Luận văn Vấn đề chiến lược kinh doanh của Công ty lữ hành toàn cầu (Open World) sau khi Việt Nam gia nhập WTO: Những cơ hội và thách thức mà công ty sẽ gặp phải

1. Những xu thế phát triển của Du lịch thế giới và khu vực; trong xu thế hiện tại cũng như tương lai, hoạt động du lịch đã và sẽ trở thành một hiện tượng phổ biến , mang tính đại chúng và phát triển với nhịp độ cao. Cùng với những thành tựu về kinh tế, khoa học kỹ thuật phát triển là đời sống vật chất và tinh thần của người dân trên thế giới tăng lên không ngừng kéo theo nhu cầu du lịch sẽ tăng cao và trở thành một nhu cầu phổ biến và cần thiết. Ngành du lịch là một ngành đem lại hậu quả kinh tế cao. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế giới xem du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn trong đó có Việt Nam. Ngành Du lịch sẽ là một ngành ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao như tin học, vô tuyến viễn thông Các tourr du lịch giữa các nước sẽ được gắn kết với nhau đáp ứng nhu cầu đi du lịch nhiều nước trong một chuyến du lịch của khác sản phẩm du lịch sẽ được quốc tế hóa. Nhờ có các yếu tố đảm bảo cho nhu cầu du lịch tăng cao như đời sống của dân cư trên thế giới được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần nâng cao, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới tác động mạnh lên hoạt động du lịch và các điều kiện khác đang thúc đẩy nhu cầu du lịch phát triển nhanh chóng. Theo một nghiên cứu của tổ chức du lịch thế giới có tên “Toàn cảnh du lịch đến năm 2000” thì lượng khách qte dự báo đạt khoảng 1000 triệu lượt người vào năm 2010 và khoảng 16000 triệu vào năm 2020. Tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 4,5%/năm giai đoạn 2000 – 2010 và 4,4%/năm giai đoạn 2010 – 2020. (nguồn : Viện nghiên cứu phát triển du lịch). Điều này sẽ tác động rất mạnh lên cả yếu tố cầu và yếu tố cung trong du lịch. Với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, khách du lịch tiếp cận dễ dàng hơn với các thông tin du lịch, cho phép họ mở rộng phạm vi lựa chọn để liên hệ trực tiếp với các nhà cung ứng dịch vụ du lịch. Số người đi du lịch nhiều hơn và khách du lịch trở nên hiểu biết hơn trong việc lựa chọn các tuyến điểm du lịch và các dịch vụ du lịch phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán của bản thân. Về phương diện cung, nhờ sự ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin cho phép các nhà cung cấp dịch vụ du lịch tiếp cận với khách du lịch dễ dàng hơn. Tạo thuận lợi cho du khách rong việc đặt tourr, thanh toán và phản hồi thông tin cho nhà cung cấp dịch vụ du lịch. Theo các chuyên gia, thế kỷ 21 được coi là thế kỷ của châu Á - Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây cũng như trong thời gian tới, dòng khách du lịch quốc tế đến khu vực này sẽ gia tăng nhanh chóng. Một số người đến đây để tìm cơ hội làm aqwn, ký kết hợp đồng, nghiên cứu các cơ hội đầu tư Một số khác đến đây vì cảnh quan hay vì muốn tìm hiểu một nền văn hóa phương Đông đầy bản sắc và phần nào kỳ bí với họ. Ở châu Á, khu vực ASEAN sẽ là một trong những khu vực có hoạt động du lịch sôi động nhất. Những nguyên nhân chính thúc đẩy hoạt động du lịch ở khu vực này phát triển là, Môi trường thiên nhiên của các quốc gia trong khu vực Brunei, Indonesia, Lao, Malaisia, myamar, Philipine, Việt Nam so với các quốc gia công nghiệp khác trên thế giới vẫn còn nguyên sơ, hoang dã, chưa bị tác động nhiều của công nghiệp.Tình hình an ninh, chính trị trong khu vực ASEAN tương đối ổn định và an toàn so với số khu vực khác trên thế giới như các nước Đông Âu, châu Phi, Nam Á. Nhiều