Đề tài: TRƯỜNG CA THANH THẢO
Luận văn dài 119 trang
CHƯƠNG 1 . 9
HIỆN TƯỢNG TRƯỜNG CA VÀ TRƯỜNG CA . 9
CỦA THANH THẢO 9
1.1. Sơ lược về thể loại trường ca 9
1.1.1. Về nội hàm khái niệm “trường ca” 9
1.1.2. Khái niệm trường ca và một số ý kiến về trường ca trong văn học
Việt Nam hiện đại 11
1.2. Hiện tượng sáng tạo trường ca trong văn học Việt Nam hiện đại 14
1.2.1. Những tiền đề lịch sử và văn học của trường ca 15
1.2.1.1. Tiền đề lịch sử . 15
1.2.2. Tiền đề văn học 16
1.2.2. Về các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại 19
1.2.3. Đặc điểm thẩm mỹ của trường ca Việt Nam hiện đại . 23
1.2.3.1. Về nội dung 23
1.2.3.2. Về kết cấu . 26
1.3. Thơ trữ tinh va trương ca cua Thanh Thao 28
1.3.1. Thơ trư tinh cua Thanh Thao . 28
1.3.2. Trường ca Thanh Thảo . 34
CHƯƠNG 2 . 37
TƯ TƯỞNG THẨM MỸ TRONG TRƯỜNG CA . 37
CỦA THANH THẢO 37
2.1. Tư tưởng thẩm mỹ, tứ thơ lớn của trường ca . 37
2.2. Những người đi tới biển hay sứ mệnh lịch sử của thế hệ trẻ cầm súng . 40
2.3. Những ngọn sóng mặt trời, biểu tượng kết tinh của tư tưởng nhân dân 50
2.4. Niềm trăn trở thế sự trong các tác phẩm trường ca Thanh Thảo viết sau chiến
tranh . 61
CHƯƠNG 3 . 72
ĐẶC TRƯNG NGHỆ THUẬT 72
3.1. Kết cấu trường ca của Thanh Thảo 72
3.1.1. Kiểu kết cấu theo sự kiện và tuyến sự kiện . 75
3.1.2. Kiểu kết cấu theo mạch cảm xúc và tâm trạng . 82
3.2. Biểu tượng 87
3.2.1. Hệ biểu tượng sóng, cát và mặt đất– sức mạnh tiềm ẩn của quần
chúng nhân dân . 89
3.2.2. Hệ biểu tượng cỏ, lửa - sức mạnh bền bỉ và ý chí tất thắng của cái
tôi thế hệ 95
3.3. Giọng điệu 100
119 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2427 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Trường ca Thanh Thảo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a rộng nhất, biểu
tượng (symbol) là một loại tín hiệu mà mặt hình thức cảm tính (tồn tại trong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88
hiện thực khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người: cái biểu
trưng) và mặt ý nghĩa (cái được biểu trưng) mang tính có lí do, tính tất
yếu”[28,3].
Mối quan hệ mang tính có lí do, tính tất yếu giữa hai mặt của biểu
tƣợng, chính là điểm chủ yếu để phân biệt biểu tƣợng với dấu hiệu, kí hiệu.
Các tác giả “Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới” đã chỉ ra rất đúng rằng:
“Biểu tƣợng cơ bản khác với dấu hiệu là một qui ƣớc tuỳ tiện trong đó cái
biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt (khách thể hay chủ thể) vẫn xa lạ với nhau,
trong khi biểu tượng giả định có sự đồng chất giữa cái biểu đạt và cái được
biểu đạt theo nghĩa một lực năng động tổ chức”. Gilbert Durand cũng khẳng
định: “biểu tượng rộng lớn hơn cái ý nghĩa được gán cho nó một cách nhân
tạo, nó có một sức vang cốt yếu và tự sinh”. Mặt khác, biểu tượng luôn
mang tính đa trị, “chỉ một cái biểu đạt giúp ta nhận thức ra nhiều cái đƣợc
biểu đạt, hoặc giản đơn hơn…cái đƣợc biểu đạt dồi dào hơn cái biểu đạt”,
hay nói cách khác, ở đây có sự “không thích hợp giữa tồn tại và hình
thức…sự ứ tràn của nội dung ra ngoài hình thức biểu đạt của nó”. Biểu
tƣợng luôn rộng lớn hơn với ý nghĩa đƣợc gán cho một cách nhân tạo, nó có
sức sống cốt yếu và tự sinh.
Biểu tƣợng là một phƣơng diện tạo hình và biểu đạt có tính đa nghĩa
trong văn học. Giữa biểu tƣợng và hình tƣợng có mối quan hệ tƣơng hỗ. Mỗi
biểu tƣợng văn học sẽ là một hình tƣợng nếu ở hình tƣợng hiện diện một ý
nghĩa nào đó tuy hòa vào hình tƣợng nhƣng không đồng nhất hoàn toàn với
hình tƣợng. Vì vậy, con đƣờng giải mã biểu tƣợng trong tác phẩm văn học sẽ
phải đi từ chính ngôn từ, kết cấu, các thủ pháp,… để tìm ra cái ẩn chìm đằng
sau những hình tƣợng có nguồn gốc từ biểu tƣợng.
Thanh Thảo thuộc thế hệ những nhà thơ trẻ trƣởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ có ý thức cao trong việc xây dựng các biểu tƣợng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89
nhằm thể hiện tƣ tƣởng thẩm mỹ của mình. Với riêng trƣờng ca, có thể nói
Thanh Thảo đã xây dựng cả một hệ biểu tƣợng thể hiện thành công những
phạm trù ý nghĩa có tính khái quát, trừu tƣợng cao.
Trong trƣờng ca của Thanh Thảo ta bắt gặp rất nhiều những hình ảnh
lặp đi lặp lại, mang ý nghĩa biểu trƣng cao nhƣ: cỏ, sóng, đất, cát, lửa, mặt
trời…Những hình ảnh này chính là các biểu tƣợng kết tinh tƣ tƣởng thẩm mỹ
trong trƣờng ca Thanh Thảo.
Nghiên cứu trƣờng ca Việt Nam nói chung, trƣờng ca Thanh Thảo nói
riêng, ta bắt gặp rất nhiều những biểu tƣợng mang ý nghĩa ám dụ cao. Với
trƣờng ca Thanh Thảo, ở đây luận văn cũng chỉ đi sâu vào tìm hiểu những
biểu tƣợng mang tính nổi trội với tần số xuất hiện cao và khơi gợi đƣợc nhiều
tầng ý nghĩa trừu tƣợng khái quát. Có thể kể đến một số biểu tƣợng nhƣ vậy
trong trƣờng ca Thanh Thảo là: Sóng, biển, mặt đất, cỏ, lửa, cát,…
3.2.1. Hệ biểu tượng sóng, cát và mặt đất– sức mạnh tiềm ẩn của
quần chúng nhân dân
Trƣớc hết, Sóng đƣợc xem là biểu tƣợng cho sức mạnh tiềm ẩn, quật
cƣờng của quần chúng nhân dân trong trƣờng ca của Thanh Thảo bởi lẽ nó
đƣợc tác giả lặp đi lặp lại nhiều lần thành một ám ảnh. Không chỉ có vậy,
đằng sau hình thức lặp lại đó là những tầng sâu ý nghĩa có sức gợi mạnh mẽ
mà phải đi vào tác phẩm cụ thể, với những biểu hiện sinh động trong sự kết
hợp với các hình ảnh, tâm trạng khác nhau nó mới biểu hiện đầy đủ đời sống
phong phú, đa dạng của mình.
Tƣ tƣởng về nhân dân, đất nƣớc là tƣ tƣởng chủ đạo chi phối toàn bộ
những sáng tác trƣờng ca của Thanh Thảo. Khi viết về quần chúng nhân dân,
Thanh Thảo luôn dành một tình cảm đặc biệt. Anh đã sáng tạo và sử dụng
biểu tƣợng sóng nhƣ một biểu tƣợng tiêu biểu cho sức mạnh, ý chí kiên cƣờng
của quần chúng nhân dân. Không phải ngẫu nhiên mà Thanh Thảo lại đặt tên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90
cho hai trƣờng ca đồ sộ của mình là Những người đi tới biển và Những ngọn
sóng mặt trời.
Trƣớc hết tâm hồn phóng khoáng của anh rất thích liên tƣởng đến sóng.
