Luận văn Tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO

LỜI MỞ ĐẦU I. Tính cấp thiết của đề tài Hội nhập quốc tế nhằm tranh thủ nguồn lực từ bên ngoài để phục vụ cho các chiến lược phát triển kinh tế là một xu hướng tất yếu đối với các nước đang phát triển nói chung và đối với Việt Nam nói riêng. Đi cùng với xu hướng này, trong những năm qua, Việt Nam đã gia nhập hiệp hội ASEAN, ký hiệp định song phương Việt Nam – Hoa Kỳ và gần đây nhất là gia nhập WTO vào ngày 11/01/2007. Đồng thời, trong những năm gần đây, hoạt động dịch vụ tài chính là hoạt động có tính năng động nhất, phát triển nhanh nhất, không những tăng trưởng về mặt quy mô, mạng lưới giao dịch mà còn tăng cả về năng lực tài chính, năng lực điều hành, số lượng, chất lượng sản phẩm ngày càng đa dạng. Do sự phát triển vượt bậc này đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn để đầu tư, cho vay, đáp ứng nhu cầu đầu tư của xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, hoạt động dịch vụ tài chính vẫn còn tồn tại nhiều mặt hạn chế như chưa tạo dựng được thương hiệu riêng, tính tiện ích chưa cao, việc tiếp cận dịch vụ còn hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu của xã hội, của quá trình hội nhập quốc tế. Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, hoạt động về dịch vụ tài chính được dự báo là có sự cạnh tranh khốc liệt nhất, do trước khi gia nhập WTO chúng ta có sự bảo hộ của nhà nước, còn sau khi gia nhập WTO thì “sân chơi” đã bình đẳng, các bảo hộ của nhà nước đang dần dần bị xóa bỏ. Vậy các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính cần phải làm gì để không phải “thua ngay” trên “sân nhà” khi các chủ thể nước ngoài được kinh doanh như các chủ thể trong nước? Các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính cần phải làm thế nào để đáp ứng như cầu tăng trưởng nền kinh tế của Việt Nam, vừa phải đáp ứng những yêu cầu về mặt an toàn cũng như mang lại hiệu quả cho chính chủ thể cung cấp dịch vụ, đồng thời phải đáp ứng các chuẩn mực quốc tế? Đó là những vấn đề cần phải giải đáp. Với những nhận thức trên, góp phần nâng cao vị thế của hoạt động dịch vụ tài chính Việt Nam đủ sức có thể cạnh tranh với các chủ thể nước ngoài, tác giả chọn đề tài: “Tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO” làm luận văn tốt nghiệp cao học. II. Mục đích nghiên cứu: - Dịch vụ tài chính bao gồm những dịch vụ nào? Tự do hóa dịch vụ tài chính là như thế nào? Kinh nghiệm của các nước về tự do hóa dịch vụ tài chính và bài học cho Việt Nam? - Thực trạng tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như thế nào? Những cơ hội và thách thức khi tiến hành tự do hóa dịch vụ tài chính trong giai đoạn hậu WTO là gì? - Từ những lý luận cơ bản, những kinh nghiệm các nước và thực trạng hiện nay của Việt Nam, cần phải có các giải pháp nào nhằm thực hiện thành công tự do hóa các dịch vụ tài chính ở Việt Nam? III. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu chủ yếu là tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO. Về phạm vi nghiên cứu: chủ yếu nghiên cứu những quy định, những rào cản pháp lý, hoạt động của các dịch vụ tài chính, đặc biệt trong hoạt động dịch vụ ngân hàng, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ chứng khoán ở Việt Nam từ năm 1990 trở lại đây. IV. Các kết quả đạt được Trong chương 1, tác giả đã hệ thống được lý luận cơ bản về tự do hóa dịch vụ tài chính và kinh nghiệm thực hiện tự do hóa dịch vụ tài chính ở một số nước. Trong chương 2, đánh giá thực trạng của Việt Nam về vấn đề tự do hóa dịch vụ tài chính, đồng thời rút ra những thành công và thách thức. Trong chương 3, đưa ra các biện pháp thúc đẩy tiến trình tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam trong thời kỳ hậu WTO. V. Phương pháp nghiên cứu Trong đề tài đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp thống kê, phương pháp thu thập, tổng hợp dữ liệu, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp truy cập từ mạng và các văn bản, chủ trương của Đảng và Nhà nước, để từ đó đưa ra các kết luận cũng như các giải pháp cho đề tài. VI. Nội dung đề tài Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm 3 chương, với tổng cộng 64 trang như sau: Chương 1. Tổng quan về tự do hóa dịch vụ tài chính (18 trang) Chương 2: Thực trạng tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam từ năm 1990 đến nay (26 trang) Chương 3: Các giải pháp đẩy mạnh tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO (15 trang)

pdf86 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1718 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam thời kỳ hậu WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng cấp dịch vụ, do vậy làm giảm tính dễ bị tổn thương trước các cơn biến động. Từ đó dịch vụ tài chính phát triển ổn định hơn. Tăng cường phân phối nguồn lực hiệu quả. Trong điều kiện thị trường dịch vụ tài chính bị kiềm hãm, các nguồn tài chính có thể phân bổ không hiệu quả do chính sách can thiệp trực tiếp của chính phủ, cụ thể trong giai đọan trước năm 2002, các khỏan cho vay chính s ách, cho vay mang tính hỗ trợ thường tập trung ở các NH như: NH Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, NH Đầu Tư Và Phát Triển. Khi quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính diễn ra thì một số biện pháp can thiệp thị trường tài chính trực tiếp, 44 đặc biệt khi chúng không giúp hoàn chỉnh hoạt động của thị trường. Lúc này buộc chính phủ phải thành lập các NH chính sách để thực hiện riêng các khỏan cho vay chỉ định. Đối với các NH chuyên doanh sẽ tập trung vào các khỏan đầu tư có lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, để tồn tại trong môi trường cạnh tranh khá gay gắt khi thị trường dịch vụ tài chính mở cửa, các chủ thể phải thực hiện việc cung cấp dịch vụ (đặc biệt dịch vụ tín dụng) một cách thận trọng và sao cho có hiệu quả nhất. Điều này đòi hỏi các chủ thể phải tăng cường khả năng giám sát để đảm bảo nguồn tài chính được phân bổ vào các ngành có tiềm năng lợi nhuận lớn. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đầu tiên, khi dịch vụ tài chính phát triển sẽ hỗ trợ các ngành khác phát triển theo. Trong thời gian qua, khi dịch vụ tài chính phát triển đã giúp cho nền kinh tế có một lượng vốn lớn đổ vào đầu tư lai nền kinh tế, sự phát triển của ngân hàng, chứng khoán đã giúp các doanh nghiệp giải bài toán huy động vốn một cách dễ dàng cho dự án có tính hiệu quả cao. Bênh cạnh đó, với sự đa dạng của các dịch vụ giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được nhiều chi phí giao dịch, làm tăng hiệu quả của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, sự phát triển dịch vụ tài chính góp phần vào sự tăng trưởng chung của nền kinh tế. Tự do hóa dịch vụ tài chính thường đi kèm với các cải cách khác có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao thu nhập. Chất lượng đầu tư được cải thiện, việc phân phối nguồn lực tài chính hiệu quả là tiền đề để phát triển và các nước đang phát triển có thị trường dịch vụ tài chính mở cửa thông thoáng đã tăng trưởng nhanh hơn những nước có thị trường dịch vụ tài chính đóng cửa. Đặc biệt, tác động tự do hóa đến tăng trưởng kinh tế thể hiện mạnh nhất ở các nước đang phát triển. Tự do hóa dịch vụ tài chính còn tạo điều kiện về công ăn việc làm. Hiện nay, ở Việt Nam ngành tài chính là một trong những ngành thiếu nguồn nhân lực trầm trọng nhất do tốc độ tăng trưởng quá nhanh, đồng thời đây là một trong những ngành có mức thu nhập khá cao. 2.3.2. Thách thức của việc tự do hóa dịch vụ tài chính Có thể làm suy yếu của các tổ chức tài chính trong nước 45 Ở Việt Nam cũng như các nước có thị trường tài chính mới mở cửa, thị trường dịch vụ tài chính mang đặc điểm không hoàn hảo. Các ngân hàng và các công ty bảo hiểm mặc dù đang làm ăn có hiệu quả nhưng rất dễ bị tổn thất do cơ chế quản lý và năng lực yếu kém và các rủi ro thị trường. Các tổ chức tài chính trong nước phải chấp nhận cạnh tranh quyết liệt để tồn tại và phát triển. Quá trình cạnh tranh có thể bộc lộ một số vấn đề đáng lo ngại như hạ lãi suất, cho vay theo kiểu phá giá nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình, nới lỏng các điều kiện vay vốn, không thực hiện đúng theo các quy trình thẩm định, bảo đảm tiền vay có thể dẫn đến hậu quả là doanh nghiệp không đủ điều kiện vay vốn nhưng vẫn được ngân hàng cho vay vì sợ mất khách hàng. Còn các ngân hàng nước ngoài có mức chi phí hoạt động thấp do có số lượng nhân viên ít và chi nhánh ít hơn nhiều so với các ngân hàng trong nước. Ngoài ra, các ngân hàng này không phải gặp khó khăn về nợ đọng, nợ khó đòi như các ngân hàng trong nước. Thêm vào đó, công nghệ và trang thiết bị của dịch vụ tài chính trong nước còn quá lạc hậu so với nước ngoài, các dịch vụ cung ứng còn chậm, độ an toàn chưa cao, gây tâm lý thiếu tin tưởng của khách hàng. Có khả năng gây ra khủng hoảng tài chính Tự do hóa dịch vụ tài chính bản thân nó không gây ra khủng hoảng tài chính nhưng nếu không có các chính sách điều hành và kinh tế vĩ mô thích hợp có thể gây ra nhiều vấn đề. Trong thời gian qua, với tốc độ tăng trưởng quá nóng của hệ thống ngân hàng, đây là một điều tốt nhưng cũng là một nguy cơ nếu chúng ta không có hệ thống giám sát chặt chẽ sẽ có nguy cơ dẫn đến khủng hoảng xảy ra. Hiện nay, áp lực về chỉ tiêu của các NHTM cổ phần là rất cao, vì vậy đòi hỏi nhà quản trị các NH này liên tục nới lỏng các điều kiện về vay vốn, mở rộng hoạt động cũng như tính bảo mât thông tin, từ đó những dự án, những khỏan đầu tư có tính hiệu quả không cao sẽ được xét duyệt, đây là một nguy cơ tiềm ẩn rất cao cho hệ thống ngân hàng. Đồng thời, giữa các ngân hàng hiện nay có tính liên thông, vì vậy nếu một ngân hàng xảy ra những tổn thất lớn, hoặc mất tính thanh khoản sẽ ảnh hưởng dây chuyền sang các ngân hàng khác, sau đó có thể lan truyền cho cả hệ thống ngân hàng. Trường hợp ACB vào tháng 10/2003 là một điển hình, khi nghe tin đồn thất thiệt, hầu hết người gởi tiền tại ACB đã đến 46 rút. Nếu trường hợp ACB không giải quyết kịp thời sẽ dẫn đến tính lan truyền sang các ngân hàng khác. Ngoài ra, những sai lầm về mặt chính sách quản lý này có thể gây mất niềm tin và châm ngòi cho cuộc khủng hoảng. Vì vậy, cần phải tăng cường quản lý vĩ mô và tăng cường khả năng điều hành và giám sát của Chính phủ đối với tiến trình tự do hóa các dịch vụ tài chính Mất cân đối của các dòng vốn luân chuyển quốc tế Tự do hóa các dịch vụ tài chính có thể làm mất ổn định nguồn vốn. Điều này được thể hiện khi vốn đầu tư nước ngoài bị rút đột ngột với khối lượng lớn. Hiện tượng này bắt nguồn từ những nguyên nhân khác nhau như yếu tố tâm lý trước những biến động của thị trường đã tạo ra một hành động “tập thể” của các nhà đầu tư, ảnh hưởng những biến động kinh tế lan rộng từ nước này sang nước khác ảnh hưởng của các chính sách và môi trường kinh tế, chính trị, cơ cấu của dòng vốn đầu tư hoặc là do sự quản lý yếu kém của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, việc luân chuyển các dòng vốn qua biên giới gây ra những mất cân đối vĩ mô, làm thay đổi tỷ giá hối đoái, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán và tác động xấu đến hệ thống tài chính. Từ đó, nó dễ làm gia tăng gánh nặng nợ nước ngoài đối với nền kinh tế và hệ thống tài chính, đồng thời nguy cơ về tình trạng đô la hóa, đây là một xu thế tất yếu sẽ xuất hiện của một số nước có đồng tiền yếu. Trong thời gian qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã khởi sắc, một yếu tố giúp cho sự sôi động của thị trường là dòng vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài. Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa thống kê chính xác lượng vốn này là bao nhiêu, vì vậy sẽ là rủi ro cao nếu dòng vốn này đột ngột rút khỏi thị trường Việt Nam Có khả năng làm mất chủ quyền kinh tế quốc gia Khi các nền kinh tế chuyển đổi thì sự gia tăng sở hữu của các tổ chức tài chính nước ngoài có thể gây ra những lo ngại về mặt chủ quyền. Khi tiến hành mở cửa cho sự tham gia của nước ngoài quá mức dẫn đến tình trạng các tổ chức tài chính nước ngoài chi phối toàn bộ hệ thống tài chính quốc gia và sự lệ thuộc của cả nền kinh tế vào các tổ chức đó. Sự có mặt của các ngân hàng nước ngoài làm giảm khả năng tiếp vốn vay từ các ngân hàng của các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ - là những doanh nghiệp có hiệu quả hoạt động thấp. 47 Ngành tài chính là ngành nhạy cảm, nó ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của nền kinh tế. Vì vậy, trong giai đoạn đầu hội nhập nếu không có những bước đi thích hợp thì các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính dễ rơi vào quyền kiểm sóat của nước ngoài, từ đó nền kinh tế sẽ bị lệ thuộc vào nước, mất chủ quyền kinh tế quốc gia. Do đó, cần phải chú trọng đến đến việc giám sát hoạt động của các tổ chức tài chính nước ngoài và định hướng để hoạt động của những ngân hàng này phù hợp với chính sách phát triển kinh tế. Kết luận chương 2 Qua phân tích phần thực trạng tự do hóa các dịch vụ tài chính kết hợp với đánh giá những thành công và thách thức khi tiến hành tự do hóa dịch vụ tài chính trong thời gian hiện nay, từ đó cho thấy các chủ thể cung cấp dịch vụ trong nước còn yếu kém như vốn điều lệ còn thấp, công nghệ còn lạc hậu, hầu hết hiện nay trong giai đoạn đầu tư ban đầu, lợi nhuận của các ngân hàng vẫn tập trung chủ yếu trong lĩnh vực cho vay trong khi lĩnh vực cho vay đầy rủi ro, nguồn nhân lực thiếu trầm trọng,… Trong giai đoạn hội nhập quốc tế hiện nay, với việc mở cửa thị trường tài chính – ngân hàng, các chủ thể nước ngoài với tiềm lực mạnh về vốn, kinh nghiệm hoạt động hàng trăm năm trên thế giới sẽ là đối thủ cạnh tranh đầy khó khăn đối với các chủ thể trong nước. Vậy các chủ thể trong nước cần phải làm gì để có thể tồn tại và phát triển trong thời gian đến? Trong Chương 3 sẽ đưa ra một số giải pháp nâng cao các chủ thể trong nước