quốc gia trong khu vực của du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Kinh tế các nước ASEAN đang và sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển mạnh. Điều này sẽ tạo ra những tác động quan trọng đến khả năng tăng nhu cầu đi du lịch của người dân và tạo ra nguồn vốn lớn để đầu tư cho phát triển du lịch. Các sản phẩm du lịch của các quốc gia trong khu vực ASEAN sẽ ngày càng đa dạng với chất lượng ngày càng cao thích ứng nhanh với nhu cầu cảu du khách quốc tế. Hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực ASEAN đã và sẽ tạo thuận lợi cho du lịch phát triển và mở rộng. Các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực liên kết và thúc đẩy để biến khu vực này thành một cộng đồng chung. Điều này đồng nghĩa với việc biến khu vực này rở thành một điểm đến thống nhất, hấp dẫn và độc đáo. Theo kết quả khảo sát của tổ chức VISA và Hiệp hội Du lịch khu vực châu Á - Thái Bình Dương (PATA) năm 2007 “Khảo sát những dự định du lịch châu Á năm 2007” thực hiện hàng năm trên 5000 khách du lịch quốc tế từ 10 thị trường du lịch trọng điểm trên toàn thế giới và nghiên cứu những dự định du lịch của những người được phỏng vấn cũng như những động cơ thúc đẩy và rào cản cho việc đi du lịch của họ. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 52% số người dự kiến đi du lịch nước ngoài trong vòng 2 năm tới xem châu Á là điểm đến tiếp theo của họ. Kết quả khảo sát cũng cho thấy xu thế nổi bật là khách du lịch lựa chọn kiểu du lịch thân thiện với môi trường và du lịch văn hóa. Gần 9/10 số người được hỏi trả lời rằng họ sẽ chọn những sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc văn hóa địa phương và bảo vệ môi trường tự nhiên. Đây là những lợi thế về du lịch mà các quốc gia trong khu vực ASEAN đang có được đặc biệt là du lịch Việt Nam. Môi trường kinh doanh cảu doanh nghiệp lữ hành nói chung và của công ty lữ hành toàn cầu (Open Worold) nói riêng, được hiểu là tập hợp các yếu tố, điều kiện có ảnh hưởng và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới các doanh nghiệp lữ hành. Doanh nghiệp lữ hành và môi trường kinh doanh của nó là hai vấn đề có liên quan, tác động qua lại với nhau. Mỗi doanh nghiệp du lịch đều tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh doanh nhất định.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1685 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề chiến lược kinh doanh của Công ty lữ hành toàn cầu (Open World) sau khi Việt Nam gia nhập WTO: Những cơ hội và thách thức mà công ty sẽ gặp phải, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiện trạng, vì trên thực tế, một số tập đoàn phân phối lớn đã thành lập siêu thị 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam. Việc hạn chế khả nang mở điểm bán lẻ sẽ giữ được thị trường cho các nhà phân phối Việt Nam. 5. Dịch vụ giáo dục. Phạm vi cam kết rộng hơn so với BTA nhưng vẫn thấp hơn hiện trạng của ta và hoàn toàn phù hợp chủ trương xã hội hóa giáo dục của nước ta. Các cơ sở đào tạo có vốn nước ngoài phải tuân thủ các yêu cầu đối với giáo viên nước ngoài, chương trình đào tạo phải được Bộ Giáo dục và Đào tạo của Việt Nam phê chuẩn. Riêng cvu giáo dục phổ thông cơ sở ta chỉ cho phép đối với phương thức tiêu dùng ngoài lãnh thổ (phương thức 2). 