Đề tài: TRƯỜNG CA THANH THẢO
Luận văn dài 119 trang
CHƯƠNG 1 . 9
HIỆN TƯỢNG TRƯỜNG CA VÀ TRƯỜNG CA . 9
CỦA THANH THẢO 9
1.1. Sơ lược về thể loại trường ca 9
1.1.1. Về nội hàm khái niệm “trường ca” 9
1.1.2. Khái niệm trường ca và một số ý kiến về trường ca trong văn học
Việt Nam hiện đại 11
1.2. Hiện tượng sáng tạo trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại 14
1.2.1. Những tiền đề lịch sử và văn học của trường ca 15
1.2.1.1. Tiền đề lịch sử . 15
1.2.2. Tiền đề văn học 16
1.2.2. Về các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại 19
1.2.3. Đặc điểm thẩm mỹ của trường ca Việt Nam hiện đại . 23
1.2.3.1. Về nội dung 23
1.2.3.2. Về kết cấu . 26
1.3. Thơ trữ tinh va trương ca cua Thanh Thao 28
1.3.1. Thơ trư tinh cua Thanh Thao . 28
1.3.2. Trường ca Thanh Thảo . 34
CHƯƠNG 2 . 37
TƯ TƯỞNG THẨM MỸ TRONG TRƯỜNG CA . 37
CỦA THANH THẢO 37
2.1. Tư tưởng thẩm mỹ, tứ thơ lớn của trường ca . 37
2.2. Những người đi tới biển hay sứ mệnh lịch sử của thế hệ trẻ cầm súng . 40
2.3. Những ngọn sóng mặt trời, biểu tượng kết tinh của tư tưởng nhân dân 50
2.4. Niềm trăn trở thế sự trong các tác phẩm trường ca Thanh Thảo viết sau chiến
tranh . 61
CHƯƠNG 3 . 72
ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT 72
3.1. Kết cấu trường ca của Thanh Thảo 72
3.1.1. Kiểu kết cấu theo sự kiện và tuyến sự kiện . 75
3.1.2. Kiểu kết cấu theo mạch cảm xúc và tâm trạng . 82
3.2. Biểu tượng 87
3.2.1. Hệ biểu tượng sóng, cát và mặt đất– sức mạnh tiềm ẩn của quần
chúng nhân dân . 89
3.2.2. Hệ biểu tượng cỏ, lửa - sức mạnh bền bỉ và ý chí tất thắng của cái
tôi thế hệ 95
3.3. Giọng điệu 100
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
119 trang | 
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2591 | Lượt tải: 3
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trường ca Thanh Thảo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a rộng nhất, biểu 
tượng (symbol) là một loại tín hiệu mà mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  88 
hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người: cái biểu 
trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lí do, tính tất 
yếu”[28,3]. 
Mối quan hệ mang tính có lí do, tính tất yếu giữa hai mặt của biểu 
tƣợng, chính là điểm chủ yếu để phân biệt biểu tƣợng với dấu hiệu, kí hiệu. 
Các tác giả “Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới” đã chỉ ra rất đúng rằng: 
“Biểu tƣợng cơ bản khác với dấu hiệu là một qui ƣớc tuỳ tiện trong đó cái 
biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt (khách thể hay chủ thể) vẫn xa lạ với nhau, 
trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được 
biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức”. Gilbert Durand cũng khẳng 
định: “biểu tượng rộng lớn hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân 
tạo, nó có một sức vang cốt yếu và tự sinh”. Mặt khác, biểu tượng luôn 
mang tính đa trị, “chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái đƣợc 
biểu đạt, hoặc giản đơn hơn…cái đƣợc biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt”, 
hay nói cách khác, ở đây có sự “không thích hợp giữa tồn tại và hình 
thức…sự ứ tràn của nội dung ra ngoài hình thức biểu đạt của nó”. Biểu 
tƣợng luôn rộng lớn hơn với ý nghĩa đƣợc gán cho một cách nhân tạo, nó có 
sức sống cốt yếu và tự sinh. 
Biểu tƣợng là một phƣơng diện tạo hình và biểu đạt có tính đa nghĩa 
trong văn học. Giữa biểu tƣợng và hình tƣợng có mối quan hệ tƣơng hỗ. Mỗi 
biểu tƣợng văn học sẽ là một hình tƣợng nếu ở hình tƣợng hiện diện một ý 
nghĩa nào đó tuy hòa vào hình tƣợng nhƣng không đồng nhất hoàn toàn với 
hình tƣợng. Vì vậy, con đƣờng giải mã biểu tƣợng trong tác phẩm văn học sẽ 
phải đi từ chính ngôn từ, kết cấu, các thủ pháp,… để tìm ra cái ẩn chìm đằng 
sau những hình tƣợng có nguồn gốc từ biểu tƣợng. 
Thanh Thảo thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trƣởng thành trong cuộc 
kháng chiến chống Mỹ có ý thức cao trong việc xây dựng các biểu tƣợng 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  89 
nhằm thể hiện tƣ tƣởng thẩm mỹ của mình. Với riêng trƣờng ca, có thể nói 
Thanh Thảo đã xây dựng cả một hệ biểu tƣợng thể hiện thành công những 
phạm trù ý nghĩa có tính khái quát, trừu tƣợng cao. 
Trong trƣờng ca của Thanh Thảo ta bắt gặp rất nhiều những hình ảnh 
lặp đi lặp lại, mang ý nghĩa biểu trƣng cao nhƣ: cỏ, sóng, đất, cát, lửa, mặt 
trời…Những hình ảnh này chính là các biểu tƣợng kết tinh tƣ tƣởng thẩm mỹ 
trong trƣờng ca Thanh Thảo. 
Nghiên cứu trƣờng ca Việt Nam nói chung, trƣờng ca Thanh Thảo nói 
riêng, ta bắt gặp rất nhiều những biểu tƣợng mang ý nghĩa ám dụ cao. Với 
trƣờng ca Thanh Thảo, ở đây luận văn cũng chỉ đi sâu vào tìm hiểu những 
biểu tƣợng mang tính nổi trội với tần số xuất hiện cao và khơi gợi đƣợc nhiều 
tầng ý nghĩa trừu tƣợng khái quát. Có thể kể đến một số biểu tƣợng nhƣ vậy 
trong trƣờng ca Thanh Thảo là: Sóng, biển, mặt đất, cỏ, lửa, cát,… 
3.2.1. Hệ biểu tượng sóng, cát và mặt đất– sức mạnh tiềm ẩn của 
quần chúng nhân dân 
Trƣớc hết, Sóng đƣợc xem là biểu tƣợng cho sức mạnh tiềm ẩn, quật 
cƣờng của quần chúng nhân dân trong trƣờng ca của Thanh Thảo bởi lẽ nó 
đƣợc tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần thành một ám ảnh. Không chỉ có vậy, 
đằng sau hình thức lặp lại đó là những tầng sâu ý nghĩa có sức gợi mạnh mẽ 
mà phải đi vào tác phẩm cụ thể, với những biểu hiện sinh động trong sự kết 
hợp với các hình ảnh, tâm trạng khác nhau nó mới biểu hiện đầy đủ đời sống 
phong phú, đa dạng của mình. 
Tƣ tƣởng về nhân dân, đất nƣớc là tƣ tƣởng chủ đạo chi phối toàn bộ 
những sáng tác trƣờng ca của Thanh Thảo. Khi viết về quần chúng nhân dân, 
Thanh Thảo luôn dành một tình cảm đặc biệt. Anh đã sáng tạo và sử dụng 
biểu tƣợng sóng nhƣ một biểu tƣợng tiêu biểu cho sức mạnh, ý chí kiên cƣờng 
của quần chúng nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Thảo lại đặt tên 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  90 
cho hai trƣờng ca đồ sộ của mình là Những người đi tới biển và Những ngọn 
sóng mặt trời. 
Trƣớc hết tâm hồn phóng khoáng của anh rất thích liên tƣởng đến sóng. 
