1.Lý do chọn đề tài
Ai đã từng say mê, sửng sốt trước nghệ thuật tả cảnh, tả tình tinh tế, đầy
sức gợi cảm trong những truyện thơ của người Tày nếu có dịp nghe những lời
ca tiếng hát của dân tộc này hẳn sẽ lý giải vì sao người dân nơi đây có thể
sáng tác truyện thơ hay đến vậy.
Người Tày sống giữa thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng, có phần ưu đãi, có
phần khắc nghiệt. Họ sống chân thành, giản dị, hiền hoà trong một xã hội mà
nhân tố dân chủ nguyên thuỷ phần nào còn đóng vai trò trong các quan hệ xã
hội. Những điều kiện tự nhiên và xã hội ấy đã góp phần tạo nên chất trữ tình
đằm thắm, tràn đầy trong tâm hồn người Tày. Dân ca Tày nói chung và dân ca
trữ tình Tày nói riêng là tiếng nói chất chứa những nguyện vọng, những nỗi
niềm, những cung bậc tình cảm đa dạng của con người, với một thứ nghệ
thuật tràn đầy chất lãng mạn và phương thức biểu hiện tinh tế, sâu sắc.
Đã có nhiều công trình nghiên cứu khai thác giá trị dân ca Tày ở nhiều
cấp độ trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật. Song hầu hết các nhà
nghiên cứu chỉ tập trung khai thác bản chất trữ tình của thể loại này mà ít chú
ý tới vai trò của yếu tố tự sự trong việc biểu hiện đời sống nội tâm của con
người dưới nhiều khía cạnh phong phú và khác nhau. Ý muốn có một chuyên
luận nhỏ tìm hiểu về vấn đề này là một trong những lí do khiến chúng tôi
chọn “Yếu tố tự sự trong dân ca Tày” làm vấn đề nghiên cứu của luận văn.
Mặt khác, đã từ lâu, việc dạy và học văn học dân gian nói chung, văn
học dân gian các dân tộc thiểu số nói riêng rất được nhà trường phổ thông
quan tâm chú ý. Vì vậy nghiên cứu tìm hiểu về dân ca Tày là việc làm có ý
nghĩa rất thiết thực đối với công tác giảng dạy, học tập của giáo viên và học
sinh trong nhà trường.
Mục lục
Phần 1: MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5
3.1 Mục đích nghiên cứu 5
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
4.1 Đối tượng nghiên cứu 6
4.2 Phạm vi nghiên cứu 6
5. Phương pháp nghiên cứu 7
6. Đóng góp của luận văn 7
7. Bố cục của luận văn 7
Phần 2: NỘI DUNG 8
Chương 1: Khái quát về người Tày, văn học dân gian Tày và một số vấn đề lý
luận có liên quan đến đề tài 8
1.1 Khái quát về người Tày và văn học dân gian Tày 8
1.1.1 Khái quát về tộc người Tày 8
1.1.2 Vài nét về văn học dân gian Tày 10
1.1.2.1 Một số thể loại văn học dân gian của người Tày 13
1.1.2.2 Dân ca sinh hoạt của người Tày 13
1.2 Loại hình tự sự và yếu tố tự sự trong văn học dân gian 18
1.2.1 Loại hình tự sự
1.2.2 Yếu tố tự sự trong văn học dân gian
21
Chương 2: Các dạng thức biểu hiện của yếu tố tự sự trong dân ca Tày 27
2.1 Những bài ca có cốt truyện
2.1.1 Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh
2.1.2 Những bài ca có cốt truyện đơn giản 38
2.2 Những bài ca không có cốt truyện. 49
2.2.1 Những bài ca kể chuyện trực tiếp, liền mạch. 50
2.2.2 Những bài ca kể chuyện bâng quơ. 56
2.2.3 Những bài ca kể chuyện xen lẫn cảm xúc trữ tình. 62
Chương 3: Vai trò của yếu tố tự sự trong dân ca Tày 69
3.1. Yếu tố tự sự - một phương tiện đắc dụng phản ánh hiện thực 69
3.2 Yếu tố tự sự với mục đíc kể sự tả tình 81
3.2.1 Giúp cho nhân vật trữ tình kín đáo giãi bày tình cảm. 81
3.2.2 Tạo cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai. 86
3.3 Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình 90
Phần 3: KẾT LUẬN 97
Tài liệu tham khảo 101
107 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1976 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lên nhà xem bến nước dát đồng
Xem cái vò đựng nước
Xem cái bằng văn hoa
Xem vách nhà ken nõng
Nhà người dựng tháng hai đất bằng
Bốn phía lại ván bưng đều khắp
Một buồng để thờ phụng tổ tiên
Một buồng để vải chàm nhuộm áo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Một buồng để nuôi tằm ương tơ
Một buồng để sĩ nho học hành...
Dưới ngòi bút đậm sắc thái tự sự, mọi mặt của cuộc sống – từ thiên
nhiên đến cảnh sinh hoạt, từ việc làm ăn đến cảnh vui chơi - đều đạt đến đỉnh
cao cùng cực qua lời lượn của các chàng trai, cô gái. Dĩ nhiên trong các lời ca
này các trai thanh gái lịch cũng có tôn lên ít nhiều để ca bản mường của người
mình yêu, nhưng chính hơi thở của cuộc sống thực đã chắp cánh cho lời ca.
Từ những nội dung khác nhau nhiều bài hát khác nhau, hệ thống những
bài ca thuộc các chủ đề ca ngợi thiên nhiên bản làng đất nước đã cho ta cái
nhìn khá hoàn chỉnh về các mặt khác nhau của bản làng giàu đẹp, về cuộc
sống tươi vui nhộn nhịp của những người dân Tày sống ven các triền núi
thung lũng Tây Bắc.
Vai trò phản ánh hiện thực càng rõ nét hơn khi xem xét các bài ca lao
động nghề nghiệp.
Đặc điểm cơ bản của nhiều bài ca nghề nghiệp biểu hiện rõ ra ở vai trò
nhận thức của nó. Những bài ca nghề nghiệp chủ yếu phản ánh kinh nghiệm
lao động nhưng đồng thời cũng thể hiện cả ước mơ hy vọng của người lao
động và cả những tư tưởng tình cảm nhất định của họ nữa. Như vậy trong bài
ca nghề nghiệp có sự phối hợp cả chức năng tự sự của tục ngữ lẫn chức năng
trữ tình của thơ ca. Có thể thấy điều này trong các bài ca nông lịch.
Những bài ca dao nông lịch phổ biến khá rộng rãi trong kho tàng dân ca
Tày. Nó thường có kết cấu theo mạch logic thời gian, thay cho những lời kể,
ở đây công việc nhà nông hợp thành một bộ phận quan trọng của nội dung thơ
ca. Nhìn vào đó ta có thể thấy từ những kinh nghiệm canh tác đã được đúc rút
ra một cách ngắn gọn và cô đọng.
Tháng năm ruộng bỏ không cày
Vào vụ mùa này làm đất nhiều công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tháng mười gặt lúa chưa xong
Hạt rơi thản gãi phí công cấy cày
Cho đến cảnh làm ruộng bận rộn của người Tày ở các vùng thung lũng
Cao – Lạng
Tháng năm nhộn nhịp với cấy cày
Đơn thân nhổ mạ nắng gắt gay
Mạ nhổ đẫ về không người cấy
Bạn có lòng thương giúp người về.
Cho đến không khí cày bừa rộn ràng ở vùng đồng ruộng ven thung lũng
các con sông Bằng, sông Hiến:
Tháng tư vừa tới cỏ xanh tươi
Cày ruộng trắng đồng thêm hát chơi
Cày ruộng trắng đồng thêm hát hội
Ngày nào xuất giá bạn hiền ơi
Và cả một bản lịch trình dài những công việc lao động trong suốt một
năm qua:
Tháng giêng đi cày nương
Tháng hai đi cày ruộng
Mùng ba tháng ba gieo mạ
Mùng năm tháng năm cấy đồng
Cấy xuống bằng sợi chỉ
Mọc to bằng cái nơm
Con gái lấy chân to làm cỏ
Con trai lấy chân đi làm dả
Tháng bảy lúa ra đòng
Tháng tám lúa vàng ong
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tháng chín lúa vàng rộm
Con gái lấy hái đi cắt
Con trai lấy liềm đi gặt
Lấy đòn xóc đi đón
Lấy “đòn gianh” đi rước
Gánh về để chân sàn
Khênh vể để gầm nhà
Mặt trời lên phương đông
Lúa chạy ra phơi nắng
Mặt trời lặn về tây
Thóc đã nỏ trên sàn
Cất về để cạnh cối
Xách về đặt chân xay
Người được rỗi người xay
Người ở không người giã
Giã ba cối gạo nương
Giã năm cối gạo trắng
Xem ngày lành ta cưới
Với sự tham gia tích cực của yếu tố tự sự, những bài ca nông lịch trên
đã phản ánh được những nét lớn trong tập quán làm ăn của người nông dân
trong cộng đồng nói tiếng Tày. Trong đó xen lẫn với những bố trí kịp thời các
loại công việc phù hợp với hoàn cảnh thiên nhiên là những kinh nghiệm canh
tác vô cùng quý báu. Vẻ lý trí của tục ngữ toát ra từ những câu thơ khiến bài
ca trở thành một bản đúc rút kinh nghiệm, một tư liệu tham khảo hữu hiệu cho
các nhà nông học.