6. Dịch vụ môi trường. Ta cho phép bên nước ngoài thành lập liên doanh với các đối tác Việt Nam được cấp phép trong các lĩnh vực dịch vụ nước thải, xử lý rác thải, xử lý tiếng ồn, làm sạch khí thải và đánh giá tác động của môi trường, kể từ khi gia nhập với phần vốn góp tối đa là 49% hoặc 50%, và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài chỉ được phép thành lập trong khoảng 4, 5 năm sau khi gia nhập. 7. Dịch vụ tài chính. Dịch vụ bảo hiểm: Ta cho phép nhà cung cấp nước ngoài được cung cấp qua biên giới một số loại hình cvu bảo hiểm như bảo hiểm cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, tái bảo hiểm, bảo hiểm đối với vận tải quốc tế… Nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm nước ngoài được thành lập công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài sau khi gia nhập WTO, được cung cấp các dịch vụ bảo hiểm bắt buộc từ ngày 1-1-2008 và thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 3 năm kể từ khi gia nhập WTO. Về tổng thể, mức cam kết này là tương đương với BTA (từ cam kết về chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ). Mức cam kết này cũng thấp hơn nhiều so với cam kết của các nước gia nhập WTO gần đây. Dịch vụ ngân hàng. Một số cam kết trong lĩnh vực quan trọng này được giữ ở mức như BTA như không cho phép chi nhánh ngân hàng nước ngoài mở điểm giao dịch ngoài trụ sở chi nhánh, hạn chế các tổ chức tín dụng nước ngoài mua cổ phần của các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần hóa, chưa tự do hóa các giao dịch vốn… Bên cạnh đó, ta cũng đưa ra một số bước tiến phù hợp với thực trạng và chính sách của ngành, như cho phép các ngân hàng nước ngoài thành lập ngân hàng con 100% vốn nước ngoài, đẩy nhanh lộ trình cho phép các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được huy động tiền gửi bằng đồng Việt Nam. Dịch vụ chứng khoán. Ta cho phép các nhà cung cấp dịch vụ chứng khoán cung cấp qua biên giới một số hoạt động liên quan đến chứng khoán như thông tin tài chính, tư vấn tài chính, các dịch vụ trung gian và hỗ trợ kinh doanh chứng khoán v.v… Ngoài ra, ta cũng cho phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài ngày từ khi gia nhập WTO. Sau 5 năm, ta cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài và chi nhánh để cung cấp dịch vụ chứng khoán đối với một số loại hình cvu như quản lý tài sản, thanh toán, tư vấn liên quan đến chứng khoán, trao đổi thông tin tài chính. Nội dung các cam kết này hoàn toàn phù hợp với Luật Chứng khoán nước ta mới ban hành và định hướng phát triển của ngành. 8. Dịch vụ y tế. Các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập liên doanh, ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc thành lập bệnh viện 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ta cũng đưa ra một số quy định về vốn tối thiểu. Mức độ cam kết trong dịch vụ này như BTA, chỉ khác điểm duy nhất là ta đã giảm mức vốn tối thiểu để thành lập cơ sở điều trị chuyên khoa từ 1 triệu USD xuống còn 200 nghìn USD (ta đã bãi bỏ yêu cầu này trên thực tế). 9. Dịch vụ du lịch. Đói với dịch vụ khách sạn - nhà hàng, trong vòng tam năm kể từ khi gia nhập, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài phải đầu tư xây dựng, nâng cấp, cải tạo hoặc mua lại khách sạn. Đối với dịch vụ lữ hành và điều hành tour du lịch, ta cho phép thành lập liên doanh khong hạn chế vốn góp nước ngoài. Các công ty có vốn đầu tư nước ngoài không được phép cung cấp dịch vụ đưa khách ra nước ngoài (outbound) và dịch vụ lữ hành nội địa (domestic). Các cam kết này hoàn toàn phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam. 10. Dịch vụ văn hóa, giải trí. Với dịch vụ giải trí, phía nước ngoài chỉ được phép thành lập liên doanh sau 5 năm kể từ khi gia nhập với mức vốn góp tối đa là 49%. Với lĩnh vực kinh doanh trò chơi điện tử, việc cung cấp phải thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh hoặc lao động với các đối tác Việt Nam được cấp phép và phần vốn góp của phía nước ngoài không quá 49%. 