Cơ man nào là sóng! Sóng cứ lừng lững, lừng lững hiện ra không phải lẻ loi,
đơn độc từng ngọn mà thƣờng là ngàn con sóng, những đợt sóng, lớp lớp
sóng. Hết “muôn đợt sóng vỗ vào bờ cát” lại đến “những ngọn sóng ngƣợc
chiều xô xát mãi” rồi lại đến “những đợt sóng đột ngột trào lên”…Những
ngọn sóng mặt trời là nơi thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu trƣng của sóng:
sóng gần đó nhƣng vừa hữu hình vừa vô hình, nhìn thấy mà không dễ nắm
bắt, mất đi rồi lại tái sinh:
Đã bao lần xuống biển lên trời rồi trở lại,
Đã cháy khô tới giọt cuối cùng
Mà trong như thể trong nguồn
Tràn trề như thể chưa từng cạn vơi
Dò tận đáy cũng xong thôi
Nhưng vô ích. Sóng có đời nào yên
Ngàn con sóng chết cuối đêm
Sinh ngàn con sóng trước thềm rạng Đông
Đẩy thuyền lật thuyền dễ không
Mát mềm mài đá đã mòn thấu xương.
Mạch thơ dâng trào cảm xúc say mê của tác giả khi viết về sóng, về sự
bất diệt trƣờng tồn. Sóng ở đây chính là biểu tƣợng cho nhân dân, cho sự
trƣờng tồn, vĩnh hằng, bất diệt của nhân dân. Sức mạnh tiềm ẩn của sóng cũng
giống nhƣ sức mạnh tiềm tàng ẩn chứa trong bề sâu lịch sử của nhân dân.
Sóng còn là biểu tƣợng cho sức mạnh trào dâng, sức mạnh nhấn chìm,
sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân trƣớc kẻ thù. Ngọn sóng chính là
biểu tƣợng dữ dội cho lòng yêu nƣớc của nhân dân ta:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91
Cơn bão đã trở lại
Không cãi vã
Không ngập ngừng
Từ biển và từ núi
Những ngọn sóng mặt trời
Chúng ta đi
Cơn bão quyét những vùng tối tăm trên mặt đất
Người đứng dậy bàn tay nắm chặt một hai…đi một hai…
(Bùng nổ mùa xuân)
Thông qua biểu tƣợng sóng để nói lên sức mạnh và ý chí căm hờn của
quần chúng nhân dân ta còn bắt gặp lối xây dựng của Nguyễn Khoa Điềm:
Đất nước
Đang gầm lên trong sóng gió đất trời
Hàng chục triệu thước khối nước đang lao vào mặt đất
(Mặt đường khát vọng)
Sức mạnh lớn lao của nhân dân không chỉ tồn tại trong không gian mà
còn tồn tại suốt chiểu dài lịch sử qua các thời đại. “bằng hình tượng sóng,
Thanh Thảo chẳng những nói lên được hình thái thể hiện sức mạnh khôn
cùng của nhân dân qua đó gửi gắm niềm tin vô bờ vào họ” [ 30,4]
Những lớp sóng là những ngƣời nghĩa sĩ Cẩn Giuộc, là những ngƣời
du kích Ba Tơ, là những con ngƣời vô danh hay hữu danh nhƣng anh hùng
đã góp phần máu xƣơng của mình làm nên chiến thắng viết nên những trang
sử hào hùng, oanh liệt của dân tộc. Trân trọng, biết ơn và với tấm lòng thành
kính trƣớc sự hy sinh cao cả đó của nhân dân, Thanh Thảo đã tạc nên một
bức tƣợng đài “sóng” sừng sững hiên ngang giữa đất trời với những chất
liệu đặc biệt:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92
Bùn và máu
Dựng ngọn sóng ngang trời bằng đá trắng
Đêm đêm trên đỉnh sóng bập bùng lửa đuốc
(Những ngọn sóng mặt trời )
Ngay nhan đề bản trƣờng ca Những ngọn sóng mặt trời chúng ta đã
thấy tính chất biểu tƣợng giàu sức khái quát của hình ảnh sóng. Những ngọn
sóng ấy không phải là sóng bình thƣờng mà là những ngọn sóng nóng bỏng
của lòng quyết tâm sự bền bỉ, sức mạnh vĩnh hằng của quần chúng nhân dân:
Không ngập ngừng
Từ biển và từ núi
Những ngọn sóng mặt trời
…
Những con sóng cuộn lên bờ đời sống
Chói trang mặt trời.
(Những ngọn sóng mặt trời )
Từ hình ảnh ngọn sóng tự nhiên mang trong mình năng lƣợng của biển
cả, ngày đêm ru ta bài ca không nghỉ, Thanh Thảo đã thành công khi xây
dựng sóng thành biểu tƣợng mang ý nghĩa sâu xa, giàu chất triết luận về sức
mạnh tiềm ẩn, vĩnh hằng, bất diệt, vô địch của quần chúng nhân dân.
Tƣ tƣởng về nhân dân mất nƣớc còn đƣợc Thanh Thảo thể hiện sâu sắc
qua hình ảnh mặt đất. Mặt đất vốn hiền hòa, là nơi bắt nguồn của sự sống con
ngƣời. Mặt đất vốn đƣợc coi là bà mẹ bao dung muôn đời của con ngƣời. Xây
dựng hình ảnh mặt đất thành biểu tƣợng có ý nghĩa ám chỉ sức mạnh, sự vững
bền của quần chúng nhân dân, Thanh Thảo đã đem đến những tầng sâu ý
nghĩa mới cho tƣợng trƣng này.
Trong trƣờng ca Những người đi tới biển Thanh Thảo đã xây dựng hình
ảnh đất để khái quát về sự bất tử của quần chúng nhân dân:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93
Đất nằm im như chết
Có bao giờ đất chết đâu anh.
Mặt đất bình yên, hiền hòa nhƣ bộ mặt nhân dân muôn đời giản dị
nhƣng luôn tiềm ẩn sức sống bất diệt.
Mặt đất quê hƣơng hay bà mẹ tinh thần thứ hai đã ấp ủ, nâng niu ý chí
khát vọng của con ngƣời:
Máu của đất
Giọt nước nào đã khởi sự đời ta.
Với Thanh Thảo, đất còn là biểu tƣợng cho sức mạnh vĩ đại bền bỉ, tấm
lòng thủy chung son sắc của quần chúng nhân dân:
Ta sống cùng nhân dân
Chết giữa nhân dân
Rất yên ổn mầm cây thở chìm trong đất
Đất mẹ hay nhân dân đã ôm bao ngƣời con vào lòng khi sống thì chở
che chăm sóc, lúc mất đi nhân dân là ngƣời tƣởng nhớ. Về với đất là về với
nhân dân để tái sinh một cuộc đời mới.
Trong tâm tƣởng của Thanh Thảo, mặt đất chính là tổ quốc chính là
nhân dân, mặt đất hóa thân vào những con ngƣời vô danh đã hiến dâng cả
cuộc đời cho đất đai xứ sở:
Đất nước đi hết thảy con người. Bóng họ tỏa mênh mang ngày
nắng gắt
Họ đi như gió, họ đứng như rừng
Lúc nằm xuống họ hóa thành mặt đất
Từ những gì vô danh, giản dị, đến những gì cao cả vĩ đại đều thuộc về
mặt đất. Mặt đất là nhân dân sinh ra mỗi con ngƣời, nuôi dƣỡng họ, khích lệ
động viên họ, thủy chung và gắn bó với họ. Để rồi khi những ngƣời con đó
trở về với đất, nhân dân hay là mặt đất trở thành nơi yên nghỉ vĩnh hằng. Mặt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94
đất hay chính là tổ quốc thiêng liêng vĩnh hằng không bao giờ chết. Mặt đất
chính là biểu tƣợng cho nhân dân, cho những gì quen thuộc, gần gũi, cho
những gì cao cả, vĩ đại, bất diệt.
Ngoài hình ảnh sóng, mặt đất thì cát cũng là yếu tố đƣợc Thanh Thảo
xây dựng thành biểu tƣợng có ý nghĩa tƣợng trƣng cao khi nói về nhân dân,
dân tộc, đất nƣớc.
