Luận văn Tự do hoá dịch vụ tài chính trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam

MỞ ĐẦU I. Đặt vấn đề & mục tiêu nghiên cứu Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong việc ổn định và phát triển trên cơ sở từng bước thâm nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (năm 1995) kèm theo là những cam kết tham gia khu vực mậu dịch tự do Châu Á (AFTA), việc ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) là những mốc sự kiện quan trọng đánh dấu quá trình mở cửa của Việt Nam. Theo đà phát triển đó, Việt Nam sẽ phải mở cửa ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó tự do hoá dịch vụ tài chính đang trở thành vấn đề có tính thời sự hiện nay. Quá trình này đang đặt ra những cơ hội và thách thức cho chúng ta. Do vậy, nghiên cứu đề tài “Tự do hoá dịch vụ tài chính trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam” nhằm tìm hiểu bản chất của quá trình này cũng như những vướng mắc còn tồn tại trong các loại hình dịch vụ tài chính ở Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp tháo gỡ để góp phần thúc đẩy quá trình hội nhập thành công. II. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung đi sâu vào phân tích, đánh giá các loại hình dịch vụ tài chính ở Việt Nam hiện nay như: dịch vụ ngân hàng, dịch vụ chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm trong bối cảnh của quá trình tự do hoá nhằm xây dựng những định hướng, giải pháp thúc đẩy hệ thống dịch vụ tài chính của nước ta. Tuy nhiên, với mục đích phục vụ tốt cho một đề tài nghiên cứu khoa học, đề tài không đi quá sâu vào nghiên cứu, phân tích mà phân tích một cách bao quát để có một cái nhìn tổng thể về chúng. III. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp phân tích thống kê để trình bày các loại hình dịch vụ tài chính một cách bao quát và rõ ràng. Ngoài ra phương pháp so sánh, phương pháp định lượng cũng được áp dụng. Tuy nhiên, do còn hạn chế về mặt kiến thức, số liệu tìm kiếm nên đề tài chưa được hoàn thiện là điều không thể tránh khỏi. IV. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: Trong những năm gần đây, nhiều nước tiến hành cải cách thể chế sâu rộng nhằm tăng cường cạnh tranh trong những ngành dịch vụ tài chính (chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm ). Những nước có khả năng khai thác những cơ hội trong quá trình tự do hoá dịch vụ tài chính cho thấy quá trình tự do hoá có thể đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế. Ngược lại, các nước không thiết lập được các điều kiện thuận lợi cho việc cung cấp đầy đủ và hiệu quả các dịch vụ sẽ đối mặt với rủi ro tụt hậu xa hơn. Đứng trước xu hướng của thời đại, xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài V. Những điểm nổi bật của đề tài: Điểm nổi bật của đề tài là phân tích sâu vào cơ hội, thách thức khi Việt Nam mở cửa hội nhập cũng như phân tích những tồn tại mà thị trường dịch vụ tài chính của ta còn gặp phải để từ đó đưa ra định hướng phát triển cho loại hình dịch vụ này. VI. Kết cấu của đề tài: Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm các chương chính: Chương 1: Tổng quan về tự do hoá dịch vụ tài chính (16 trang). Chương 2: Thực trạng tự do hóa dịch vụ tài chính trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt nam (43 trang). Chương 3: Các giải pháp thúc đẩy tự do hoá dịch vụ tài chính trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam (22 trang).

pdf89 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1803 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Tự do hoá dịch vụ tài chính trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng, dịch vụ chứng khoán và dịch vụ bảo hiểm. Ngoài ra còn có các dịch vụ tài chính khác như dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ đầu tư tài chính, dịch vụ kế toán, kiểm toán... Tư vấn tài chính hiện là lĩnh vực hoạt động mạnh với sự tham gia của đông đảo các công ty tư vấn cũng như các nhà tư vấn độc lập. Họ thường cung cấp các dịch vụ rất đa dạng, từ tư vấn về tài chính và đầu tư, cho đến việc dàn xếp kê khai thuế hoặc ghi chép sổ sách kế toán. … Phân tích tài chính bao gồm các công việc phân tích các chỉ số tài chính, cân đối tài sản nợ có, đánh giá sự tăng trưởng chung của tình hình tài chính và đầu tư. Dịch vụ tư vấn về quản lý tài chính cho các doanh nghiệp tư nhân còn rất hạn chế. Phần lớn các dịch vụ tài chính cung cấp cho khối doanh nghiệp tư nhân liên quan đến việc giúp thu xếp các khoản vay đầu tư, mà nhà tư vấn không tham gia vào quá trình phân tích, đánh giá đưa ra quyết định đầu tư ngay từ đầu. KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 Dịch vụ tài chính của Việt Nam vẫn còn kém phát triển. Các dịch vụ tài chính ngân hàng vẫn còn đơn điệu và nghèo nàn, suy cho cùng vẫn chỉ là các dịch vụ tiền gửi, tiền vay. Gần đây có thêm một số các dịch vụ khác nhưng vẫn còn hạn chế. Nói cách khác, chúng ta vẫn chưa có một hệ thống ngân hàng hiện đại trong quá trình hội nhập các dịch vụ tài chính. Các dịch vụ tài chính khác như môi giới kinh doanh và đầu tư chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm…vẫn còn ở một quy mô thấp và đơn điệu, đặt biệt là các dịch vụ liên quan đến thị trường chứng khoán. CHƯƠNG 3 CÁC GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY TỰ DO HOÁ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM 3.1 Các định hướng của chính sách tài chính tự do hoá của Việt nam Cho tới nay, Việt Nam đang trên con đường tự do hóa tài chính và tự do hóa tài chính là lựa chọn hợp lý trong điều kiện thực hiện các cam kết hội nhập trong khuôn khổ WTO, gắn tự do hóa tài chính và cải cách khu vực tài chính trong một lộ trình thống nhất. Tuy nhiên, Việt Nam chưa có kế hoạch tổng thể về cải cách và phát triển khu vực tài chính. Vì vậy, cần tập trung nghiên cứu và giải quyết những vấn đề chủ yếu sau đây: - Cần có sự phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa, chính sách thương mại, chính sách tỉ giá và các chính sách kinh tế vĩ mô khác; - Đổi mới căn bản hệ thống thiết chế an toàn và giám sát tài chính theo các thông lệ và chuẩn mực quốc tế; - Có biện pháp hợp lý và linh hoạt về kiểm soát các luồng vốn, nhất là nguồn vốn ra và nguồn vốn ngắn hạn vào TTCK; - Đẩy nhanh tiến độ cải cách ngân hàng nhằm nâng cao tiềm lực tài chính, làm cơ sở để đổi mới công nghệ và trình độ chuyên môn quản lý, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của hệ thống Ngân hàng Việt Nam; - Đẩy nhanh tiến độ cải cách doanh nghiệp, nhất là khu vực doanh nghiệp Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, góp phần giảm gánh nặng đối với Ngân sách Nhà nước. - Nâng cao năng lực điều hành tiền tệ, lãi suất và tỷ giá theo nguyên tắc thị trường nhằm hạn chế