Cơ man nào là sóng! Sóng cứ lừng lững, lừng lững hiện ra không phải lẻ loi, 
đơn độc từng ngọn mà thƣờng là ngàn con sóng, những đợt sóng, lớp lớp 
sóng. Hết “muôn đợt sóng vỗ vào bờ cát” lại đến “những ngọn sóng ngƣợc 
chiều xô xát mãi” rồi lại đến “những đợt sóng đột ngột trào lên”…Những 
ngọn sóng mặt trời là nơi thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu trƣng của sóng: 
sóng gần đó nhƣng vừa hữu hình vừa vô hình, nhìn thấy mà không dễ nắm 
bắt, mất đi rồi lại tái sinh: 
Đã bao lần xuống biển lên trời rồi trở lại, 
Đã cháy khô tới giọt cuối cùng 
Mà trong như thể trong nguồn 
Tràn trề như thể chưa từng cạn vơi 
Dò tận đáy cũng xong thôi 
 Nhưng vô ích. Sóng có đời nào yên 
Ngàn con sóng chết cuối đêm 
Sinh ngàn con sóng trước thềm rạng Đông 
Đẩy thuyền lật thuyền dễ không 
Mát mềm mài đá đã mòn thấu xương. 
Mạch thơ dâng trào cảm xúc say mê của tác giả khi viết về sóng, về sự 
bất diệt trƣờng tồn. Sóng ở đây chính là biểu tƣợng cho nhân dân, cho sự 
trƣờng tồn, vĩnh hằng, bất diệt của nhân dân. Sức mạnh tiềm ẩn của sóng cũng 
giống nhƣ sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa trong bề sâu lịch sử của nhân dân. 
Sóng còn là biểu tƣợng cho sức mạnh trào dâng, sức mạnh nhấn chìm, 
sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân trƣớc kẻ thù. Ngọn sóng chính là 
biểu tƣợng dữ dội cho lòng yêu nƣớc của nhân dân ta: 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  91 
Cơn bão đã trở lại 
Không cãi vã 
Không ngập ngừng 
Từ biển và từ núi 
Những ngọn sóng mặt trời 
Chúng ta đi 
 Cơn bão quyét những vùng tối tăm trên mặt đất 
Người đứng dậy bàn tay nắm chặt một hai…đi một hai… 
 (Bùng nổ mùa xuân) 
 Thông qua biểu tƣợng sóng để nói lên sức mạnh và ý chí căm hờn của 
quần chúng nhân dân ta còn bắt gặp lối xây dựng của Nguyễn Khoa Điềm: 
Đất nước 
Đang gầm lên trong sóng gió đất trời 
Hàng chục triệu thước khối nước đang lao vào mặt đất 
(Mặt đường khát vọng) 
 Sức mạnh lớn lao của nhân dân không chỉ tồn tại trong không gian mà 
còn tồn tại suốt chiểu dài lịch sử qua các thời đại. “bằng hình tượng sóng, 
Thanh Thảo chẳng những nói lên được hình thái thể hiện sức mạnh khôn 
cùng của nhân dân qua đó gửi gắm niềm tin vô bờ vào họ” [ 30,4] 
Những lớp sóng là những ngƣời nghĩa sĩ Cẩn Giuộc, là những ngƣời 
du kích Ba Tơ, là những con ngƣời vô danh hay hữu danh nhƣng anh hùng 
đã góp phần máu xƣơng của mình làm nên chiến thắng viết nên những trang 
sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Trân trọng, biết ơn và với tấm lòng thành 
kính trƣớc sự hy sinh cao cả đó của nhân dân, Thanh Thảo đã tạc nên một 
bức tƣợng đài “sóng” sừng sững hiên ngang giữa đất trời với những chất 
liệu đặc biệt: 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  92 
Bùn và máu 
Dựng ngọn sóng ngang trời bằng đá trắng 
Đêm đêm trên đỉnh sóng bập bùng lửa đuốc 
 (Những ngọn sóng mặt trời ) 
Ngay nhan đề bản trƣờng ca Những ngọn sóng mặt trời chúng ta đã 
thấy tính chất biểu tƣợng giàu sức khái quát của hình ảnh sóng. Những ngọn 
sóng ấy không phải là sóng bình thƣờng mà là những ngọn sóng nóng bỏng 
của lòng quyết tâm sự bền bỉ, sức mạnh vĩnh hằng của quần chúng nhân dân: 
Không ngập ngừng 
Từ biển và từ núi 
Những ngọn sóng mặt trời 
… 
Những con sóng cuộn lên bờ đời sống 
Chói trang mặt trời. 
(Những ngọn sóng mặt trời ) 
 Từ hình ảnh ngọn sóng tự nhiên mang trong mình năng lƣợng của biển 
cả, ngày đêm ru ta bài ca không nghỉ, Thanh Thảo đã thành công khi xây 
dựng sóng thành biểu tƣợng mang ý nghĩa sâu xa, giàu chất triết luận về sức 
mạnh tiềm ẩn, vĩnh hằng, bất diệt, vô địch của quần chúng nhân dân. 
 Tƣ tƣởng về nhân dân mất nƣớc còn đƣợc Thanh Thảo thể hiện sâu sắc 
qua hình ảnh mặt đất. Mặt đất vốn hiền hòa, là nơi bắt nguồn của sự sống con 
ngƣời. Mặt đất vốn đƣợc coi là bà mẹ bao dung muôn đời của con ngƣời. Xây 
dựng hình ảnh mặt đất thành biểu tƣợng có ý nghĩa ám chỉ sức mạnh, sự vững 
bền của quần chúng nhân dân, Thanh Thảo đã đem đến những tầng sâu ý 
nghĩa mới cho tƣợng trƣng này. 
 Trong trƣờng ca Những người đi tới biển Thanh Thảo đã xây dựng hình 
ảnh đất để khái quát về sự bất tử của quần chúng nhân dân: 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  93 
Đất nằm im như chết 
Có bao giờ đất chết đâu anh. 
Mặt đất bình yên, hiền hòa nhƣ bộ mặt nhân dân muôn đời giản dị 
nhƣng luôn tiềm ẩn sức sống bất diệt. 
Mặt đất quê hƣơng hay bà mẹ tinh thần thứ hai đã ấp ủ, nâng niu ý chí 
khát vọng của con ngƣời: 
Máu của đất 
Giọt nước nào đã khởi sự đời ta. 
Với Thanh Thảo, đất còn là biểu tƣợng cho sức mạnh vĩ đại bền bỉ, tấm 
lòng thủy chung son sắc của quần chúng nhân dân: 
Ta sống cùng nhân dân 
Chết giữa nhân dân 
Rất yên ổn mầm cây thở chìm trong đất 
Đất mẹ hay nhân dân đã ôm bao ngƣời con vào lòng khi sống thì chở 
che chăm sóc, lúc mất đi nhân dân là ngƣời tƣởng nhớ. Về với đất là về với 
nhân dân để tái sinh một cuộc đời mới. 
Trong tâm tƣởng của Thanh Thảo, mặt đất chính là tổ quốc chính là 
nhân dân, mặt đất hóa thân vào những con ngƣời vô danh đã hiến dâng cả 
cuộc đời cho đất đai xứ sở: 
Đất nước đi hết thảy con người. Bóng họ tỏa mênh mang ngày 
nắng gắt 
Họ đi như gió, họ đứng như rừng 
Lúc nằm xuống họ hóa thành mặt đất 
Từ những gì vô danh, giản dị, đến những gì cao cả vĩ đại đều thuộc về 
mặt đất. Mặt đất là nhân dân sinh ra mỗi con ngƣời, nuôi dƣỡng họ, khích lệ 
động viên họ, thủy chung và gắn bó với họ. Để rồi khi những ngƣời con đó 
trở về với đất, nhân dân hay là mặt đất trở thành nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Mặt 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  94 
đất hay chính là tổ quốc thiêng liêng vĩnh hằng không bao giờ chết. Mặt đất 
chính là biểu tƣợng cho nhân dân, cho những gì quen thuộc, gần gũi, cho 
những gì cao cả, vĩ đại, bất diệt. 
Ngoài hình ảnh sóng, mặt đất thì cát cũng là yếu tố đƣợc Thanh Thảo 
xây dựng thành biểu tƣợng có ý nghĩa tƣợng trƣng cao khi nói về nhân dân, 
dân tộc, đất nƣớc. 
Thanh Thảo không phải là ngƣời đầu tiên sử dụng hình ảnh cát với ý 
nghĩa là một biểu tƣợng cho nhân dân. Các nhà thơ khác nhƣ Bằng Việt, 
Nguyễn Duy đã xây dựng hình ảnh cát thành biểu tượng cho dòng chảy số 
phận nhân dân. 