Yếu tố tự sự còn đem đến cho cả những đoạn miêu tả cuộc sống sinh
hoạt những hội hè đình đám của người dân lao động:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Bốn mùa hoa nở có mùa xuân
Ong bướm rủ nhau hội trong rừng
Trai thanh gái lịch cùng chơi hội
Kết thành tình bạn tựa bướm ong
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
Cuối mùa xuân hết lại sang hè
Trai gái vui chơi với mùa ve
Tuổi ít đang thì hãy chơi đã
Đến lúc hết thì lại bỏ về.
Có thể thấy trong những bài ca nông sự này, ở chiều sâu của nó vẫn là
sự ngân lên những giai điệu của một tinh thần cần cù chịu khó, của một ước
mơ về một cuộc sống sung túc, đủ đầy và hạnh phúc. Nhưng ở phần biểu
hiện, với sự tham gia của yếu tố tự sự ta thấy hiện hữu một cách sinh động
những đường nét lớn trong cuộc sống lao động của người nông dân.
Là một bộ phận của văn học dân gian, dân ca đã phản ánh một cách đầy
đủ cuộc sống của những người sáng tạo ra nó theo một cách riêng của mình.
Ở đó ngoài đời sống nội tâm ta còn gặp những biểu hiện khá sinh động về
cuộc sống của những người lao động xưa – cuộc sống sinh hoạt tràn vào trong
dân ca theo những dòng tự sự. Và không chỉ trong những bài ca nghề nghiệp,
ở thể hát ru ta cũng gặp lại đời sống sinh hoạt, nếp văn hoá ẩm thực của người
dân miền núi, khúc xạ vào trong từng câu hát. Đó là cảnh bắt cá ở suối, bắt
muỗm ở ruộng, cảnh lao động vất vả tần tảo của người mẹ trong cái nhìn ngây
thơ của đứa con:
Em ơi ngủ
Ngủ cho sâu
Ngủ chờ mẹ
Mẹ ra đồng bắt cá
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Mẹ đi ruộng lấy luốm
Được con luốm môi hồng
Được con ve môi thâm
Ngủ cho sâu
Ngủ chờ mẹ
Mẹ ra đồng bắt cá
Cá đầy giỏ mới về
Qua đèo về thoăn thoắt
Vun vút qua núi cao
Nào em ngủ
Ngủ cho sâu
Như vậy, hầu hết trong các bài ca có sự xuất hiện của yếu tố tự sự, ở
chiều sâu của tác phẩm vẫn là cung bậc sâu lắng mượt mà của giai điệu trữ
tình nhưng ở bề nổi của nội dung, dù chủ định hay không chủ định, dù mờ
nhạt hay rõ nét, trong các đoạn miêu tả hay trần thuật ta vẫn thấy bóng dáng
của con người, của cuộc sống xưa.
Thuộc về loại hình trữ tình nhưng nội dung của dân ca sinh hoạt không
chỉ hạn chế trong phạm vi chật hẹp của tâm tình cá nhân. Việc sống và tồn tại
chủ yếu trong môi trường diễn xướng trò chuyện và đối đáp đã tạo hoàn cảnh
thuận lợi để yếu tố tự sự có thể tham gia tích cực vào thế giới tâm tình của
nhân vật. Chính do cách vận dụng yếu tố tự sự một cách tự nhiên này mà nội
dung được đề cập đến trong dân ca sinh hoạt phong phú và rộng lớn hơn
nhiều. Bên cạnh nội dung lao động sản xuất (như đã nói ở trên), dân ca sinh
hoạt còn hướng tới một nội dung xã hội khác - đó là thân phận và cảnh ngộ
của những con người bị ruồng bỏ, bị ức hiếp trong xã hội cũ, trong đó cuộc
sống êm đẹp của xã hội cộng đồng đã bị phá vỡ, trong điều kiện đã có sự phân
chia giai cấp.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Chúng ta biết rằng trong thể loại tự sự dân gian, loại nhân vật bất hạnh
(người mồ côi, em út, người làm dâu...) vốn là những nhân vật khá quen thuộc
và có tính đặc trưng của truyện cổ tích thần kì. Một điều dường như có tính
song hành là trong thể loại trữ tình dân gian ta cũng phát hiện ra hàng loạt bài
ca nói lên thân phận nỗi niềm của những người bất hạnh đó. Từ tiếng than vãn
của chàng trai nghèo muốn vợ đến tiếng khóc ai oán của những người con
dâu, vợ lẽ... Tất cả đã tái hiện lại một cách xúc cảm tình cảnh khổ đau triền
miên của những kiếp người nhỏ bé.
Ở đó nhờ tham gia tích cực của yếu tố tự sự ta không chỉ thấy nỗi niềm
tâm trạng mà còn thấy cả cảnh ngộ số phận. Và đây là cảnh làm lẽ:
Thật lòng em ngại nói năng
Đời người như vậy nên chăng hỡi chàng
Đồng tiền vợ cả giữ giàng
Cám bã xuyền xoàng là phận em lo
Bát cơm chia nửa sao no
Dòng chia hai chẳng bao giờ vực sâu
Hai nhà chung sản nấu rau
Hỏi nhường ai trước ai sau xáo xào
Bài ca là lời của người vợ lẽ tỉ tê với người chồng về sự đối xử bất công
trong một gia đình. Lời kể mộc mạc thấm thía: Hai dòng không đủ nước tạo
nên vực sâu, hai gia đình chung nhau một bàn xản nấu rau, ai nhường ai dùng
trước?
Bài ca không có lời than vãn, oán trách nào trực tiếp được cất lên. Cô
không than bởi cất lời nên nói với chồng thật ngại ngùng. Cô chỉ kể sự kể
việc. Và chính trong từng sự việc ấy ta chợt nhận ra các số phận hẩm hiu bé
mọn của những kiếp người đi làm lẽ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Xưa kia, nhất là ở miền núi, tam tòng lễ giáo của phong kiến thật có
sức mạnh vô hình không sao kiểm soát được. Con gái còn ở trong gia đình,
mọi việc đều phải nghe theo cha mẹ nên khi nói chuyện lấy chồng, trên cửa
miệng mới có câu “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Với chế độ xưa việc con
cái lấy chồng là do bố mẹ qui định cộng thêm sự ràng buộc của “môn đăng
hậu đối” của đồng tiền, của hợp số mệnh ghi trong cuốn “Ngọc hạp”… Tất cả
các tục lệ khắc nghiệt đó đã kìm hãm trói buộc cuộc đời người phụ nữ khá
nặng nề. Vì vậy cuộc sống của họ không có cảnh vui tươi hoan hỷ, thay vào
đó chỉ có cái buồn thảm nuối tiếc khuôn nguôi:
Anh bảo em bỏ đi lấy chông
Ngày đêm khúc khích mừng buồng cô dâu
Sao anh lỡ buông câu cay cực
Nước mắt dài vắt ngực ai hay
Nước mắt em làm cỗ mời chồng
Nước mắt em là rượu cay mời họ
Với sự tham gia của yếu tố tự sự, ở đây ngoài tâm trạng còn có hành
động sự việc. Và trong chính những sự việc còn mang tính ước lệ, khái quát
ấy, những nỗi có cực những cảnh bất hạnh được ghi lại khá chân thực và rõ
nét. Rõ ràng trong bài ca này không chỉ thấy nỗi niềm mà còn thấy cảnh ngộ.
Cần phải nói trọng tâm của bài ca vẫn là tâm sự là nỗi niềm chất chứa
chứ không phải là cảnh ngộ của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, song
với sự xuất hiện của yếu tố tự sự, dù không chủ ý, trong tâm sự riêng ấy vẫn
thấy bóng dáng của những hủ tục lề thói những mảnh đời cơ cực được miêu tả
khá cụ thể.
Từ trong dân ca sinh hoạt của người Tày, ta không chỉ thấy nhiều cảnh
sinh hoạt thường ngày, những cảnh ngộ nỗi niềm, những công việc lao động
vui tươi nhộn nhịp... ở đâu đó trong các bài ca có sự tham gia của yếu tố tự
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
sự, ta còn nghe vang lên tiếng vọng của lịch sử dân tộc, ngay từ thời kỳ dân
tộc dưới sự thống trị của bọn bành trướng phương Bắc. Trong số chứng tích
còn lại cần phải kể đến các bài lượn đi sứ.