từ đó giúp đầy nhanh tiến trình tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam trong giai đoạn hậu WTO. 48 CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY NHANH QUÁ TRÌNH TỰ DO HÓA DỊCH VỤ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM THỜI KỲ HẬU WTO 3.1. Lộ trình cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính, các mục tiêu cho tiến trình tự do hóa các dịch vụ tài chính ở Việt Nam Để thực hiện quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính thành công, đầu tiên Việt Nam cần phải tuân thủ theo lộ trình các cam kết khi gia nhập WTO, đây là phương hướng giúp cho Việt Nam có những bước đi đúng đắng, vì vậy phần dưới đây tác giả sẽ trình bày nội dung một số cam kết về dịch vụ tài chính khi gia nhập WTO. 3.1.1 Lộ trình cam kết gia nhập WTO của Việt Nam về dịch vụ tài chính Việt Nam chính thức là thành viên của WTO kể từ ngày 11/01/2007, Chính phủ Việt Nam đã công bố thực hiện những cam kết về dịch vụ tài chính, có thể tóm tắt một số nội dung trong cam kết về dịch vụ tài chính như sau: Về chính sách tiền tệ và ngân sách Mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị đồng tiền – đồng Việt Nam (VND), kiểm soát lạm phát, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Cơ chế tín dụng được cải thiện để tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, nâng cao tính tự chủ và trách nhiệm của tổ chức tín dụng và nâng cao chất lượng tín dụng. Đối với ngân hàng quốc doanh: sẽ tiến hành cổ phần hóa hầu hết các ngân hàng thương mại quốc doanh vào năm 2010. Về chính sách ngoại hối và thanh toán Việt Nam sẽ thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với các vấn đề về ngoại hối theo các quy định của Hiệp định WTO và các tuyên bố và quyết định liên quan của WTO có liên quan tới IMF. Việt Nam sẽ không áp dụng bất cứ luật, quy định hoặc các biện pháp nào khác, kể cả bất cứ yêu cầu nào liên quan tới các điều khoản hợp đồng, mà có thể hạn chế nguồn cung cấp ngoại tệ cho bất kỳ cá nhân hay doanh nghiệp nào để thực hiện các giao dịch vãng lai quốc tế trong phạm vi lãnh thổ của mình ở mức liên quan tới nguồn ngoại tệ chuyển vào thuộc cá nhân hay doanh nghiệp đó. 49 Về cam kết trong lĩnh vực ngân hàng Phần đóng góp của bên nước ngoài vào một ngân hàng thương mại liên doanh hoạt động với tư cách của ngân hàng thương mại không vượt quá 50% vốn điều lệ của ngân hàng liên doanh, trong khi đó phần vốn góp của bên nước ngoài vào tổ chức tín dụng phi ngân hàng liên doanh đạt ít nhất là 30% vốn điều lệ. Kể từ ngày 01/04/2007, các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ được phép thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Để mở một chi nhánh của một ngân hàng thương mại nước ngoài tại Việt Nam: ngân hàng mẹ có tổng tài sản có trên 20 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Để thành lập một ngân hàng liên doanh hoặc một ngân hàng 100% vốn nước ngoài: ngân hàng mẹ có tổng tài sản có trên 10 tỷ đô la Mỹ vào cuối năm trước thời điểm nộp đơn. Trong vòng 5 năm kể từ khi gia nhập, Việt Nam có thể hạn chế quyền của một chi nhánh ngân hàng nước ngoài được nhận tiền gửi bằng Đồng Việt Nam từ các thể nhân Việt Nam mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng theo tỷ lệ trên mức vốn được cấp của chi nhánh phù hợp với lộ trình sau: - Ngày 1 tháng 1 năm 2007: 650% vốn pháp định được cấp - Ngày 1 tháng 1 năm 2008: 800% vốn pháp định được cấp - Ngày 1 tháng 1 năm 2009: 900% vốn pháp định được cấp - Ngày 1 tháng 1 năm 2010: 1000% vốn pháp định được cấp - Ngày 1 tháng 1 năm 2011: Đối xử quốc gia đầy đủ. Tham gia cổ phần: hạn chế việc tham gia cổ phần của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại các ngân hàng thương mại quốc doanh của Việt Nam được cổ phần hóa như mức tham gia cổ phần của các ngân hàng Việt Nam. Đối với việc góp vốn dưới hình thức mua cổ phần, tổng số cổ phần được phép nắm giữ bởi các thể nhân và pháp nhân nước ngoài tại mỗi ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam không được vượt quá 30% vốn điều lệ của ngân hàng, trừ khi luật pháp của Việt Nam có qui định khác hoặc được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Một chi nhánh ngân hàng thương mại nước ngoài không được phép mở các điểm giao dịch khác ngoài trụ sở chi nhánh của mình. Kể từ khi gia nhập, các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép phát hành thẻ tín dụng trên cơ sở đối xử quốc gia. 50 Cam kết trong lĩnh vực bảo hiểm và chứng khoán Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài không được kinh doanh các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc, bao gồm bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm các công trình dầu khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường. Hạn chế này sẽ được bãi bỏ vào ngày 01/01/2008. Dịch vụ chứng khoán: ngay khi gia nhập, nhà cung cấp nước ngoài được lập văn phòng đại diện và công ty liên doanh với Việt Nam trong đó phần vốn góp không vượt quá 49%. Sau 5 năm kể từ ngày gia nhập, cho phép thành lập công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài. 3.1.2. Mục tiêu cho việc tự do hóa dịch vụ tài chính ở Việt Nam Để thực hiện thành công lộ trình các cam kết trên, đồng thời hướng đến tạo ra sự bình đẳng cho tất cả các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính. Theo tác giả, về cơ bản, mục tiêu cho tiến trình tự do hóa các dịch vụ tài chính là: Tiếp tục phát triển các loại dịch vụ tài chính cả về số lượng, chất lượng cũng như chủng loại nhằm cung cấp các dịch vụ tài chính tốt nhất, tiện ích nhất, nâng cao khả năng phục vụ khách hàng, khả năng cạnh tranh của các chủ thể cung cấp; Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện và phát triển các thị trường như: thị trường chứng khoán, thị trường tiền tệ,… để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của các loại hình dịch vụ tài chính. Xây dựng hệ thống các tổ chức tài chính mạnh về vốn, công nghệ hiện đại, đủ năng lực quản lý,… song song với nó phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và bảo mật để có thể cạnh tranh với các tổ chức nước ngoài; Xây dựng mạng lưới rộng khắp, tiếp cận mọi tầng lớp khách hàng, từng bước đưa hình thức thanh toán không dùng tiền mặt sử dụng một cách phổ biến; Từng bước mở cửa thị trường dịch vụ tài chính trong nước, hội nhập vào thị trường dịch vụ tài chính khu vực và trên thế giới phù hợp với lộ trình cam kết gia nhập WTO, hiệp định thương mại Việt – Mỹ và các cam kết khác của Chính phủ Việt Nam khi tham gia vào các tổ chức trong khu vực và trên thế giới, đồng thời đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững trên thị trường nội địa. 51 3.2. Giải pháp thực hiện tự do hóa dịch vụ tài chính Từ lộ trình cam kết gia nhập WTO của Việt Nam và những mục tiêu cho tiến trình tự do hóa các dịch vụ tài chính, cho thấy trong thời gian trước mắt cũng như về lâu dài chúng ta cần có những giải pháp sau để đảm bảo cho việc tự do hóa dịch vụ tài chính diễn ra thành công, cụ thể: 3.