Thanh Thảo không phải là ngƣời đầu tiên sử dụng hình ảnh cát với ý
nghĩa là một biểu tƣợng cho nhân dân. Các nhà thơ khác nhƣ Bằng Việt,
Nguyễn Duy đã xây dựng hình ảnh cát thành biểu tượng cho dòng chảy số
phận nhân dân.
Đến trƣờng ca của Thanh Thảo, cát là biểu tƣợng cho quê hƣơng gắn
bó, ruột thịt của con ngƣời:
Rồi bên dưới khối sương mù đặc cứng
Căn cứ lại bắt đầu di chuyển
Những người chìm xuống hầm sâu
Như nước thấm vào lòng cát
…
Những con thuyền thở dài trên cát trắng
Nghe da thịt nồng hơi biển mặn
(Trẻ con ở Sơn Mỹ )
Cát còn là biểu tƣợng của tuổi thơ với những thăng trầm gian khó mà
những em bé cũng nhƣ ngƣời dân Sơn Mỹ phải gánh chịu trong những năm
đau thƣơng của cả dân tộc:
Anh mở mắt trống trơn vùng cát
Nắng đổ lửa trời cao quay quắt
Làng cũ đâu những đường dừa mát xanh
Anh nhắm mắt thấy từng chùm trái ngọt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95
Những nấm cát gối đầu nấm cát
(Trẻ con ở Sơn Mỹ )
Cát là nơi ghi dấu ấn sự tồn tại cũng nhƣ những mất mát, hy sinh của
con ngƣời. Cát là nhân chứng đồng thời là nơi yên nghỉ vĩnh hằng cho những
cái chết oan khuất của trẻ thơ:
Cả mộ bia sóng biển tiếng trẻ cười
Những âm thanh nhiều năm vùi đất cát
Sẽ mọc lên bất chợt giữa ban ngày
Đồng một lúc rừng dương căng ngực hát
(Trẻ con ở Sơn Mỹ )
Cát vĩnh hằng bất diệt, cát là sự hóa thân của tƣơng lai tƣơng sáng. Cát
nâng đỡ chồi sống con ngƣời:
Tôi nhập cùng các em chạy dọc bãi xương rồng
Lại bắt gặp chân trời ngay trên cát
Cả người tôi hòa trong biển vô cùng
Có thể nói những hình ảnh sóng, mặt đất, cát là những biểu tƣợng
mang tính lý tƣởng hóa, kỳ vĩ về sức mạnh quật cƣờng cũng nhƣ sự trƣờng
tồn của tổ quốc, của nhân dân.
3.2.2. Hệ biểu tượng cỏ, lửa - sức mạnh bền bỉ và ý chí tất thắng của
cái tôi thế hệ
Trong thơ Thanh Thảo nói chung, cỏ là hình ảnh đƣợc nhắc lại nhiều
lần và nó đã trở thành biểu tƣợng cho sức mạnh và ý chí tất thắng cho cái tôi
thế hệ nhà thơ. Nếu nhƣ trong Dấu chân qua trảng cỏ hình ảnh cỏ gắn bó với
đau thƣơng máu lửa của chiến tranh thì đến Những người đi tới biển, cỏ chính
là biểu tƣợng cho sự bền bỉ, nhẫn nại của những con ngƣời lứa tuổi hai mƣơi,
ba mƣơi xanh màu áo lính:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96
Những dấu chân rồi lùi lại phÝa sau
Dấu chân in trên đời chúng tôi những tháng năm trẻ nhất
Mười tám hai mươi sắc như cỏ
Dày như cỏ
Yếu mềm và mãnh liệt như cỏ
(Những ngƣời đi tới biển )
Chƣa có nơi nào trong thơ hình ảnh cỏ lại giàu ý nghĩa biểu trƣng nhƣ
thế: cỏ bình dị, tƣơi tắn nhƣ lứa tuổi hai mƣơi; cỏ mãnh liệt yếu mềm nhƣng
dày dặn, gắn kết. Tất cả những ý nghĩa đó biểu trƣng cho lớp lớp thế hệ
thanh niên cùng gắn bó trên một chiến hào trong cuộc hành quân vĩ đại của
cả dân tộc.
Trên bƣớc đƣờng hành quân gian khổ, cỏ là nơi ngƣời chiến sỹ nghỉ
chân và ngẩn ngơ trƣớc vẻ đẹp của một cánh chim trời:
Chúng tôi không mệt đâu
Nhưng cỏ sắc mà ấm quá!
Tuổi hai mươi thằng em tôi sững sờ
Một cánh chim mảnh như nét vẽ
Mùi vị của cỏ hay mùi vị quê hƣơng đã làm nên sức mạnh tiếp bƣớc
những ngƣời cha, những ngƣời anh của thế hệ những chiến sỹ chống Mỹ:
Ngoài trảng tranh âm ấm nảy chồi
Cuối mùa khô đất đang hổi trở dạ
…
Phảng phất mùi cỏ cháy đống un.
Cỏ trong tâm tƣởng những ngƣời lính còn là yếu tố xóa đi nỗi đau, xóa
đi quá khứ đau thƣơng vì cỏ có sức sống bất diệt. Nhƣng ở đây cỏ không kịp
mọc, không thể xóa đi những nỗi đau cũ, chính vì thế cỏ nhắc nhở ý chí căm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97
thù, khắc ghi những nỗi đau để ngƣời du kích Ba Tơ vƣợt ngục trở về với
nhân dân tiếp tục chiến đấu:
Đáng lẽ cỏ đã xanh lối mòn thuở ấy
Cỏ không kịp mọc
Cỏ phải chết đi sống lại
Bao nhiêu là nước chảy
Trên dòng sông
Những khuôn mặt những cánh rừng những
Chỗ tối tăm những vùng sáng rỡ
Những khoảng trống không
(Bùng nổ mùa xuân)
Cỏ còn là giấc ru ca ôm ấp những ngƣời đã khuất:
Nhũng ngọn sóng màu xanh của đất
Tràn qua các mộ bia
(Trẻ con ở Sơn Mỹ)
Bằng “ẩn dụ cỏ” với hình ảnh vô cùng độc đáo “những ngọn sóng màu
xanh của đất”. Thanh Thảo đã “bình yên hóa”, xua đi những ấn tƣợng buồn
của chiến tranh để sự sống tiếp tục tồn tại và vƣơn lên theo quy luật tồn tại.
Sự hy sinh của những ngƣời lính, của nhân dân vì thế đƣợc bình yên.
Lửa là một biểu tƣợng văn hóa. Nó biểu trƣng cho các tầng ý nghĩa
nhƣ: sự gột rửa, tẩy uế, thần linh…Trong thơ ca cách mạng, ngọn lửa là biểu
tƣợng của ý chí, tinh thần yêu nƣớc. Trong một số trƣờng ca trƣớc và cùng
thời Thanh Thảo ngọn lửa còn mang ý nghĩa biểu trƣng cho sự tàn khốc của
chiến tranh cũng nhƣ ý chí chiến đấu, chiến thắng kẻ thù:
Những đỉnh núi xưa bừng ngọn lửa
Khói lên ngùn ngụt cháy trời mây
Lửa ta bay đốt loại dơi sắt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98
Đã rắc đau thương trên mảnh đất này
(Bài ca chim Chơ Rao – Thu Bồn)
Đến các trƣờng ca của Thanh Thảo, hình ảnh ngọn lửa xuất hiện dày
đặc và có ý nghĩa biểu trƣng đa dạng. Tầng nghĩa biểu trƣng đầu tiên: Ngọn
lửa chính là hiện thực trực tiếp, khốc liệt của chiến tranh:
Cả thành phố đã trở thành lò lửa
Thỉnh thoảng người ta trông thấy những người Nam Kỳ bị chặn
lại và tìm cách thoát khỏi đám cháy
(Cỏ vẫn mọc )
Không chỉ có vậy, ngọn lửa còn là biểu tƣợng cho ý chí kiên cƣờng của
ngƣời du kích Ba Tơ trong mong mỏi đƣợc về với nhân dân. Ngọn lửa ấy bắt
đầu từ số ít rồi truyền đi qua từng số phận:
Ngọn lửa
Một đêm thiêu dụi đồn Ba Tơ
Đã nén lại chiều sâu vào từng số phận
(Bùng nổ mùa xuân)
Ngọn lửa ấy trong tâm tƣởng ngƣời du kích Ba Tơ còn là niềm uất hận,
căm thù đối với bọn giặc xâm lƣợc. Trong những nhà giam tăm tối, những
con ngƣời đang bị kìm kẹp đã biến căm thù, uất hận thành sức mạnh phản
kháng thắp lên ánh lửa truyền đi trong đêm:
Ta nghe bàn tay gõ qua bức tường ngăn cách
Lời hứa hẹn câu chào vĩnh biệt
Những tín hiệu của lửa
Nhóm lên từ mỗi làn roi
(Bùng nổ mùa xuân)
Ngọn lửa còn là biểu tuîng cho sự chính nghĩa, đoàn kết để nhân dân
và những ngƣời du kích Ba Tơ đồng tâm đứng lên làm cách mạng: “Tự do sẽ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99
nói bằng lời ngọn lửa”. Ngọn lửa lan ra từ lòng quả cảm của mỗi con ngƣời,
của mỗi miền quê gan góc đã tạo thành dòng sông rực cháy xua tan đêm tối,
khổ đau kìm kẹp: “bỗng ngàn cánh tay vung ngàn ngọn đuốc màu nâu / dòng
sông lửa cháy dọc chiền đêm tối”.