Thủa xưa, đối với người dân lao động bình thường, đi sứ thực chất là đi
phu phen tạp dịch cho đoàn hộ tống thiên triều, phải vượt qua hàng ngàn dặm
núi non hiểm trở, phải trải qua hàng năm trường dài đằng đẵng, xa gia đình
êm ấm, có khi có đi mà không có về. Bằng việc mượn tích truyện “Chiêu
Quân cống Hồ” bài lượn đã ghi chép lại một cách đầy đủ và sắc sảo thảm
cảnh của những người phải giã biệt gia đình đi sứ:
Chiêu quân đí sứ phải mượn thuyền
Vạn dặm sông nước biết bao xa
Mười năm đêm ngằy trên mặt nước
Mặt ngắm xuống nước một mình ta
Và:
Chiêu quân đi sứ tới canh hai
Đi sư thiên triều khổ lắm thay
Đi sứ thiên triều thật khổ lắm
Thương con sương gió ở quê người.
Nội dung trữ tình tha thiết được thể hiện theo nối tự sự điệp khúc kết
hợp với làn điệu trầm buồn làm cho bài lượn này có sức gợi cảm khá mạnh.
Mỗi khổ thơ trong bài ca cất lên như những khúc nhạc liên hoàn dội đi dội lại
mãi, làm cho ta thấy rõ cảnh ngộ đáng thương cũng như nỗi niềm khắc khoải
của bao ông bố bà mẹ, của bao người vợ hiền, con dại trải qua các canh chày
của đêm thâu mong đợi, nhớ thương. Có thể nói cùng với các thể loại tự sự
khác, những bài lượn này đã góp phần ghi lại những hình ảnh chân thực của
người dân Tày dưới sự thống trị của bọn phong kiến phương Bắc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Không ai có thể phủ nhận rằng: Văn học bao giờ cũng bắt nguồn từ
hiện thực và phản ánh hiện thực đó vào trong tác phẩm. Nhưng cách phản ánh
hiện thực của từng thể loại văn học dân gian không phải là hoàn toàn giống
nhau.
Hiện thực trong thần thoại là hiện thực của thiên nhiên đã được nhân
hoá, của sự chinh phục tự nhiên trong tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng.
Hiện thực trong truyền thuyết là hiện thực đã được lý tưởng hoá.
Hiện thực trong cổ tích là hiện thực của ước mơ, hiện thực của những
chiếc thảm biết bay, của đôi hài vạn dặm. Hay có thể nói hiện thực trong
truyện cổ tích là phi hiện thực.
Hiện thực trong dân ca sinh hoạt là hiện thực đã được tái hiện lại, được
nhận thức thẩm mỹ nhào nặn theo cơ chế trữ tình dân gian. Do vậy hiện thực
cuộc sống khúc xạ ở đây chỉ dừng lại ở một cảnh ngộ, nỗi niềm, một số phận
mang tính phổ biến trong xã hội đã được khái quát hoá, một nét làm ăn quen
thuộc hoặc có thể là một mảnh vỡ của lịch sử đã tồn tại trong các thể loại
khác đồng vọng vào dân ca.
Nhìn lại sự hiện diện của yếu tố tự sự trong dân ca Tày, có lẽ các nhà
thơ dân gian không phải lúc nào cũng có chủ định đưa các sự kiện của cuộc
sống vào sáng tác. Song cả khi họ có ý thức đưa sự kiện của cuộc sống vào
trong tiếng hát lời ca thì tự sự trong loại hình tự sự dân gian cũng không có
được ý nghĩa độc lập, chi tiết và cụ thể như trong loại hình trữ tình trong dòng
văn học thành văn. Tuy vậy sự xuất hiện của yếu tố tự sự trong các bài ca trữ
tình dân gian này cũng đã góp phần tích cực vào việc phản ánh những nét sinh
hoạt khác nhau trong cuộc sống của người lao động xưa.
3.2 Yếu tố tự sự với mục đích kể sự tả tình
Trong một bài dân ca, ngoài mối quan hệ giữa ý và tứ thì quan hệ giữa
“sự” và “tình” cũng là một điều đáng chú ý. Có thể nói “sự ”là thể xác, “tình”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
là linh hồn của một bài ca. muốn lập ý diễn tình và cấu tứ nói chung đều phải
nhờ đến “sự”, mặc dù bản thân “sự” nếu tách rời ra sẽ mất hết nội dung ý
nghĩa nhưng nếu thiếu nó thì “tình” khó bộc lộ và tứ cũng khó hình thành.
Cho nên có thể nói “sự” là cơ sở là là điểm tựa cho tư tưởng, tình cảm bám rễ
vào mà tồn tại, phát triển.
Xuất hiện trong một bài ca cụ thể “sự ” không chỉ góp phần đắc lực vào
việc miêu tả cuộc sống lao động xưa mà còn gợi tứ, làm nền cho cảm hứng
trữ tình xuất hiện. “Sự” được kể lể trần thuật trước để cho “tình” được giã i
bày, thổ lộ sau. Với vai trò kể sự tả tình, yếu tố tự sự xuất hiện đã :
- Giúp cho nhân vật trữ tình kín đáo giãi bày tình cảm.
- Tạo cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai.
3.2.1 Giúp cho nhân vật trữ tình kín đáo giãi bày tình cảm.
Trong dân ca Tày, nhiều khi cảnh ngộ tình cảm chỉ được biểu hiện gián
tiếp, thậm chí ẩn sâu trong lợi tự tình của nhân vật, chẳng hạn trong bài ca
sau:
Có tiền chuộc thân em với
Để em làm tớ lâu dài
Thuê tớ sợ mất tài mất của
Chuộc em về ở cả trăm năm.
Bài ca vốn được xác định thuộc chùm những câu ca nói về tình cảnh
người con gái bị ép gả, cưỡng hôn. Xét trong toàn cảnh bài ca không có chi
tiết nào nói về cảnh ngộ đấy. Nhưng từ lời cầu xin thảm thiết, từ cách hạ mình
đến xót xa, tự thân lời ca đã hé mở chút gì về thân phận cảnh ngộ của người
con gái.
Lại có trường hợp cảnh ngộ được biểu hiện trực tiếp nhưng những điều
muốn nói của bài ca không phải là những chi tiết kể về tình cảnh của nhân vật
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
trữ tình. Cái cốt yếu lại nằm trong những dòng bộc lộ cảm xúc. Lúc này ta cần
phải chú ý đến vai trò của yếu tố miêu tả trong việc diễn đạt cảm xúc trữ tình.
Tuy trong nhiều bài hát trữ tình dân gian, cốt truyện không được xây
dựng ký lưỡng như trong thơ ca tự sự nhưng trong nội dung của một số bài ca
vẫn có tính trần thuật độc đáo. Điều này có được là do bên cạnh ngôn ngữ độc
thoại nội tâm của nhân vật trữ tình, trong bài ca còn xuất hiện nhiều đoạn
miêu tả và trần thuật. Sự xuất hiện của những phiến đoạn này đã có lúc làm
cho một bài ca trữ tình tưởng chừng như gần đến ranh giới của tác phẩm tự
sự. Ở đây chủ thể trữ tình đáng lẽ bộc lộ mình ra thì lại chìm đi trong bài ca.
Những cảm xúc trữ tình, những độc thoại đáng lẽ có thể bộc lộ trực tiếp thì lại
được biểu lộ gián tiếp. Bài ca nhờ vậy có thêm đất để thể hiện những cảm xúc
trữ tình một cách đa dạng hơn, có nhiều điều muốn nói mà không thể nói ra
trực tiếp hoặc đơn giản khó nói thành lời, có thể nhờ vậy mà được thổ lộ.