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước (trong giai đoạn 2007 – 2010) Qua việc nghiên cứu thực trạng các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong giai đoạn hiện nay, cho thấy các chủ thể còn hạn chế nhiều về các vấn đề như: tiềm lực tài chính, mạng lưới, đa dạng hóa sản phẩm,… kết hợp với việc nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới. Từ những vấn đề đó, tác giả nhận thấy nguy cơ các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước bị mất thị trường bởi sự xâm nhập từ bên ngoài, trong đó nguyên nhân chủ yếu là do năng lực cạnh tranh yếu kém. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong thời kỳ hậu WTO là bước đi cần thiết để tiến hành tự do hóa dịch vụ tài chính, đa dạng hóa việc cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính của các chủ thể, cụ thể các giải pháp như sau: Giải pháp thứ nhất: Gia tăng tiềm lực tài chính Đầu tiên, phải kể đến là gia tăng vốn tự có của tổ chức tài chính. Đây được xem là yếu tố cốt lõi nhất, quyết định năng lực cạnh tranh của các chủ thể vì đây là nguồn vốn mà các ngân hàng dùng để đầu tư tài sản, công nghệ,… nếu nguồn vốn này yếu, thấp dẫn đến việc đầu tư sẽ bị hạn chế. Để giải quyết vấn đề này chúng ta cần tập trung một số vấn đề sau: Đối với NHTM quốc doanh, trước mắt Nhà nước cấp vốn bổ sung cho các NHTM quốc doanh hoặc cho phép các ngân hàng này phát hành trái phiếu để bổ sung vốn. Phương án tiếp theo là cần đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các ngân hàng này, xác định giá trị thực của các ngân hàng này bởi khối tài sản của các ngân hàng này là rất lớn, đồng thời giá trị thương hiệu của các ngân hàng này cũng không nhỏ. Hiện nay, các tổ chức tài chính, các nhà đầu tư nước ngoài đang rất quan tâm đến việc cổ phần hóa của các ngân hàng này. Theo lộ trình cam kết WTO, đến 2010 chúng ta sẽ cổ phần hóa hầu hết các ngân hàng thương mại quốc doanh. Nhưng theo tác giả, tốt nhất là tiến hành cổ phần hóa dứt điểm trong năm 2008, riêng Ngân hàng Nông 52 nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ triển khai trong năm 2009 do mạng lưới khá dày đặt, với việc cổ phần hóa càng sớm sẽ nhanh chóng nâng cao hiệu quả hoạt động, vị thế cạnh tranh. Trong thời gian đầu, Nhà nước nên chiếm tỷ trọng lớn chi phối hoạt động của các ngân hàng này, vì đây là các ngân hàng thương mại chiếm thị phần lớn ở Việt Nam, cần phải chi phối trong giai đoạn đầu để đảm bảo ổn định tiền tệ, tỷ lệ Nhà nước nắm giữ trong giai đoạn đầu tối thiểu là 51%, trong các năm tiếp theo, tỷ lệ này sẽ giảm dần. Để quá trình cổ phần hóa diễn ra thuận lợi, chúng ta cần chú ý: thứ nhất, xử lý các khoản nợ xấu một cách dứt điểm, làm lành mạnh hóa tình hình tài chính, đảm bảo các chỉ tiêu theo đúng thông lệ quốc tế; thứ hai, vấn đề chọn nhà tư vấn là hết sức quan trọng, cần lựa chọn các nhà tư vấn có nhiều kinh nghiệm, có năng lực và đầy đủ uy tín; thứ ba, cần lựa chọn đối tác chiến lược phải cho phù hợp với loại hình hoạt động của ngân hàng, có những nét tương đồng, đồng thời nhà đầu tư chiến lược sẽ hỗ trợ được gì khi là cổ đông chiến lược. Khi tiềm lực vốn đủ mạnh, lúc này các chỉ số an toàn vốn tối thiểu sẽ đáp ứng được thông lệ quốc tế. Đối với các NHTM cổ phần: hiện nay, nhiều ngân hàng đã tăng vốn bằng hình thức bán cổ phần cho các cổ đông nước ngoài, các tập đoàn trong nước, đây là hình thức tăng vốn mà không cần các cổ đông góp vốn, đồng thời cổ đông nước ngoài khi là cổ đông có trách nhiệm hỗ trợ công nghệ cũng như đào tạo nhân lực cho ngân hàng. Trong thời gian qua, các cổ đông nước ngoài được sở hữu tối đa 30%, cổ đông chiến lược tối đa 15%, nhưng quyền kiểm soát hoạt động của các ngân hàng vẫn thuộc cổ đông trong nước, kiến nghị trong thời gian đến, chúng ta nên nâng tỷ lệ cổ đông nước ngoài lên 49%, cổ đông chiến lược lên 20%. Thứ hai, đẩy mạnh quá trình sáp nhập, mua bán lại các tổ chức tín dụng là giải pháp cần thực hiện sớm trong thời gian đến để nâng cao tiềm lực vốn đối với các chủ thể này. Trong lĩnh vực ngân hàng, chúng ta nên hạn chế việc thành lập các NHTM cổ phần mới, thay vào đó nên khuyến khích các tập đoàn, các tổ chức góp vốn mua lại cổ phần của các ngân hàng. Vấn đề khó khăn nhất trong quá trình sáp nhập đó là tiếng nói chung của Hội đồng quản trị, quyền lợi của các cổ đông khi sáp nhập. Trong giai đoạn đầu, các ngân hàng có công nghệ tương đối giống nhau, có chiến lược giống nhau sẽ sáp nhập trước (sáp nhập một cách tự nguyện). Trong giai đoạn tiếp theo, khi quá trình cạnh tranh khốc liệt của ngành ngân hàng diễn ra, hiệu quả một số ngân hàng sẽ giảm sút và không cạnh tranh nổi, lúc đó buộc phải sáp nhập vào các ngân hàng lớn (sáp nhập bắt buộc). Để quá trình sáp nhập diễn ra một cách mạnh mẽ, đầu tiên 53 chúng ta cần có chính sách ưu đãi khi các ngân hàng sáp nhập, cụ thể Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về thuế, hỗ trợ về mặt kỹ thuật khi các ngân hàng kết nối, đồng thời cần soạn thảo các quy định hướng dẫn cụ thể về việc mua lại, sáp nhập các tổ chức tài chính. Ngoài ra, để đẩy mạnh quá trình này, nhà nước cần quy định mức vốn tối thiểu ngày càng tăng, theo cam kết WTO đến năm 2010 là 3.000 tỷ đồng, để đến giai đoạn 2010 – 2012, chúng ta chỉ còn khoảng 25 ngân hàng hoạt động, trong đó 5 ngân hàng thương mại dẫn đầu có vốn điều lệ trên 1,5 tỷ USD. Thứ ba, nâng cao khả năng sinh lời của các tổ chức tài chính, hiện nay lợi nhuận chính của các ngân hàng chủ yếu từ tín dụng. Vì vậy, nâng cao chất lượng thẩm định là giải pháp hàng đầu để nâng cao hiệu quả hoạt động. Tránh những lợi ích trước mắt làm ảnh hưởng đến kết quả lâu dài. Ngoài ra, chúng ta cần phải đa dạng các dịch vụ để giảm rủi ro từ tín dụng. Thứ tư, tích cực thu hồi các khoản nợ khó đòi đã được xử lý bằng cách trích lập dự phòng. Ngoài các biện pháp về gia tăng vốn cho các chủ thể, chúng ta còn phải tập trung lành mạnh hóa tình hình tài chính của các chủ thể, đặc biệt vấn đề xử lý nợ quá hạn của hệ thống ngân hàng. Trước mắt, cần phân loại các khoản nợ quá hạn; giải quyết vấn đề nợ quá hạn của NHTM quốc doanh thông qua các công ty quản lý và khai thác nợ và ủy bản xử lý nợ; các khách hàng vay bao gồm cả DNNN sẽ được xóa nợ, giảm nợ hoặc dãn nợ nếu thực hiện đầy đủ các điều kiện cam kết tiến hành cơ cấu lại doanh nghiệp. Các doanh nghiệp nhà nước đang tiến hành cổ phần hóa, bán hoặc giải thể sẽ được ưu tiên giảm nợ, xóa nợ hoặc dãn nợ. Giải pháp thứ hai: Mở rộng mạng lưới Tương ứng với gia tăng tiềm lực vốn cho các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính, việc mở rộng mạng lưới là nhu cầu cấp thiết trong giai đoạn hiện nay. Hiện nay, lợi nhuận chính của các ngân hàng phần lớn được tạo ra từ 2 trung tâm lớn là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội nhưng chúng ta cũng không thể mãi chú trọng đến hai địa bàn này, bởi việc phát triển mạng lưới sẽ giúp ngân