thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
3.3.2.3. Tự do hoá trên cơ sở quản lý thông tin, có sự điều hành của chính quyền
Ngân hàng Nhà nước:
Quản lý ngoại hối được nới lỏng dần dần, từ tự do hoá tài khoản vãng lai (tự do chuyển tiền cá nhân, cho phép thanh toán xuất nhập khẩu bằng VND) đến tự do từng bước tài khoản vốn. Việc tự do tài khoản vốn phải trên cơ sở đảm bảo kiểm soát luồng vốn vào ra bằng cách tổ chức hệ thống thông tin, thống kê luồng vốn đầu tư vào và ra Việt Nam và Hà Nội. Từ đó, đánh giá tác động của dòng vốn đó đối với cung cầu vốn và ngoại tệ ở thị trường trong nước, dự báo xu thế để có các giải pháp kịp thời trước những biến động lớn. Có hệ thống giám sát tài chính hiệu quả, nhằm ngăn chặn những khoản đầu tư quá nhiều rủi ro.
3.3.3. Kiến nghị nhằm đảm bảo công bằng cho các chủ thể tham gia thị trường để hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính:
Ngân hàng Nhà nước:
Các chủ thể tham gia thị trường chỉ có thể công bằng trên cơ sở thông tin công khai, minh bạch. Vì thế, Ngân hàng Nhà nứoc cần thiết lập cơ quan đánh gía hệ số tín dụng quốc gia độc lập, có thể trực thuộc Ngân hàng Nhà nước, kết hợp với Trung tâm thông tin tín dụng- nơi lưu giữ thông tin về các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các Tổ chức tín dụng trong cả nước. Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam, cho phép thành lập các tổ chức định mức tín nhiệm đủ điều kiện tại Việt Nam và cho phép một số tổ chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngoài thực hiện hoạt động định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cần khai thác lợi thế người đi sau, vận dụng hệ thống chỉ tiêu có sẵn đó một cách phù hợp với hoàn cảnh trong nước, bắt đầu trình tự từ bán thông tin, rồi mới đến đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp như thế giới từng làm. Bên cạnh đó, cần đưa ra tiêu chí xác định người có đủ trình độ thẩm định, phân tích độ rủi ro của một doanh nghiệp, cũng như dịch vụ kiểm toán, đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp cần phải có chứng chỉ hành nghề.
Bộ Tài chính
Hiện tại, Việt Nam có hệ thống thuế rất phức tạp. Vì vậy, điều cần thiết hiện nay là đơn giản hoá hệ thống thuế nhưng đảm bảo thu đủ, thu đúng, không trùng lắp, hợp lý hoá cơ cấu ưu đãi thuế. Trong tình hình hiện nay, nên tiếp tục miễn thuế đối với thu nhập từ trái phiếu. Có thể nghiên cứu đề xuất mở rộng diện miễn thuế đối với tất cả các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành theo quy định của Pháp luật. Do quy mô thị trường trái phiếu còn nhỏ nên việc áp dụng ưu đãi về thuế cho các loại chứng khoán sẽ không gây những biến động lớn. Vì vậy, Nhà nước nên sớm xem xét miễn toàn bộ thuế thu nhập đối với các khoản thu nhập phát sinh từ trái phiếu, tạo nên động lực kinh tế khuyến khích các nhà đầu tư quan tâm đến loại trái phiếu này, thúc đẩy thị trường trái phiếu địa phương phát triển. Điều này, góp phần làm tăng lượng hàng hóa cho thị trường tài chính.
Cần có định hướng phát triển đội ngũ kiểm toán viên như: đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và thi tuyển kiểm toán viên hướng đến sự thừa nhận của các nước đối với chứng chỉ kiểm toán viên Việt Nam; kiểm soát chất lượng dịch vụ và quản lý hoạt động nghề nghiệp; quan tâm phát triển các doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng trong đó, ưu tiên phát triển doanh nghiệp về qui mô và đa dạng hoá dịch vụ cung cấp.