Ngọn lửa còn là biểu tƣợng của lòng nhiệt huyết ý chí căm thù giặc, là
mạch ngầm chảy trong huyết quản mỗi con ngƣời tạo nên sự tiếc nuối của
những đoàn quân:
Tổ quốc
Một lần nữa xin hát tên Người
Lửa đã cháy trước đoàn quân Nam tiến
Giặc cuồng điên gây hấn
Và chúng tôi ba lô trên vai
Ngọn lửa còn chính là cội nguồn sức mạnh của chân lý và niềm tin: “và
im lặng mênh mang chính là tiếng nói/ và cội nguồn tiếng nói là ngọn lửa
nước rực cháy”
Ngọn lửa còn là biểu tƣợng cho tình đồng đội ấm áp keo sơn, sƣởi ấm
lòng những ngƣời chiến sỹ trên bƣớc đƣờng hành quân gian khổ:
Bài ca và ngọn lửa
Tôi đi giữa bàn tay hơi thở bạn đường
Không phải bó đuốc một trái tim riêng lẻ
Dắt ta qua rừng đêm
Những đớn đau mơ ước hy sinh
Không của riêng một trái tim nào nữa
Bài ca và ngọn lửa
Tôi đi trong ánh sáng mọi người.
(Những người đi tới biển )
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100
Nhƣ vậy, lửa hay ngọn lửa trong trƣờng ca Thanh Thảo vừa là biểu
tƣợng tƣợng trƣng cho ý chí căm thù giặc, nhiệt tình cách mạng vừa tƣợng
trƣng cho sức mạnh đoàn kết, sự sẻ chia, nghĩa tình của con ngƣời.
Thơ Thanh Thảo rất giàu chất sống, giàu hình tƣợng. Trong trƣờng ca
của anh bên cạnh việc sáng tạo hình tƣợng để phục vụ cho các tƣ tƣởng chủ
đề, Thanh Thảo còn chú ý xây dựng những hệ biểu tƣợng đa dạng, phong
phú về nhân dân, ý chí và sức mạnh quật cƣờng của quần chúng nhân dân;
về sức mạnh bền bỉ và niềm tin tất thắng của những ngƣời chiến sỹ cách
mạng. Trƣờng ca của anh vì thế có đƣợc chiều sâu của chất triết lý, suy
tƣởng. Trong khuôn khổ luận văn này chúng tôi chƣa thể đi sâu để chỉ ra,
phân tích và lý giải một cách toàn vẹn thế giới biểu tƣợng trong trƣờng ca
Thanh Thảo, song thiết nghĩ, qua việc phân tích hai hệ biểu tƣợng nổi bật
trên trong trƣờng ca Thanh Thảo đã giúp chúng ta phần nào nhận ra phong
cách viết trƣờng ca của anh.
3.3. Giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù quan trọng trong văn học. Nhờ giọng điệu
chúng ta nhận ra phong cách tác giả, nắm bắt đƣợc tƣ tƣởng, chủ đề của tác
phẩm. Chịu sự quy định của đặc trƣng thể loại, trƣờng ca Việt Nam hiện đại
mang trong mình rất nhiều “giọng” khác nhau, nói tiếng nói đa thanh của thế
hệ tác giả- những con ngƣời vừa cầm súng vừa cầm bút, đồng thời nói tiếng
nói của riêng tác giả- tâm hồn nhạy cảm trƣớc những vang vọng cuộc đời.
Nói về chất giọng của Thanh Thảo, nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo cho
rằng, trƣớc Thanh Thảo “giọng thơ trẻ ồn ào như mạch thác phía đầu nguồn,
thì đến Thanh Thảo dòng thơ lại lắng dấu trong nó một sức chảy ngầm của
quãng cuối dòng sông”. Có thể nói giọng điệu trong trƣờng ca của Thanh
Thảo chính là giọng điệu sử thi trầm tĩnh đầy trải nghiệm. Đi sâu vào từng tác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101
phẩm ta lại bắt gặp một giọng điệu đa thanh, vừa mang cảm hứng ngợi ca vừa
mang cảm hứng thế sự đầy triết lý, suy ngẫm.
Nổi bật hơn cả trong số các giọng điệu thƣờng gặp ở trên chính là giọng
điệu ngợi ca mang cảm hứng sử thi. Bởi lẽ, trƣờng ca hiện đại nói chung,
trƣờng ca Thanh Thảo nói riêng đều có xu hƣớng tổng kết, đánh giá, chiêm
nghiệm lại bƣớc đi của lịch sử, mà ở đó nổi bật lên là hình ảnh nhân dân, dân
tộc, những ngƣời con ƣu tú đã sống, chiến đấu với lớp lớp kẻ thù để gìn giữ
từng tấc đất của quê hƣơng, đất nƣớc. Chỉ có điều giọng ngợi ca của Thanh
Thảo không còn ồn ào nhƣ trong các trƣờng ca giai đoạn trƣớc. Ở anh, sự
ngợi ca cũng đi vào chiều sâu cảm xúc.
Thanh Thảo không chỉ là nhà thơ mà còn là một chiến sỹ. Anh cùng với
bao bạn bè cùng trang lứa đã xếp lại sách vở, từ giã trƣờng lớp, những kỳ
nghỉ hè để lên đƣờng vào Nam chiến đấu. Băng mình vào khói lửa chiến
tranh, tự mình nếm trải những gian nan thử thách, những hiểm nguy dƣới bom
đạn kẻ thù, cái nhìn của Thanh Thảo với cuộc chiến tranh không phải là cái
nhìn của ngƣời ngoài cuộc mà là cái nhìn trải nghiệm, cái nhìn hóa thân để rồi
bàn luận, phản ánh. Viết về tình đồng đội, quê hƣơng, tình yêu tổ quốc, về
những mất mát hy sinh, những khó khăn gian khổ…Trƣờng ca của anh luôn
có một giọng trầm tĩnh, suy tƣ, triết lý.
Viết về hiện thực chiến tranh, Thanh Thảo đã phơi bày một sự thật tàn
khốc bằng những lời thơ ngắn với cảm xúc ngậm ngùi:
Những năm
Một chiếc áo có thể sống lâu hơn một cuộc đời
Rồi tới lúc chúng con thay áo khác
Nhưng khi cởi áo ra
Con không còn gì thay được
(Những người đi tới biển)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102
Không còn cái hào hứng, sôi nổi, hồn nhiên nhƣ trong thơ Phạm Tiến
Duật, cái nhìn của ngƣời lính trong trƣờng ca Thanh Thảo trƣớc hiện thực
cuộc chiến, trƣớc sự dấn thân của mình là những tâm sự chân tình, những giãi
bày chứa chất sự suy tƣ.