hàng phát triển được nhiều sản phẩm, các sản phẩm sẽ tiếp cận gần với các khách hàng hơn. Đồng thời, việc phát triển mạng lưới sẽ tạo uy tín, tạo thương hiệu cho các chủ thể cung cấp tài chính. Trong giai đoạn, nhiều ngân hàng tại Việt Nam chưa chú trọng đến mở rộng mạng lưới hoặc việc mở rộng chủ yếu ở thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội do: thứ nhất, phát triển mạng lưới các tỉnh thường mang lại lợi nhuận thấp hoặc lỗ trong khi chi phí 54 đầu tư rất lớn; thứ hai, vấn đề nguồn nhân lực bị hạn chế do phần lớn nguồn nhân lực hiện nay đã tập trung về các thành phố lớn, đồng thời các tỉnh thành nhỏ thường không có trường đại học đào tạo chuyên ngành. Ngoài ra, trong cam kết gia nhập WTO, sau 5 năm kể từ ngày gia nhập, các chủ thể nước ngoài được phép kinh doanh bình đẳng như các chủ thể trong nước, vì vậy với việc phát triển trước sẽ giúp xây dựng được hệ thống khách hàng rộng lớn. Để giải quyết vấn đề mở rộng mạng lưới, theo tác giả, các ngân hàng nên hi sinh những khoản lợi nhuận trước mắt để đạt những mục tiêu lợi nhuận lâu dài, trong giai đoạn ban đầu nên chấp nhận những khoản đầu tư về tài sản cũng như đầu tư con người. Đồng thời, thường xuyên đào tạo nguồn nhân lực và luôn có nguồn nhân sự cấp quản lý dự bị để khi tiến hành mở các chi nhánh tỉnh thì nguồn nhân lực được đảm bảo. Phấn đấu đến năm 2010, các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính (chủ yếu là các ngân hàng thương mại) nên mở rộng mạng lưới đến 64 tỉnh thành, đến các huyện, xã. Đồng thời tại các trung tâm thành phố lớn, các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính, đặc biệt là các ngân hàng, nên phát triển hệ thống mạng lưới chi nhánh theo hướng như các kiốt. Việc phát triển này không những giúp cho sự phát triển của mỗi ngân hàng nói riêng mà còn tạo sự phát triển của cả hệ thống tài chính nói chung. Giải pháp thứ ba: Đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ tài chính Cần phải phát triển đa dạng các loại dịch vụ tài chính trên cở sở củng cố và hoàn thiện các dịch vụ tài chính hiện có, hình thành và phát triển các dịch vụ tài chính mới. Mặc dù, hiện nay các dịch vụ tài chính trên thị trường đã tương đối phát triển, song trên thực tế chỉ có một số ít dịch vụ thực sự phát triển, thu hút được các khách hàng sử dụng dịch vụ như: tiền gửi tiết kiệm, dịch vụ cho vay, dịch vụ chuyển tiền,… Đại đa số các dịch vụ còn lại cũng phát triển gần đây nhưng không được sử dụng rộng rãi, một số dịch vụ đang trong quá trình thử nghiệm. Hiện nay, trong hệ thống ngân hàng đứng đầu về số lượng sản phẩm đó là ACB với khỏang hơn 600 sản phẩm, số lượng sản phẩm này chỉ bằng khoảng 1/10 so với các ngân hàng lớn trên thế giới. Vì vậy, trong thời gian đến, theo tác giả chúng ta nên chú trọng vào việc phát triển các loại sản phẩm sau: Thứ nhất, các sản phẩm liên quan đến thanh toán, đây là những sản phẩm còn rất nhiều tiềm năng do ở Việt Nam hiện vẫn sử dụng tiền mặt rất nhiều. Chúng ta nên phát triển mạnh các 55 sản phẩm về thẻ, hiện thẻ ATM hiện nay chủ yếu là để rút tiền, trong thời gian đến nên liên kết các ngân hàng lại để tiện trong việc sử dụng. Việc phát triển thẻ không chỉ dừng lại ở việc rút, gởi tiền; thanh toán các hóa đơn điện nước; mà thẻ thanh toán sẽ thực hiện tất cả các giao dịch hàng ngày như: mua sắm, chi tiêu, ăn uống, đổ xăng,… Thứ hai, phát triển mạnh các sản phẩm cho vay tiêu dùng, hiện nay chủ yếu cho vay mua nhà, mua xe, trong thời gian đến nên phát huy cho vay mua sắm tất cả các tài sản. Thứ ba, đẩy mạnh phát triển các sản phẩm ngân hàng điện tử như: Internet Banking, Home Banking, Mobile Banking,… đây là những sản phẩm rất tiện ích, giúp cho các khách hàng ở nhà nhưng vẫn thực hiện được các giao dịch. Việc phát triển mạnh các sản phẩm này đòi hỏi phải được xây dựng trên nền công nghệ thông tin hiện đại. Giải pháp thứ tư: Hiện đại hóa công nghệ Hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, bảo hiểm và chứng khoán là mục tiêu chiến lược để cạnh tranh với các tổ chức nước ngoài, nâng cao hiệu quả kinh doanh và thu hút khách hàng trong nước. Đặc biệt là cơ chế thanh toán phải nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và có tính hệ thống, đồng bộ. Mạng lưới phủ khắp nơi, nhưng giữa các chi nhánh không liên lạc với nhau được thì vô nghĩa. Đầu tư vào công nghệ hiện đại có thể làm tăng chi phí ban đầu, nhưng sẽ giảm chi phí nghiệp vụ trong dài hạn, thu hút nhiều khách hàng, quản trị được rủi ro do thông tin nhanh chóng, công tác điều hành hiệu quả, đặc biệt là ngân hàng sẽ huy động nhiều tiền gởi thanh toán (lãi suất thấp) do thanh toán dễ dàng, tiện lợi và mở rộng kênh phân phối. Trong quá trình hiện đại hóa, chúng ta nên chú ý định lượng quy mô hoạt động trong 20 - 30 năm đến, đến các sản phẩm sẽ phát sinh trong tương lai. Nếu chúng ta định lượng không đúng dẫn đến phải tốn kinh phí rất nhiều trong việc nâng cấp, có khi phải thay thế hoàn toàn, đồng thời sẽ dẫn đến quá tải các giao dịch. Chúng ta cần thực hiện như sau: Thứ nhất, phải tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu cho toàn hệ thống, khi hòan thành thì toàn bộ dữ liệu sẽ được lưu tại trung tâm, mọi sự thay đổi phải được cập nhập trực tuyến và tức thời. Việc dùng chung hệ thống thông tin giúp cho việc xác nhận khách hàng được chính xác và thuận tiện, đáp ứng yêu cầu giao dịch trực tuyến trong toàn hệ thống,… Thứ hai, xây dựng hệ thống viễn thông nối với các chi nhánh. Chúng ta phối hợp với cơ quan bưu chính viễn thông để nâng cao chất lượng đường truyền dữ liệu, mạng dựng mạng máy tính 56 băng thông rộng kết nối giữa các chi nhánh với hội sở, cần đảm bảo việc xử lý nhanh chong, tránh những sự cố trong giờ cao điểm. Thứ ba, khi mua các phần mềm ngân hàng, cần lựa chọn các nhà tư vấn và thực hiện phù hợp với hệ thống ngân hàng Việt Nam, các phần mềm đã có nhiều ngân hàng trên thế giới sử dụng. Giải pháp thứ năm: Chính sách đối với nguồn nhân lực Nguồn chất xám là vấn đề quan trọng trong việc phát triển các chủ thể dịch vụ tài chính. Chúng ta không những đầu tư vào những nhân viên hiện tại mà còn phải đào tạo các tầng lớp kế thừa để sẳn sàng cho việc đầu tư mở rộng cũng như việc nâng cấp chất lượng các dịch vụ, việc đầu tư vào nguồn chất xám không những đầu tư vào một lúc mà phải đầu tư lâu dài, đầu tư liên tục. Chúng ta nên: Thứ nhất, xây dựng trung tâm đào tạo, việc đào tạo tại trung tâm này giúp cho nhân viên mới tiếp cận nhanh chóng môi trường cũng như quy trình làm việc của chủ thể tài chính đó. Đây là nơi vừa đào tạo đồng thời vừa là nơi nghiên cứu các sản phẩm mới, sau đó tổng hợp kết quả thực tiển ứng dụng các sản phẩm mới này để thực hiện rộng rãi trên toàn hệ thống. Hiện ở Việt Nam chỉ có vài ngân hàng có các trung tâm đào tạo, giảng viên cũng chưa mang tính chuyên nghiệp, chủ yếu lấy người làm nghiệp vụ từ ngân hàng đó ra, ngoài ra một số ngân hàng lên ý tưởng thành lập trường đại học chuyên sâu