Đến trƣờng ca của Thanh Thảo, cát là biểu tƣợng cho quê hƣơng gắn 
bó, ruột thịt của con ngƣời: 
Rồi bên dưới khối sương mù đặc cứng 
Căn cứ lại bắt đầu di chuyển 
Những người chìm xuống hầm sâu 
Như nước thấm vào lòng cát 
… 
Những con thuyền thở dài trên cát trắng 
Nghe da thịt nồng hơi biển mặn 
 (Trẻ con ở Sơn Mỹ ) 
 Cát còn là biểu tƣợng của tuổi thơ với những thăng trầm gian khó mà 
những em bé cũng nhƣ ngƣời dân Sơn Mỹ phải gánh chịu trong những năm 
đau thƣơng của cả dân tộc: 
Anh mở mắt trống trơn vùng cát 
Nắng đổ lửa trời cao quay quắt 
Làng cũ đâu những đường dừa mát xanh 
Anh nhắm mắt thấy từng chùm trái ngọt 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  95 
Những nấm cát gối đầu nấm cát 
 (Trẻ con ở Sơn Mỹ ) 
 Cát là nơi ghi dấu ấn sự tồn tại cũng nhƣ những mất mát, hy sinh của 
con ngƣời. Cát là nhân chứng đồng thời là nơi yên nghỉ vĩnh hằng cho những 
cái chết oan khuất của trẻ thơ: 
Cả mộ bia sóng biển tiếng trẻ cười 
Những âm thanh nhiều năm vùi đất cát 
Sẽ mọc lên bất chợt giữa ban ngày 
Đồng một lúc rừng dương căng ngực hát 
 (Trẻ con ở Sơn Mỹ ) 
 Cát vĩnh hằng bất diệt, cát là sự hóa thân của tƣơng lai tƣơng sáng. Cát 
nâng đỡ chồi sống con ngƣời: 
Tôi nhập cùng các em chạy dọc bãi xương rồng 
Lại bắt gặp chân trời ngay trên cát 
Cả người tôi hòa trong biển vô cùng 
Có thể nói những hình ảnh sóng, mặt đất, cát là những biểu tƣợng 
mang tính lý tƣởng hóa, kỳ vĩ về sức mạnh quật cƣờng cũng nhƣ sự trƣờng 
tồn của tổ quốc, của nhân dân. 
3.2.2. Hệ biểu tượng cỏ, lửa - sức mạnh bền bỉ và ý chí tất thắng của 
cái tôi thế hệ 
Trong thơ Thanh Thảo nói chung, cỏ là hình ảnh đƣợc nhắc lại nhiều 
lần và nó đã trở thành biểu tƣợng cho sức mạnh và ý chí tất thắng cho cái tôi 
thế hệ nhà thơ. Nếu nhƣ trong Dấu chân qua trảng cỏ hình ảnh cỏ gắn bó với 
đau thƣơng máu lửa của chiến tranh thì đến Những người đi tới biển, cỏ chính 
là biểu tƣợng cho sự bền bỉ, nhẫn nại của những con ngƣời lứa tuổi hai mƣơi, 
ba mƣơi xanh màu áo lính: 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  96 
Những dấu chân rồi lùi lại phÝa sau 
Dấu chân in trên đời chúng tôi những tháng năm trẻ nhất 
Mười tám hai mươi sắc như cỏ 
Dày như cỏ 
Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ 
 (Những ngƣời đi tới biển ) 
 Chƣa có nơi nào trong thơ hình ảnh cỏ lại giàu ý nghĩa biểu trƣng nhƣ 
thế: cỏ bình dị, tƣơi tắn nhƣ lứa tuổi hai mƣơi; cỏ mãnh liệt yếu mềm nhƣng 
dày dặn, gắn kết. Tất cả những ý nghĩa đó biểu trƣng cho lớp lớp thế hệ 
thanh niên cùng gắn bó trên một chiến hào trong cuộc hành quân vĩ đại của 
cả dân tộc. 
Trên bƣớc đƣờng hành quân gian khổ, cỏ là nơi ngƣời chiến sỹ nghỉ 
chân và ngẩn ngơ trƣớc vẻ đẹp của một cánh chim trời: 
Chúng tôi không mệt đâu 
Nhưng cỏ sắc mà ấm quá! 
Tuổi hai mươi thằng em tôi sững sờ 
Một cánh chim mảnh như nét vẽ 
Mùi vị của cỏ hay mùi vị quê hƣơng đã làm nên sức mạnh tiếp bƣớc 
những ngƣời cha, những ngƣời anh của thế hệ những chiến sỹ chống Mỹ: 
Ngoài trảng tranh âm ấm nảy chồi 
Cuối mùa khô đất đang hổi trở dạ 
… 
Phảng phất mùi cỏ cháy đống un. 
 Cỏ trong tâm tƣởng những ngƣời lính còn là yếu tố xóa đi nỗi đau, xóa 
đi quá khứ đau thƣơng vì cỏ có sức sống bất diệt. Nhƣng ở đây cỏ không kịp 
mọc, không thể xóa đi những nỗi đau cũ, chính vì thế cỏ nhắc nhở ý chí căm 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  97 
thù, khắc ghi những nỗi đau để ngƣời du kích Ba Tơ vƣợt ngục trở về với 
nhân dân tiếp tục chiến đấu: 
Đáng lẽ cỏ đã xanh lối mòn thuở ấy 
Cỏ không kịp mọc 
Cỏ phải chết đi sống lại 
Bao nhiêu là nước chảy 
Trên dòng sông 
Những khuôn mặt những cánh rừng những 
Chỗ tối tăm những vùng sáng rỡ 
Những khoảng trống không 
 (Bùng nổ mùa xuân) 
 Cỏ còn là giấc ru ca ôm ấp những ngƣời đã khuất: 
Nhũng ngọn sóng màu xanh của đất 
Tràn qua các mộ bia 
 (Trẻ con ở Sơn Mỹ) 
 Bằng “ẩn dụ cỏ” với hình ảnh vô cùng độc đáo “những ngọn sóng màu 
xanh của đất”. Thanh Thảo đã “bình yên hóa”, xua đi những ấn tƣợng buồn 
của chiến tranh để sự sống tiếp tục tồn tại và vƣơn lên theo quy luật tồn tại. 
Sự hy sinh của những ngƣời lính, của nhân dân vì thế đƣợc bình yên. 
 Lửa là một biểu tƣợng văn hóa. Nó biểu trƣng cho các tầng ý nghĩa 
nhƣ: sự gột rửa, tẩy uế, thần linh…Trong thơ ca cách mạng, ngọn lửa là biểu 
tƣợng của ý chí, tinh thần yêu nƣớc. Trong một số trƣờng ca trƣớc và cùng 
thời Thanh Thảo ngọn lửa còn mang ý nghĩa biểu trƣng cho sự tàn khốc của 
chiến tranh cũng nhƣ ý chí chiến đấu, chiến thắng kẻ thù: 
Những đỉnh núi xưa bừng ngọn lửa 
Khói lên ngùn ngụt cháy trời mây 
Lửa ta bay đốt loại dơi sắt 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  98 
Đã rắc đau thương trên mảnh đất này 
 (Bài ca chim Chơ Rao – Thu Bồn) 
Đến các trƣờng ca của Thanh Thảo, hình ảnh ngọn lửa xuất hiện dày 
đặc và có ý nghĩa biểu trƣng đa dạng. Tầng nghĩa biểu trƣng đầu tiên: Ngọn 
lửa chính là hiện thực trực tiếp, khốc liệt của chiến tranh: 
Cả thành phố đã trở thành lò lửa 
Thỉnh thoảng người ta trông thấy những người Nam Kỳ bị chặn 
lại và tìm cách thoát khỏi đám cháy 
 (Cỏ vẫn mọc ) 
 Không chỉ có vậy, ngọn lửa còn là biểu tƣợng cho ý chí kiên cƣờng của 
ngƣời du kích Ba Tơ trong mong mỏi đƣợc về với nhân dân. Ngọn lửa ấy bắt 
đầu từ số ít rồi truyền đi qua từng số phận: 
Ngọn lửa 
Một đêm thiêu dụi đồn Ba Tơ 
Đã nén lại chiều sâu vào từng số phận 
 (Bùng nổ mùa xuân) 
 Ngọn lửa ấy trong tâm tƣởng ngƣời du kích Ba Tơ còn là niềm uất hận, 
căm thù đối với bọn giặc xâm lƣợc. Trong những nhà giam tăm tối, những 
con ngƣời đang bị kìm kẹp đã biến căm thù, uất hận thành sức mạnh phản 
kháng thắp lên ánh lửa truyền đi trong đêm: 
Ta nghe bàn tay gõ qua bức tường ngăn cách 
Lời hứa hẹn câu chào vĩnh biệt 
Những tín hiệu của lửa 
Nhóm lên từ mỗi làn roi 
 (Bùng nổ mùa xuân) 
 Ngọn lửa còn là biểu tuîng cho sự chính nghĩa, đoàn kết để nhân dân 
và những ngƣời du kích Ba Tơ đồng tâm đứng lên làm cách mạng: “Tự do sẽ 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  99 
nói bằng lời ngọn lửa”. Ngọn lửa lan ra từ lòng quả cảm của mỗi con ngƣời, 
của mỗi miền quê gan góc đã tạo thành dòng sông rực cháy xua tan đêm tối, 
khổ đau kìm kẹp: “bỗng ngàn cánh tay vung ngàn ngọn đuốc màu nâu / dòng 
sông lửa cháy dọc chiền đêm tối”. 