rủi ro thị trường đối với khu vực tài chính trong quá trình tự do hóa; - Quan tâm phát triển hệ thống thanh toán và dịch vụ hỗ trợ thị trường tài chính theo hướng hiện đại hóa, đồng thời tăng cường quản lý, giám sát nhằm tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động tài chính diễn ra thông suốt và an toàn; - Trong quá trình tự do hóa tài chính, cần xử lý sớm, ngay từ đầu những vấn đề liên quan đến sự lành mạnh của hệ thống tài chính, nhất là hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán. - Về hoạt động tài chính đối ngoại cần chủ động hội nhập kinh tế quốc tế về tài chính, xác định lộ trình hợp lý đối với phát triển và tự do hoá từng bước luồng vốn trong điều kiện hội nhập, thực hiện đa dạng hoá nguồn vốn, đa phương hoá quan hệ đối tác. 3.2 Thuận lợi và khó khăn của quá trình tự do hoá dịch vụ tài chính 3.2.1 Thuận lợi - Việt Nam có hệ thống chính trị ổn định. Trong bối cảnh nền an ninh chính trị quốc tế bất ổn, Việt Nam lại được các tổ chức quốc tế đánh giá là nơi an toàn. Đây là điểm mạnh của Việt Nam trong vấn đề thu hút vốn đầu tư nước ngoài phát triển các dịch vụ tài chính. - Nền kinh tế có tốc độ phát triển kinh tế khá cao và ổn định, lạm phát được kiềm chế; đời sống của người dân ngày càng được nâng cao và vì thế kéo theo các nhu cầu về dịch vụ tài chính. - Chính phủ có những chủ trương và sách lược phát triển kinh tế đúng đắn (phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường); đồng thời thực hiện chính sách đón đầu, chủ động hội nhập. - Các văn bản pháp luật đảm bảo cho thị trường các dịch vụ tài chính phát triển lành mạnh và ổn định ngày càng được hoàn thiện. 3.2.2 Khó khăn - Môi trường pháp lý nước ta vẫn còn đang trong giai đoạn hoàn thiện nên hệ thống các văn bản pháp luật quy định chưa chặt chẽ, đầy đủ và thiếu đồng bộ, các văn bản hướng dẫn triển khai còn chậm. - Nhận thức của ngưới dân và thu nhập của họ tuy có tăng lên nhưng vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới nên họ chưa có điều kiện lưu tâm đến tính tiện ích của các dịch vụ tài chính. - Năng lực và hiệu quả hoạt động của các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước còn nhiều hạn chế. Đây là một trong những nguyên nhân làm cản trở tiến trình hội nhập các dịch vụ tài chính. Một số mặt có thể đề cập sau: + Vốn hoạt động của các công ty trong nước còn nhỏ bé chưa tạo được uy tín, niềm tin cho khách hàng. Điều này cũng gây khó khăn trong vấn đề tiếp cận công nghệ và phương thức quản lý tiên tiến. + Trình độ của các cán bộ không đồng đều, tác phong nông nghiệp của thời kỳ bao cấp để lại không thể xoá bỏ một sớm một chiều. 3.3 Các quan điểm thực hiện cho quá trình tự do hoá dịch vụ tài chính - Thứ nhất: Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa thị trường tài chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho vừa đảm bảo nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự thành công về xúc tiến mở cửa thị trường dịch vụ tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng sự tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế. - Thứ hai: Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không gắn liền với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta hiện nay. Mặc dù đã hơn 10 năm cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát thấp, kém hiệu quả. Thực trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo vệ trong điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ diễn ra trên thế giới là sự yếu kém của bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi hành chính sách mở cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài chính nảy sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị trường nếu quá đột ngột do không có sự cải cách đáng kể để nâng cao năng lực của hệ thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy cải cách và loại bỏ tính hành chính của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với nền kinh tế thị trường trong môi trường quốc tế được coi là một trong những chiến lược mang lại sự thành công trong quá trình hội nhập. - Thứ ba: Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là những cải cách về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được tiến hành toàn diện cả về quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của toàn bộ hệ thống gắn với những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách về điều hành tỷ giá, quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm đối với nến kinh tế. - Thứ tư: Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần thị trường dịch vụ tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu quả và minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng đối xử quốc gia. Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của Chính phủ và các cơ quan bảo vệ pháp luật đối với các hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo sự khống chế của Nhà nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ tài chính. - Thứ năm: Việt Nam cần tập trung tối đa vị thế của một nước đang phát triển trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương để được hưởng những ưu đãi hoặc nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ với tư cách thành viên. Những nhượng bộ và những ưu đãi này sẽ là những điều kiện tốt để cơ cấu, cải tổ lại và tăng cường tiềm lực cạnh tranh sao cho có thể đứng vững trước sự du nhập của các thế lực cạnh tranh quốc tế khi thị trường được tự do hoá hoàn toàn. 3.4 Các giải pháp vĩ mô cho quá trình tự do hoá dịch vụ tài chính 3.4.1 Tiếp tục hoàn thiện chính sách cho quá trình tự do hoá dịch vụ tài chính Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ tài chính phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế xã hội và chuẩn mực quốc tế, trong đó cần quán triệt nguyên tắc cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Tách bạch rõ ràng chức năng quản lý vĩ mô Nhà nước với chức năng kinh doanh của các chủ thể, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà thông qua hệ thống luật pháp và các công cụ thị trường tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng, thuận lợi cho mọi chủ thể tham gia thị trường. Trên cơ sở đó hoàn thiện hệ thống quản lý Nhà nước đối với thị trường dịch vụ tài chính thông qua việc hoàn thiện và nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống khung pháp luật, thành lập và phân định rõ ràng nhiệm vụ, chức năng của các cơ quan quản lý Nhà nước... 3.4.2 Hoàn thiện hệ thống luật pháp để tạo hành lang pháp lý đảm bảo cho các dịch vụ tài chính phát triển bền vững Hệ thống khung pháp lý có vai trò rất quan trọng đối với sự hoạt động và phát triển của thị trường dịch vụ tài chính, đây là cơ sở quan trọng nhất quy định