Uỷ ban Chứng khoán, Bộ Tài chính:
Song song với việc dùng các đòn bẩy tài chính (ví dụ giảm thuế), Bộ Tài chính cần sớm chỉ đạo Uỷ ban Chứng khoán đóng vai trò trong việc thúc đầy hình thành các tổ chức định giá để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư cũng như tăng tính minh bạch của thị trường cần thúc đẩy sự hình thành các tổ chức đánh giá tín nhiệm tín dụng. Nếu kiểm toán chỉ dựa trên tiêu chí tài chính (doanh số, lợi nhuận...) thì đánh giá tín nhiệm dựa trên cả tiêu chí tài chính lẫn tiêu chí phi tài chính như thương hiệu, quản trị doanh nghiệp, triển vọng kinh doanh... Để đảm bảo đánh giá đúng, cần đưa ra các tiêu chuẩn, yêu cầu trong quá trình thu thập, xử lý. Bộ Tài chính cũng cần kêu gọi sự hợp tác của các ban ngành liên quan: cơ quan thuế (gắn với nghĩa vụ tài chính của doanh nghiệp) và hải quan (liên quan hoạt động xuất, nhập khẩu). Tất cả các thông tin được thu thập và xử lý thông qua một hội đồng thẩm định là các chuyên gia phân tích, đánh giá độc lập.
Trên thị trường chứng khoán, Trung tâm GDCK Hà Nội cần được tổ chức với mô hình sở hữu thích hợp. Ví dụ, dưới dạng công ty cổ phần, niêm yết trên TTGDCK Hà Nội như các công ty khác, Nhà nước nắm tỷ lệ cổ phiếu chi phối, các công ty chứng khoán là cổ đông nhưng bị giới hạn tỷ lệ cổ phiếu sở hữu (dưới 5%) để tránh cho hoạt động giám sát của công ty này bị các cá nhân hay tổ chức chi phối. Công ty hoạt động theo thông lệ quốc tế, hoạt động một cách độc lập và chuyên nghiệp, tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Như vậy, có thể gắn được quyền lợi và trách nhiệm của Trung tâm giao dịch Chứng khoán với thị trường chứng khoán trong mối quan hệ hữu cơ. Cơ quan này cần ban hành những quy định nghiêm ngặt về công bố thông tin và chế tài xử lý nghiêm khắc với các doanh nghiệp vi phạm. Thời gian qua, các công ty phát hành cổ phiếu chui, thông tin nội gián tràn lan... làm cho các cổ đông thiệt hại, làm thị trường không minh bạch và được ví như canh bạc.
Trong thời gian tới, Uỷ ban chứng khoán cần sớm hoàn thiện đề án về chính sách phí, lệ phí đối với các đối tượng tham gia thị trường, trong đó có phí giao dịch để tránh tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh trên thị trường do thị trường tụt dốc. Chẳng hạn, có thể đưa ra mức phí sàn.
3.3.4. Giải pháp, kiến nghị thúc đẩy sự chủ động hội nhập của các chủ thể hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính
3.3.4.1. Giải pháp thúc đẩy sự chủ động hội nhập của các doanh nghiệp, định chế tài chính nhằm xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính:
Một trung tâm tài chính mang tầm khu vực và quốc tế không thể xa lạ với các thông lệ, tập quán được công nhận trên toàn cầu. Vì thế, việc các doanh nghiệp, định chế tài chính cần chủ động áp dụng các tập quán, thông lệ quốc tế được coi là những bước đi đầu tiên trong quá trình hình thành trung tâm tài chính. Trong đó, các ngân hàng thương mại cần bám sát các nội dung trong Basel II để đánh giá vấn đề rủi ro tín dụng, xác định hệ số an toàn vốn tối thiểu, định hướng phát triển hệ thống Ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Từng bước áp dụng hệ thống kiểm toán, kế toán chuẩn mực quốc tế đối với hệ thống NH và các định chế tài chính. Duy trì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, trích lập dự phòng rủi ro, áp dụng tiêu chuẩn phân loại nợ theo thông lệ quốc tế.