11. Dịch vụ vận tải. Dịch vụ vận tải biển và hỗ trợ vận tải biển. Ta không hạn chế nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vận chuyển hàng hóa qua biên giới, không cam kết đối với vận tải hành khách. Sau hai năm kể từ khi gia nhập, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được phép thành lập liên doanh khai thác đội tàu mang cờ quốc tịch Việt Nam với phần vốn góp không quá 49% vốn pháp định. Ngoài ra, kể từ khi gia nhập, công ty nước ngoài được phép thành lập liên doanh với 51% sở hữu nước ngoài và sau 5 năm là công ty 100% vốn nước ngoài để cung cấp một số dịch vụ vận tải biển quốc tế. Số lượng liên doanh tối đa là 5 công ty ở thời điểm gia nhập, cứ 3 năm cho phép thêm 3 công ty, sau 5 năm kể từ khi gia nhập sẽ không hạn chế số lượng công ty. Ta cam kết cho phép nước ngoài liên doanh để cung ứng một số dịch vụ hỗ trợ vận tải như dịch vụ xếp dỡ công - ten - nơ, dịch vụ thông quan, dịch vụ kho bãi công - ten - nơ. Dịch vụ vận tải đường bộ. Ta không cam kết dịch vụ vận tải hàng hóa và hành khách qua biên giới. Bên nước ngoài được phép thành lập liên doanh 49% và sau 3 năm lên 51% để cung cấp dịch vụ vận tải hàng hóa và hành khách tại Việt Nam trên cơ sở xem xét từng trường hợp cụ thể. 100% số lái xe của các liên doanh phải là công nhân Việt Nam. Dịch vụ vận tải đường thủy, đường sắt và đường không. Tương tự như dịch vụ vận tải đường bộ, ta chưa cho phép nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được vận chuyển hàng hóa và hành khchs qua biên giới. Với cvu vận tải đường thủy, ta cho phép thành lập liên doanh 49% vốn nước ngoài kể từ khi gia nhập WTO. Với dịch vụ vận tải đường sắt, ta cho phép thành lậplid 49% vốn nước ngoài nhưng chỉ được vận tải hàng hóa. Đối với dịch vụ bán và tiếp thụ sản phẩm hàng không, dịch vụ đặt giữ chỗ bằng máy tính, ta cam kết theo thực tế hiện hành. Đối với dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng máy bay, ta cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài kể từ khi gia nhập WTO. Sau 5 năm kể từ khi gia nhập WTO, ta cho phép thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Danh mục miễn trừ tối huệ quốc. Ta bảo lưu một số ngoại tệ MFN (tức chỉ áp dụng với bên ký kết mà không đa phương hóa trong WTO) với một số lĩnh vực, gồm các Hiệp định bảo hộ đầu tư song phương (BIT) đã ký với các nước; các thỏa thuận trong lĩnh vực sản xuất, phát hành và trình chiếu phim…, và dịch vụ vận tải biển. 2.3. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO Là tổ chức Thương mại Quốc tế lớn nhất thế giới, hiện nay WTO đã có 150 quốc gia thành viên, chiếm khoảng 90% dân số thế giới, 95% GDP và giá trị thương mại toàn cầu. Với nguyên tắc xuyên suốt là tự do hóa thương mại , mục tiêu của WTO là bảo đảm đầy đủ việc làm, nâng cao mức sống, mức thu nhập, nhu cầu một cách bền vững, phát triển việc sử dụng có hiệu quả nguồn lực của thế giới và mở rộng sản xuất, trao đổi hàng hóa. Gia nhập WTO là một bước ngoặt lịch sử quan trọng trong quá trình phát triển của Việt Nam, khi mà đất nước đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong xu thế hội nhập như hiện nay. Việc tham gia vào WTO của Việt Nam một mặt tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc trao đổi kinh nghiệm kinh doanh và thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Đồng thời, nó cũng sản sinh những thách thức, và sức ép cho các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là sức dep về cạnh tranh thị trường và cạnh tranh các nguồn lực như: nhân lực, vật lực, tài