trong ngành tài chính ngân hàng. Theo tác giả, hiện nay ở các trường Đại học như: Đại học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh hay Đại học Ngân hàng chưa đáp ứng đủ nhu cầu nguồn nhân lực cho ngành tài chính – ngân hàng do tốc độ phát triển của ngành này hiện nay tăng quá nhanh, đồng thời trong quá trình đào tạo chưa cung cấp đủ các kỷ năng cần thiết cho nhân viên. Vì vậy, chúng ta nên đẩy mạnh việc này để nhanh chóng đào tạo được các nhân viên giỏi đáp ứng được nhu cầu thiếu nguồn nhân lực trầm trọng như hiện nay. Thứ hai, chúng ta nên thường xuyên cho nhân viên cũ đi đào tạo, cập nhập những kiến thức về ngân hàng hiện đại, những kiến thức pháp luật, các văn bản pháp luật mới để tránh các nhân viên làm việc theo lói mòn trong khi ngành tài chính đã có những bước thay đổi lớn. Thứ ba, chúng ta không chỉ đào tạo về kiến thức về dịch vụ tài chính, mà còn phải đào tạo về các kỷ năng giao tiếp, kỷ năng đàm phán khách hàng, kỷ năng thẩm định các khách hàng. 57 Hiện nay, ở các ngân hàng, nhân viên thường thẩm định theo trực quan, cơ sở thẩm định thường do các khách hàng khai báo, ít có ý kiến cá nhân, chưa mang tính khoa học cao. Thứ tư, việc đào tạo nguồn nhân lực không chỉ đào tạo trong nước, mà chúng ta nên liên kết với các tổ chức tài chính nước ngoài, có thể đào tạo tại Việt Nam hoặc đào tào ở nước ngoài. Thứ năm, để tránh sự biến động trong nguồn nhân lực, nhà quản lý các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính cần tạo ra một môi trường làm việc mang tính chuyên nghiệp cao, môi trường có nhiều cơ hội thăng tiến để tạo động lực phấn đấu cho mổi cá nhân. Cuối cùng, một chính sách quan trọng, chúng ta nên xây dựng cơ chế lương, thu nhập cho thật hợp lý. Ngoài ra, chúng ta nên có chính sách bán cổ phiếu không những cho cấp quản lý mà ngay cả các nhân viên trong công ty. Chúng ta nên biến các nhân viên trong công ty thành các cổ đông để họ thấy được trách nhiệm và quyền lợi cao khi công ty hoạt động có hiệu quả. Giải pháp thứ sáu: Đẩy mạnh công tác Marketing và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm dịch vụ tài chính Marketing là khâu then chốt để các sản phẩm, dịch vụ đến tay người tiêu dùng. Hiện nay, chúng ta không nên chỉ dừng lại việc cung cấp các sản phẩm mà chúng ta có, mà còn phải cung cấp các sản phẩm mà các khách hàng cần. Vì vậy, để có thể tồn tại và phát triển, chúng ta cần: Nghiên cứu và phát triển các sản phẩm một cách vững mạnh và đáng tin cậy, để thực hiện vấn đề này, mỗi chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nên chú trọng xây dựng phòng nghiên cứu tiếp thị và phát triển sản phẩm, hiện nay nhiều ngân hàng có xây dựng phòng này nhưng chỉ mới thực hiện công tác chung, chưa thực sự đúng ý nghĩa chức năng của nó. Chúng ta nên xây dựng phòng này cho mỗi chi nhánh đối với lĩnh vực ngân hàng, tách biệt việc tiếp thị hiện nay đang gộp chung với các bộ phận thẩm định, từ đó tạo tính chuyên nghiệp, nâng cao hiệu quả. Bộ phận này sẽ đóng vai trò quan trọng trong chu kỳ sống của một sản phẩm, từ giai đoạn giới thiệu, giai đoạn tăng trưởng, đến giai đoạn bão hòa và giai đoạn suy thoái, tùy theo từng thời điểm bộ phận này sẽ đưa ra các chiến lược cho công ty. Đồng thời, qua nghiên cứu đó, các công ty nên biết được thời điểm tung sản phẩm ra thị trường và rút sản phẩm khi nhu cầu về sản phẩm không còn phù hợp. 58 Cần xây dựng mảng khách hàng mà chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính quan tâm, từ đó chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính tập trung vào lượng khách hàng, tránh việc tiếp thị tràng lang, không mang lại hiệu quả kinh tế. Đồng thời, qua đó phân loại được các khách hàng hiện hữu và các khách hàng tiềm năng. Ngòai ra, để thu thập thông tin khách hàng một cách chính xác, đầy đủ và mang tính chuyên nghiệp cao, các chủ thể cung cấp nên kết hợp với các công ty nghiên cứu thị trường có tính chuyên nghiệp cao để thực hiện. Về vấn đề thương hiệu, hiện nay một số chủ thể cung cấp đã thực hiện rất tốt vấn đề này như ACB, Techcombank, Sacombank,… Nhưng bên cạnh đó, một số chủ thể cung cấp chưa chú trọng nhiều vào vấn đề thương hiệu. Vì vậy, chúng ta không những liên tục có các chương trình quảng cáo để khách hàng biết đến chủ thể cung cấp mà còn liên tục tuyên truyền các sản phẩm của mình để khách hàng am hiểu về các dịch vụ, khi có nhu cầu họ sẽ nhớ đến mình. Riêng trong việc xây dựng thương hiệu bên trong, chúng ta cần xây dựng theo tính thống nhất của cả mạng lưới từ logo, slogan, đến cách bố trí bàn ghế, màu sắc, đồng phục nhân viên,… Tóm lại, trên đây là các giải pháp nhằm làm nâng cao năng lực cạnh tranh cho các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính. Đây là nhóm giải pháp trong giai đọan 2007 – 2010, nhóm giải pháp này với mục đích giải quyết vấn đề đa dạng số lượng và chất lượng các chủ thể cung cấp, khi các chủ thể cung cấp đủ sức mạnh về vốn, công nghệ, mạng lưới, kinh nghiệm quản lý,… thì lúc này quá trình tư do hóa các dịch vụ tài chính sẽ an toàn và hiệu quả cho nền kinh tế quốc gia. Đồng thời, với việc thực hiện các giải pháp trên sẽ giúp Việt Nam thực hiện lộ trình cam kết WTO một cách thuận lợi hơn. 3.2.2. Nhóm giải pháp xây dựng các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng (đây là giải pháp lâu dài thực hiện trong giai đoạn 2010 – 2015) Sau khi nâng cao năng lực các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính. Bước tiếp theo, từng bước xây dựng các ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm thành các tập đoàn tài chính - ngân hàng. Hiện nay, phần lớn lợi nhuận được tạo ra từ các hoạt động truyền thống của các tổ chức tài chính. Trong thời gian qua, một số ngân hàng, công ty bảo hiểm đã manh nha hình thành theo hướng này như: ACB, Sacombank, Bảo Việt, … 59 Mô hình tập đoàn tài chính - ngân hàng là bao gồm các công ty thành viên hoạt động trong các lĩnh vực tài chính và ngân hàng như: ngân hàng thương mại, công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty địa ốc, công ty quản lý và khai thác tài sản, các công ty đầu tư vốn,… các công ty này sẽ hoạt động đan xen lẫn nhau, bán chéo sản phẩm qua lại giữa các thành viên trong tập đoàn sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, đồng thời sự hợp tác giữa các thành viên sẽ được thực hiện dễ dàng hơn, từ đó việc trao đổi thông tin cũng như kinh nghiệm giữa các thành viên sẽ giúp triển khai sản phẩm mới nhanh chóng hơn. Đồng thời, việc đào tạo nhân sự sẽ mang tính tập trung hơn, dễ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Với những lợi thế trên, các tập đoàn sẽ giúp cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh chóng hơn, đảm bảo sự cạnh tranh với các chủ thể nước ngoài, khi các chủ thể nước ngoài được kinh doanh bình đẳng như các chủ thể trong nước. Để thực hiện được giải pháp này, theo tác giả chúng ta cần phải thực hiện theo lộ trình như sau: Đầu tiên, phải nâng tiềm lực vốn