nguyên tắc và tổ chức hoạt động của thị trường. Đặc biệt, trong tiến trình tự do hoá, hệ thống khung pháp lý không những đảm bảo cho thị trường dịch vụ tài chính trong nước hoạt động bình thường mà còn phải phù hợp với những cam kết quốc tế. Vì thế, các cơ quan quản lý Nhà nước về dịch vụ tài chính như Bộ Tài Chính, NHNN, UBCKNN... cần sớm tổ chức rà soát lại toàn bộ hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan để kiến nghị với Chính phủ và Quốc hội sữa đổi, bổ sung, xây dựng các văn bản mới cho phù hợp với điều kiện hội nhập. Cần nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống văn bản luật hiện tại và nhanh chóng xây dựng, ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn một cách đồng bộ. 3.4.3 Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và thông thoáng Thực hiện nghiêm túc những cam kết của mình với cộng đồng quốc tế và tăng cường cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống luật pháp để bảo đảm môi trường pháp luật rõ ràng, công khai, nhất quán và ổn định. Giảm thiểu các thủ tục hành chính không cần thiết, xóa bỏ giấy phép con, sự can thiệp của các cơ quan hành chính vào công việc kinh doanh cụ thể của các nhà đầu tư sẽ làm môi trường kinh doanh thông thoáng và thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư. 3.4.4 Đẩy mạnh chương trình cải cách các chủ thể cung cấp dịch vụ tài chính trong nước Một trong những nguy cơ của tự do hoá DVTC là các chủ thể cung cấp DVTC trong nước bị mất thị trường bởi sự xâm nhập từ bên ngoài, mà nguyên nhân chủ yếu do năng lực cạnh tranh yếu kém. Vì vậy, nâng cao năng lực cạnh tranh của các chủ thể cung cấp DVTC là bước đi cần thiết để tiến hành tự do hoá DVTC. Muốn vậy, chúng ta cần phải gia tăng tiềm lực tài chính, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ tài chính, hiện đại hoá công nghệ, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, đẩy mạnh công tác marketing và xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm DVTC. 3.5 Các giải pháp thúc đẩy tự do hoá dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ liên quan đến ngân hàng 3.5.1 Nâng cao chất lượng tín dụng Tín dụng vẫn là hoạt động chính của NHTM. Nâng cao chất lượng tín dụng không chỉ có ý nghĩa tăng thu nhập, giảm nợ quá hạn khó đòi đối với NHTM, mà quan trọng hơn là đảm bảo vốn ngân hàng đầu tư đúng hướng, có hiệu quả góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế tích cực phát triển. Quá trình mở rộng và tăng trưởng tín dụng phải gắn liền với hiệu quả tín dụng. - Cần giảm tỷ lệ nợ xấu. Muốn vậy, Ngân hàng phải thực hiện chặt chẽ quy trình cho vay, chấn chỉnh và thường xuyên kiểm tra, xử lý kịp thời rủi ro tín dụng, thực hiện các nghiệp vụ phái sinh phòng ngừa rủi ro hữu hiệu và có giải pháp xử lý rủi ro thích hợp. Song song với việc phân loại nợ, cần nhanh chóng phối hợp với các công ty mua bán nợ của các ngân hàng và công ty mua bán nợ của Bộ Tài chính để nhanh chóng làm sạch bảng cân đối. Đây là biện pháp mà các NHTM Trung Quốc đã thực hiện và đạt được kết quả. - Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ngân hang thương mại. Muốn nâng cao chất lượng tín dụng, trước hết phải có quy định cụ thể, những việc phải làm, không được làm khi xét duyệt một món nợ vay. Nâng cao chất lượng thẩm định trên cơ sở đổi mới đồng bộ các khâu đào tạo bồi dưỡng cán bộ mang tính chuyên nghiệp cao, có sự phân nhiệm rõ ràng và hợp lý. - Các TCTD cần thống nhất nhận thức và nhất quán trong việc thực hiện chính sách tín dụng với tầm nhìn dài hạn; không vì các lợi ích trong một vài năm trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích lâu dài trong các năm tiếp theo. Do vậy không thể chỉ vì để đảm bảo lương và thưởng theo kế hoạch từng năm mà mạo hiểm cho vay ồ ạt các dự án kém chất lượng, tiềm ẩn nhiều rủi ro, dẫn đến có thể tăng đột biến nợ quá hạn và giảm mạnh các mặt khác của chất lượng tín dụng trong các năm sau. 3.5.2 Đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ ngân hàng Mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Cần từng bước mở rộng hoạt động ngân hàng quốc tế của NHTM Việt Nam ra thị trường tài chính quốc tế, cho phép các ngân hàng thực hiện không hạn chế các nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và kinh doanh tiền tệ mới, đặc biệt là các nghiệp vụ phái sinh tiền tệ, lãi suất, tỷ giá trên thị trường tài chính trong nước và quốc tế theo thông lệ quốc tế nhằm tối đa hoá cơ hội đầu tư và giảm thiểu rủi ro. Các Ngân hàng thương mại Việt Nam cần tiến hành đa dạng hoá dịch vụ theo hướng: hoàn thiện, phát triển các dịch vụ hiện có; đồng thời, triển khai thực hiện các dịch vụ mà nền kinh tế đang cần và ngân hàng có điều kiện thực hiện ngay, cũng như chuẩn bị các điều kiện để triển khai các dịch vụ mới. - Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện có: + Cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn theo hướng: đơn giản, thuận tiện, an toàn cho ngân hàng và khách hàng. + Trang bị máy móc, thiết bị, chương trình phần mềm cần thiết để mở rộng phạm vi và cải tiến hệ thống thanh toán của ngân hàng. + Mở rộng mạng lưới giao dịch đến tận cơ sở, nơi tập trung đông dân cư. Tăng cường tuyên truyền, khuyến khích người dân và các tổ chức kinh tế mở tài khoản tiền gửi. - Triển khai một số loại dịch vụ mới: + Triển khai một số dịch vụ huy động vốn mới như: gửi nhiều lần rút một lần, tiết kiệm một nơi lĩnh nhiều nơi, tiền gửi tiết kiệm theo mật mã... + Phát triển dịch vụ chiết khấu thương phiếu, cho vay thấu chi, cho vay mua bán chứng khoán, cho vay mua cổ phần, cho thuê và bán tài sản trả góp, mở rộng cho vay tiêu dùng... + Tăng cường cơ sở vật chất, ứng dụng tin học vào công nghệ ngân hàng, phát triển thêm một số dịch vụ như: dịch vụ bảo quản và ký gửi, ủy thác, dịch vụ ngân hàng thông qua mạng Internet. 