Ở những câu thơ khác trong bản trƣờng ca về cuộc hành trình của cái
tôi thế hệ, đồng thời là của dân tộc từ những cánh rừng đi ra biển, ta cũng bắt
gặp giọng điệu trầm tĩnh ẩn chứa những tâm trạng sâu kín giữ dội:
Người ta không thể chọn để được sinh ra
Nhưng chúng tôi đã chọn cánh rừng phút giây năm tháng ấy
(Những người đi tới biển )
Nói về cuộc hành quân của thế hệ mình, sự lựa chọn cách sống của bản
thân cũng nhƣ những đồng đội, trƣờng ca Thanh Thảo có một giọng thật đặc
biệt: Không có những lời tuyên bố ồn ào mà chỉ lặng lẽ bày tỏ nhƣng nó đã
thể hiện cao độ ý chí, lòng quyết tâm nhận về sứ mệnh lịch sử trong cuộc đối
đầu với kẻ thù hung hãn của những ngƣời chiến sỹ:
Chúng tôi không thể chết vì hư danh
Không thể chết vì tiền bạc
Chúng tôi xa lạ với những tin tưởng điên cuồng
Những liều thân vô ích
Đất nước đẹp mênh mang
Đất nước thấm sâu xuống tận cùng xương thịt
Chỉ riêng Người chúng tôi dám chết
Rõ ràng sự lựa chọn: Gánh vác sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc trên
vai, những ngƣời lính thế hệ Thanh Thảo ý thức rõ việc làm của mình. Họ
hiểu rằng con đƣờng họ đi là chính nghĩa, con đƣờng đó có hy sinh có gian
khổ nhƣng họ vẫn chủ động lựa chọn và sẵn sàng hiến thân – một sự hiến thân
tỉnh táo, sự hiến thân biết trƣớc – cho dân tộc, cho tổ quốc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103
Trong không khí của ngày hội chiến thắng, khi cả dân tộc hân hoan
xuống đƣờng ca bài ca khải hoàn thì Thanh Thảo lại ngậm ngùi trƣớc sự hy
sinh của những ngƣời đồng đội trƣớc cöa ngõ chiến thắng:
Ngày dân tộc tụ về đường số 1
Lßng không nguôi thương những cánh rừng này
Nơi hàng vạn đứa con nằm lưng đèo cuối dốc
Dọc theo lối mòn chìm khuất dưới tầng cây
Nếu một ngày ta dựng những hàng bia
Xin hãy đề “nơi đây những cuộc đời chưa bao giờ yên nghỉ”
(Những người đi tới biển)
Những vần thơ của anh xuất phát từ tấm lòng thành kính, biết ơn đối
với những ngƣời đồng chí, đồng đội đã khuất. Những câu thơ dài nối tiếp
nhau nhƣ những giọt nƣớc mắt của ngƣời ở lại tƣởng nhớ về những ngƣời đã
khuất. Nói về ngày chiến thắng nhƣng giọng thơ Thanh Thảo là tiếng khóc
nghẹn ngào dấu trong một dáng vẻ điềm tĩnh.
Trƣớc sức mạnh của quần chúng nhân dân, trƣớc sự trƣờng tồn vĩnh
hằng của nhân dân, tổ quốc Thanh Thảo đã có những chiêm nghiệm thật sâu
sắc: Đất nằm yên như chết/ nhưng có bao giờ đất chết đâu anh.
Ngợi ca những ngƣời nghĩa sỹ Cần Giuộc dũng cảm, giọng thơ Thanh
Thảo cũng thể hiện một cách đầm lắng, thiết tha:
Một trăm hai mươi năm
Đất nước dài theo bàn chân các anh
Anh nước nhon trong mắt các anh
Chưa lúc nào ngớt bão
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104
Cảm thức về tổ quốc về dân tộc là tình cảm, là nhận thức về sự quan
trọng của tổ quốc, của nhân dân đối với ý nghĩa sự tồn tại của những ngƣời du
kích Ba Tơ cũng chính là những lời xuất phát tận sâu thẳm đáy lòng tác giả:
Tổ quốc ở trong tôi
Hơn những giấc mơ kỳ diệu nhất
Nếu phút nào tôi ở ngoài tổ quốc
Đó là điều bất hạnh của đời tôi
Này đây vàng bạc này đây nhà cửa
Và máu những nợ nần
Những nỗi đau và khoảng sáng hồn tôi chân thực
Tất cả thuộc về người
(Bùng nổ mùa xuân)
Tổ quốc là lẽ sống! Tuyên ngôn ấy thể hiện cảm xúc chân thành thấm
đẫm chất sâu lắng trầm tƣ. Tổ quốc là hiện thân cho sự đầy đủ, cho vinh
quang và cho cả những mất mát hy sinh, nỗi đau không thể bù đắp. Gƣơng
mặt tổ quốc sáng trong cao đẹp trong tâm hồn mỗi con ngƣời. Lời thơ nhƣ
thôi thúc, nhắc nhở mỗi cá nhân trƣớc trách nhiệm với dân tộc.
Viết về quá khứ hào hùng của dân tộc với tất cả những cung bậc tình
cảm của mình, cảm hứng ngợi ca trong trƣờng ca của Thanh Thảo đã đi vào
chiều sâu, giọng điệu trƣờng ca anh không còn ồn ào mà vô cùng điềm tĩnh
thể hiện cái nhìn dự cảm, sâu sắc.
Thể thơ cũng là một trong những yếu tố góp phần tạo nên giọng điệu
riêng của Thanh Thảo. Trƣờng ca Thanh Thảo thƣờng phối hợp sử dụng đan
xen nhiều thể thơ tạo ra những nhịp điệu khác nhau: Khi thì trầm, khi lại
bổng. Nhịp điệu đó khiến cho giọng điệu trƣờng ca của anh khi trầm lắng suy
tƣ, lúc lại cũng ồn ào tƣơi trẻ. Bên cạnh những câu thơ giàu chất hiện thực,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105
không câu nệ vào vần luật, phép tắc thể hiện những cung bậc tình cảm khi lên
bổng lúc xuống trầm của tác giả theo mạch cảm xúc hoặc sự kiện nhƣ:
Các anh những người trốn thuế
Các anh – dân lậu
Từ bỏ quê nhà xiêu tán lênh đênh
Như bèo dạt như mây trôi
Khuôn mặt buồn hơn câu hát
Câu hát buồn hơn đêm rừng sác hoang vu
(Những nghĩa sĩ Cần Giuộc)
Đồng thời anh cũng có những câu thơ giản dị, xinh xắn nhƣng gấp gáp
thúc giục:
Hãy tỉnh dậy
Chớ mộng du
Đừng khiếp sợ
Sống trên đời
Sông có khúc
Người có thời
Hết buồn khổ
Tới mừng vui
Hãy tỉnh dậy
Nào bạn ơi
(Đêm trên cát)
Càng về sau, trong các trƣờng ca viết về chủ đề thế sự, giọng điệu triết
lý lại đƣợc Thanh Thảo sử dụng nhiều. Ở những trƣờng ca viết sau chiến
tranh này, khi nỗi đau thời chiến tuy không còn thƣờng trực nhƣng con ngƣời
vẫn phải hằng ngày hằng giờ chèo chống với cuộc đời để mƣu sinh, tồn tại;
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106
những giá trị trƣớc kia chúng ta tôn thờ nay cũng đã dần dần bị thay đổi thì
giọng điệu triết lý thể hiện sự trăn trở suy tƣ đã trở thành giọng điệu chủ yếu
trong trƣờng ca Thanh Thảo.
Bằng giọng thơ trầm lắng, chất chứa những ƣu tƣ, Thanh Thảo đã hóa
thân vào nhân vật Nguyễn Đình Chiểu để giãi bày những mong ƣớc, sự hy
vọng và tin tƣởng ở con ngƣời; hóa thân vào nhân vật Cao Bá Quát để suy
ngẫm về những vấn đề đạo đức nhân phẩm, vai trò sứ mệnh của thơ ca và nhà
thơ; đồng thời cái tôi hóa thân của nhà thơ vào nhân vật trữ tình trong Khối
vuông Rubich đã thể hiện cái nhìn đa chiều, giọng điệu phức hợp đa thanh của
nhà thơ khi phản ánh những mảng màu khác nhau của cuộc sống.
Nhìn một cách tổng quát, giọng điệu chủ yếu của trƣờng ca Thanh Thảo
chính là giọng trầm tĩnh, suy tƣ. Dù viết về hiện thực chiến tranh, lịch sử hào
hùng của dân tộc hay các vấn đề thế sự đời thƣờng thì Thanh Thảo vẫn giữ
cho mình sự chắc chắn nhƣng không hề đơn điệu về giọng điệu. Bởi trƣờng ca
của anh là phức hợp của âm thanh, chi tiết, hình ảnh và cảm xúc đã vào độ
chín của một con ngƣời từng trải có tâm hồn nghệ sỹ.