lực… Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải biết nắm bắt các cơ hội vững như là phải nỗ lực để vượt qua thách thức để phát triển bền vững. 2.2.1. Cơ hội. Bất kỳ cơ hội nào cũng xuất hiện trong một thời gian nhất định tạo thành những thời cơ cho doanh nghiệp. Thời cơ chiến lược của doanh nghiệp là những đặc điểm và hoàn cảnh khách quan mang lại cho doanh nghiệp để doanh nghiệp có thể phát huy thế mạnh của bản thân. Thời cơ xuất hiện một cách khách quan, ngoài ý chí chủ quan của doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp nhận thức đúng được thời cơ thì doanh nghiệp có thể phát triển vững mạnh. Thời cơ cũng là một nguồn lực như tiền vốn, kỹ thuật, sức lao động. Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp không những tùy thuộc vào tiền vốn, kỹ thuật, sức lao động mà còn tùy thuộc vào việc người lãnh đạo có biết nắm vững thời cơ hay không. Giá trị của thời cơ và tính nguồn lực của nó không phải là một tồn tại khách quan mà là yếu tố mang tính chủ quan. Nó chỉ có giá trị và trở thành nguồn lực khi con người biết sử dụng nó. Cũng là một thời cơ giống nhau, nhưng với năng lực sử dụng khác nhau , thời cơ có thể mang lại những hiệu quả kinh tế khác nhau cho các doanh nghiệp. Trên ý nghĩa đó, mặc dầu thời cơ có thể tạo ra hàng hóa, của cải nhưng thời cơ không biểu hiện trực tiếp thành của cải. Thời cơ là một nguồn lực quý báu nhưng vô hình. Nó chỉ biến thành của cải khi được khai thác, sử dụng. Do đó, đối với các doanh nghiệp, thời cơ vừa là thị trường, vừa là ưu thế. Thời cơ là phương tiện hữu hiệu để doanh nghiệp sinh tồn và phát triển. Việc sử dụng tốt thời cơ sẽ mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp. Thời cơ không ngừng được thay đổi, phát triển. Khi một thời cơ nào đó được doanh nghiệp hoặc một số doanh nghiệp tận dụng tốt thì các doanh nghiệp khác cũng nhào vào. Lúc đó, thời cơ sẽ thay đổi, phát triển, thậm chí xuất hiện thời cơ mới. Nhiệm vụ của người lãnh đạo doanh nghiệp là phải thường xuyên theo dõi, quan sát để khi một thời cơ mới, quan trọng xuất hiện thì kịp thời nắm lấy, đưa ra quyết sách thích hợp để giành thắng lợi. Bên cạnh đó, doanh nghiệp còn phải biết tìm kiếm, phân tích, lựa chọn, sử dụng, thích ứng và sáng tạo thời cơ. Điều này có nghĩa là căn cứ vào điều kiện nội bộ của doanh nghiệp, tư tưởng kinh doanh, chiến lược kinh doanh, thu thập thông tin theo định hướng và mục đích nhất định rồi phân tích, chọn ra những thông tin có liên quan đến doanh nghiệp mình, kết hợp phân tích những thông tin đó với điều kiện nội bộ của doanh nghiệp, để tìm ra những thời cơ có lợi cho công việc kinh doanh của doanh nghiệp. Trong nhiều loại thời cơ, cần phân biệt đâu là thời cơ chiến lược, đâu là thời cơ chiến thuật, đầu là thời cơ tác nghiệp, thời cơ có lợi, bất lợi. Doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý lựa chọn thời cơ chiến lược có lợi cho mình. Khi lựa chọn thời cơ, người lãnh đạo phải có tư tưởng sáng tạo, có tư duy sắc bén để phân tích, lựa chọn thời cơ. Để sử dụng thời cơ, doanh nghiệp phải có sự chuẩn bị về mặt tổ chức. Bộ máy tổ chức của doanh nghiệp phải thích ứng với việc sử dụng thời cơ, lúc cần điều chỉnh thì phải điều chỉnh để đảm bảo tốt việc sử dụng thời cơ, đạt được mục tiêu phát triển doanh nghiệp. Đồng thời, phải có kế hoạch hành động và lập tức thực hiện. Trong quá trình sử dụng thời cơ, cần theo dõi sự biến đổi của tình hình và không ngừng điều chỉnh, hành động khi tình hình thay đổi để việc sử dụng thời cơ thu được hiệu quả tốt nhất. Đồng thời, cần chú ý theo dõi đối thủ cạnh tranh cũng sử dụng thời cơ đó. Những