3.5.3 Cơ cấu lại nguồn vốn của các ngân hàng thương mại Các NHTM cần có chiến lược tăng vốn điều lệ thông qua thực hiện tăng vốn tự có. Trước mắt đối với các NHTM Nhà nước, cần tăng vốn tự có lên mức ngang bằng với các ngân hàng trung bình trong khu vực (trên 1 tỷ USD). Tuy nhiên, việc nâng vốn tự có của các ngân hàng phải dựa trên một kế hoạch tổng thể phù hợp với chiến lược tài chính của mình. Việc tăng vốn tự có của NHTM thường được tiến hành theo 2 cách: - Ngân hàng tăng trưởng vốn tự có từ bên trong thông qua chiến lược tăng lợi nhuận. Để làm được điều này, các ngân hàng cần phát triển các nghiệp vụ, dịch vụ truyền thống hiện có; đồng thời triển khai các dịch vụ hiện đại vốn là những dịch vụ mang lợi nhuận cao, nhanh chóng thiết lập chiến lược khách hàng theo hướng đa dạng hoá các đối tượng khách hàng nhằm giảm thiểu rủi ro và tăng lợi nhuận cho ngân hàng. Ngân hàng phải có những phân loại về thị trường như thị trường mục tiêu, thị trường tiềm năng; mở rộng địa bàn hoạt động, xác định rõ những lợi thế so sánh của mình trong cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài. Có như vậy, các ngân hàng mới có thể thực hiện gia tăng lợi nhuận và hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh với môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt khi hội nhập. - Ngân hàng tăng trưởng vốn tự có từ bên ngoài thông qua con đường phát hành cổ phiếu, trái phiếu dài hạn, sáp nhập. Bởi vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là phải cổ phần hoá các NHTM nhà nước, thực hiện tạo vốn tự có thông qua thị trường chứng khoán. Ngoài ra, đối với các NHTM cổ phần với quy mô vốn khoảng 70 tỷ đồng cần phải nâng cấp lên quy mô từ 200 tỷ đồng trở lên để nâng cao sức cạnh tranh và đáp ứng các chuẩn mực quốc tế. Hoặc một số NHTM cổ phần liên kết với nhau tiến tới sáp nhập thành tổ chức tín dụng có quy mô vốn lớn, hoạt động ổn định và phát triển trong tình hình mới. 3.5.4 Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng Đầu tư cho công nghệ là nền tảng quan trọng để đẩy mạnh hoạt động ngân hàng, nó góp phần nâng cao năng suất và chất lượng, đồng thời nó tạo thêm nhiều sản phẩm và dịch vụ tài chính mới. Chúng ta đang đứng trước một kỷ nguyên công nghệ thông tin, trong đó công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của ngành ngân hàng. Tuy nhiên thực tế ở Việt Nam việc ứng dụng công nghệ thông tin khá khiêm tốn, vì vậy cần hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để bắt kịp với trình độ công nghệ của các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng sẽ làm tiết giảm được thời gian, lao động, phục vụ việc quản trị, điều hành, tác nghiệp cũng như phục vụ khách hàng nhanh chóng thuận tiện hơn. Đồng thời, trên cơ sở nền tảng công nghệ cao sẽ phát triển được nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Bên cạnh việc trang bị phần cứng như máy móc thiết bị, cần chú ý phát triển phần mềm để tận dụng, tạo ra được nhiều sản phẩm ngân hàng bán lẻ cho khách hàng, có chính sách tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ nghiệp vụ để có điều kiện tiếp cận nhanh chóng với các công nghệ ngân hàng trong tiến trình hội nhập quốc tế. 3.5.5 Đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực - Chú trọng công tác tổ chức và tăng cường năng lực quản trị điều hành của NHTM. Các ngân hàng cần tăng cường việc tổ chức các khoá đào tạo dành riêng cho cán bộ quản lý theo từng cấp. Mặt khác, cần lựa chọn các cán bộ quản lý các cấp có tiềm năng đi đào tạo thực tập ở các ngân hàng nước ngoài, đổi mới mô hình tổ chức và quy chế điều hành theo hướng tăng quyền lực quản lý của hội đồng quản trị; nâng cao hơn nữa quyền tự chủ tài chính cho các NHTM. - Cần đào tạo và đào tạo lại cán bộ để thực hiện tốt các nghiệp vụ của ngân hàng hiện đại. Hơn nữa, cần tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập quốc tế, nhất là những cán bộ trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng quốc tế, cán bộ thanh tra giám sát và cán bộ chuyên trách làm công tác pháp luật quốc tế, cán bộ sử dụng và vận hành công nghệ mới. 3.5.6 Giảm mức độ thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế - Hệ thống ngân hàng phải khẩn trương phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, cả trên giác độ công nghệ, mạng lưới giao dịch và cách thức quản lý, tổ chức cung cấp dịch vụ, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân có được sự thuận tiện và hiệu quả tối đa khi sử dụng dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. - Sử dụng biện pháp hành chính trong quản lý thanh toán bằng tiền mặt, cụ thể như xem xét đưa ra quy định về mức tối đa phải thanh toán bằng tiền mặt giữa các tổ chức có tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hang hoặc cần có thêm quy định việc các tổ chức trả tiền lương, tiền công cho người lao động cũng phải thực hiện bằng phương thức không dùng tiền mặt. Trong bối cảnh thói quen sử dụng tiền mặt đang còn phổ biến trong xã hội, có thể coi biện pháp hành chính như là một điều kiện để đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu nhanh chóng hạn chế thanh toán bằng tiền mặt, mặc dù chỉ nên coi đây là biện pháp mang tính tạm thời, khi mà các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu của xã hội và nhất là khi tâm lý quen sử dụng tiền mặt trong công chúng đã thay đổi thì không cần phải tiếp tục duy trì biện pháp này. - Tăng cường thông tin, tuyên truyền cho các tổ chức, cá nhân hiểu rõ các lợi ích của dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt so với thanh toán bằng tiền mặt, khả năng đáp ứng dịch vụ này của các hệ thống ngân hàng cũng như các quy định của Nhà nước về quản lý thanh toán bằng tiền mặt để tạo sự hưởng ứng rộng rãi trong xã hội và từng bước tác động làm thay đổi tâm lý quen sử dụng tiền mặt trong công chúng. 3.5.7 Đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam phát triển nền kinh tế thị trường theo xu hướng hội nhập, thì dứt khoát phải cổ phần hoá hệ thống NHTM NN. Giải pháp cổ phần hoá một bộ phận NHTM NN ở nước ta được đề xuất ngay từ giai đoạn thực hiện hai Pháp lệnh Ngân hàng, từ cách đây hơn 10 năm. Nhưng từ đầu năm 2004 thì chương trình cổ phần hoá NHTM NN mới trở thành hiện thực. Sau đây là một số giải pháp cổ phần hoá NHTM NN một cách có hiệu quả: - Một là, về mức độ cổ phần hoá. Hiện nay khối NHTM NN chiếm khoảng trên 75% thị phần huy động vốn và thị phần cho vay. Theo tôi quá trình cổ phần hoá, các NHTM NN đã được cổ phần hoá chỉ chiếm khoảng 51% - 55% thị phần nói trên là phù hợp. - Hai là, cổ phần hoá phải gắn với quá trình mở cửa thị trường dịch vụ tài chính theo cam kết của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, cam kết gia nhập WTO và thực hiện cam kết gia nhập AFTA. Theo đó, cần cho phép các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ tối đa khoảng 30% vốn cổ phần trong các NHTM Nhà nước, cao hơn mức 25% của Trung Quốc. Điều đó cũng có nghĩa các nhà đầu tư nước ngoài phải có thành viên trong Hội đồng quản trị, tham gia chi phối và kiểm soát ngân hàng. Tất nhiên Nhà nước vẫn nắm giữ cổ phần tối đa, nắm quyền điều hành ngân hàng. Cách làm như vậy cho phép chuyển giao công nghệ ngân hàng hiện đại, kỹ năng quản trị ngân hàng tiên tiến, áp dụng các nghiệp vụ ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đồng thời tăng tính minh bạch của ngân hàng theo thông lệ của khu vực và thế giới. - Ba là, về phát hành cổ phiếu cần theo thông lệ quốc tế, đó là bao gồm cả hai loại cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu ưu đãi dành cho những người lao động, cán bộ, nhân viên trong ngân hàng. Mức