Chẳng hạn bài ca sau:
Gió đưa xui lá đổ vàng
Mẹ cha sắm đủ chăn màn cho em
Năm nay hoặc nán năm thêm
Vịn thang chân bước xuống thềm xuất gia
Hai dòng đất ướt lệ sa
Mẹ cha gả bán định gia chớ buồn
Cúi đầu mà bước thì hơn
Cái tờ lục mệnh chẳng còn trong tay
Làm sao họ trả em đây
Khác chi bán đoạn ruộng này em ơi
Trong mấy câu ngắn gọn bài ca đã miêu tả cảnh não nề buồn thảm của
người con gái trong ngày xuất giá. Các diễn biến của buổi lễ đã được chọn lọc
và ghi lại trong những hình ảnh đầy sắc nét. Ở đây có nói đến cảm xúc của
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
người con gái, Đó là nỗi xót xa oán hận trong cảnh vịn thang xuống thềm mà
nước mắt chứa chan, là sự cam chịu, nhẫn nhục trong cảnh cúi đầu cất bước ra
đi, là nỗi bất lực trước sức mạnh vô hình của tờ số mệnh. Nhưng tất cả những
cảm xúc ấy không được cô gái tâm sự trực tiếp cảm xúc này dường như được
thuật lại một cách gián tiếp thông qua cái nhìn của người thứ hai đứng ngoài
câu chuyện. Bài ca vì thế chẳng những diễn tả được cảnh ngộ đáng thương
của cô gái trong lễ vu quy mà còn tạo nên sắc điệu trữ tình buồn bã ngân vang
qua một loạt sự kiện chi tiết được miêu tả. Cái tủi hận cho số phận, một chút
oán trách mẹ cha cũng nhờ những “vỏ bọc” khách quan này mà kín đáo được
bộc lộ. Như vậy có thể thấy trong những bài ca có xuất hiện của yếu tố tự sự,
người đọc có thể nhận ra những thông tin cụ thể, chính xác về số phận cảnh
ngộ của nhân vật. Nhưng mặt khác, nói như Heghen “cái giọng cơ bản vẫn
chủ yếu là có tính chất trữ tình”. Bởi vì nhân vật trữ tình không trình bày thản
nhiên sự việc mà thông qua đó bộc lộ quan niệm cách nghĩ của mình về sự
việc, biểu lộ lòng căm giận hay yêu thương, niềm vui hay nỗi buồn, sự thất
vọng hay niềm tin tưởng. Những cảm xúc này kín đáo giấu dưới nội dung tự
sự đang hiển hiện trên bề mặt câu chữ của bài ca.
Tính kín đáo mà yếu tố tự sự đem lại cho bài ca trữ tình là một trong
những đặc tính rất được mảng dân ca giao duyên ưa chuộng. Trong tình yêu
không phải lúc nào cũng có thể mạnh dạn và táo bạo ướm hỏi:
Lại đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này có lấy anh không
Có thể trong lao động, nam nữ thanh niên đã để ý đến nhau, gặp nhau
nơi đầu mày cuối mắt nhưng chưa có dịp nào, chưa có cơ hội nào để bày tỏ
lòng yêu của mình. Điều khó khăn nhất lúc này là phải tìm cho được cái lý do
để bắt đầu câu chuyện, tạo cho ra cái cớ để giãi bày tình cảm, có như thế mới
mong mọi chuyện “thông dòng bén giọt”, mới hy vọng chiếm được tình cảm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
của người mình yêu. Song tình yêu vốn nhiều sáng kiến, cho nên mỗi thời con
trai con gái đều có cái riêng, và mỗi mối tình lại có cách bày tỏ riêng. Cô gái
trong bài ca sau cùng tìm cho mình cách mở đầu câu chuyện rất riêng:
Đã đến giờ thân sắp tối trời
Đến bữa cơm chiều họ gọi nhau
Người ta đủ đến cười vui vẻ
Đến bữa cùng mâm gắp cho nhau
Thân em như đũa chẳng trọn đôi
Có cá muốn ăn gắp chẳng được
Đũa anh nếu như còn thiếu một
Anh ơi! Hai chiếc ta gộp lại
Đũa lẻ gộp lại thành đũa đôi
Để anh gắp trước đến em sau.
Bài ca được mở ra bằng lời giới thiệu về thời gian. Lựa chọn thời điểm
sắp tối, một thời điểm dễ gợi lên cảm xúc trong lòng người, dường như cô gái
đã kín đáo gửi gắm một tâm sự gì ở đây.
Giờ thân, sắp tối là lúc mọi người quây quần vui vẻ trao cho nhau
những lời hỏi han ân cần, gửi đến nhau những cử chỉ yêu thương quanh mâm
cơm sum họp. Đây cũng là lúc mọi người có đôi có cặp, có gia đình, có thể là
lúc đánh thức khát khao hạnh phúc trong lòng cô gái trẻ. Chính lúc này cô
mới thấm trọn cảnh cô đơn lẻ bạn. Trong các cảnh đối lập được gợi ra, lời kể
sao mà xót xa buồn tủi:
Đến bữa cùng mâm gắp cho nhau
Thân em như đũa chẳng trọn đôi
Có cá muốn ăn gắp chẳng được.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Sáu câu đầu hoàn toàn là sự việc là lời kể cảnh ngộ. Nhưng ẩn giấu
trong những lời kể đấy là biết bao tâm sự, khát vọng. Và vẫn cái đà kể lể giãi
bày, cô gái đã dẫn dắt câu chuyện bằng một giả định chan chứa tình cảm.
Đũa anh nếu như còn thiếu một
Hết sức khéo léo tự nhiên, tế nhị và kín đáo, cô gái bày tỏ nguyện vọng:
Anh ơi! Hai chiếc ta gộp lại
Đũa lẻ gộp lại thành đũa đôi
Và cái sự quan tâm, nhường nhịn, cái đức hy sinh trong cấu cuối lại
một lần nữa hé lộ tình ý của cô gái:
Để anh gắp trước đến em sau.
Bấy nhiêu lời cũng đã đủ thấy cô gái sử dụng lối nói bóng gió, ý nhị,
duyên dáng về một câu chuyện thật khó nói bằng một lối nói khác. Yếu tố tự
sự với sự hợp nhất của những chi tiết sự việc đã phục vụ hiệu quả cho cô gái
trong việc kín đáo giãi bày tình cảm.
Chàng trai là người thông minh và cũng không kém phần tế nhị sẽ hiểu
được tình cảm chân thành của cô gái gói kín bên trong câu chuyện tình tứ kia.
Cái hay của bài ca này chính là từ những sự việc, những lý do rất hợp
lý bên ngoài mà cô gái đã dẫn đến tình cảm rất chân thành tha thiết bên trong.
Cái cớ và sự thật, sự thật và cái cớ có mối quan hệ gắn bó rất hài hoà. Cái cớ
không che khuất sự thật, sự thật cũng không trần trụi sỗ sàng mà tựa rất chắc
vào cái cớ. Tình thế độc đáo này đã tạo cho cô gái một khả năng tỏ tình vừa tế
nhị vừa mạnh bạo, vừa kín đáo lại vừa rành mạch.
Cảm hững trữ tình vốn phong phú, nhiều mầu vẻ, giàu sắc điệu. Không
có ý cho rằng, phương thức trữ tình không đủ khả năng biểu hiện hết các nội
dung này. Song trong quá trình khảo sát và phân tích, chúng tôi nhận thấy
trong những bài dân ca có sự tham gia của yếu tố tự sự, “sự” và “tình” thường
đi đôi với nhau. “Sự” do “tình” mà nảy sinh, “tình” nhờ “sự ” mà bộc lộ. Tình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
cảm và sự việc trong cùng một bài ca như hồn với xác. Không có tình cảm
chân thực thiết tha thì sự việc trong bài ca sẽ trở thành cái xác không hồn.
Ngược lại, không có sự việc thì trong những trường hợp tình cảm không có
nơi nương tựa và do vậy khó có thể tồn tại được. Sự xuất hiện của yếu tố tự
sự trong một bài ca không làm cho tính trữ tình mờ nhạt đi, trái lại hai hình
thức ấy cùng nương tựa vào nhau, bổ xung cho nhau trong việc thực hiện
chức năng “biểu hiện cảm hứng trữ tình của đời sống dân tộc” trong dân ca.
3.2.2 Tạo cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai.
Khách vào bản là sự việc quan trọng trong đời sống cả bản. Người Tày
vốn hồn hậu chân thành và đặc biệt có lòng mến khách nên mõi khi có người
vào bản, cả bản sẽ đến thăm hỏi trò chuyện thân mật. Để cho không khí vui
tươi, để cho câu chuyện tế nhị, duyên dáng họ dùng những tiếng hát lời ca để
ướm hỏi, chào mừng nhau. Chủ chào khách ướm hỏi khách bằng những hình
ảnh bóng bảy thanh cao “hôm nay thấy đôi nhạn cánh thắm đi qua”… “đôi
ưng cánh đỏ đi vào…”, “thấy sao rơi xuống bản”, “thấy trăng ngả xuống
mường”…
Để mời khách ở lại cùng nhau cất lên tiếng hát lời ca làm vui bản vui
mường, họ thường tạo ra một duyên cớ, một lời dẫn để cảm xúc trữ tình, để
mong ước, nguyện vọng dựa vào đó mà trực tiếp giãi bày. Lúc này tự sự xuất
hiện như một yêu cầu cần thiết của con người và cuộc sống. Tự sự xuất hiện
đã làm cho trữ tình có chỗ dựa vững chắc, có thêm nghĩa lý để triển khai.