“Trong đời sống thơ trẻ sau 1975 đến nay, Thanh Thảo với những sản
phẩm tinh thần đã và sẽ có của mình xứng đáng là một gương mặt tiêu biểu.
Người đọc tin rằng, víi anh thơ không phải là lời phát mà còn là tiếng vọng
sau đó. Và anh trên mỗi chặng đường sáng tác của mình sẽ không ngừng tìm
tòi những biểu hiện mới để thơ mãi âm vang.”[81,49]. Trƣờng ca của Thanh
Thảo về mặt kết cấu tƣ tƣởng, giọng điệu hay trong việc xây dựng các biểu
tƣợng đều có những đóng góp mới mẻ cho thể loại trƣờng ca nói riêng, thơ
Việt Nam hiện đại nói chung. Những đóng góp đó đã đƣa Thanh Thảo lên vị
trí những nhà thơ lớn và trở thành “ông vua trường ca” của nền văn học Việt
Nam hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 107
KẾT LUẬN
1. Vào những năm bảy mƣơi của thế kỷ XX, nền văn học Việt Nam
chứng kiến sự nở rộ của thể loại trƣờng ca hiện đại. Từ đó đến nay, xung
quanh khái niệm trƣờng ca còn rất nhiều ý kiến chƣa thống nhất giữa các nhà
nghiên cứu. Song về đại thể cả các nhà nghiên cứu và các tác giả sáng tác
trƣờng ca đều cho rằng: trƣờng ca là một hiện tƣợng thâm nhập của các thể
loại thơ, là một kết cấu mềm dẻo, đa diện. Trên bình diện thi pháp thể loại,
trƣờng ca là hệ quả tất yếu của quá trình thơ trữ tình mở rộng chức năng xã
hội- thẩm mỹ của các yếu tố tự sự trong kết cấu tác phẩm. trƣờng ca hiện đại
lấy đề tài lịch sử - dân tộc làm nền, lấy chủ nghĩa anh hùng cách mạng làm
cảm hứng chiều sâu nhận thức của nhân vật. Trong qóa trình vận động, nội
dung thể loại trƣờng ca ngày càng phong phú theo hƣớng gia tăng tính triết
luận, phản ánh những vấn đề gần gũi với đời sống xã hội.
2. Thanh Thảo thuộc thế hệ các nhà thơ trẻ trƣởng thành trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ. Ông là ngƣời đã dành phần lớn sự nghiệp sáng tác
của mình cho thể loại trƣờng ca. Thanh Thảo là một trƣờng hợp đặc biệt kiên
trì và thủy chung với thể loại này. Sau trƣờng ca đầu tay Những người đi tới
biển (1977), Thanh Thảo liên tiếp cho ra đời hàng loạt những trƣờng ca đặc
sắc, có sức bao chứa lớn làm nên tầm vóc của một nhà thơ chuyên về thể loại
trƣờng ca nhƣ: Đêm trên cát (1982), Những ngọn sóng mặt trời (gồm liên
hoàn ba trƣờng ca: Những nghĩa sỹ Cần Giuộc, Bùng nổ mùa xuân, Trẻ con ở
Sơn Mỹ- 1985), và Trò chuyện với nhân vật của mình (2002)…Có thể nói,
Thanh Thảo là một trong những cây bút có đóng góp lớn nhất cho sự sáng tạo
và phát triển của thể loại trƣờng ca trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại trên cả
phƣơng diện nội dung lẫn hình thức thể hiện.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 108
Trƣờng ca của Thanh Thảo thấm đẫm chất sử thi, giàu tính tƣ tƣởng và
tầm khái quát, triết lý về sứ mệnh lịch sử của thế hệ mình; về nguồn cội sức
mạnh của dân tộc, đất nƣớc; về những giá trị tinh thần cao cả tiềm ẩn trong
lịch sử đấu tranh dựng nƣớc và giữ nƣớc…Nhƣng đặc biệt hơn, Thanh Thảo
đã luôn luôn tìm tòi, sáng tạo không ngừng và để lại trong mỗi tác phẩm
những dấu ấn riêng không pha trộn với các tác giả khác cũng nhƣ không lặp
lại chính mình.
3. Tƣ tƣởng thẩm mỹ bao trùm trong các sáng tác trƣờng ca của Thanh
Thảo chính là tƣ tƣởng về nhân dân, đất nƣớc, Tổ quốc. Những người đi tới
biển đƣợc coi là bản anh hùng ca của thế hệ trẻ cầm súng trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nƣớc. Góc nhìn nghệ thuật về chiến tranh trực tiếp từ
chiến hào của cái tôi trải nghiệm của tác giả đã làm nên nét đặc sắc thẩm mỹ
của trƣờng ca này. Những ngọn sóng mặt trời là bản trƣờng ca liên hoàn bao
gồm ba trƣờng ca Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ mùa xuân, Trẻ con ở
Sơn Mỹ. Ở bản trƣờng ca này, Thanh Thảo tập trung khám phá và lý giải cội
nguồn sức mạnh chiến thắng của dân tộc qua việc xây dựng thành công những
hình tƣợng cụ thể có tính chất tiêu biểu cho sức mạnh quật cƣờng, sự trƣờng
tồn, vĩnh hằng, bất diệt của quần chúng nhân dân. Đến các trƣờng ca viết sau
chiến tranh nhƣ Khối vuông Rubích, Đêm trên cát và Trò chuyện với nhân vật
của mình, một mặt tác giả vẫn tiếp tục mạch tƣ tƣởng nhận thức về lịch sử,
nhƣng, trên một khía cạnh khác, tác giả đã thể hiện những nỗi băn khoăn, trăn
trở về các vấn đề nhân sinh, thế sự cũng nhƣ vai trò của thơ ca trong đời sống
con ngƣời.
4. Về mặt nghệ thuật, các tác phẩm trƣờng ca của Thanh Thảo có thể
quy về hai dạng kết cấu lớn đó là: thứ nhất, các tác phẩm kết cấu theo sự kiện
và tuyến sự kiện nhƣ ở Những người đi tới biển, Những ngọn sóng mặt trời;
thứ hai, các tác phẩm kết cấu theo mạch cảm xúc và tâm trạng bao gồm: Đêm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 109
trên cát, Khối vuông Rubich, Trò chuyện với nhân vật của mình. Tuy nhiên, ở
mỗi trƣờng ca cụ thể, Thanh Thảo lại có cách tổ chức rất riêng không trùng lặp
tạo ra sự mới mẻ cho các trƣờng ca của anh. Ngay trong các tác phẩm thuộc một
trong hai kiểu kết cấu trên thì ta vẫn bắt gặp sự đan xen, hòa quyện giữa mạch sự
kiện, tính chất “chuyện” dƣới sự dẫn dắt của mạch cảm xúc, cái tôi trữ tình hóa
thân của tác giả. Điều đó làm nên sự thống nhất trong mạch nguồn phát triển
trong mỗi tác phẩm đồng thời thể hiện đầy đủ dấu ấn cá nhân của tác giả.
5. Thanh Thảo đã sáng tạo một hệ thống biểu tƣợng đặc sắc có sức gợi
cao góp phần thể hiện nổi bật tƣ tƣởng thẩm mỹ về nhân dân, dân tộc, đất
nƣớc trong các sáng tác trƣờng ca của anh nhƣ: sóng, cỏ, mặt đất, cát, lửa,
mặt trời…
Hệ biểu tƣợng sóng, cát và mặt đất có ý nghĩa biểu trƣng cho sức mạnh
tiềm ẩn, sức mạnh vô địch và sự trƣờng tồn, bất diệt của quần chúng nhân
dân. Và hệ biểu tƣợng cỏ, lửa lại mang ý nghĩa biểu trƣng cho sức mạnh bền
bỉ và ý chí chiến thắng của thế hệ trẻ. Việc sáng tạo và sử dụng thành công
hai hệ biểu tƣợng này không chỉ góp phần thể hiện sâu sắc tƣ tƣởng về nhân
dân, về sứ mệnh lịch sử của thế hệ những ngƣời lính trẻ trong trƣờng ca mà
còn đánh dấu sự đóng góp của Thanh Thảo trên con đƣờng cách tân thơ ca nói
chung, thể loại trƣờng ca nói riêng.