Ngọn lửa còn là biểu tƣợng của lòng nhiệt huyết ý chí căm thù giặc, là 
mạch ngầm chảy trong huyết quản mỗi con ngƣời tạo nên sự tiếc nuối của 
những đoàn quân: 
Tổ quốc 
Một lần nữa xin hát tên Người 
Lửa đã cháy trước đoàn quân Nam tiến 
Giặc cuồng điên gây hấn 
Và chúng tôi ba lô trên vai 
Ngọn lửa còn chính là cội nguồn sức mạnh của chân lý và niềm tin: “và 
im lặng mênh mang chính là tiếng nói/ và cội nguồn tiếng nói là ngọn lửa 
nước rực cháy” 
 Ngọn lửa còn là biểu tƣợng cho tình đồng đội ấm áp keo sơn, sƣởi ấm 
lòng những ngƣời chiến sỹ trên bƣớc đƣờng hành quân gian khổ: 
Bài ca và ngọn lửa 
Tôi đi giữa bàn tay hơi thở bạn đường 
Không phải bó đuốc một trái tim riêng lẻ 
Dắt ta qua rừng đêm 
Những đớn đau mơ ước hy sinh 
Không của riêng một trái tim nào nữa 
Bài ca và ngọn lửa 
Tôi đi trong ánh sáng mọi người. 
 (Những người đi tới biển ) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  100
 Nhƣ vậy, lửa hay ngọn lửa trong trƣờng ca Thanh Thảo vừa là biểu 
tƣợng tƣợng trƣng cho ý chí căm thù giặc, nhiệt tình cách mạng vừa tƣợng 
trƣng cho sức mạnh đoàn kết, sự sẻ chia, nghĩa tình của con ngƣời. 
Thơ Thanh Thảo rất giàu chất sống, giàu hình tƣợng. Trong trƣờng ca 
của anh bên cạnh việc sáng tạo hình tƣợng để phục vụ cho các tƣ tƣởng chủ 
đề, Thanh Thảo còn chú ý xây dựng những hệ biểu tƣợng đa dạng, phong 
phú về nhân dân, ý chí và sức mạnh quật cƣờng của quần chúng nhân dân; 
về sức mạnh bền bỉ và niềm tin tất thắng của những ngƣời chiến sỹ cách 
mạng. Trƣờng ca của anh vì thế có đƣợc chiều sâu của chất triết lý, suy 
tƣởng. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi chƣa thể đi sâu để chỉ ra, 
phân tích và lý giải một cách toàn vẹn thế giới biểu tƣợng trong trƣờng ca 
Thanh Thảo, song thiết nghĩ, qua việc phân tích hai hệ biểu tƣợng nổi bật 
trên trong trƣờng ca Thanh Thảo đã giúp chúng ta phần nào nhận ra phong 
cách viết trƣờng ca của anh. 
3.3. Giọng điệu 
Giọng điệu là một phạm trù quan trọng trong văn học. Nhờ giọng điệu 
chúng ta nhận ra phong cách tác giả, nắm bắt đƣợc tƣ tƣởng, chủ đề của tác 
phẩm. Chịu sự quy định của đặc trƣng thể loại, trƣờng ca Việt Nam hiện đại 
mang trong mình rất nhiều “giọng” khác nhau, nói tiếng nói đa thanh của thế 
hệ tác giả- những con ngƣời vừa cầm súng vừa cầm bút, đồng thời nói tiếng 
nói của riêng tác giả- tâm hồn nhạy cảm trƣớc những vang vọng cuộc đời. 
Nói về chất giọng của Thanh Thảo, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho 
rằng, trƣớc Thanh Thảo “giọng thơ trẻ ồn ào như mạch thác phía đầu nguồn, 
thì đến Thanh Thảo dòng thơ lại lắng dấu trong nó một sức chảy ngầm của 
quãng cuối dòng sông”. Có thể nói giọng điệu trong trƣờng ca của Thanh 
Thảo chính là giọng điệu sử thi trầm tĩnh đầy trải nghiệm. Đi sâu vào từng tác 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  101
phẩm ta lại bắt gặp một giọng điệu đa thanh, vừa mang cảm hứng ngợi ca vừa 
mang cảm hứng thế sự đầy triết lý, suy ngẫm. 
Nổi bật hơn cả trong số các giọng điệu thƣờng gặp ở trên chính là giọng 
điệu ngợi ca mang cảm hứng sử thi. Bởi lẽ, trƣờng ca hiện đại nói chung, 
trƣờng ca Thanh Thảo nói riêng đều có xu hƣớng tổng kết, đánh giá, chiêm 
nghiệm lại bƣớc đi của lịch sử, mà ở đó nổi bật lên là hình ảnh nhân dân, dân 
tộc, những ngƣời con ƣu tú đã sống, chiến đấu với lớp lớp kẻ thù để gìn giữ 
từng tấc đất của quê hƣơng, đất nƣớc. Chỉ có điều giọng ngợi ca của Thanh 
Thảo không còn ồn ào nhƣ trong các trƣờng ca giai đoạn trƣớc. Ở anh, sự 
ngợi ca cũng đi vào chiều sâu cảm xúc. 
Thanh Thảo không chỉ là nhà thơ mà còn là một chiến sỹ. Anh cùng với 
bao bạn bè cùng trang lứa đã xếp lại sách vở, từ giã trƣờng lớp, những kỳ 
nghỉ hè để lên đƣờng vào Nam chiến đấu. Băng mình vào khói lửa chiến 
tranh, tự mình nếm trải những gian nan thử thách, những hiểm nguy dƣới bom 
đạn kẻ thù, cái nhìn của Thanh Thảo với cuộc chiến tranh không phải là cái 
nhìn của ngƣời ngoài cuộc mà là cái nhìn trải nghiệm, cái nhìn hóa thân để rồi 
bàn luận, phản ánh. Viết về tình đồng đội, quê hƣơng, tình yêu tổ quốc, về 
những mất mát hy sinh, những khó khăn gian khổ…Trƣờng ca của anh luôn 
có một giọng trầm tĩnh, suy tƣ, triết lý. 
Viết về hiện thực chiến tranh, Thanh Thảo đã phơi bày một sự thật tàn 
khốc bằng những lời thơ ngắn với cảm xúc ngậm ngùi: 
Những năm 
Một chiếc áo có thể sống lâu hơn một cuộc đời 
Rồi tới lúc chúng con thay áo khác 
Nhưng khi cởi áo ra 
Con không còn gì thay được 
(Những người đi tới biển) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  102
Không còn cái hào hứng, sôi nổi, hồn nhiên nhƣ trong thơ Phạm Tiến 
Duật, cái nhìn của ngƣời lính trong trƣờng ca Thanh Thảo trƣớc hiện thực 
cuộc chiến, trƣớc sự dấn thân của mình là những tâm sự chân tình, những giãi 
bày chứa chất sự suy tƣ. 