Chẳng hạn:
Chiều nay em hái là dâu
Thấy đôi phượng trẻ rủ nhau bay về
Biết đâu phượng đỗ hay đi
Mơ hồ em thấy nỗi gì phân vân
Cơm chiều chắc chửa được ăn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Em xin lượn vẫn băn khoăn ưng chiều
Nếu ưng xin lượng đánh liều.
Năm câu đầu hoàn toàn là lời kể của nhân vật trữ tình. Trong lời kể dù
rằng ngắn gọn đó, ta vẫn thấy có bóng dáng của một câu chuyện. Có không
gian: chiều nay, có nhân vật : tự xưng “em”, có hoạt động: “hái lá dâu” và có
cả hình ảnh đầy ý nghĩa ẩn dụ “đôi phượng trẻ”, lại có cả chút gì mơ hồ, phân
vân trong tình cảm của nhân vật trữ tình…
Nếu dừng lại ở đây, bài ca dường như vẫn thiêu thiếu một cái gì đó.
Song không chỉ có vậy, cái trạng thái lo lửng của bài ca hoàn toàn được lấp
đầy bằng hai câu cuối:
Em xin lượn vẫn băng khoăn ưng chiều
Nếu ưng xin lượn đánh liều
Năm câu đầu hoàn toàn là “sự”, hai câu cuối, khi cái mạch tự sự hoàn
toàn khép lại thì tâm sự trữ tình mới trực tiếp mở ra. Đúng là trọng tâm của
bài ca chỉ dồn vào hai câu. Không có năm câu đầu người đọc vẫn hiểu được
cái tâm sự ước vọng của nhân vật trữ tình. Song giả sử không có “sự” ở năm
câu đầu e rằng lời mời luợn cất lên có phần đường đột, bất ngờ, thiếu hẳn cái
tế nhị, duyên dáng mà người con gái kín đáo gửi gắm trong đó.
Trong bài ca trên tình cảm đã được bộc lộ và phát triên trên cơ sở nhiều
sự việc cụ thể. Trữ tình được nảy sinh trên cơ sở của tự sự. “Sự ” xuất hiện đã
tạo ra một duyên cố, một chỗ dựa vững chắc để “tình” bắt vào mà bộc lộ, giãi
bày. Sử dụng hình thức tự sự làm nền, mặt trữ tình đã nói được sâu sắc, tế nhị
những suy nghĩ tình cảm của mình.
Như vậy, có thể nói ở một khía cạnh nào đó “sự” và “tình” là hai yếu
tố đối lập nhau, song khi xuất hiện trong một bài ca, “sự” đã tạo được mối
quan hệ gần gũi với “tình”. “sự” đã trở thành điểm tựa vững chắc cho “tình”
xuất hiện. Bài ca sau đây là một ví dụ:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Anh bước chân đến đầu bản chiều tà
Tay áo vãy mặt tròi không lại
Mặt trời đã vội vã về tây
Thân anh cách xứ hỏi han
Ơn chủ có lòng thương thân thiết
Cho chúng tôi nghỉ trọ được không.
Xem xét toàn bộ bài ca, có thể thấy rõ đây là lời của chàng trai muốn
dừng lại bản để hát tiếp. Thật ra cái cốt lõi của vấn đề chỉ nằm trong hai câu
cuối:
Ơn chủ có lòng thương thân thiết
Cho chúng tôi nghỉ trọ được không.
Nhưng nếu nói thật nói thẳng ngay ý tứ này thì e hơi khó. Bởi dẫu sao
cùng là lời nhờ vả, mong muốn. Người Tày vốn ưa sự tế nhị và kín đáo. Nên
chàng trai phải lựa cách nói sao cho “thông dòng, bén giọt” mới mong chiếm
được cảm tình của chủ nhà. Và chàng đã lựa chọn bằng cách đưa ra những lý
do rất thuyết phục:
Anh bước chân đến đầu bản chiều tà
Tay áo vãy mặt tròi không lại
Mặt trời đã vội vã về tây
Thân anh cách xứ hỏi han.
Ngay cái mở đầu đã có ba yếu tố: thời gian, không gian và sự việc.
Thời gian : “chiều tà”, không gian: đầu bản, hoạt động: bước chân.
Hai câu tiếp theo càng xoáy đi xoáy lại vào thời gian lúc chiều tà. Hình
ảnh mắt trời được lặp đi lặp lại như một sự ngụ ý đầy kín đáo thiết tha.
Tay áo vẫy mặt trời không lại
Mặt trời đã vội vã về tây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ý tứ đi từ xa xôi đến gần, đến câu thứ ba, cái hàm ý càng lộ ra trong
hình ảnh đầy sức gợi “thân anh xa xứ”. Đến đây dường như các lý do đưa ra
đã đầy đủ chặt chẽ. Nên chàng trai đã kết thúc lời kể lể để chuyển sang các
tâm tình đầy ước vọng, thành ý và thiết tha:
Ơn chủ có lòng thương thân thiết
Cho chúng tôi nghỉ trọ một đêm
Như vậy tất cả sự việc được kể ở bốn câu đầu đều chỉ nhằm dẫn dắt đến
cái mục đích gói gọn trong hai câu cuối. Cái “sự ” kể trên cũng chỉ làm thắt
chặt cái “tình” ở dưới. Cho nên dù chỉ xuất hiện trong bốn câu đầu nhưng vai
trò của yếu tố tự sự là không thể phủ nhận. Dù chỉ là một điểm tựa song
không có điểm tựa ấy cảm xúc trữ tình khó tìm được lý do để bắt đầu xuất
hiện, bộc lộ.
Từ đó có thể thấy trong các lời ca kể chuyện tuy cũng có “sự” nhưng
nổi lên bình diện thứ nhất của việc kể và tả lại là “tình”, là nỗi niềm của nhân
vật. Ở đây câu chuyện được kể không cần mang đầy đủ cái vẻ ngoài vốn có
của nó như trong thực tại. Điều đáng lưu ý hơn cả là cảm xúc tâm lý của nhân
vật trữ tình phản ứng lại trước những biểu hiện, những vẻ bề ngoài của sự
việc. Câu chuyện được kể trong dân ca là câu chuyện tâm tình, là nỗi niềm
được kể lể hơn là một cảnh ngộ được thuật lại. “Sự” xuất hiện không phải để
xác định khách thể mà để tạo ra duyên cớ vững chắc cho “tình” được thổ lộ,
giãi bầy.
Tóm lại, với vai trò kể sự tả tình, yếu tố tự sự xuất hiện không chỉ giúp
nhân vật trữ tình kín đáo bầy tỏ tình cảm mà ở một số bài ca yếu tố này còn
tạo ra cái nền duyên dáng, cái cớ vững chắc để nhân vật trữ tình có thể dựa
vào đó mà trực tiếp giãi bày tình cảm. Sự xuất hiện của yếu tố tự sự đã khiến
cho cảm hứng trữ tình có thêm nghĩa lý để triển khai, xuất hiện một cách dễ
dàng mà vẫn sâu sắc. “Tự sự giống như cái mắc để treo bức tranh, như đôi bờ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
đất để dòng sông chảy, mà nếu như không có cái mắc đó thì bức tranh không
thể treo lên, không có bờ đất thì nước chẳng thể chảy theo một dòng nhất
định.” [55, 28]
3.3 Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình
Nhân vật là một thành tố không thể thiếu trong tác phẩm tự sự. Truyện
có thể không có cốt truyện, không theo một trình tự thời gian nào, nhưng
không thể thiếu nhân vật. Tác phẩm trữ tình cũng có nhân vật và thường chỉ
có một đến hai nhân vật. Khác với tác phẩm tự sự, trong dân ca Tày nói riêng,
trong những bài hát trữ tình dân gian nói chung, nhân vật thường mang tính
phiếm chỉ. Tức là nhân vật không có tên, không có lý lịch ngoại hình, tính
cách... Xét về mức độ phiếm chỉ, nhân vật có thể chia làm hai loại: Nhân vật
phiếm chi ở mức độ rộng và nhân vật phiếm chi ở mức độ hẹp.