Về phía các doanh nghiệp, sự chủ động hội nhập còn ở việc chủ động tái cấu trúc doanh nghiệp bằng việc thực hiện quản lý theo thông lệ quốc tế với những nhà quản trị công ty giỏi, có thể thu hút nhân tài, đặc biệt là người Việt được học tập, sống và làm việc ở nước ngoài như Mỹ hay châu Âu, những người có thể kết hợp, vận dụng kiến thức hiện đại, kinh nghiệm quản lý quốc tế vào thực tiễn hoạt động tại Việt Nam. Các doanh nghiệp, trong điều kiện hội nhập, cũng phải làm quen và tự hoàn thiện để đáp ứng được với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế trong hoạt động tài chính, tiến tới tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán nước ngoài: Singapore, Hồng Công…, vận dụng linh hoạt các công cụ tài chính (trái phiếu, cổ phiếu...) để có sự phát triển bền vững, cân bằng
3.3.4.2. Kiến nghị thúc đẩy hội nhập hướng tới xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính
Uỷ ban Chứng khoán, Bộ Tài chính:
Trên thị trường chứng khoán, cần phát triển thị trường theo hướng công khai, trung thực và công bằng mới có sức thu hút cung và cầu chứng khoán. Uỷ ban chứng khoán cần phối hợp cấp các ngành đảm bảo sự, tránh sự cô lập trong hoạt động như phối hợp với Hiệp hội Ngân hàng, Hiệp hội Chứng khoán đồng thời tăng cường tiếp xúc, hợp tác với các Trung tâm, Sở giao dịch tại các quốc gia có thị trường chứng khoán phát triển. Công tác này vừa giúp Uỷ ban chứng khoán học hỏi kinh nghiệm, vừa có thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong niêm yết trên thị trường các nước. Hoạt động giao dịch trên Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội cần từng bước tiếp cận, kết nối và liên thông với thị trường vốn quốc tế. Đối với trung tâm lưu ký chứng khoán, cần nâng cao năng lực của các trung tâm này hoặc góp phần phát triển một trung tâm lưu ký chung trong khu vực, tạo điều kiện giao dịch thuận tiện và dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư.
Để trở thành một thị trường trái phiếu hiệu quả, TTGDCK Hà Nội có thể kết nối thị trường của mình với các nước trong khu vực để tạo ra một thị trường đủ lớn, nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Cần có những biện pháp và hệ thống đánh giá chuẩn hơn để xác định lãi suất phát hành hợp lý. Trái phiếu chính phủ cần đa dạng hóa các kỳ hạn phát hành để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường vốn, xây dựng thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, cung cấp điều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường. Trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương và trái phiếu công trình cần tích cực phát hành theo phương thức đấu thầu phát hành và bảo lãnh phát hành; tăng khối lượng phát hành thay vì phát hành nhiều đợt với số lượng nhỏ nhằm giảm chi phí phát hành và thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư có tổ chức tham gia. Bên cạnh đó, thể chế pháp luật và chính sách kinh tế vĩ mô cần được cải thiện hơn nữa nhằm nâng mức xếp hạng tín nhiệm để trái phiếu chính phủ, sau đó là trái phiếu doanh nghiệp có đủ điều kiện để đạt được tiêu chuẩn đầu tư của các nguồn quỹ lớn trên thế giới.
Ngân hàng Nhà nước:
Động lực của sự phát triển hệ thống định chế tài chính là quá trình chủ động gắn kết nền kinh tế và thị trường của từng nước với kinh tế khu vực và thế giới thông qua nỗ lực cải cách chính sách và hành động theo hướng tự do hoá và mở cửa trên các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương. Theo đó, NHNN cần thiết lập các thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ, thị trường mở… trong đó khuyến khích các thành phần thị trong và ngoài nước tham gia.
Chính quyền Hà Nội:
Về phía chính quyền Hà Nội, để hội nhập một cách chủ động cần giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ nắm chắc và áp dụng linh hoạt quy định và thông lệ quốc tế; nhận thức những cơ hội và thách thức của quá trình hội nhập. Chính quyền thành phố cũng cần tích cực tổ chức các khoá học, các buổi hội thảo về những ngành, những thị trường tiềm năng cho các doanh nghiệp địa phương. Tuy nhiên việc hỗ trợ cần đảm bảo các quy định, cam kết gia nhập WTO, ví dụ như hỗ trợ đào tạo, thông tin và hỗ trợ theo vùng kinh tế... Hà Nội có thể nghiên cứu kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh trong việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ tại địa phương thông qua thành lập Quỹ Bảo lãnh Tín dụng trực thuộc UBND thành phố, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận đảm bảo hoàn vốn và bù đáp chi phí.