6. Khi đang viết những lời kết luận của luận văn này, tôi đƣợc biết Thanh
Thảo vừa cho ra mắt một trƣờng ca mới viết về Trƣờng Sơn những năm đánh
Mỹ có tên Metro. Trƣờng ca đƣợc cấu trúc theo hai chiều đồng hiện về quá khứ
và tƣơng lai. Đối với Thanh Thảo, những giá trị tinh thần cao cả của một thời
vẫn là nguồn năng lƣợng không bao giờ vơi cạn của trƣờng ca. Thanh Thảo viết
trƣờng ca hiện nay với cấu trúc hoàn toàn khác trƣớc, nhƣng những tác phẩm
trƣờng ca đầu tay của anh Những người đi tới biển và Những ngọn sóng mặt trời
trƣớc sau vẫn là mẫu mực cổ điển của thể loại thơ ca Việt Nam hiện đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1998), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam 1045 – 1995, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nôi.
2. Vũ Tuấn Anh (1999), “Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và
thẩm định”, Những vấn đề Lý luận và lịch sử văn học, tài liệu Viện VH.
3. Lại Nguyên Ân (1975), “Mấy suy nghĩ về thể loại trƣờng ca”, Tạp
chí văn học số 4.
4. Lại Nguyên Ân (1980), “Vấn đề thể loại sử thi của văn học hiện
đại”, Tạp chí văn học số 1.
5. Lại Nguyên Ân (1981), “Bàn góp về trƣờng ca”, Tạp chí văn học số 1.
6. Lại Nguyên Ân (1984), “Thể trƣờng ca gần đây”, Văn học và phê
bình, Nxb Tác phẩm mới.
7. Lại Nguyên Ân (1986), “Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng
8 – Một nền sử thi hiện đại”, Tạp chí văn học số 5.
8. Lại Nguyên Ân (1987), “Nội dung thể tài và sự phát triển thể loại
trong nền văn học mới”, Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Lại Nguyên Ân (1998), Dấu chân những người lính trẻ và thơ Thanh
Thảo, Nxb VH.
10. Thu Bồn (1986), Người vắt sữa bầu trời, Nxb Trẻ, TP HCM.
11. Thu Bồn (2003), “Bài ca chim chơ rao”, Thu Bồn – thơ và trường
ca, Nxb Đà Nẵng.
12. Thu Bồn (2003), “Ba dan khát”, Thu Bồn – thơ và trường ca, Nxb
Đà nẵng.
13. Thu Bồn (2003), “Oran bảy sáu ngọn”, Thu Bồn – thơ và trường
ca, Nxb Đà nẵng.
14. Hồng Diệu (1981), “Thêm vài ý nghĩ”, Văn nghệ quân đội số 2.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 111
15. Phạm Tiến Duật (1980), “Nhân bàn về trƣờng ca đôi điều nghĩ về
hình thức”, Văn nghệ quân đội tháng 12.
16. Nguyễn Khoa Điềm (1977), “Mặt đƣờng khát vọng” , Tuyển tập
trường ca, Nxb Quân đội, Hà Nội.
17. Nguyễn Đăng Điệp(2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn
học, Hà Nội.
18. Nguyễn Đỗ (1995), “Không đề Thanh Thảo”, Ngón thứ sáu của
bàn tay, Nxb Đà Nẵng.
19. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thi ca, Nxb
Văn học, Hà Nội.
20. Phan Ngọc Cảnh (1980), “Trƣờng ca và ngƣời viết trƣờng ca”, Tạp
chí văn nghệ quân đội (11).
21. N.V. Gôgôl (1971), Những linh hồn chết, Về trƣờng ca vĩ đại của
N.V. Googôl (bài giới thiệu của X.Maisxkin), Nxb Văn học thiếu nhi, M
(sách tiếng Nga).
22. Nguyễn Việt Chiến (2007), “Thanh Thảo còn những bài thơ nhỏ”, Tạp
chí Sông Trà (20)
23. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2000), Từ điển thuật
ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, Hà Nội.
24. Đông Hải (1999), “Khối vuông Rubic và hình tƣợng tƣ duy thơ
Thanh Thảo”, Tạp chí văn nghệ Quảng Ngãi- Xuân Kỷ Mão.
25. Lê Thị Hồng Hạnh (2008), Biểu tượng nước trong truyện ngắn Nguyễn
Huy Thiệp, ĐHSP HN.
26. Trần Mạnh Hảo (1994), Đất nước hình tia chíp, Nxb Quân đội
nhân dân,
27. TrÇn M¹nh H¶o (1980), Vµi ý nghÜ nhá, T¹p chÝ V¨n nghÖ qu©n ®éi(11),
tr.123- 125.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 112
28. Bùi Công Hùng (2000), Sự cách tân thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
29. Nguyễn Thị Ngân Hoa (2006), Tìm hiểu những nhân tố tác động
tới ý nghĩa của biểu tượng, TCNN số 10.
30. Phạm Hổ (1981), “Ngƣời lính trong “Trường ca sư đoàn””, Báo
văn nghệ.
31. Sử Hồng và Trần Đăng Suyền (1981), “Hình tƣợng nhân dân trong
“Những ngọn sóng mặt trời”, Báo Văn nghệ.
32. Hê ghen (1999), Mỹ học, Nxb Văn học.
33. Nguyễn Thu Hƣơng (2002), Một số trường ca tiêu biểu về cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Luận văn thạc sỹ ĐHSP HN.
34. Hoàng Ngọc Hiến (1981), “Những nét độc đáo và nét loại hình của
“Bài ca chàng Đam San” nhƣ là một tác phẩm anh hùng ca”, Tạp chí Dân
Tộc học số 1.
35. Hoàng Ngọc Hiến (1981), “Về đặc trƣng của trƣờng ca”, Tạp chí
văn học số 3.
36. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng thể loại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
37. Kormilôv.X.I (2001), Từ điển bách khoa văn học thuật ngữ và khái
niệm, Matxcova, “Intelvak”.
38. Nguyễn Thụy Kha (1999), Thanh Thảo, người lính, những khúc ca
lính Việt- Lời quê góp nhặt, Nxb Hội nhà văn.
39. Đỗ Văn Khang (1982), “Từ ý kiến về trƣờng ca sử thi của Hê –
ghen đến trƣờng ca hiện đại của ta”, Tạp chí văn học số 6.
40. Nguyễn Văn Khỏa (1978), Anh hùng ca của Homerơ, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 113
41. Khrapchenkô. M.B (1984), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự
phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
42. Khrapchenkô. M.B (91984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con
người, tập I, II, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
43. Mã Giang Lân (1982), “Trƣờng ca vấn đề thể loại”, Tạp chí Văn
học số 6.
44. Mã Giang Lân (2003), Văn học Việt Nam 1945 – 1954, Nxb Giáo
dục, HN.
45. Nguyễn Văn Long (1977), “Hƣớng đi của một số nhà thơ”, Báo
Văn nghệ số 539.
46. Nguyễn Văn Long (chủ biên – 2000), Giảng văn văn học Việt Nam,
Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Long(2002), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam
sau Cách mạng tháng Tám, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
48. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1985), Lý luận
văn học tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam (1986), Lý luận
văn học tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
50. Nicôlai –Niculin (1985), “Văn học của một dân tộc chiến thắng”,
Báo Văn nghệ số 38.
51. Anh Ngọc (1988), “Hãy đƣa tôi một tƣ tƣởng”, Văn nghệ quân đội
số 12.
52. Anh Ngọc (1988), Sông Mê Kông bốn mặt, Nxb Văn nghệ.
53. Anh Ngọc (1983), Điệp khúc vô danh, Nxb Quân đội nhân dân.
54. Hoàng Kim Ngọc (1977), Những đóng góp của các nhà thơ trẻ thời
kỳ chống Mỹ, Luận văn thạc sỹ, trƣờng ĐHSP HN.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 114
55. Nguyễn Lƣơng Ngọc (1962), Mấy vấn đề về nguyên lý văn học, tập
1, Nxb Giáo dục Hà Nội.
56. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1968), Thơ ca Việt Nam – Hình
thức và thể loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
57. Bùi Văn Nguyên (1975), “Vẻ đẹp hùng tráng và nên thơ trong
trƣờng ca Tây Nguyên”, Tạp chí Văn học.