của chính công ty tài chính để đủ có thể đáp ứng được kinh doanh và nguồn vốn tự có để đầu tư các lĩnh vực khác. Thứ hai, phải hình thành các công ty con trực thuộc, hoặc liên doanh thông qua việc thành lập mới hoặc mua lại của các công ty đang hoạt động. Thứ ba, đẩy mạnh chất lượng cũng như số lượng các sản phẩm của các công ty thành viên, việc đẩy mạnh này sẽ được hỗ trợ qua lại giữa các công ty thành viên, vì vậy các sản phẩm sẽ dễ dàng đến tay người tiêu dùng. Cuối cùng, khi các công ty thành viên đủ mạnh, lợi nhuận không còn tập trung chủ yếu về công ty chính, lúc này hình thành nên các tập đoàn tài chính – ngân hàng, hoạt động đa năng trên nhiều lĩnh vực. 3.2.3. Nhóm giải pháp hỗ trợ Hoàn thiện môi trường pháp lý trong điều kiện tự do hóa tài chính Hệ thống khung pháp lý có vai trò rất quan trọng đối với sự hoạt động và phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, đây là cơ sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường. Đặc biệt, trong tiến trình tự do hóa, hệ thống khung pháp lý không những 60 đảm bảo cho thị trường dịch vụ tài chính trong nước hoạt động bình thường mà còn phải phù hợp với những cam kết quốc tế, vì vậy chúng ta cần nhanh chóng hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi để phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế. Để giải quyết vấn đề này, chúng ta cần nhất thiết phải thực hiện: Thứ nhất, NHNN nên xây dựng luật giám sát an toàn hoạt động ngân hàng và các văn bản pháp lý có liên quan nhằm giám sát ngân hàng hiệu quả, phù hợp với những nguyên tắc của ủy ban Basel; Thứ hai, phối hợp với các cơ quan khác trong việc giải thể, phá sản các chủ thể hoạt động kém hiệu quả, hiện nay Việt Nam còn 4 NH đang thuộc diện kiểm soát đặc biệt, các NH này muốn phá sản hay sáp nhập đều rất khó; Thứ ba, xây dựng hệ thống cảnh báo khủng hoảng, đưa ra những dấu hiệu hệ thống tài chính có nguy cơ dẫn đến khủng hỏang; Thứ tư, xây dựng hệ thống chấm điểm các tổ chức tín dụng, từ đó đánh giá được mức độ an toàn của các tổ chức. Dựa vào hệ thống đánh giá này để xác định phí bảo hiểm mà các tổ chức phải đóng, nếu độ rủi ro càng cao, đóng phí càng cao. Thứ tư, cần tranh thủ sự giúp đỡ của các ngân hành nước ngoài và tổ chức tài chính quốc tế, tổ chức nghiên cứu hệ thống khung pháp lý ở một số nước trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đã gia nhập WTO, làm cơ sở cho việc sửa đổi, bổ sung luật có liên quan đến dịch vụ tài chính ở nước ta. Tăng cường các biện pháp kiểm soát nhằm ổn định nền kinh tế vĩ mô Tự do hóa dịch vụ tài chính đòi hỏi một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Một quốc gia có thể gánh chịu những hậu quả vô cùng nghiêm trọng nếu tiến hành tự do hóa dịch vụ tài chính trong điều kiện mất ổn định nền kinh tế vĩ mô. Vì vậy, để hấp thụ đầy đủ những lợi ích từ quá trình tự do hóa, chính phủ cần phải thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế một cách quy củ hơn. Trước hết, cần kiềm chế thâm hụt ngân sách và lạm phát trong mức độ cho phép, xây dựng chế độ tỷ giá phù hợp nhằm tạo sự ổn định về tỷ giá. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp ổn định luồng vốn quốc tế, tránh những tác động tiêu cực do biến động các thông số kinh tế cơ bản làm đảo chiều luồng vốn. 61 Tiếp đến, tăng cường quản lý và kiểm soát chu chuyển vốn quốc tế. Bên cạnh đó, cần nhận thức rằng tự do hóa dịch vụ tài chính không đồng nghĩa với việc xóa bỏ tất cả các biện pháp kiểm soát mà tự do hóa dịch vụ tài chính đòi hỏi chính phủ phải thay đổi các biện pháp kiểm soát trực tiếp bằng các biện pháp kiểm soát gián tiếp. Muốn vậy, chúng ta cần thiết củng cố chức năng NHTW của NHNN. Tăng cường công tác thanh tra giám sát nhằm đảm bảo tính an toàn cho cả hệ thống ngân hàng và tạo niềm tin cho công chúng Cuối cùng, cần giữ vững sự ổn định của đồng Việt Nam, thực hiện các chính sách tiền tệ ổn định, lành mạnh. Để thực hiện điều này, NHNN cần áp dụng các biện pháp ngăn chặn rủi ro tiền tệ, khuyến khích tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy nhanh tiến trình cải cách theo hướng thị trường hóa lãi suất. Một số kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Thứ nhất, Nhà nước cần nhanh chóng ban hành quy chế sáp nhập các ngân hàng thương mại, quy chế mua bán lại các ngân hàng thương mại và đây là cơ sở cho việc nghiên cứu, thực hiện nhanh chóng và thuận lợi. Nên có các chính sách ưu đãi đối với các ngân hàng này khi tiến hành sáp nhập như: ưu đãi về thuế, … Thứ hai, việc thành lập ngân hàng thương mại cổ phần mới trong nước có thật sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay hay không? Hiện chúng ta có 34 NHTM cổ phần, việc thành lập mới sẽ tăng về mặt số lượng, không giúp làm tăng về mặt chất lượng, đồng thời khi các ngân hàng mới thành lập ra đời sẽ làm tăng sự biến động về nguồn nhân lực. Vậy, theo ý kiến riêng, Nhà nước nên khuyến khích các tập đoàn, công ty lớn góp vốn vào các ngân hàng để nâng cao tiềm lực của các ngân hàng, đồng thời hỗ trợ qua lại lẫn nhau, việc khuyến khích thể hiện qua ưu đãi về thuế cho ngân hàng lẫn doanh nghiệp. Thứ ba, Nhà nước cần có các biện pháp đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa các NHTM nhà nước. Trong thời gian qua, các ngân hàng quốc doanh đã tiến hành thực hiện cổ phần hóa nhưng tiến độ rất chậm. Để đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập, chúng ta cần nhanh chóng cổ phần hóa các ngân hàng này, việc thực hiện cổ phần hóa phải thực hiện dứt điểm trong năm 2008 đối với Vietcombank, Ngân hàng công thương, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng Phát triển nhà đồng bằng sông cửu long. Riêng đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển 62 nông thôn cần thực hiện trong năm 2009. Đồng thời, song song giai đoạn cổ phần hóa, Nhà nước cần sớm xây dựng lộ trình cho các ngân hàng trở thành các tập đoàn tài chính lớn, xây dựng các mục tiêu kinh doanh giống như tên gọi của các ngân hàng, tránh việc giẫm chân lên nhau, gây ra sự hỗn loạn trên thị trường. Thứ tư, đối với các ngân hàng thương mại cổ phần, Nhà nước nên xem xét việc mở rộng tỷ lệ sở hữu của nước tăng lên trong thời gian đến, hiện nay tối đa là 30%, trong thời gian đến nên tăng lên 49%. Việc tăng tỷ lệ này giúp cho ngân hàng dễ dàng trong việc nâng cao tiềm lực vốn. Song song với việc nâng cao tỷ lệ này chúng ta cần xây dựng các ràng buộc khi các tổ chức nước ngoài tham gia vào NHTM cổ phần như: 10 – 15 năm mới được chuyển nhượng cổ phần; khi góp vốn phải hỗ trợ các NHTM cổ phần về đào tạo nhân lực, công nghệ,… Kết luận chương 3 Việt Nam đang trong giai đoạn đầu gia nhập WTO, hiện tại chúng ta chưa bị chi phối nhiều của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính nước ngoài chi phối nhưng thực tế hiện nay một số dịch vụ như tín dụng tiêu dùng đã được các ngân hàng nước ngoài triển khai rất mạnh, trong khi các chủ thể nước rất dè chừng. Tuy nhiên, trong thời