độ sở hữu tuỳ thuộc vào thâm niên, vị trí công tác và tài năng của cán bộ, nhân viên ngân hàng. Cổ phiếu phổ thông được phát hành rộng rãi cho các nhà đầu tư thể nhân và pháp nhân ở trong và ngoài nước có cơ hội được mua, thông qua việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường trong nước và thị trường chứng khoán quốc tế được lựa chọn. - Bốn là, cổ phần hoá tất cả 5 NHTM Nhà nước. Tuy nhiên tuỳ từng ngân hàng mà Nhà nước nắm giữ tỷ lệ cổ phần tối đa là bao nhiêu, nhưng luôn đảm bảo quyền chi phối, điều hành, tức là tối thiểu 51%, đến khoảng 60 - 65%. Tương ứng, tùy từng ngân hàng mà có thể cho phép các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ tỷ lệ cổ phần ở mức độ khác nhau, có thể tới 40%, nhưng tỷ lệ bình quân chung là không quá 30%. - Năm là, việc xác định giá trị của doanh nghiệp. Đây là vấn đề khó đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nói chung và đặc biệt rất phức tạp đối với các tổ chức trung gian tài chính. Bài học về đấu giá cổ phiếu của Công ty bảo hiểm TP.Hồ Chí Minh (Bảo Minh) đã cho nhiều kinh nghiệm quý về vấn đề xác định giá trị cổ phiếu. Cuộc đấu giá có hơn 1.000 nhà đầu tư tham gia. Tổng khối lượng cổ phần được bán là 217.000 cổ phần, với tổng giá trị giao dịch của toàn bộ phiên đấu giá là 96.980.600.000 đồng, tăng 52 tỷ đồng so với số vốn Bảo Minh dự kiến huy động ban đầu. Thực tế đó cho thấy, cổ phần được đưa ra đấu giá sẽ cao hơn mệnh giá ban đầu rất nhiều. Từ bài học kinh nghiệm của Bảo Minh, cũng như các NHTM cổ phần cho thấy việc xác định giá trị cổ phần của Ngân hàng TM cần được thực hiện qua đấu giá công khai. Việc định giá chính xác giá trị của NH trước khi cổ phần hoá là rất quan trọng, cần được dựa trên một tổ chức có uy tín trong nước và kết quả kiểm toán quốc tế, kết hợp với việc lựa chọn Công ty tư vấn định giá nước ngoài. Kết quả sẽ được Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính thẩm định lại trình Chính phủ. Sau khi phát hành cổ phiếu ưu đãi, thì niêm yết rộng rãi cổ phiếu trên thị trường chứng khoán trong và ngoài nước, phát hành theo hình thức đấu thầu. 3.6 Các giải pháp thúc đẩy tự do hoá dịch vụ bảo hiểm và các dịch vụ liên quan đến bảo hiểm 3.6.1 Đa dạng hoá các sản phẩm bảo hiểm - Để nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập và hợp tác, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phát triển nhiều sản phẩm mới ngoài những sản phẩm bảo hiểm truyền thống cần tập trung phát triển sản phẩm bảo hiểm chăm sóc sức khỏe, y tế chất lượng cao, bảo hiểm trách nhiệm (trách nhiệm nghề nghiệp, trách nhiệm đối với sản phẩm, trách nhiệm pháp lý...) và các sản phẩm phục vụ phát triển nông thôn. Các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ cần tăng thêm sản phẩm liên kết đầu tư, bảo hiểm hưu trí và chăm sóc y tế. Đặc biệt biệt đối với sản phẩm bảo hiểm phi nhân thọ cần chú trọng phát triển sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp và bảo hiểm trách nhiệm chủ xe cơ giới vì đây là 2 sản phẩm đầy tiềm năng ở nước ta hiện nay. + Đối với sản phẩm bảo hiểm nông nghiệp: nước ta là một nước nông nghiệp với khoảng 80% dân số sống ở nông thôn và họ là những người thường xuyên gánh chịu những rủi ro do sự thay đổi của thời tiết và những rủi ro do sự biến động giá cả trên thị trường nông sản. Vì vậy, phát triển các sản phẩm nông nghiệp là một trong những vấn đề cần được các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ cũng như Nhà nước quan tâm đúng mức nhằm cải thiện mức sống của nhười dân Việt Nam, giảm bớt cách biệt giữa nông thôn và thành thị, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vì bảo hiểm nông nghiệp là một chính sách của Nhà nước nhằm xoá đói giảm nghèo, tạo điều kiện để nông dân đầu tư phát triển sản xuất. Vì vậy, để phát triển các loại hình bảo hiểm này cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa Nhà nước và các doanh nghiệp bảo hiểm. Trong đó, Nhà nước phải đóng vai trò là người trợ giúp thông qua việc hổ trợ về mặt tài chính cho nông dân thanh toán phí bảo hiểm và có các chính sách ưu đãi thích hợp đối với các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm này. + Đối với sản phẩm trách nhiệm chủ xe cơ giới: lượng xe cơ giới nước ta tăng nhanh, cộng với chất lượng mạng lưới giao thông quá nghèo nàn là những nguyên nhân đưa nước ta vào nhóm những nước có tỷ lệ tử vong do tai nạn giao thông cao nhất thế giới. Vì vậy, phát triển bảo hiểm xe cơ giới là một trong những giải pháp nhằm hạn chế bớt những rủi ro có thể phát sinh trong cuộc sống hằng ngày của người dân. - Trong thời gian tới, các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam cần tiếp tục phát triển và đa dạng các loại hình dịch vụ bảo hiểm hiện nay, tăng cường mở rộng và thực hiện các loại hình dịch vụ bảo hiểm mới và những loại hình mà tỷ trọng khai thác còn ở mức thấp như: bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu; bảo hiểm tài sản cho doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp vừa và nhỏ; các dịch vụ bảo hiểm trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp; các dịch vụ bảo hiểm cần công nghệ cao như trong lĩnh vực rủi ro tài chính... 3.6.2 Nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm + Tăng cường trang bị và ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, rủi ro và đối tượng được bảo hiểm, giám định giải quyết bồi thường và nhất là tiến tới thương mại điện tử bán hàng qua mạng. + Đào tạo phát triển nguồn nhân lực, có chế độ chính sách hợp lý để giữ được đội ngũ cán bộ bảo hiểm chuyên nghiệp. + Tạo ra nhiều dịch vụ gia tăng ngoài việc được bảo hiểm như được khám chữa bệnh tại cơ sở y tế và bác sỹ nổi tiếng theo giá ưu đãi, được sửa chữa xe (không thuộc trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm) tại cơ sở uy tín và được giảm giá... + Cải cách hành chính, đơn giản hoá thủ tục bán bảo hiểm, giám định tổn thất và bồi thường nhanh gọn chính xác. + Chú trọng đến công tác đầu tư tài chính từ quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm nhằm đem lại bảo tức ngày một tốt hơn cho khách hàng. + Tiếp tục xây dựng thương hiệu, văn hoá doanh nghiệp và phong cách phục vụ tốt. Làm được như vậy, doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam sẽ chứng minh rằng việc mua bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm tại Việt Nam sẽ được phục vụ tốt hơn, đảm bảo quyền lợi tốt hơn so với mua bảo hiểm của hãng bảo hiểm không có mặt tại Việt Nam. Điều này sẽ hướng sự lựa chọn của khách hàng tới các doanh nghiệp bảo hiểm đang hoạt động tại Việt Nam. 3.6.3 Phát triển các kênh phân phối bảo hiểm Sản phẩm bảo hiểm được phân phối cho người tham gia bảo hiểm qua các kênh: doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện; thông qua trung gian bảo hiểm là môi giới bảo hiểm, đại lí bảo hiểm. Thực tế cho thấy, kênh phân phối sản phẩm bảo hiểm đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng của thị trường. Để đạt được mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam, các giải pháp phải thực hiện là: - Phát triển hoạt động môi giới bảo hiểm: môi giới bảo hiểm tư vấn giúp khách hàng đánh giá rủi ro cần phải bảo hiểm, lựa chọn các doanh nghiệp bảo hiểm, sản phẩm bảo hiểm phù hợp với mức phí bảo hiểm hợp lý, hỗ trợ việc giải quyết và thương lượng bồi thường, giúp cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí cho các giao dịch bảo hiểm, đồng thời tạo mối quan hệ tin tưởng lẫn nhau giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm. - Phát triển và nâng cao chất lượng đào tạo đại lý bảo hiểm: các doanh nghiệp bảo hiểm ngày nay đã và đang tìm kiếm cũng như tận dụng tối đa mọi kênh phân phối sản phẩm, nhưng chủ yếu vẫn là thông qua kênh phân phối đại lý bảo hiểm. Xác định việc xây dựng hệ thống đại lý nói chung và đội ngũ đại lý chuyên nghiệp nói riêng là đòi hỏi tất yếu nhằm mở rộng thị trường, nâng cao doanh thu và hiệu quả kinh doanh, đồng thời tạo việc làm cho hàng ngàn lao động xã hội… Vì vậy các doanh nghiệp bảo hiểm cần: + Phát triển đội ngũ đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, coi đây là một nghề, tạo thêm công ăn việc làm cho xã hội. + Nâng cao chất lượng đại lý bảo hiểm. Nguyên nhân thành công của đại lý bảo hiểm là chất lượng đào tạo. Vì vậy đi đôi với việc ban hành chính sách, chế độ như quy định tỷ lệ hoa hồng đại lý bù đắp được công sức của đại lý để khuyến khích đội ngũ đại lý bảo hiểm đông đảo gia nhập thị trường cần tăng cường việc quản lý chương trình đào tạo, đề ra các tiêu chuẩn và điều kiện cụ thể đối với đại lý bảo hiểm, bảo đảm đội ngũ đại lý bảo hiểm có trình độ chuyên môn sâu về sản phẩm bảo hiểm, có đạo đức nghề nghiệp giúp cho thị trường phát triển lành mạnh. - Phát triển thương mại điện tử: Cho phép bán bảo hiểm qua mạng Internet. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, hiện nay nhiều công ty bảo hiểm trên thế giới đã áp dụng thương mại điện tử, rất thích hợp với người tiêu dùng là các doanh nghiệp, các cá nhân có điều kiện tiếp cận Internet, giảm các chi phí giao dịch, đồng thời giúp doanh nghiệp gia tăng tốc độ giao dịch và dễ dàng mở rộng phạm vi hoạt động. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo: Có một thực tế là so với các loại hình doanh nghiệp khác thì việc tuyên truyền, quảng cáo bằng phương pháp trực quan của ngành bảo hiểm tiến hành thật khó khăn, ít gây ấn tượng cho khách hàng. Khó khăn đặc thù này của ngành bảo hiểm bắt đầu từ tính chất đặc thù của bảo hiểm bởi vì sản phẩm bảo hiểm không phải là một loại hàng hoá hiện vật mà là một loại dịch vụ đặc biệt nên việc tiêu thụ sản phẩm không dễ dàng như các sản phẩm khác. Do vậy, trong thời gian tới các DNBH phải xây dựng được các câu phương châm, các khẩu hiệu quảng cáo nhằm thực hiện mục đích hoạt động kinh doanh của mình. - Phát triển các kênh phân phối mới: Sản phẩm bảo hiểm được phân phối cho người tham gia bảo hiểm qua các kênh truyền thống như: doanh nghiệp bảo hiểm trực tiếp thực hiện; thông qua trung gian bảo hiểm là môi giới bảo hiểm, đại lí bảo hiểm, đại diện thương mại...Tuy nhiên, đứng trước xu thế mở cửa và hội nhập, các DNBH Việt Nam cần phải phát triển các sản phẩm bảo hiểm qua các kênh phân phối mới như qua Ngân hàng, các tổ chức tài chính, các cửa hàng... 3.6.4 Thu hút sự tham gia của các công ty bảo hiểm nước ngoài - Cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được cung cấp một số loại bảo hiểm bắt buộc và hưởng chế độ đãi ngộ quốc gia một cách đầy đủ. - Nghiêm túc thực hiện các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Theo cam kết, Việt Nam cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài thành lập chi nhánh 100% vốn nước ngoài và 5 năm sau các doanh nghiệp này sẽ được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Các giới hạn đối với hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam sẽ ở mức thấp nhất. - Thực thi cam kết của mình đối với chi nhánh của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài theo đúng các tiêu chuẩn của Hiệp hội các nhà quản lý bảo hiểm quốc tế (IAIS) được quốc tế công nhận. 3.7 Các giải pháp thúc đẩy tự do hoá dịch vụ chứng khoán và dịch vụ liên quan đến TTCK 3.7.1 Phát triển hàng hoá cho thị trường chứng khoán Việt Nam về số lượng, chất lượng và chủng loại - Gắn tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước với việc phát hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết trên thị trường chứng khoán. - Cải tiến phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ, tăng cường phát hành theo phương thức đấu thầu và bảo lãnh phát hành trái phiếu Chính phủ; đa dạng hoá các kỳ hạn trái phiếu Chính phủ để tạo đường cong lãi suất chuẩn cho thị trường vốn; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát hành theo lịch biểu, nhằm cung cấp đều đặn khối lượng trái phiếu cho thị trường chứng khoán. - Lựa chọn các doanh nghiệp lớn, các ngân hàng thương mại cổ phần có đủ điều kiện để phát hành thêm cổ phiếu và tham gia niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung. - Mở rộng việc chuyển các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia niêm yết cổ phiếu trên thị trường tập trung. - Khuyến khích và tạo điều kiện để đưa các loại trái phiếu Chỉnh phủ, trái phiếu Quỹ hỗ trợ phát triển, trái phiếu địa phương, trái phiếu công trình, trái phiếu đô thị lên niêm yết, giao dịch trên thị trường chứng khoán tập trung. - Phát triển các loại chứng khoán khác như: quyền mua cổ phiếu, trái phiếu công ty, trái phiếu chuyển đổi của doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đầu tư để đưa vào niêm yết và giao dịch trên thị trường chứng khoán. - Giám sát và hỗ trợ các công ty niêm yết trong việc thực hiện thông lệ tốt nhất về quản trị công ty; thực hiện chế độ kế toán, kiểm toán theo quy định của pháp luật. Tăng cường quản lý, giám sát các công ty niêm yết trong việc thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin và các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư. 3.7.2 Phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ các định chế tài chính trung gian hoạt động trên thị trường chứng khoán * Về phát triển các định chế tài chính trung gian hoạt động trên TTCK: - Để phát triển các định chế trung gian hoạt động trên thị trường, UBCKNN cần xây dựng kế hoạch cấp phép, hoàn thiện và mở rộng các tổ chức kinh doanh chứng khoán; xây dựng đề án thành lập Công ty Đầu tư Tài chính Nhà nước; xây dựng đề án thành lập Tổ chức định mức tín nhiệm. - Tăng quy mô và phạm vi hoạt động nghiệp vụ kinh doanh, dịch vụ của các công ty chứng khoán. Phát triển các công ty chứng khoán theo hai loại hình: Công ty Chứng khoán đa nghiệp vụ và Công ty Chứng khoán chuyên doanh, nhằm tăng chất lượng cung cấp dịch vụ và khả năng chuyên môn hoá hoạt động nghiệp vụ. - Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế có đủ điều kiện thành lập các công ty chứng khoán, khuyến khích các công ty chứng khoán thành lập các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh ở các tỉnh, thành phố lớn, các khu vực đông dân cư trong cả nước. - Phát triển các công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán cả về quy mô và chất lượng hoạt động. Đa dạng hoá các loại hình sở hữu đối với công ty quản lý quỹ đầu tư. Khuyến khích các công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư. - Thành lập một số công ty định mức tín nhiệm để đánh giá, xếp loại rủi ro các loại chứng khoán niêm yết và định mức tín nhiệm của các doanh nghiệp Việt Nam. - Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng khoa học công nghệ tin học trong giao dịch trực tuyến, đảm bảo sự kết nối đồng bộ, tương thích với SGDCK, TTGDCK và TTLKCK. * Về nâng cao chất lượng dịch vụ các định chế tài chính trung gian hoạt động trên TTCK: - Các tổ chức dịch vụ chứng khoán Việt Nam cần có khả năng cung cấp cho khách hàng những dịch vụ có tính cạnh tranh. Cần mở rộng quy mô của các tổ chức dịch vụ chứng khoán trên cơ sở chủ động xây dựng chiến lược phát triển các dịch vụ thích hợp, mở rộng mạng lưới khách hàng. - Từng bước tự do hoá cơ chế thu phí dịch vụ, nới lỏng, tiến tới tự do hoá hoàn toàn theo cơ chế thị trường, loại bỏ các khoản phí bất hợp lý nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng dịch vụ. Khuyến khích tham gia của các tổ chức dịch vụ chứng khoán nước ngoài góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ. 3.7.3 Nâng cao chất lượng và năng lực quản lý Nhà nước đối với các dịch vụ tài chính liên quan đến thị trường chứng khoán * Nâng cao chất lượng hoạt động của thị trường chứng khoán: - Áp dụng biện pháp cưỡng chế thực thi quy định về quản trị công ty theo thông lệ quốc tế đối với các công ty niêm yết, các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ đầu tư và chế độ công bố thông tin theo luật định. - Tăng số lượng và nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho các nhân viên hành nghề để có thể cung cấp các dịch vụ chứng khoán mang tính chất cạnh tranh khi có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. - Mở rộng mạng lưới cung cấp dịch vụ Lưu ký chứng khoán trong phạm vi cả nước; chú trọng cấp phép hoạt động Lưu ký chứng khoán cho các ngân hàng thương mại đủ điều kiện. - Nâng cao chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính của tổ chức phát hành, niêm yết và kinh doanh chứng khoán. * Nâng cao năng lực quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán: - Luật Chứng khoán đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực từ ngày 1/1/2007. Do vậy, các cơ quan Chính phủ cần khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm đưa Luật sớm đi vào thực tiễn cuộc sống. - Thực hiện rà soát, bổ sung các văn bản pháp luật, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện các văn bản pháp luật để giảm thiểu sự mâu thuẫn và chồng chéo. Ưu tiên tạo lập cơ sở pháp lý cho việc hoàn thiện các chuẩn mực quản lý, giám sát và tổ chức hệ thống giám sát mạnh, phù hợp với thông lệ quốc tế; đồng thời chú trọng các qui định về sự tham gia của các bên nước ngoài vào TTCK cần sớm được hoàn chỉnh. - Tăng cường năng lực quản lý nhà nước bảo đảm sự quản lý linh hoạt, nhạy bén đối với thị trường chứng khoán. Nhà nước thực hiện điều chỉnh, điều tiết thị trường thông qua các chính sách, công cụ kinh tế tài chính - tiền tệ như chính sách thuế, lãi suất, đầu tư và các công cụ tài chính khác. - Phối hợp chặt chẽ giữa ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các cơ quan hữu quan trong việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thị trường chứng khoán. - Xây dựng và áp dụng các tiêu chí giám sát hoạt động của thị trường chứng khoán; phát triển kỹ năng giám sát thích hợp để phát hiện được các giao dịch bất thường; nâng cao kỹ năng điều tra chuyên sâu các giao dịch nội gián, thao túng giá cả. - Phối hợp giữa công tác giám sát và công tác thanh tra, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của các thành viên thị trường và áp dụng nghiêm các chế tài dân sự, hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 3.7.4 Phát triển các nhà đầu tư chuyên nghiệp - Thiết lập hệ thống các nhà đầu tư có tổ chức bao gồm các ngân hàng thương mại, các công ty chứng khoán, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư..., tạo điều kiện cho các tổ chức này tham gia thị trường với vai trò là các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và thực hiện chức năng của các nhà tạo lập thị trường. Có thể nói rằng, trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam và thậm chí trong nhiều năm tới, vai trò của các nhà đầu tư này trên TTCK rất quan trọng. Đây là các tổ chức đầu tư lớn, có khả năng huy động sự tham gia của nhiều nhà đầu tư cá nhân để hình thành các nhà tạo lập thị trường. Do vậy cần mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của các tổ chức này. Tuy nhiên, cần tách bạch giữa hoạt động kinh doanh tiền tệ tín dụng, kinh doanh bảo hiểm với kinh doanh chứng khoán để giảm rủi ro hệ thống. - Mở rộng và phát triển các loại hình quỹ đầu tư chứng khoán; tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ, các nhà đầu tư cá nhân tham gia vào thị trường chứng khoán thông qua góp vốn vào các quỹ đầu tư. - Thực hiện chính sách khuyến khích về thuế, đối với nhà đầu tư. - Khuyến khích và tạo điều kiện để các tổ chức tín dụng, các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán. - Mở rộng giới hạn đầu tư cổ phiếu đối với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam; cho phép các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài góp vốn, mua cổ phần hoặc thành lập Công ty Chứng khoán liên doanh với các pháp nhân trong nước; cho phép các quỹ đầu tư chứng khoán nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán Việt Nam. 3.7.5 Tăng cường hội nhập ngành chứng khoán - Hợp tác quốc tế trên các mặt: tư vấn xây dựng chính sách phát triển và quản lý thị trường; xây dựng khuôn khổ pháp luật cho thị trường chứng khoán; đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức quản lý; từng bước mở cửa và hội nhập với các thị trường chứng khoán thế giới. - Xây dựng kế hoạch và lộ trình hội nhập ngành chứng khoán trong khu vực và thế giới, trong đó có nội