58. Lã Nguyên (1971), Diện mạo văn học Việt Nam 1945 – 1975 (nhìn
từ góc độ thi pháp thể loại), 50 năm văn học Việt Nam sa Cách mạng tháng
Tám, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
59. Nhiều tác giả (1971), Lý luận văn học tập I, II, III. Sách ĐHSP,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
60. Nhiều tác giả (1972), Mười năm văn học chống Mỹ, Nxb Giải Phóng.
61. Nhiều tác giả (1978), Từ điển Văn học, Nxb Giáo dục Hà Nội.
62. Nhiều tác giả (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
63. Nhiều tác giả (1982), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, HN.
64. Nhiều tác giả (1982), Mười nhà thơ lớn của thế kỷ, Nxb Tác Phẩm
mới, Hà Nội.
65. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
66. Nhiều tác giả (1984), Chiến trường sống và viết tập 2, Nxb Tác
Phẩm mới Hà Nội.
67. Nhiều tác giả (1996), Năm mươi năm văn học Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
68. Nhiều tác giả (2000), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc
gia, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 115
69. Thiếu Mai (1980), “Hữu Thỉnh trên đƣờng tới thành phố”, Văn
nghệ Quân đội tập 12.
70. Thiếu Mai (1980), “Thanh Thảo thơ và Trƣờng ca”, Tạp chí văn
học tập 2.
71. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb
Tác phẩm mới, Hà Nội.
72. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật
của nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
73. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vƣơng Trí Nhàn, Trần Đình
Sử, Ngô Thảo (1987), Một thời đại văn học mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
74. Nguyễn Đức Mậu (1978), Trường ca sư đoàn, Nxb Quân đội
nhân dân.
75. Lê Thị Mây (2003), Lửa mùa hong áo, Nxb Quân đội nhân dân.
76. Lƣu Oanh (1995), Cái tôi trữ tình trong thơ ca giai đoạn 1975-
1990, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
77. Vũ Đức Phúc (1982), “Chung quanh vấn đề trƣờng ca”, Tạp chí
văn học (6).
78. Nguyễn Bình Phƣơng (1986), Đổ bóng xuống mặt trời, báo Văn
nghệ CA (10).
79. Nguyễn Đức Quyền (1980), Những vẻ đẹp thơ, Nxb Hôi VHNT
Nghĩa Bình.
80. Từ Sơn (1981), “Về khái niệm trƣờng ca”, Văn nghệ quân đội số1.
81. Chu Văn Sơn (1981), Thanh Thảo, nghĩa khí và cách tân, Nhà Văn,
tập 12.
82. Trần Đăng Suyền (2004), Nhà văn- Hiện thực đời sống và cá tính
sáng tạo, Nxb Văn học, Hà Nội .
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 116
83. Vũ Văn Sỹ (2001), “Sự biến đổi của thể loại thơ từ sau 1975”-
Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
84.Vũ Văn Sỹ (2003), “Thời nở rộ trƣờng ca, một hiện tƣợng s¸ng tạo
thể loại”, Tạp chí Văn nghệ
85. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ hiện đại Việt
Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
86. Nguyễn Trọng Tạo (1998), Văn chương cảm và luận. Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nội
87. Thanh Thảo (1982), Những nghĩa sỹ Cần Giuộc, Nxb Văn nghệ TP
HCM.
88. Thanh Thảo (1985), Khối vuông Rubich, Nxb Tác phẩm mới,
Hà Nội.
89. Thanh Thảo (1997), Trẻ con ở Sơn Mỹ, Nxb Văn học, Hà Nội.
90. Thanh Thảo (2000), Bùng nổ mùa xuân, Sở Văn hóa Thông tin
Quảng Ngãi.
91. Thanh Thảo (2002), Trò chuyện với nhân vật của mình, Nxb Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
92. Bích Thu (1998), Theo dòng văn học, Nxb Khoa học và xã hội,
Hà Nội.
93. Hữu Thỉnh (1980), Vài suy nghĩ về thể loại trường ca, Văn nghệ
Quân đội nhân dân tập 12.
94. Hữu Thỉnh (1996), Trường ca biển, Nxb Quân đội nhân dân.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 117
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề ......................................................................................................... 3
2.1. Những ý kiến về thơ Thanh Thảo nói chung ...................................... 3
2.2. Những ý kiến riêng về trường ca Thanh Thảo ................................... 5
3. Đối tƣợng nghiên cứu ............................................................................................. 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................. 7
5. Phƣơng pháp và phạm vi nghiên cứu .................................................................... 7
5.1. Phương pháp nghiên cứu .................................................................. 7
5.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ........................................................................................... 8
7. Kết cấu của luận văn ............................................................................................... 8
NỘI DUNG .................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1 ................................................................................................... 9
HIỆN TƢỢNG TRƢỜNG CA VÀ TRƢỜNG CA ......................................... 9
CỦA THANH THẢO .................................................................................... 9
1.1. Sơ lƣợc về thể loại trƣờng ca .............................................................................. 9
1.1.1. Về nội hàm khái niệm “trường ca” ................................................ 9
1.1.2. Khái niệm trường ca và một số ý kiến về trường ca trong văn học
Việt Nam hiện đại .................................................................................. 11
1.2. Hiện tƣợng sáng tạo trƣờng ca trong văn học Việt Nam hiện đại .................. 14
1.2.1. Những tiền đề lịch sử và văn học của trường ca .......................... 15
1.2.1.1. Tiền đề lịch sử ........................................................................... 15
1.2.2. Tiền đề văn học ............................................................................ 16
1.2.2. Về các chặng đường phát triển của trường ca Việt Nam hiện đại 19
1.2.3. Đặc điểm thẩm mỹ của trường ca Việt Nam hiện đại ................... 23
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 118
1.2.3.1. Về nội dung .............................................................................. 23
1.2.3.2. Về kết cấu ................................................................................. 26
1.3. Thơ trƣ̃ tình và trƣờng ca của Thanh Thảo ...................................................... 28
1.3.1. Thơ trữ tình của Thanh Thảo ....................................................... 28
1.3.2. Trƣờng ca Thanh Thảo................................................................................... 34
CHƢƠNG 2 ................................................................................................. 37
TƢ TƢỞNG THẨM MỸ TRONG TRƢỜNG CA ....................................... 37
CỦA THANH THẢO .................................................................................. 37
2.1. Tƣ tƣởng thẩm mỹ, tứ thơ lớn của trƣờng ca ................................................... 37
2.2. Những người đi tới biển hay sứ mệnh lịch sử của thế hệ trẻ cầm súng ......... 40
2.3. Những ngọn sóng mặt trời, biểu tƣợng kết tinh của tƣ tƣởng nhân dân ........ 50
2.4. Niềm trăn trở thế sự trong các tác phẩm trƣờng ca Thanh Thảo viết sau chiến
tranh ........................................................................................................................... 61
CHƢƠNG 3 ................................................................................................. 72
ĐẶC TRƢNG NGHỆ THUẬT .................................................................... 72
3.1. Kết cấu trƣờng ca của Thanh Thảo .................................................................. 72
3.1.1. Kiểu kết cấu theo sự kiện và tuyến sự kiện ................................... 75
3.1.2. Kiểu kết cấu theo mạch cảm xúc và tâm trạng ............................. 82
3.2. Biểu tƣợng .......................................................................................................... 87
3.2.1. Hệ biểu tượng sóng, cát và mặt đất– sức mạnh tiềm ẩn của quần
chúng nhân dân ..................................................................................... 89
3.2.2. Hệ biểu tượng cỏ, lửa - sức mạnh bền bỉ và ý chí tất thắng của cái
tôi thế hệ ................................................................................................ 95
3.3. Giọng điệu ........................................................................................................ 100
KẾT LUẬN ................................................................................................ 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 119
LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng thành kính, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc của mình
với PGS.TS. Vũ Văn Sỹ - ngƣời thầy hƣớng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo,
hƣớng dẫn tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn, khoa
Sau đại học – trƣờng Đại học sƣ phạm Thái nguyên, các thầy giáo trƣờng Đại
học sƣ phạm I Hà Nội, các thầy cô giáo Viện Văn học đã dạy bảo và tạo điều
kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới trƣờng THPT Dƣơng Tự Minh,
Thái Nguyên, các đồng nghiệp, gia đình và bạn bè đã luôn cổ vũ, động viên
tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin trân trọng cảm ơn !
Thái Nguyên ngày 30 - 9 – 2009
Tác giả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5.pdf