Ở mức độ rộng, nhân vật không xuất hiện như một cá thể cụ thể mà có
thể là bất kì ai. Ở đây, nhân vật trữ tình thường ẩn đi, lời ca trở thành tiếng
nói chung của mọi người:
Lục khu mảnh đất cheo leo
Vắt cơm nếp chẳng vắt keo vẫn rời
Ở mức độ hẹp, nhân vật thường xuất hiện trực tiếp trong bài ca, có thể
là chàng trai, cô gái, người phụ nữ làm lẽ mọn, người đi ở… nhưng đó không
phải là một cá nhân được cụ thể hoá, mà là một cá nhân phiếm chỉ đại diện
cho một lớp người, một loại người trong xã hội:
Vì chưng bác mẹ em nghèo
Vừa ăn bữa sáng bữa chiều đã lo
Phí đi cái tuổi học trò
Bút nghiên nào biết nhỏ to vắn dài
Song ở một số bài ca, do sự giao thoa với yếu tố tự sự, mặt trữ tình
không chỉ trực tiếp xuất hiện bộc lộ nội tâm tình cảm của mình mà còn được
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
miêu tả khá cụ thể diện mạo, hành động, suy nghĩ dưới cái nhìn của người thứ
hai. Điều này đã phủ lên nhân vật trữ tình một dáng dấp quen thuộc của nhân
vật tự sự. Vì vậy nhân vật trong bài ca đó tuy vẫn là nhân vật phiếm chỉ, chưa
có được vẻ ngoài, nội tâm, lý lịch chi tiết như nhân vật tự sự, vẫn chỉ là một
đại diện cho một nhóm người, một loại người trong xã hội, song cũng đã có
một nét riêng biệt với nhân vật khác.
Từ đó có thể nói sự góp phần làm cụ thể hoá một nhân vật trữ tình, tất
nhiên tính cá thể ở đây cũng chỉ dừng lại ở mức độ tương đối. Do sự khác
nhau về loại hình và phương thức phản ánh, nhân vật trong dân ca không thể
đạt tới mức cá thể cao độ như trong những tác phẩm thuộc các loại hình còn
lại. Đó không phải là anh A, chị B với tất cả những nét riêng biệt khác với các
cá nhân khác trong tập thể. Song do sự xuất hiện của yếu tố tự sự, nhân vật trữ
tình cũng đã được bổ sung thêm một số nét riêng để phân biệt với nhân vật
khác trong cùng một nhóm. Ranh giới phân biệt này tuy còn khá mờ nhạt
nhưng cũng khẳng định được vai trò tích cực của yếu tố tự sự trong việc cá
thể hoá nhân vật trữ tình. So sánh hai bài ca dao sau để thấy rõ điều ấy:
Bài thứ nhất:
Vợ anh em đã thấy
Thấy mặt mũi bèm chiêm
Chân cong như chuôi liềm đơm ngược
Và nội dung của bài thứ hai:
Vợ anh em đã thấy mà
Mo nang làm nón chăn bò ngẩn ngơ
Địu con bằng sợi dây po
Khắp mình bẩn thỉu nên dơ tội tình
Đứng xa đã thấy hôi tanh
Làm sao chung ở cho đành anh ơi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Hai bài đều là lời một cô gái miêu tả về người vợ của bạn. Gạt bỏ
những dụng ý khác trong bài ca. Nếu chỉ chú ý vào yếu tố miêu tả nhân vật, rõ
ràng có thể thấy đây là hai con người hoàn toàn khác nhau. Một bên có ngoại
hình: “Mặt mũi bèm chiêm, chân cong như chuôi liềm đơm ngược”, một bên
lại là người “lấy mo nang làm nón, địu con bằng sợ dây po, khắp mình bản
thỉu”. Hai nhân vật được miêu tả trong đây đều là nhân vật phiếm chỉ. Nhưng
do được miêu tả ngoại hình họ đã bắt đầu có nhữg nét riêng phân biệt với
nhau và có thể phân biệt với một số nhân vật khác trong cùng chủ đề.
Nếu như trong những bài ca thuần tuý trữ tình nhân vật chỉ được biết
đến bởi một nét tâm trạng điển hình trong một hoàn cảnh điển hình. Ở đó tính
cách chỉ được biết đến qua tâm lý, suy nghĩ và cảm xúc cho nên nhân vật chỉ
hiện lên rất mờ nhạt, thì trong nhũng tác phẩm có sự tham gia của yếu tố tự sự
nhân vật còn được làm đầy, tô thêm bởi các hành động cử chỉ, tính cách.
Trở lại bài ca sau:
Gió đưa xui lá đổ vàng
Mẹ cha sắm đủ chăn màn cho em
Năm nay hoặc nán năm thêm
Vịn thang chân bước xuống thềm xuất gia
Hai dòng đất ướt lệ sa
Mẹ cha gả bán định gia chớ buồn
Cúi đầu mà bước thì hơn
Cái tờ lục mệnh chẳng còn trong tay
Làm sao họ trả em đây
Khác chi bán đoạn ruộng này em ơi
Nhân vật chính nhân vật trọng tâm trong bài ca này là một cô gái, hoàn
cảnh một cô gái đang trong ngày lễ xuất giá. Nhìn lại toàn bộ biểu hiện của cô
gái, từ các hành động “vịn thang cúi đầu lặng lẽ đi” đến cái cử chỉ mặc cho
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
các giọt nước mắt lã chã tuôn rơi, có thể thấy đây là một cô gái yếu đuối, cam
chịu và lệ thuộc. Cô buồn bã đau khổ cho số phận của mình, nhưng có lẽ khóc
rồi lại thôi. Cô không biết làm gì và cũng chẳng biết phải làm gì để giải thoát
cho bản thân.
Cùng chung cảnh ngộ với cô, cũng đã bị bố mẹ gả bán, ép buộc, nhưng
cô gái trong bài ca sau có cách xử lý hoàn toàn khác :
Tròn tròn quả mận nơi đèo kia
Anh ơi có tiền chuộc ta về
Chuộc về bố mẹ dù không nhận
Ta đi hành khất khắp vùng quê
Kiếm được lưng nào ta sẽ nấu
Anh cứ ăn cơm em ăn chè
Anh lên núi đá tìm kiếm gỗ
Em mang liềm đi cắt gianh về
Nhà ngói ván bưng ta chẳng ở
Ta sẽ dựng lên một trái hè
Dẫu không thể chống lại việc gả bán, ép buộc của cha mẹ nhưng cô
không cam chịu cảnh sống bất hạnh đó suốt đời. Sống ở nhà người cô vẫn
không nguôi nhớ nhung người bạn tình xưa. Trong cô bùng cháy lên ước ao
trở về với người yêu chung sống. Táo bạo và sâu sắc, kiên quyết và chủ động
hơn cô dám đối diện với cảnh:
Chuộc về bố mẹ dù không nhận
Và sẵn sành chấp nhận:
Ta đi hành khất khắp vùng quê
Vẫn cái ý thức chống lại lễ giáo, phong kiến, vẫn cái ý thức phản kháng
mạnh mẽ chống cự lại những cuộc hôn nhân không có độ chín của tình yêu,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
chị đã vạch ra cả một kế hoạch cụ thể cho tương lai. Yếu tố tự sự đã trần thuật
và mô tả lại một cách tỉ mỉ và chân thực:
Anh cứ ăn cơm em ăn chè
Anh lên núi đá tìm kiếm gỗ
Em mang liềm đi cắt gianh về
Nhà ngói ván bưng ta chẳng ở
Ta sẽ dựng lên một trái hè
Từ đấu đến cuối bằng việc tập trung miêu tả hành động, hình ảnh người
phụ nữ chủ động và mạnh mẽ đã dần hiện lên sống động trước mắt người đọc.
Như vật trong cùng một hoàn cảnh, do những hành động và cách xử lý
khác nhau, ta thấy hiện lên hai con người, hai tính cách hoàn toàn khác nhau:
một cam chịu, một phản kháng mãnh liệt, một thụ động, một chủ động…Điều
đó làm cho hai nhân vật này dẫu vẫn chưa thoát ra khỏi tính phiếm chỉ nhưng
bước đầu đã có nét riêng phân biệt với nhau, với chính các nhân vật khác
trong cùng một lớp người, một loại người.
Phương pháp xây dựng nhân vật trong dân ca sinh hoạt của người Tày
có xu hướng tạo ra những nhân vật không có tính xác định về đặc điểm, diện
mạo, tính cách. Nhân vật chàng trai, cô gái, người lính, người vợ lẽ, mồ côi…
đều là những nhân vật không tên. Nhân vật trữ tình trong dân ca thường chỉ
hiện lên với nỗi niềm tâm sự chung mà không có cái tôi riêng. Khi có sự xuất
hiện của yếu tố miêu tả và trần thuật hình tượng nhân vật vẫn có “tính ứng
dụng chung” cho tất cả mọi người cần phát biểu những suy nghĩ hay bày tỏ
tình cảm. Song sự xuất hiện này cũng đã góp phần tô đậm làm rõ hơn sự có
mặt của nhân vật trữ tình và mang đến cho nhân vật một vẻ riêng, nét riêng
không lặp lại ở các nhân vật trữ tình khác.
* Tiểu kết:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Ngay từ thủa trong nôi trẻ con Tày đã biết đến tiếng hát lời ca qua lời
ru của mẹ của chị. Lớn lên đến cái tuổi chớm yêu hầu hết nam, nữ đã biết
rành câu hát, giọng ngân trầm bổng và làn điệu vào từng lúc cho phù hợp.