Hà Nội cũng cần xây dựng và ban hành Quy định quản lý các doanh nghiệp trên địa bàn theo Luật Doanh nghiệp, bổ sung các quy chế thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước; thành lập Trung tâm xúc tiến đầu tư, tổ chức xúc tiến đầu tư tại một số thị trường xuất khẩu lớn của doanh nghiệp Việt Nam như: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Singapore... ; đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn chính sách tư vấn pháp luật; hình thành một hành lang pháp lý phát triển góp phần xoá đi những lo ngại về rủi ro trong kinh doanh ở nước ngoài của các nhà đầu tư khi các luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp, thương hiệu, nhãn mác... Những cải cách này sẽ góp phần hấp dẫn nhà đầu tư, đặc biệt là đầu tư liên quan đến các hoạt động nghiên cứu và triển khai.
Chính quyền Hà Nội cần trong việc cấp thủ tục đầu tư, cần tiếp tục giảm thời gian và các giấy tờ liên quan trên cơ sở vi tính hoá. Áp dụng những tiến bộ công nghệ trong khai, cấp phép và lưu giữ thông tin nhằm tạo ra sự thoải mái, tiện lợi cho nhà đầu tư. Đồng thời, đơn giản hoá thủ tục thuê văn phòng, điện nước là cần thiết nhằm tạo thuận lợi cho nhà đầu tư trong quá trình hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Nhà đầu tư cần được thông tin kịp thời, đầy đủ bằng ngôn ngữ thuận lợi về những chính sách của chính phủ và của chính quyền địa phương
3.3.5. Kiến nghị chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hà Nội theo hướng hỗ trợ ngành tài chính nhằm xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính:
Chính quyền Hà Nội cũng cần đầu tư cơ sở hạ tầng, đặc biệt phát triển hạ tầng các khu công nghiệp chế xuất (đường xá, hệ thống điện, cấp thoát và xử lý nước...) và hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông. Vốn đầu tư có thể từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, trái phiếu công trình... trên cơ sở đảm bảo hiệu quả, cân đối thu chi để huy động vốn trung, dài hạn và bước đầu tạo hàng hóa cho thị trường vốn của thành phố.
Đồng thời, chính quyền thành phố cần có cơ chế thu hút đầu tư vốn, công nghệ... vào ngành thương mại, dịch vụ góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương. Hội nhập không thể tách rời khỏi công tác đào tạo nhân lực. Vì vậy, chính quyền Hà Nội cần khuyến khích, thúc đẩy phong trào học ngoại ngữ. Đây không chỉ tạo cơ sở cho việc xây dựng Hà Nội thành trung tâm tài chính mà còn giúp tăng khả năng thu hút, hấp thụ vốn đầu tư nước ngoài vào Hà Nội bởi ngoại ngữ hiện nay vẫn là điểm yếu lớn của lao động Việt Nam. Cần đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực cho thị trường vốn; thu hút, tập trung được nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực trình độ cao hoạt động trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng thông qua các chính sách ưu đãi. Bên cạnh đó, Hà Nội cũng cần tự đào tạo lực lượng lao động chất lượng cao thông qua phát triển các cơ sở đào tạo đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời, thông qua đào tạo nhân lực để chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế từ nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao sang thương mại, dịch vụ chiếm đa số.
KẾT LUẬN
Có thể nói, trung tâm tài chính “Đó là một khu vực đô thị (metropolitan area) có sự tập trung ở mật độ cao các định chế tài chính, đó là nơi chủ yếu diễn ra các hoạt động tài chính của một quốc gia hay một khu vực nhất định”. Trung tâm tài chính tồn tại nhằm mục đích tăng hiệu quả, bằng cách tập trung các định chế tài chính của một quốc gia trong một khu vực đô thị xác định, áp dụng tiến bộ công nghệ thông tin, tiết kiệm chi phí thông qua chuyên môn hoá và thực hiện hiệu quả kinh tế nhờ quy mô [30].