 Ở những câu thơ khác trong bản trƣờng ca về cuộc hành trình của cái 
tôi thế hệ, đồng thời là của dân tộc từ những cánh rừng đi ra biển, ta cũng bắt 
gặp giọng điệu trầm tĩnh ẩn chứa những tâm trạng sâu kín giữ dội: 
Người ta không thể chọn để được sinh ra 
Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy 
(Những người đi tới biển ) 
Nói về cuộc hành quân của thế hệ mình, sự lựa chọn cách sống của bản 
thân cũng nhƣ những đồng đội, trƣờng ca Thanh Thảo có một giọng thật đặc 
biệt: Không có những lời tuyên bố ồn ào mà chỉ lặng lẽ bày tỏ nhƣng nó đã 
thể hiện cao độ ý chí, lòng quyết tâm nhận về sứ mệnh lịch sử trong cuộc đối 
đầu với kẻ thù hung hãn của những ngƣời chiến sỹ: 
Chúng tôi không thể chết vì hư danh 
Không thể chết vì tiền bạc 
Chúng tôi xa lạ với những tin tưởng điên cuồng 
Những liều thân vô ích 
Đất nước đẹp mênh mang 
Đất nước thấm sâu xuống tận cùng xương thịt 
Chỉ riêng Người chúng tôi dám chết 
Rõ ràng sự lựa chọn: Gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc trên 
vai, những ngƣời lính thế hệ Thanh Thảo ý thức rõ việc làm của mình. Họ 
hiểu rằng con đƣờng họ đi là chính nghĩa, con đƣờng đó có hy sinh có gian 
khổ nhƣng họ vẫn chủ động lựa chọn và sẵn sàng hiến thân – một sự hiến thân 
tỉnh táo, sự hiến thân biết trƣớc – cho dân tộc, cho tổ quốc. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  103
Trong không khí của ngày hội chiến thắng, khi cả dân tộc hân hoan 
xuống đƣờng ca bài ca khải hoàn thì Thanh Thảo lại ngậm ngùi trƣớc sự hy 
sinh của những ngƣời đồng đội trƣớc cöa ngõ chiến thắng: 
Ngày dân tộc tụ về đường số 1 
Lßng không nguôi thương những cánh rừng này 
Nơi hàng vạn đứa con nằm lưng đèo cuối dốc 
Dọc theo lối mòn chìm khuất dưới tầng cây 
Nếu một ngày ta dựng những hàng bia 
Xin hãy đề “nơi đây những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ” 
 (Những người đi tới biển) 
Những vần thơ của anh xuất phát từ tấm lòng thành kính, biết ơn đối 
với những ngƣời đồng chí, đồng đội đã khuất. Những câu thơ dài nối tiếp 
nhau nhƣ những giọt nƣớc mắt của ngƣời ở lại tƣởng nhớ về những ngƣời đã 
khuất. Nói về ngày chiến thắng nhƣng giọng thơ Thanh Thảo là tiếng khóc 
nghẹn ngào dấu trong một dáng vẻ điềm tĩnh. 
Trƣớc sức mạnh của quần chúng nhân dân, trƣớc sự trƣờng tồn vĩnh 
hằng của nhân dân, tổ quốc Thanh Thảo đã có những chiêm nghiệm thật sâu 
sắc: Đất nằm yên như chết/ nhưng có bao giờ đất chết đâu anh. 
Ngợi ca những ngƣời nghĩa sỹ Cần Giuộc dũng cảm, giọng thơ Thanh 
Thảo cũng thể hiện một cách đầm lắng, thiết tha: 
Một trăm hai mươi năm 
Đất nước dài theo bàn chân các anh 
Anh nước nhon trong mắt các anh 
Chưa lúc nào ngớt bão 
 (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  104
Cảm thức về tổ quốc về dân tộc là tình cảm, là nhận thức về sự quan 
trọng của tổ quốc, của nhân dân đối với ý nghĩa sự tồn tại của những ngƣời du 
kích Ba Tơ cũng chính là những lời xuất phát tận sâu thẳm đáy lòng tác giả: 
Tổ quốc ở trong tôi 
Hơn những giấc mơ kỳ diệu nhất 
Nếu phút nào tôi ở ngoài tổ quốc 
Đó là điều bất hạnh của đời tôi 
Này đây vàng bạc này đây nhà cửa 
Và máu những nợ nần 
Những nỗi đau và khoảng sáng hồn tôi chân thực 
Tất cả thuộc về người 
 (Bùng nổ mùa xuân) 
Tổ quốc là lẽ sống! Tuyên ngôn ấy thể hiện cảm xúc chân thành thấm 
đẫm chất sâu lắng trầm tƣ. Tổ quốc là hiện thân cho sự đầy đủ, cho vinh 
quang và cho cả những mất mát hy sinh, nỗi đau không thể bù đắp. Gƣơng 
mặt tổ quốc sáng trong cao đẹp trong tâm hồn mỗi con ngƣời. Lời thơ nhƣ 
thôi thúc, nhắc nhở mỗi cá nhân trƣớc trách nhiệm với dân tộc. 
Viết về quá khứ hào hùng của dân tộc với tất cả những cung bậc tình 
cảm của mình, cảm hứng ngợi ca trong trƣờng ca của Thanh Thảo đã đi vào 
chiều sâu, giọng điệu trƣờng ca anh không còn ồn ào mà vô cùng điềm tĩnh 
thể hiện cái nhìn dự cảm, sâu sắc. 
Thể thơ cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu 
riêng của Thanh Thảo. Trƣờng ca Thanh Thảo thƣờng phối hợp sử dụng đan 
xen nhiều thể thơ tạo ra những nhịp điệu khác nhau: Khi thì trầm, khi lại 
bổng. Nhịp điệu đó khiến cho giọng điệu trƣờng ca của anh khi trầm lắng suy 
tƣ, lúc lại cũng ồn ào tƣơi trẻ. Bên cạnh những câu thơ giàu chất hiện thực, 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  105
không câu nệ vào vần luật, phép tắc thể hiện những cung bậc tình cảm khi lên 
bổng lúc xuống trầm của tác giả theo mạch cảm xúc hoặc sự kiện nhƣ: 
Các anh những người trốn thuế 
Các anh – dân lậu 
Từ bỏ quê nhà xiêu tán lênh đênh 
Như bèo dạt như mây trôi 
Khuôn mặt buồn hơn câu hát 
Câu hát buồn hơn đêm rừng sác hoang vu 
 (Những nghĩa sĩ Cần Giuộc) 
 Đồng thời anh cũng có những câu thơ giản dị, xinh xắn nhƣng gấp gáp 
thúc giục: 
Hãy tỉnh dậy 
Chớ mộng du 
Đừng khiếp sợ 
Sống trên đời 
Sông có khúc 
Người có thời 
Hết buồn khổ 
Tới mừng vui 
Hãy tỉnh dậy 
Nào bạn ơi 
 (Đêm trên cát) 
Càng về sau, trong các trƣờng ca viết về chủ đề thế sự, giọng điệu triết 
lý lại đƣợc Thanh Thảo sử dụng nhiều. Ở những trƣờng ca viết sau chiến 
tranh này, khi nỗi đau thời chiến tuy không còn thƣờng trực nhƣng con ngƣời 
vẫn phải hằng ngày hằng giờ chèo chống với cuộc đời để mƣu sinh, tồn tại; 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  106
những giá trị trƣớc kia chúng ta tôn thờ nay cũng đã dần dần bị thay đổi thì 
giọng điệu triết lý thể hiện sự trăn trở suy tƣ đã trở thành giọng điệu chủ yếu 
trong trƣờng ca Thanh Thảo. 
Bằng giọng thơ trầm lắng, chất chứa những ƣu tƣ, Thanh Thảo đã hóa 
thân vào nhân vật Nguyễn Đình Chiểu để giãi bày những mong ƣớc, sự hy 
vọng và tin tƣởng ở con ngƣời; hóa thân vào nhân vật Cao Bá Quát để suy 
ngẫm về những vấn đề đạo đức nhân phẩm, vai trò sứ mệnh của thơ ca và nhà 
thơ; đồng thời cái tôi hóa thân của nhà thơ vào nhân vật trữ tình trong Khối 
vuông Rubich đã thể hiện cái nhìn đa chiều, giọng điệu phức hợp đa thanh của 
nhà thơ khi phản ánh những mảng màu khác nhau của cuộc sống. 
Nhìn một cách tổng quát, giọng điệu chủ yếu của trƣờng ca Thanh Thảo 
chính là giọng trầm tĩnh, suy tƣ. Dù viết về hiện thực chiến tranh, lịch sử hào 
hùng của dân tộc hay các vấn đề thế sự đời thƣờng thì Thanh Thảo vẫn giữ 
cho mình sự chắc chắn nhƣng không hề đơn điệu về giọng điệu. Bởi trƣờng ca 
của anh là phức hợp của âm thanh, chi tiết, hình ảnh và cảm xúc đã vào độ 
chín của một con ngƣời từng trải có tâm hồn nghệ sỹ. 