Hát dân ca của người Tày tương tự như hò đối đáp của người Kinh.
Nếu người con trai muốn làm quen với người con gái mới nhìn thấy lần đầu
trong một đám hội, hay bỗng dưng gặp nhau trên một đoạn đường thì không
cần phải có người giới thiệu cứ tới gần rồi cất lên giọng hát vu vơ: “Em gái
mặc áo màu hồng/ Hỏi xem em đã có chồng hay chưa”. Cô gái mặc áo hồng
biết rằng chàng hỏi mình, bởi trong đám con gái chỉ có mình mặc áo ấy.
Người con gái nếu muốn làm quen thì lựa một câu cho hợp, nhưng cố gắng
sao cho ăn vần với từ cuối của câu chàng hỏi: “Em nay mười tám cập kê/ Họ
chê em xấu nên chưa có chồng”. Thế là đám bạn của cả hai bên hát phụ họa
“vun vào” cho hai người làm quen. Nếu cô gái đã có bạn trai hoặc đã có
chồng thì không thể ngồi lặng thinh mà cũng phải hát câu “đuổi” khéo: “Lúc
đi cha mẹ dặn rồi/ Phận con con giữ đừng ngồi gần ai”.
Hát đối đáp trong tình yêu như là để thăm dò cả về bản thân lẫn gia
cảnh, thay vì phải nhỏ to tâm sự bằng lời. Nếu nói thật, nói thẳng với nhau e
rằng khó nói hơn là dùng câu sli, câu lượn để giãi bày. Tuy nó văn hoa thật,
nhưng cốt lõi vẫn hướng về cái mình muốn nói. Buổi đầu dùng tiếng hát, lời
ca rất dễ làm quen, đã yêu nhau rồi dùng ca từ càng dễ dàng bày tỏ. Có những
cuộc tình từ khi quen đến khi cưới mỗi chàng trai, cô gái phải hát tới cả ngàn
câu. Không ai có thể thuộc sẵn cả ngàn câu đâu nhưng lúc hát phải sáng tạo
ra. Sáng tạo hay thì được người yêu yêu nhiều hơn vì “anh là người có học
cao, hiểu rộng, thông minh...”, vì lẽ đó mà dân ca Tày rất phong phú. Sự
phong phú về nội dung đã kéo theo sự phong phú về hình thức biểu hiện.
Không có ý cho rằng thuộc tính trữ tình không đủ khả năng diễn đạt hết nội
dung cảm xúc bên trong của đời sống nội tâm nhưng thực tế đã chứng minh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
yếu tố tự sự tham gia rất tích cực vào nhóm tiểu loại dân ca sinh hoạt của
người Tày.
Xuất hiện trong dân ca Tày, song song với việc chiếm một số lượng
đáng kể, yếu tố này còn tìm cho mình những dạng thức biểu hiện vô cùng
phong phú. Điều đó cho phép yếu tố này giữ một vị trí, vai trò khá tích cực
trong những lời ca trữ tình.
Qua quá trình khảo sát và phân tích, chúng tôi nhận thấy, yếu tố tự sự
xuất hiện trong dân ca Tày đã đảm nhiệm những vai trò sau:
- Yếu tố tự sự - một phương tiện đắc dụng phản ánh hiện thực.
- Yếu tố tự sự với mục đích kể sự tả tình.
- Yếu tố tự sự xuất hiện góp phần cá thể hóa nhân vật trữ tình.
Tất nhiên những nội dung trên chưa phải đã hợp thành một cách đầy đủ
vai trò của yếu tố tự sự trong những bài ca trữ tình. Đây chỉ là một số biểu
hiện cụ thể mà chúng tôi đã tìm ra. Song qua đây cũng thấy rằng yếu tố tự sự
xuất hiện không những không làm mờ đi bản chất trữ tình của dân ca mà
ngược lại còn làm cho chất trữ tình đậm đà hơn, đặc sắc hơn.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phần 3: KẾT LUẬN
Ở những bản làng miền núi khi thư thái việc đồng, khi những mùa xuân
trở lại, đây đó lại vang lên điệu lượn cọi, lượn slương, điệu quan lang trình
cửa nhà người, tiếng đàn tính du dương êm ả... Dân ca tự muôn đời đến muôn
đời vẫn vậy, nó tươi thắm cho đời người dịu lại, nó tô mềm đi những sắc cạnh
của cuộc đời, làm cho cuộc đời thêm hương sắc mặn nồng.
Đến với những bản làng người Tày vào những ngày hoa khoe sắc đầu
bản, lá phô màu trên nương, hoặc khi mùa én ương dập dìu xây tổ, sẽ thấy
những cảnh tượng da diết lòng người. Giữa mùa xuân rạo rực, bằng tiếng hát
nồng nàn, từng đôi trai thanh gái lịch đang tình tứ ngỏ lời cùng nhau. Họ nói
với nhau về tấm lòng của họ, kể cho nhau nghe những chuyện thường ngày
vẫn xảy ra nơi thôn cùng ngõ vắng, nơi chiều chiều mây lả ngọn tre, chuyện
làm nương rẫy, chuyện người mẹ, người em và cả những ước mơ, những tâm
sự, khát vọng về hạnh phúc, về tình yêu thiết tha chân thành…Tất cả hơi thở
của cuộc sống đều được cất lên thành tiếng hát lời ca, giản dị mà rung động
lòng người. Có thể nói dân ca đã trở thành một thực thể trong đời sống tinh
thần, một thành phần có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc đáp ứng nhu
cầu bộc lộ tình cảm của những người dân Tày yêu thích ca hát.
Để có thể diễn tả một cách nhuần nhụy và tinh tế thế giới tâm hồn con
người, dân ca đã lựa chọn phương thức trữ tình như một âm hưởng chủ đạo
không thể thay thế. Nhưng chất trữ tình đằm thắm dù rất “đa năng”, riêng nó
không đủ khả năng để biểu đạt hết đời sống nội tâm phong phú nhiều màu vẻ,
giàu sắc điệu của tất cả các kiểu nhân vật trữ tình trong ca dao. Bởi thế yếu tố
tự sự được vận dụng như một sự đáp ứng cần thiết trước nhu cầu phô diễn
tình cảm của con người. Thực tế đã chứng minh yếu tố tự sự tham gia rất tích
cực vào việc phản ánh cái tôi trữ tình. Và qua quá trình khảo sát và phân tích
chúng tôi nhận thấy:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1. Trong kho tàng dân ca Tày có nhiều bài đậm yếu tố trữ tình nhưng cũng
có những bài yếu tố trữ tình lại được bắt đầu từ một duyên cớ nào đó, từ một
“chuyện” nào đó, tức là ngọn nguồn cảm xúc lại được bắt rễ từ cái nền tự sự.
Cụ thể qua 2087 bài ca mà chúng tôi khảo sát có 463 bài có sự xuất hiện của
yếu tố tự sự. Một con số không nhỏ. Nó phần nào cho thấy vị trí của yếu tố
này trong dân ca.
2. Xuất hiện trong dân ca Tày, yếu tố tự sự không chỉ chiếm dung lượng
đáng kể mà còn tìm cho mình những dạng thức biểu hiện vô cùng phong phú.
Trên cơ sở thống kê và phân loại, lấy tiêu chí là cốt truyện, chúng tôi chia các
dạng thức biểu hiện của yếu tố sự trong dân ca ra làm hai tiểu loại:
- Những bài ca có cốt truyện. Dạng thức này lại gồm hai tiểu loại:
+ Những bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh
+ Những bài ca có cốt truyện đơn giản
- Những bài ca không có cốt truyện. Trong dạng thức này có thể kể đến
một số tiểu loại sau:
+ Những bài ca kể chuyện trực tiếp, liền mạch.
+ Những bài ca kể chuyện bâng quơ.
+ Những bài ca kể chuyện xen lẫn cảm xúc trữ tình.
Trong các dạng thức trên, xét về mức độ, yếu tố tự sự xuất hiện đậm
nét trong các bài ca có cốt truyện hoàn chỉnh và mờ nhạt trong những bà i ca
mà yếu tố tự sự chỉ dừng lại ở việc trần thuật đơn giản. Xét về số lượng yếu tố
tự sự biểu hiện ra phổ biến ở dạng trần thuật đơn giản và chỉ chiếm một dung
lượng khiêm tốn dưới hình thức có cốt truyện. Sự hợp thành của các dạng
thức trên đã chứng thực cho sự phong phú trong hình thức biểu hiện của yếu
tố tự sự.