Với vị trí như trên, các trung tâm tài chính đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động kinh tế, tài chính của quốc gia, nhất là trong điều kiện hội nhập. Bên cạnh đó các trung tâm tài chính mang tầm khu vực và thế giới là các đầu mối giao dịch với mật độ cao, liên tục với các múi giờ khác nhau để dòng vốn trên toàn cầu được vận hành hiệu quả và giúp tiết kiệm nguồn lực xã hội. Tuy nhiên, rất ít khái niệm chính thức về trung tâm tài chính. Điều này đúng như nhận định của Nhà kinh tế Geoffrey Jones, trường Đại học Bond, Australia: “Financial centres are much disscussed but rarely defined”.
Hiện tại, thị trường tài chính Hà Nội còn quá nhỏ về quy mô vốn, số lượng định chế tài chính cung cấp dịch vụ, các nhà đầu tư chuyên nghiệp… Thị trường tài chính Hà Nội còn một quãng đường rất dài phía trước để đạt được mức phát triển và hình thành một trung tâm tài chính. Tuy nhiên, hình thành và xây dựng một trung tâm tài chính quốc tế tại Hà Nội không phải là một điều không thể bởi trên thực tế. Bahrain, Bristish Virgin là những hòn đảo nhỏ, không có nhiều lợi thế về nhân lực, cơ sở hạ tầng, vị trí địa lý... nhưng với chính sách đúng đắn, với “ước mơ” và rất nhiều nỗ lực, các hòn đảo này đã trở thành nhưng trung tâm tài chính thu hút nguồn vốn từ nhiều nơi trên thế giới. Vì thế, trong tương lai, để có thể trở thành trung tâm tài chính của cả nước, tiến tới mang tầm khu vực, các cấp các ngành và chính quyền Hà Nội cần có rất nhiều những hành động tích cực cụ thể.
Thực tế xây dựng trung tâm tài chính ở các nước chỉ ra rằng đối với bất kỳ nước nào muốn đẩy nhanh sự phát triển của trung tâm tài chính cũng phải xử lý vấn đề tự do hoá thị trường tài chính trong nước bởi lẽ nguồn vốn nước ngoài đang ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các trung tâm tài chính. Vấn đề là hình thức mở cửa. Đối với các nước đang phát triển, không thể phó mặc sự hình thành và hoạt động của trung tâm tài chính vào các yếu tố tự phát trong nền kinh tế. Để xây dựng và phát triển thành công trung tâm tài chính phải có định hướng mục tiêu rõ ràng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của trung tâm tài chính để giành cho nó những chính sách và môi trường kinh tế - xã hội - chính trị phù hợp. Hồng Công và Thượng Hải là hai ví dụ tương phản. Mặc dù tiềm năng Hồng Công nhỏ hơn Thượng Hải nhưng do được định hướng tốt và hỗ trợ đúng đắn trong cả quá trình trung tâm tài chính nên Hồng Công đạt tới sự phát triển vượt bậc từ điểm xuất phát nghèo nàn. Ngược lại Thượng Hải do chưa có định hướng mô hình ngay từ đầu nên mặc dù tiềm năng rất rộng lớn nhưng sự phát triển không quy củ gây tốn kém cho quá trình cơ cấu lại.
Bản luận văn được trình bày ở trên là quá trình nghiên cứu nghiêm túc của tác giả tuy nhiên không tránh khỏi những thiếu sót nhưng tác giả hy vọng rằng những đề xuất được nêu trong bản luận văn này sẽ đóng góp một phần vào sự hình thành và xây dựng trung tâm tài chính tại Hà Nội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1
Nguyễn Văn Bình (2007), “Một số thách thức đối với hệ thống thanh tra, giám sát Ngân hàng trong tình hình mới”, Tạp chí Ngân hàng, (1), tháng 1-2007, trang 20.
2
Kim Văn Chính (2006), “Quản lý, giám sát vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài và lựa chọn chính sách cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (341), tháng 10-2006, trang 3-11.
3
Quốc Đạt, Mạn Đình (2008), “Thăng trầm thị trường Chứng khoán Việt Nam năm 2007 và niềm tin của Nhà đầu tư trong năm 2008”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, (68+69), tháng 1+2-2008, trang 30-32.