“Trong đời sống thơ trẻ sau 1975 đến nay, Thanh Thảo với những sản 
phẩm tinh thần đã và sẽ có của mình xứng đáng là một gương mặt tiêu biểu. 
Người đọc tin rằng, víi anh thơ không phải là lời phát mà còn là tiếng vọng 
sau đó. Và anh trên mỗi chặng đường sáng tác của mình sẽ không ngừng tìm 
tòi những biểu hiện mới để thơ mãi âm vang.”[81,49]. Trƣờng ca của Thanh 
Thảo về mặt kết cấu tƣ tƣởng, giọng điệu hay trong việc xây dựng các biểu 
tƣợng đều có những đóng góp mới mẻ cho thể loại trƣờng ca nói riêng, thơ 
Việt Nam hiện đại nói chung. Những đóng góp đó đã đƣa Thanh Thảo lên vị 
trí những nhà thơ lớn và trở thành “ông vua trường ca” của nền văn học Việt 
Nam hiện đại. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  107
KẾT LUẬN 
1. Vào những năm bảy mƣơi của thế kỷ XX, nền văn học Việt Nam 
chứng kiến sự nở rộ của thể loại trƣờng ca hiện đại. Từ đó đến nay, xung 
quanh khái niệm trƣờng ca còn rất nhiều ý kiến chƣa thống nhất giữa các nhà 
nghiên cứu. Song về đại thể cả các nhà nghiên cứu và các tác giả sáng tác 
trƣờng ca đều cho rằng: trƣờng ca là một hiện tƣợng thâm nhập của các thể 
loại thơ, là một kết cấu mềm dẻo, đa diện. Trên bình diện thi pháp thể loại, 
trƣờng ca là hệ quả tất yếu của quá trình thơ trữ tình mở rộng chức năng xã 
hội- thẩm mỹ của các yếu tố tự sự trong kết cấu tác phẩm. trƣờng ca hiện đại 
lấy đề tài lịch sử - dân tộc làm nền, lấy chủ nghĩa anh hùng cách mạng làm 
cảm hứng chiều sâu nhận thức của nhân vật. Trong qóa trình vận động, nội 
dung thể loại trƣờng ca ngày càng phong phú theo hƣớng gia tăng tính triết 
luận, phản ánh những vấn đề gần gũi với đời sống xã hội. 
2. Thanh Thảo thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trƣởng thành trong cuộc 
kháng chiến chống Mỹ. Ông là ngƣời đã dành phần lớn sự nghiệp sáng tác 
của mình cho thể loại trƣờng ca. Thanh Thảo là một trƣờng hợp đặc biệt kiên 
trì và thủy chung với thể loại này. Sau trƣờng ca đầu tay Những người đi tới 
biển (1977), Thanh Thảo liên tiếp cho ra đời hàng loạt những trƣờng ca đặc 
sắc, có sức bao chứa lớn làm nên tầm vóc của một nhà thơ chuyên về thể loại 
trƣờng ca nhƣ: Đêm trên cát (1982), Những ngọn sóng mặt trời (gồm liên 
hoàn ba trƣờng ca: Những nghĩa sỹ Cần Giuộc, Bùng nổ mùa xuân, Trẻ con ở 
Sơn Mỹ- 1985), và Trò chuyện với nhân vật của mình (2002)…Có thể nói, 
Thanh Thảo là một trong những cây bút có đóng góp lớn nhất cho sự sáng tạo 
và phát triển của thể loại trƣờng ca trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại trên cả 
phƣơng diện nội dung lẫn hình thức thể hiện. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  108
Trƣờng ca của Thanh Thảo thấm đẫm chất sử thi, giàu tính tƣ tƣởng và 
tầm khái quát, triết lý về sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình; về nguồn cội sức 
mạnh của dân tộc, đất nƣớc; về những giá trị tinh thần cao cả tiềm ẩn trong 
lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc…Nhƣng đặc biệt hơn, Thanh Thảo 
đã luôn luôn tìm tòi, sáng tạo không ngừng và để lại trong mỗi tác phẩm 
những dấu ấn riêng không pha trộn với các tác giả khác cũng nhƣ không lặp 
lại chính mình. 
3. Tƣ tƣởng thẩm mỹ bao trùm trong các sáng tác trƣờng ca của Thanh 
Thảo chính là tƣ tƣởng về nhân dân, đất nƣớc, Tổ quốc. Những người đi tới 
biển đƣợc coi là bản anh hùng ca của thế hệ trẻ cầm súng trong cuộc kháng 
chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Góc nhìn nghệ thuật về chiến tranh trực tiếp từ 
chiến hào của cái tôi trải nghiệm của tác giả đã làm nên nét đặc sắc thẩm mỹ 
của trƣờng ca này. Những ngọn sóng mặt trời là bản trƣờng ca liên hoàn bao 
gồm ba trƣờng ca Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ mùa xuân, Trẻ con ở 
Sơn Mỹ. Ở bản trƣờng ca này, Thanh Thảo tập trung khám phá và lý giải cội 
nguồn sức mạnh chiến thắng của dân tộc qua việc xây dựng thành công những 
hình tƣợng cụ thể có tính chất tiêu biểu cho sức mạnh quật cƣờng, sự trƣờng 
tồn, vĩnh hằng, bất diệt của quần chúng nhân dân. Đến các trƣờng ca viết sau 
chiến tranh nhƣ Khối vuông Rubích, Đêm trên cát và Trò chuyện với nhân vật 
của mình, một mặt tác giả vẫn tiếp tục mạch tƣ tƣởng nhận thức về lịch sử, 
nhƣng, trên một khía cạnh khác, tác giả đã thể hiện những nỗi băn khoăn, trăn 
trở về các vấn đề nhân sinh, thế sự cũng nhƣ vai trò của thơ ca trong đời sống 
con ngƣời. 
4. Về mặt nghệ thuật, các tác phẩm trƣờng ca của Thanh Thảo có thể 
quy về hai dạng kết cấu lớn đó là: thứ nhất, các tác phẩm kết cấu theo sự kiện 
và tuyến sự kiện nhƣ ở Những người đi tới biển, Những ngọn sóng mặt trời; 
thứ hai, các tác phẩm kết cấu theo mạch cảm xúc và tâm trạng bao gồm: Đêm 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  109
trên cát, Khối vuông Rubich, Trò chuyện với nhân vật của mình. Tuy nhiên, ở 
mỗi trƣờng ca cụ thể, Thanh Thảo lại có cách tổ chức rất riêng không trùng lặp 
tạo ra sự mới mẻ cho các trƣờng ca của anh. Ngay trong các tác phẩm thuộc một 
trong hai kiểu kết cấu trên thì ta vẫn bắt gặp sự đan xen, hòa quyện giữa mạch sự 
kiện, tính chất “chuyện” dƣới sự dẫn dắt của mạch cảm xúc, cái tôi trữ tình hóa 
thân của tác giả. Điều đó làm nên sự thống nhất trong mạch nguồn phát triển 
trong mỗi tác phẩm đồng thời thể hiện đầy đủ dấu ấn cá nhân của tác giả. 
5. Thanh Thảo đã sáng tạo một hệ thống biểu tƣợng đặc sắc có sức gợi 
cao góp phần thể hiện nổi bật tƣ tƣởng thẩm mỹ về nhân dân, dân tộc, đất 
nƣớc trong các sáng tác trƣờng ca của anh nhƣ: sóng, cỏ, mặt đất, cát, lửa, 
mặt trời… 
Hệ biểu tƣợng sóng, cát và mặt đất có ý nghĩa biểu trƣng cho sức mạnh 
tiềm ẩn, sức mạnh vô địch và sự trƣờng tồn, bất diệt của quần chúng nhân 
dân. Và hệ biểu tƣợng cỏ, lửa lại mang ý nghĩa biểu trƣng cho sức mạnh bền 
bỉ và ý chí chiến thắng của thế hệ trẻ. Việc sáng tạo và sử dụng thành công 
hai hệ biểu tƣợng này không chỉ góp phần thể hiện sâu sắc tƣ tƣởng về nhân 
dân, về sứ mệnh lịch sử của thế hệ những ngƣời lính trẻ trong trƣờng ca mà 
còn đánh dấu sự đóng góp của Thanh Thảo trên con đƣờng cách tân thơ ca nói 
chung, thể loại trƣờng ca nói riêng. 
6. Khi đang viết những lời kết luận của luận văn này, tôi đƣợc biết Thanh 
Thảo vừa cho ra mắt một trƣờng ca mới viết về Trƣờng Sơn những năm đánh 
Mỹ có tên Metro. Trƣờng ca đƣợc cấu trúc theo hai chiều đồng hiện về quá khứ 
và tƣơng lai. Đối với Thanh Thảo, những giá trị tinh thần cao cả của một thời 
vẫn là nguồn năng lƣợng không bao giờ vơi cạn của trƣờng ca. Thanh Thảo viết 
trƣờng ca hiện nay với cấu trúc hoàn toàn khác trƣớc, nhƣng những tác phẩm 
trƣờng ca đầu tay của anh Những người đi tới biển và Những ngọn sóng mặt trời 
trƣớc sau vẫn là mẫu mực cổ điển của thể loại thơ ca Việt Nam hiện đại. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  110
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Tuấn Anh (1998), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1045 – 1995, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nôi. 
 2. Vũ Tuấn Anh (1999), “Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và 
thẩm định”, Những vấn đề Lý luận và lịch sử văn học, tài liệu Viện VH. 
 3. Lại Nguyên Ân (1975), “Mấy suy nghĩ về thể loại trƣờng ca”, Tạp 
chí văn học số 4. 
 4. Lại Nguyên Ân (1980), “Vấn đề thể loại sử thi của văn học hiện 
đại”, Tạp chí văn học số 1. 
 5. Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp về trƣờng ca”, Tạp chí văn học số 1. 
 6. Lại Nguyên Ân (1984), “Thể trƣờng ca gần đây”, Văn học và phê 
bình, Nxb Tác phẩm mới. 
 7. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 
8 – Một nền sử thi hiện đại”, Tạp chí văn học số 5. 
 8. Lại Nguyên Ân (1987), “Nội dung thể tài và sự phát triển thể loại 
trong nền văn học mới”, Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội. 
 9. Lại Nguyên Ân (1998), Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh 
Thảo, Nxb VH. 
 10. Thu Bồn (1986), Người vắt sữa bầu trời, Nxb Trẻ, TP HCM. 
 11. Thu Bồn (2003), “Bài ca chim chơ rao”, Thu Bồn – thơ và trường 
ca, Nxb Đà Nẵng. 
12. Thu Bồn (2003), “Ba dan khát”, Thu Bồn – thơ và trường ca, Nxb 
Đà nẵng. 
 13. Thu Bồn (2003), “Oran bảy sáu ngọn”, Thu Bồn – thơ và trường 
ca, Nxb Đà nẵng. 
14. Hồng Diệu (1981), “Thêm vài ý nghĩ”, Văn nghệ quân đội số 2. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  111
 15. Phạm Tiến Duật (1980), “Nhân bàn về trƣờng ca đôi điều nghĩ về 
hình thức”, Văn nghệ quân đội tháng 12. 
16. Nguyễn Khoa Điềm (1977), “Mặt đƣờng khát vọng” , Tuyển tập 
trường ca, Nxb Quân đội, Hà Nội. 
17. Nguyễn Đăng Điệp(2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn 
học, Hà Nội. 
18. Nguyễn Đỗ (1995), “Không đề Thanh Thảo”, Ngón thứ sáu của 
bàn tay, Nxb Đà Nẵng. 
 19. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb 
Văn học, Hà Nội. 
 20. Phan Ngọc Cảnh (1980), “Trƣờng ca và ngƣời viết trƣờng ca”, Tạp 
chí văn nghệ quân đội (11). 
 21. N.V. Gôgôl (1971), Những linh hồn chết, Về trƣờng ca vĩ đại của 
N.V. Googôl (bài giới thiệu của X.Maisxkin), Nxb Văn học thiếu nhi, M 
(sách tiếng Nga). 
22. Nguyễn Việt Chiến (2007), “Thanh Thảo còn những bài thơ nhỏ”, Tạp 
chí Sông Trà (20) 
 23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật 
ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, Hà Nội. 
 24. Đông Hải (1999), “Khối vuông Rubic và hình tƣợng tƣ duy thơ 
Thanh Thảo”, Tạp chí văn nghệ Quảng Ngãi- Xuân Kỷ Mão. 
25. Lê Thị Hồng Hạnh (2008), Biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn 
Huy Thiệp, ĐHSP HN. 
 26. Trần Mạnh Hảo (1994), Đất nước hình tia chíp, Nxb Quân đội 
nhân dân, 
27. TrÇn M¹nh H¶o (1980), Vµi ý nghÜ nhá, T¹p chÝ V¨n nghÖ qu©n ®éi(11), 
tr.123- 125. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  112
 28. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ Việt Nam hiện đại, Nxb 
Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
29. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2006), Tìm hiểu những nhân tố tác động 
tới ý nghĩa của biểu tượng, TCNN số 10. 
 30. Phạm Hổ (1981), “Ngƣời lính trong “Trường ca sư đoàn””, Báo 
văn nghệ. 
 31. Sử Hồng và Trần Đăng Suyền (1981), “Hình tƣợng nhân dân trong 
“Những ngọn sóng mặt trời”, Báo Văn nghệ. 
 32. Hê ghen (1999), Mỹ học, Nxb Văn học. 
 33. Nguyễn Thu Hƣơng (2002), Một số trường ca tiêu biểu về cuộc 
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Luận văn thạc sỹ ĐHSP HN. 
34. Hoàng Ngọc Hiến (1981), “Những nét độc đáo và nét loại hình của 
“Bài ca chàng Đam San” nhƣ là một tác phẩm anh hùng ca”, Tạp chí Dân 
Tộc học số 1. 
35. Hoàng Ngọc Hiến (1981), “Về đặc trƣng của trƣờng ca”, Tạp chí 
văn học số 3. 
36. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng thể loại, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội. 
37. Kormilôv.X.I (2001), Từ điển bách khoa văn học thuật ngữ và khái 
niệm, Matxcova, “Intelvak”. 
38. Nguyễn Thụy Kha (1999), Thanh Thảo, người lính, những khúc ca 
lính Việt- Lời quê góp nhặt, Nxb Hội nhà văn. 
39. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trƣờng ca sử thi của Hê – 
ghen đến trƣờng ca hiện đại của ta”, Tạp chí văn học số 6. 
40. Nguyễn Văn Khỏa (1978), Anh hùng ca của Homerơ, Nxb Đại học 
và Trung học chuyên nghiệp. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  113
41. Khrapchenkô. M.B (1984), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự 
phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 
42. Khrapchenkô. M.B (91984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con 
người, tập I, II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
43. Mã Giang Lân (1982), “Trƣờng ca vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn 
học số 6. 
44. Mã Giang Lân (2003), Văn học Việt Nam 1945 – 1954, Nxb Giáo 
dục, HN. 
45. Nguyễn Văn Long (1977), “Hƣớng đi của một số nhà thơ”, Báo 
Văn nghệ số 539. 
 46. Nguyễn Văn Long (chủ biên – 2000), Giảng văn văn học Việt Nam, 
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
 47. Nguyễn Văn Long(2002), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam 
sau Cách mạng tháng Tám, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
 48. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1985), Lý luận 
văn học tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
 49. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1986), Lý luận 
văn học tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
 50. Nicôlai –Niculin (1985), “Văn học của một dân tộc chiến thắng”, 
Báo Văn nghệ số 38. 
 51. Anh Ngọc (1988), “Hãy đƣa tôi một tƣ tƣởng”, Văn nghệ quân đội 
số 12. 
52. Anh Ngọc (1988), Sông Mê Kông bốn mặt, Nxb Văn nghệ. 
53. Anh Ngọc (1983), Điệp khúc vô danh, Nxb Quân đội nhân dân. 
54. Hoàng Kim Ngọc (1977), Những đóng góp của các nhà thơ trẻ thời 
kỳ chống Mỹ, Luận văn thạc sỹ, trƣờng ĐHSP HN. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  114
55. Nguyễn Lƣơng Ngọc (1962), Mấy vấn đề về nguyên lý văn học, tập 
1, Nxb Giáo dục Hà Nội. 
56. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1968), Thơ ca Việt Nam – Hình 
thức và thể loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
57. Bùi Văn Nguyên (1975), “Vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ trong 
trƣờng ca Tây Nguyên”, Tạp chí Văn học. 