gian đến, việc cạnh tranh sẽ khốc liệt hơn do việc thực hiện lộ trình cam kết WTO ngày càng sâu rộng hơn. Vì vậy, chúng ta cần phải có những bước đi nhanh, đi vững và thật chắc chắn, đồng thời cần có định hướng lâu dài cũng như những bước đi ngắn hạn để có thể giữ vững thị trường trong nước. 63 KẾT LUẬN Dịch vụ tài chính là một trong những dịch vụ quan trọng và có vai trò đặc biệt trong nền kinh tế. Tự do hóa các dịch vụ tài chính là nghĩa vụ bắt buộc khi gia nhập vào WTO và Việt Nam không nằm ngoài ngoại lệ đó. Tự do hóa dịch vụ tài chính đóng góp to lớn cho hệ thống tài chính trong nước thông qua việc tăng cường nguồn vốn và trình độ quản lý nhà nước, hoàn thiện khả năng kiểm soát thị trường vốn trong nước, thu hút nguồn tích lũy trong và ngoài nước để nâng cao hiệu quả đầu tư. Hơn nữa, tự do hóa dịch vụ tài chính cùng với quá trình cạnh tranh quốc tế sẽ góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ, đa dạng hóa sản phẩm với giá thành thấp. Tuy nhiên, do tính nhạy cảm của thị trường dịch vụ tài chính, quá trình tự do hóa dịch vụ tài chính có thể mang lại những hậu quả tiêu cực nếu tiến hành trong điều kiện mất ổn định nền kinh tế vĩ mô. Trên cơ sở kinh nghiệm tự do hóa dịch vụ tài chính của một số nước trên thế giới kết hợp cùng với việc phân tích thực trạng thị trường dịch vụ tài chính của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, chúng ta thấy được những cơ hội và các thách thức của thị trường dịch vụ tài chính. Nhìn chung, trong thời gian qua, thị trường dịch vụ tài chính đã có những bước cải tiến rất nhiều, các khách hàng đã dần quen với nhiều tiện ích của các dịch vụ này. Từ thực trạng yêu cầu, những vấn đề về chính sách, chiến lược phát triển, tăng vốn, đầu tư công nghệ, liên kết các ngân hàng, nâng cao phong cách phục vụ, đa dạng sản phẩm, đào tạo nhân lực đang là vấn đề mà các chủ thể cung cấp dịch vụ đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập. Trong thời gian đến, Việt Nam từng bước thực hiện các cam kết của WTO về lĩnh vực tài chính. Vì vậy, chúng ta cần phải nhanh chóng thực hiện tích cực các giải pháp sau để đẩy mạnh tự do hóa dịch vụ tài chính, đảm bảo cho hoạt động của thị trường dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả: Đẩy mạnh cải cách các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính: cải cách toàn diện từ gia tăng tiềm lực vốn cho chính chủ thề, lành mạnh tình hình tài chính, đầu tư công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực, đa dạng hóa các sản phẩm, nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, xây dựng thương hiệu trong và ngoài nước. 64 Đối với cơ quan quản lý: cần sớm ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn cụ thể cho các chủ thể, tăng cường các biện pháp kiểm soát, đồng thời duy trì ổn định nền kinh tế vĩ mô, kiềm chế thâm hụt ngân sách, kiểm soát dòng chu chuyển vốn. Thực hiện tổng hợp các giải pháp nhằm thực hiện thành công tiến trình tự do hóa các dịch vụ tài chính, góp phần đảm bảo tính bền vững và cạnh tranh với các chủ thể nước ngoài, đồng thời đưa nước ta hội nhập nhanh chóng vào nền kinh tế trong khu vực cũng như trên thế giới. Trang I PHẦN PHỤ LỤC Phụ lục 01: Biểu cam kết dịch vụ tài chính Phụ lục 02: Bảng phụ lục về dịch vụ tài chính (Bảng tiếng Anh) Trang II Phụ lục 01: Biểu cam kết dịch vụ tài chính Trang III Trang IV Trang V Trang VI Trang VII Trang VIII Trang IX Phụ lục 03: Bảng phụ lục về dịch vụ tài chính (Bảng tiếng Anh) Annex on financial services Definitions For the purposes of this Annex: (a) A financial service is any service of a financial nature offered by a financial service supplier of a Member. Financial services include all insurance and insurance-related services, and all banking and other financial services (excluding insurance) . Financial services include the following activities: Insurance and insurance-related services (i) Direct insurance (including co-insurance) : (A) life (B) non-life (ii) Reinsurance and retrocession; (iii) Insurance intermediation, such as brokerage and agency; (iv) Services auxiliary to insurance, such as consultancy, actuarial, risk assessment and claim settlement services. Banking and other financial services (excluding insurance) (v) Acceptance of deposits and other repayable funds from the public; (vi) Lending of all types, including consumer credit, mortgage credit, factoring and financing of commercial transaction; (vii) Financial leasing; (viii) All payment and money transmission services, including credit, charge and debit cards, travellers cheques and bankers drafts; (ix) Guarantees and commitments; (x) Trading for own account or for account of customers, whether on an exchange, in an over- the-counter market or otherwise, the following: Trang X (A) money market instruments (including cheques, bills, certificates of deposits) ; (B) foreign exchange; (C) derivative products including, but not limited to, futures and options; (D) exchange rate and interest rate instruments, including products such as swaps, forward rate agreements; (E) transferable securities; (F) other negotiable instruments and financial assets, including bullion. (xi) Participation in issues of all kinds of securities, including underwriting and placement as agent (whether publicly or privately) and provision of services related to such issues; (xii) Money broking; (xiii) Asset management, such as cash or portfolio management, all forms of collective investment management, pension fund management, custodial, depository and trust services; (xiv) Settlement and clearing services for financial assets, including securities, derivative products, and other negotiable instruments; (xv) Provision and transfer of financial information, and financial data processing and related software by suppliers of other financial services; (xvi) Advisory, intermediation and other auxiliary financial services on all the activities listed in subparagraphs (v) through (xv) , including credit reference and analysis, investment and portfolio research and advice, advice on acquisitions and on corporate restructuring and strategy. (b) A financial service supplier means any natural or juridical person of a Member wishing to supply or supplying financial services but the term "financial service supplier" does not include a public entity. (c) “Public entity” means: (i) a government, a central bank or a monetary authority, of a Member, or an entity owned or controlled by a Member, that is principally engaged in carrying out governmental functions or activities for governmental purposes, not including an entity principally engaged in supplying financial services on commercial terms; or (ii) a private entity, performing functions normally performed by a central bank or monetary authority, when exercising those functions.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf47497.pdf
Tài liệu liên quan