dung thực hiện các cam kết về lĩnh vực chứng khoán khi triển khai Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ và tham gia WTO. - Tăng cường hợp tác song phương với các nước nhằm trao đổi thông tin và kinh nghiệm xây dựng, phát triển thị trường chứng khoán và hỗ trợ để hoàn thiện hệ thống pháp lý. - Triển khai chương trình vay tài chính ngân hàng nước ngoài (như ADB, WB…) để tăng cường phát triển thị trường vốn. 3.8 Các giải pháp tự do hoá các dịch vụ tài chính khác - Mở rộng danh mục dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ và phương thức cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính như: + Dịch vụ tư vấn thuế cho các DN trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế. + Dịch vụ tư vấn về xúc tiến thương mại và tìm kiếm, khai thác thị trường... + Dịch vụ kế toán cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp tư nhân và các hộ kinh doanh. + Dịch vụ xem xét báo cáo tài chính đối với các doanh nghiệp chưa có bộ máy kiểm toán nội bộ và khả năng tài chính hạn chế không thể thuê kiểm toán báo cáo tài chính. - Các công ty kiểm toán và chi nhánh, văn phòng cần tích cực xây dựng và áp dụng một hệ thống kiểm soát chất lượng hoạt động trong nội bộ từng công ty để nâng cao chất lượng dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng khắt khe của thị trường và có thể cạnh tranh có hiệu quả tại thị trường trong nước cũng như nước ngoài. - Cần phải nâng cao năng lực và phát huy thế mạnh của các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán và tư vấn tài chính trong nước cũng như công ty 100% vốn nước ngoài bằng cách tăng cường, mở rộng hoạt động liên doanh, liên kết với các công ty kiểm toán nước ngoài nhằm tranh thủ các tiện ích về công nghệ tiên tiến, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, tranh thủ tiến bộ khoa học kỹ thuật... KẾT LUẬN Với những gì đã trình bày trong đề tài này đã đưa ra một cái nhìn khá tổng quát tình hình thị trường dịch vụ tài chính của Việt Nam trong những năm gần nay, trong đó đề tài đã đi vào phân tích đánh giá từng loại dịch vụ tài chính cụ thể, từ đó đã đúc kết được những vấn đề còn vướng mắc cũng như những thách thức mà ta sẽ gặp phải trong quá trình tự do hoá. Ngoài ra, đề tài đã đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy các dịch vụ tài chính của Việt Nam phát triển, góp phần làm cho tự do hoá một cách có hiệu quả. Dĩ nhiên quá trình này còn phải gặp nhiều khó khăn và vì thế cần có sự hổ trợ và quyết tâm từ phía Nhà nước cũng như tất cả các tổ chức tài chính và mọi người dân Việt Nam. Nhìn chung thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam có thể coi là chưa phát triển và đang trong quá trình cải tổ, cơ cấu lại để nâng cao sức cạnh tranh và thích ứng với môi trường kinh tế, xã hội đang ngày càng thay đổi theo xu thế quốc tế hoá. Theo xu thế này, Việt Nam đã dần dần mở cửa nền kinh tế nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói riêng để từng bước hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói rằng chính sách đó đã tương đối thành công và trở thành một nhân tố mang lại sự cải thiện về tính hiệu quả, tính ổn định và tính cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, một lĩnh vực vốn được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ và mang nặng tính hành chính bao cấp trong thời gian trước đây. Sự mở cửa thị trường của Việt Nam có thể coi là tương đối hào phóng so với một số nước đang phát triển. Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa rằng sự mở cửa khá nhanh đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế Việt Nam mà ngược lại, tiến trình đó có thể là một động lực thúc đẩy quan trọng làm cho công cuộc cải tổ của Việt Nam nhanh đi đến đích hơn và do đó có khả năng thích ứng với nền kinh tế thế giới một cách hiệu quả hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Trịnh Thị Mai Hoa, Việt Nam và tiến trình gia nhập WTO, ĐHQG Hà Nội, NXB Tài Chính Hà Nội, năm 2007. 2. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, Kinh tế Việt Nam trên đường hội nhập - Quản lý quá trình tự do hoá tài chính, ĐHKT TP.HCM, NXB thống kê. 3. PGS.TS Sử Đình Thành, Lý thuyết tài chính tiền tệ, ĐHKT TP.HCM, NXB ĐHQG TP.HCM, năm 2006. 4. TS Phan Thị Bích Nguyệt, Đầu tư tài chính, NXB thống kê, năm 2006. 5. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, Tài chính doanh nghiệp hiện đại, ĐHKT TP.HCM, NXB thống kê, năm 2006. 6. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, TS Nguyễn Ngọc Định, Tài chính quốc tế, ĐHKT TP.HCM, NXB thống kê, năm 2006. 7. PGS.TS Dương Thị Bình Minh, Lý thuyết tài chính tiền tệ, ĐHKT TP.HCM, NXB Giáo Dục, năm 1999. 8. PGS.TS Trần Ngọc Thơ, Phương pháp luận xây dựng lộ trình tự do hoá tài chính Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Đề tài nghiên cứu khoa học, ĐHKT TP.HCM, năm 2004. 9. Tự do hoá dịch vụ tài chính Việt Nam, Công trình dự thi giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên “ Nhà kinh tế trẻ-2004”, ĐHKT TP.HCM, năm 2004. 10. Nguyễn Nữ Uyên Nhi, Phát triển các dịch vụ tài chính trên con đường hội nhập tài chính quốc tế của Việt Nam giai đọan 2002-2010, Công trình dự thi giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học”, ĐHKT TP.HCM, năm 2002. 11. Nguyễn Thị Ngọc Huệ, Nguyễn Ninh Phương Thảo, Nguyễn Minh Phương, Dịch vụ tài chính - chất lượng và năng lực canh tranh - bước tiến trong quá trình hội nhập, Công trình dự thi giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học”, ĐHKT TP.HCM, năm 2003. 12. Tự do hoá dịch vụ tài chính Việt Nam, Công trình dự thi giải thưởng nghiên cứu khoa học sinh viên “Nhà kinh tế trẻ-2004”, ĐHKT TP.HCM, năm 2004. 13. Tự do hoá dịch vụ tài chính- kinh nghiệm từ một số nước và giải pháp cho Việt Nam trong tiến trình gia nhập WTO, Công trình dự thi giải thưởng “Sinh viên nghiên cứu khoa học”, ĐHKT TP.HCM, năm 2003. 14. Website của Bộ tài chính: 15. Website của UBCK Nhà nước: 16. Website của tập đoàn tài chính Bảo Việt: 17. Website Ngân hàng thế Giới (WB): 18. Website Ngân hàng phát triển châu Á tại Việt nam: 19. Website Tổ chức thương mại thế giới (WTO): 20. Website Ngân hàng thế Giới tại Việt Nam: 21. Website của tạp chí thị trường tài chính tiền tệ: 22. Website của tạp chí Vietnam Economic News: 23. Website của tạp chí The Saigon Times Weekly: 24. Website của Thời báo kinh tế Sài Gòn: 25. Tạp chí bảo hiểm 26. Tạp chí chứng khoán 27. Tạp chí ngân hàng 28. Tạp chí thị trường tài chính tiền tệ 29. Luật chứng khoán 30. Cẩm nang thị trường chứng khoán Việt Nam, NXB thống kê, 2007 31. Nhiều sách, tạp chí kinh tế, tài chính và các tờ báo khác có liên quan.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf47509.pdf
Tài liệu liên quan