58. Lã Nguyên (1971), Diện mạo văn học Việt Nam 1945 – 1975 (nhìn 
từ góc độ thi pháp thể loại), 50 năm văn học Việt Nam sa Cách mạng tháng 
Tám, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
59. Nhiều tác giả (1971), Lý luận văn học tập I, II, III. Sách ĐHSP, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
60. Nhiều tác giả (1972), Mười năm văn học chống Mỹ, Nxb Giải Phóng. 
61. Nhiều tác giả (1978), Từ điển Văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội. 
62. Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
63. Nhiều tác giả (1982), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã 
hội, HN. 
64. Nhiều tác giả (1982), Mười nhà thơ lớn của thế kỷ, Nxb Tác Phẩm 
mới, Hà Nội. 
65. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã 
hội, Hà Nội. 
66. Nhiều tác giả (1984), Chiến trường sống và viết tập 2, Nxb Tác 
Phẩm mới Hà Nội. 
67. Nhiều tác giả (1996), Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách 
mạng tháng Tám, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
68. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc 
gia, Hà Nội. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  115
69. Thiếu Mai (1980), “Hữu Thỉnh trên đƣờng tới thành phố”, Văn 
nghệ Quân đội tập 12. 
70. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo thơ và Trƣờng ca”, Tạp chí văn 
học tập 2. 
71. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb 
Tác phẩm mới, Hà Nội. 
72. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật 
của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
73. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vƣơng Trí Nhàn, Trần Đình 
Sử, Ngô Thảo (1987), Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội. 
74. Nguyễn Đức Mậu (1978), Trường ca sư đoàn, Nxb Quân đội 
nhân dân. 
75. Lê Thị Mây (2003), Lửa mùa hong áo, Nxb Quân đội nhân dân. 
76. Lƣu Oanh (1995), Cái tôi trữ tình trong thơ ca giai đoạn 1975- 
1990, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
77. Vũ Đức Phúc (1982), “Chung quanh vấn đề trƣờng ca”, Tạp chí 
văn học (6). 
78. Nguyễn Bình Phƣơng (1986), Đổ bóng xuống mặt trời, báo Văn 
nghệ CA (10). 
79. Nguyễn Đức Quyền (1980), Những vẻ đẹp thơ, Nxb Hôi VHNT 
Nghĩa Bình. 
80. Từ Sơn (1981), “Về khái niệm trƣờng ca”, Văn nghệ quân đội số1. 
81. Chu Văn Sơn (1981), Thanh Thảo, nghĩa khí và cách tân, Nhà Văn, 
tập 12. 
82. Trần Đăng Suyền (2004), Nhà văn- Hiện thực đời sống và cá tính 
sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội . 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  116
83. Vũ Văn Sỹ (2001), “Sự biến đổi của thể loại thơ từ sau 1975”- 
Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
84.Vũ Văn Sỹ (2003), “Thời nở rộ trƣờng ca, một hiện tƣợng s¸ng tạo 
thể loại”, Tạp chí Văn nghệ 
85. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt 
Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 
86. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chương cảm và luận. Nxb Văn hóa 
thông tin, Hà Nội 
87. Thanh Thảo (1982), Những nghĩa sỹ Cần Giuộc, Nxb Văn nghệ TP 
HCM. 
88. Thanh Thảo (1985), Khối vuông Rubich, Nxb Tác phẩm mới, 
Hà Nội. 
89. Thanh Thảo (1997), Trẻ con ở Sơn Mỹ, Nxb Văn học, Hà Nội. 
90. Thanh Thảo (2000), Bùng nổ mùa xuân, Sở Văn hóa Thông tin 
Quảng Ngãi. 
91. Thanh Thảo (2002), Trò chuyện với nhân vật của mình, Nxb Quân 
đội nhân dân, Hà Nội. 
92. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, Nxb Khoa học và xã hội, 
Hà Nội. 
93. Hữu Thỉnh (1980), Vài suy nghĩ về thể loại trường ca, Văn nghệ 
Quân đội nhân dân tập 12. 
94. Hữu Thỉnh (1996), Trường ca biển, Nxb Quân đội nhân dân. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  117
MỤC LỤC 
Trang 
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1 
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................... 2 
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 3 
2.1. Những ý kiến về thơ Thanh Thảo nói chung ...................................... 3 
2.2. Những ý kiến riêng về trường ca Thanh Thảo ................................... 5 
3. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................................. 7 
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................. 7 
5. Phƣơng pháp và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 7 
5.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................. 7 
5.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 8 
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................... 8 
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 8 
NỘI DUNG .................................................................................................... 9 
CHƢƠNG 1 ................................................................................................... 9 
HIỆN TƢỢNG TRƢỜNG CA VÀ TRƢỜNG CA ......................................... 9 
CỦA THANH THẢO .................................................................................... 9 
1.1. Sơ lƣợc về thể loại trƣờng ca .............................................................................. 9 
1.1.1. Về nội hàm khái niệm “trường ca” ................................................ 9 
1.1.2. Khái niệm trường ca và một số ý kiến về trường ca trong văn học 
Việt Nam hiện đại .................................................................................. 11 
1.2. Hiện tƣợng sáng tạo trƣờng ca trong văn học Việt Nam hiện đại .................. 14 
1.2.1. Những tiền đề lịch sử và văn học của trường ca .......................... 15 
1.2.1.1. Tiền đề lịch sử ........................................................................... 15 
1.2.2. Tiền đề văn học ............................................................................ 16 
1.2.2. Về các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại 19 
1.2.3. Đặc điểm thẩm mỹ của trường ca Việt Nam hiện đại ................... 23 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  118
1.2.3.1. Về nội dung .............................................................................. 23 
1.2.3.2. Về kết cấu ................................................................................. 26 
1.3. Thơ trƣ̃ tình và trƣờng ca của Thanh Thảo ...................................................... 28 
1.3.1. Thơ trữ tình của Thanh Thảo ....................................................... 28 
1.3.2. Trƣờng ca Thanh Thảo................................................................................... 34 
CHƢƠNG 2 ................................................................................................. 37 
TƢ TƢỞNG THẨM MỸ TRONG TRƢỜNG CA ....................................... 37 
CỦA THANH THẢO .................................................................................. 37 
2.1. Tƣ tƣởng thẩm mỹ, tứ thơ lớn của trƣờng ca ................................................... 37 
2.2. Những người đi tới biển hay sứ mệnh lịch sử của thế hệ trẻ cầm súng ......... 40 
2.3. Những ngọn sóng mặt trời, biểu tƣợng kết tinh của tƣ tƣởng nhân dân ........ 50 
2.4. Niềm trăn trở thế sự trong các tác phẩm trƣờng ca Thanh Thảo viết sau chiến 
tranh ........................................................................................................................... 61 
CHƢƠNG 3 ................................................................................................. 72 
ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT .................................................................... 72 
3.1. Kết cấu trƣờng ca của Thanh Thảo .................................................................. 72 
3.1.1. Kiểu kết cấu theo sự kiện và tuyến sự kiện ................................... 75 
3.1.2. Kiểu kết cấu theo mạch cảm xúc và tâm trạng ............................. 82 
3.2. Biểu tƣợng .......................................................................................................... 87 
3.2.1. Hệ biểu tượng sóng, cát và mặt đất– sức mạnh tiềm ẩn của quần 
chúng nhân dân ..................................................................................... 89 
3.2.2. Hệ biểu tượng cỏ, lửa - sức mạnh bền bỉ và ý chí tất thắng của cái 
tôi thế hệ ................................................................................................ 95 
3.3. Giọng điệu ........................................................................................................ 100 
KẾT LUẬN ................................................................................................ 107 
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  119
 LỜI CẢM ƠN 
 Với tấm lòng thành kính, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình 
với PGS.TS. Vũ Văn Sỹ - ngƣời thầy hƣớng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo, 
hƣớng dẫn tôi thực hiện luận văn này. 
 Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa 
Sau đại học – trƣờng Đại học sƣ phạm Thái nguyên, các thầy giáo trƣờng Đại 
học sƣ phạm I Hà Nội, các thầy cô giáo Viện Văn học đã dạy bảo và tạo điều 
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu luận văn này. 
 Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới trƣờng THPT Dƣơng Tự Minh, 
Thái Nguyên, các đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã luôn cổ vũ, động viên 
tôi trong suốt quá trình học tập. 
Xin trân trọng cảm ơn ! 
Thái Nguyên ngày 30 - 9 – 2009 
Tác giả 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
5.pdf