4
Lê Cao Đoàn (2006), “Sự thần kỳ Đông Á và quy luật mới của sự phát triển trong thời đại phát triển hiện đại”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (343), tháng 12-2006, trang 64-73.
5
Viên Thế Giang (2008), “Hoạt động công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, (68+69), tháng 1+2-2008, trang 42-46.
6
Nguyễn Văn Hiệu (2006), “Thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở Việt Nam -thực trạng, triển vọng và giải pháp”, Tạp chí nghiên cứu Kinh tế, (343), tháng 12/2006, trang 3-12.
7
Bùi Thanh Lam (2007), “Đi tìm lợi ích từ thị trường mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, (23), tháng 12-2007, trang 31
8
Trịnh Phong Lan (2007), “Ngân hàng thương mại Nhà nước với việc cổ phần hoá và niêm yết trên thị trường chứng khoán”, Tạp chí Tài chính, tháng 8-2007, trang 28.
9
Lê Quốc Lý (2007), “Đổi mới chính sách tiền tệ năm 2007 trong xu thế hội nhập”, Tạp chí Ngân hàng, (1), tháng 1-2007, trang 26.
10
Frederic S. Mishkin (2001), Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường Tài chính, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
11
Ngân hàng Nhà nước (2006), Tài liệu Hội nghị triển khai Đề án phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng năm 2020, Hà Nội.
12
Ngân hàng Nhà nước (2007), Tài liệu họp báo “Tình hình thực hiện nhiệm vụ ngân hàng năm 2006 và định hướng năm 2007”, Hà Nội
13
Niên giám thống kê năm 2006 (2007), Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội.
14
Nguyễn Quán (2007), “Đôi điều bình luận về diện mạo Doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (3/2007), trang 23-25
15
Võ Minh Tâm (2007), “Xung quanh vấn đề tự do hoá tài khoản vốn”, Tạp chí Ngân hàng, (7), tháng 4-2007, trang 9-15.
16
Nguyễn Thị Thư, Nguyễn Hồng Sơn, Nguyễn Bình Giang (2007), “Tác động của vốn nước ngoài đối với các nền kinh tế đang phát triển và những đề xuất đối với Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, (137), tháng 9/2007, trang 47.
17
Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh (2006), Nhập môn Tài chính- tiền tệ, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh
18
Website: của Cổng giao tiếp điện tử Hà Nội
19
Website: của Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội
20
Website: của Báo Lao động
21
Website: của Bộ Tài chính
22
Website: của Uỷ ban Chứng khoán
23
Website: của Ngân hàng Nhà nước
Tiếng Anh.
24
Hungdah Chiu, Y.C.Jao and Yuan-li Wu (1987), The Future of Hongkong, Quorum Books, Hongkong.
25
Berry Fong Chung-Hsu, Douglas W.Arner, Maurice Kwok- Sang Tse, Syren Johnstone (2006), Financial Markets in Hongkong: Law and Practice, Oxford University Press, Newyork.
26
Michael.J.Enright, Edith.E.Scott, David Dodwell (1997), The Hongkong Advantage, Oxford University Press, Great Britain.
27
Andrew.F.Freris (1991), The Financial Markets of Hongkong, published by Routledge, Newyork
28
John Greig(1990), The Hongkong tax system an overview, Bond University, Australia.
29
Y.C.Jao (2000), The Asian Financial Crisis and the Ordeal of Hongkong, Quorum Books, Hongkong.
30
Richard Roberts (1994), International Financial Centres of Europe, North America and Asia, The University Press, Cambridge, Great Britain
31
Richard Roberts (1994), Offshore Financial Centres, The University Press, Cambridge, Great Britain.
32
Edward Szczepanik (1958), The Economic Growth of Hongkong, Oxford University Press, Great Britain.
33
A.J. Youngson (1982), Hongkong Economic Growth and Policy, Oxford University Press, Great Britain
34
Website: - The Better Hongkong Foundation
35
Website: - The Census and Statistics Department of Hongkong
36
Website: - Hongkong Exchanges and Clearing Ltd.
37
Website: www.straistime.com - Straits Times
38
Website:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Taichinh (1).doc