3. Dù chỉ ở vị trí phụ thuộc, mức độ tham gia có lúc đậm lúc nhạt khác
nhau, song yếu tố tự sự xuất hiện vẫn có vai trò nhất định. Qua quá trình tìm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
hiểu, chúng tôi nhận thấy yếu tố tự sự xuất hiện trong dân ca Tày có những
vai trò sau:
- Yếu tố tự sự – một phương diện đắc dụng phản ánh thực.
- Yếu tố tự sự với mục đích kể sự tả tình
- Yếu tố tự sự góp phần cá thể hoá nhân vật trữ tình.
Trong ba vai trò trên thì vai trò thứ hai là quan trọng nhất. Bởi lẽ, dù xuất hiện
ở mức độ đậm nét hay mờ nhạt, tồn tại dưới dạng này hay dạng khác thì sự
xuất hiện của yếu tố này cũng chỉ làm phong phú thêm cho phương thức biểu
đạt cảm hứng trữ tình của đời sống dân tộc.
Tóm lại với ba vai trò trên, tự sự đã khẳng định được vị trí của mình
trong một thể loại tưởng như ít tình tự sự nhất – thể loại dân ca
4. Dân ca là những câu hát, bài hát dân gian được sáng tác theo phương
thức tập thể, được lưu truyền và tái sáng tạo thông qua các hình thức diễn
xướng, ca hát khác nhau, để phô diễn tâm tình của quần chúng, theo quan
điểm thẩm mĩ của nhân dân. Dân ca sinh hoạt của người Tày, về bản chất
thẩm mĩ thể loại chính là những bài ca trữ tình trò chuyện – khác với chất trữ
tình nói chung của thơ ca bác học. Theo đó, có thể nói dân ca chỉ sống một
cách sinh động và bộc lộ hết cái hay cái đẹp trong môi trường diễn xướng,
môi trường trò chuyện, đối đáp. Và chính môi trường sinh hoạt ấy đã tạo ra
hoàn cảnh để yếu tố tự sự tham gia tích cực vào thế giới tâm tình của nhân
vật. Sự đan xen giữa yếu tố tự sự và trữ tình trong dân ca không những không
làm mờ đi tính trữ tình mà càng làm cho nó nổi bật hơn và đời sống nội tâm
của con người đã được bộc lộ dưới nhiều khía cạnh phong phú, khác nhau.
Sự xuất hiện yếu tố tự sự trong dân ca cũng góp phần chứng thực một điều
rằng tự sự với tư cách là yếu tố, phạm vi tham gia của nó không chỉ dừng lại
trong những tác phẩm tự sự. Năng động và tích cực, yếu tố này còn tham gia
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vào rất nhiều thể loại khác. Và dân ca Tày là một minh chứng cụ thể và tiêu
biểu.
5. Thực hiện đề tài này, người viết không có được thuận lợi mà một người
Tày có được. Những khó khăn gặp phải như không được sống gần gũi với
đồng bào Tày, không thạo tiếng nói, không biết chữ viết...chắc chắn sẽ khiến
quá trình tiến hành không tránh khỏi những thiếu sót, mang tính chủ quan.
Nhưng đây là một cơ hội để bản thân có tìm hiểu về loại hình sinh hoạt dân
gian mang đậm dấu ấn sinh hoạt của nhưng con người miền núi yêu thích ca
hát. Hy vọng rằng hoàn thành luận văn sẽ góp một phần nhỏ vào việc phác
thảo diện mạo loại hình trữ tình dân gian này.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Tài liệu tham khảo
1. Arixtot (1997), Nghệ thuật thơ ca, Tạp chí văn học nước ngoài, số 1
2. Triều Ân (1994 ), Sưu tầm, tuyển dịch, giới thiệu, Ca dao Tày Nùng, Nxb
Văn học.
3. Ban Văn học Việt Nam (2004), Tuyển chọn, Lời ca tỏ tình, Nxb Văn học
4. Phương Bằng, Lã Văn Lô (1992), Sưu tầm, phiên âm, dịch, Lượn slương,
Nxb Văn hoá dân tộc.
5. Phương Bằng (1994), sưu tầm, phiên âm, chỉnh lý biên soạn và dịch thuật,
Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc.
6. Dương Kim Bội (1978), Những yếu tố dân ca, ca dao trong lời then (Tày,
Nùng), Tạp chí dân tộc học, số 2, Viện dân tộc học, Ủy ban khoa học xã hội
Việt Nam.
7. Hoàng Thị Cành (1994), Sưu tầm, tuyển dịch, biên soạn, Đồng dao Tày,
Nxb Văn hoá Dân tộc.
8. Nông Quốc Chấn (1994), Chủ biên, Hợp tuyển văn học dân gian các dân
tộc, tập 1, Tày - Nùng - Sán Chay, Nxb Văn hóa dân tộc.
9. Nông Quốc Chấn (2004), Chủ biên, Tinh tuyển văn học Việt Nam - Tập 2 -
quyển 1, Văn học các dân tộc thiểu số, Nxb Khoa học xã hội.
10. Nông Minh Châu (1973), sưu tầm, tuyển dịch, Dân ca đám cưới Tày
Nùng, Nxb Việt Bắc.
11. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2002), Chủ biên, Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia.
12. Vi Văn Hồng (1971), Mấy nhận xét nhỏ về sự biến đổi thơ ca dân gian
Tày - Nùng, Tạp chí văn học, số 2.
13. Vi Văn Hồng (1976), Vài suy nghĩ về hát Quan lang, Lượn, Phong Slư,
Tạp chí văn học, số 3.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14. Vi Hồng (1979), Chủ biên, Sli, lượn, dân ca trữ tình Tày Nùng – Nxb Văn
hoá.
15. Vi Hồng (2001), Sưu tầm, biên soạn, Thì thầm dân ca nghi lễ, Nxb Văn
hoá dân tộc.
16. Đinh Gia Khánh (2002), Chủ biên, Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo
dục.
17. Vũ Ngọc Khánh (2005), Hành trình vào thế giới folklore Việt Nam, Nxb
Thanh niên.
18. Hoàng Ngọc La - Vũ Anh Tuấn - Hoàng Hoa Toàn (1993), Văn hóa dân
gian Tày (Dưới góc độ lịch sử), Bản đánh máy, ĐHSP Việt Bắc.
19. Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân
tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội
20. Cung Văn Lược, Lê Bích Ngân (1987), Lượn cọi Tày – Nùng, Nxb Văn
hóa dân tộc.
21. Hoàng Thị Quỳnh Nha (2003), Sli lượn hát đôi của người Tày Nùng ở
Cao Bằng, Nxb Văn hóa - thông tin.
22. Phan Đăng Nhật (1981), chủ biên, Văn học các dân tộc thiểu số Việt
Nam, Nxb Văn hoá.
23. Võ Quang Nhơn (1983), chủ biên, Văn học dân gian các dân tộc thiểu số,
Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp.
24. Hoàng Văn Páo (2003), Sưu tầm, biên dịch, giới thiệu, Lượn Tày Lạng
Sơn, Nxb Văn hoá Dân tộc
25. Lục Văn Pảo (1994), Sưu tầm, phiên âm, dịch - Lượn cọi, Nxb Văn hoá
dân tộc
26. Lê Trường Phát (1999), Thi pháp Văn học dân gian, Nxb Giáo dục.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
27. Hoàng Quyết - Ma Khánh Bằng - Hoàng Huy Phách - Cung Văn Lược
(1998), Văn hóa truyền thống Tày Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc.
28. Trần Đình Sử (2004), Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm
29. Hà Văn Thư - Lã Văn Lô (1984), Văn hóa Tày Nùng, Nxb Văn hóa.
30. Nguyễn Nam Tiến (1976), Về lượn của người Tày, Tạp chí dân tộc, số 1.
31. Đỗ Bình Trị (1999), Những đặc điểm thi pháp các thể loại văn học dân
gian, Nxb Giáo dục.
32. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Viện văn học (2002),
Tổng tập văn học dân tộc thiểu số - Tập 1 - Quyển 1, Nxb Đà Nẵng.
33. Vũ Anh Tuấn (2004), Truyện thơ Tày, Nxb Đại học Quốc gia.
34. Hoàng Tiến Tựu (1999), Bình giảng ca dao, Nxb Giáo dục.
35. Đặng Nghiêm Vạn (1996), chủ biên, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 37A,
Nxb Khoa học xã hội.
36. Viện văn học (2007), Tổng tập văn học các dân tộc thiểu số, tập 19, Nxb
Khoa học xã hội.
37. Thái Vân (1996), Bước đầu tìm hiểu thơ ca dân gia của người Tày - Nùng
xứ Lạng, Tạp chí văn học, số .
38. Nguyễn Thị Yên (2006), Then Tày, Nxb Khoa học xã hội
39. Phạm Thu Yến (1998), Những thế giới nghệ thuật ca dao, Nxb Giáo dục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV_08_SP_VH_DTHT.pdf