điều kiện mà môi trường khách quan mang đến cho doanh nghiệp không phải lúc nào cũng vừa ý chúng ta mà thường có những hạn chế, bất cập. Lúc đó, doanh nghiệp không thể cứ ngồi chờ mà phải nghĩ cách cố gắng, cải thiện hoặc bổ sung những mặt chưa đủ của điều kiện khách quan và sử dụng nó. Cải thiện điều kiện của chủ thể kinh doanh là biện pháp quan trọng để sáng tạo thời cơ. Các nhà kinh doanh có tầm nhiền chiến lược có thể không ngừng sáng tạo thời cơ cho sự phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy thời cơ bao giờ cũng thuộc về những người có đầu óc sáng tạo và tầm nhìn chiến lược. Trên cơ sở lý luận về thời cơ, áp dụng phân tích những cơ hội mà các doanh nghiệp Việt Nam có được từ quá trình toàn cầu hóa và Hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt kể từ khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO. Tác giả nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước các cơ hội lớn sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp nước ngoài theo hướng phân công, khai thác và sử dụng các nguồn lực một cách hiệu quả nhằm giảm chi phí sản xuất và lưu thông hàng hóa, đưa hiệu quả kinh tế của các doanh nghiệp tăng cao. Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành viên của WTO với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm theo cam kết trong WTO. Hàng hóa và dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với hàng hóa - dịch vụ của các nước thành viên WTO. Ngay tại thị trường sở tại của các thành viên WTO do được hưởng NFM và NT. Thứ ba, tham gia vào WTO thúc đẩy quá trình cải cách các chính sách kinh tế, các thủ tục hành chính, sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật theo hướng công khai, minh bạch hóa để phù hợp với các quy định và cam kết trong WTO. Điều này tạo ra một hành lang pháp lý minh bach của Việt Nam bình đẳng để các doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế tự do cạnh tranh trong kinh doanh. Thứ tư, các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội mở rộng hợp tác kinh tế, chuyển giao công nghệ, thu hút vốn, trao đổi kinh nghiệm quản lý với các doanh nghiệp nước ngoài. Từ đó giúp các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của mình thông qua việc tăng nhanh chất lượng sản phẩm, tăng nhanh năng suất lao động, tạo tiền đề vững chắc để các doanh nghiệp Việt Nam tiến vào nền kinh tế tri thức. Thứ năm, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có một “sân chơi” lớn hơn để có thể phát huy năng lực cạnh tranh của mình ở thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Năng lực cạnh tranh của hàng hóa - dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam cũng được nâng lên do việc khai thác và sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn dẫn tới giá thành giảm, chất lượng sản phẩm - dịch vụ tăng cao. Thứ sáu, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội thương lượng, khiếu nại lên WTO, khi xảy ra tranh chấp thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài. Quyền sở hữu trí tuệ của các doanh nghiệp Việt Nam sẽ bình đẳng hơn với các doanh nghiệp nước ngoài trong hoạt động kinh doanh. Thứ bảy, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội học hỏi, trao đổi kinh nghiệm quản lý với lãnh đạo doanh nghiệp của các nước thành viên WTO thông qua hoạt động hợp tác trong kinh doanh. Từ đó giúp các nhà lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam thích nghi hơn với những tiêu chuẩn và tập quán kinh doanh quốc tế, mở rộng tư duy kinh doanh hướng ra môi trường kinh doanh quốc tế. Người lao động trong các doanh nghiệp Việt Nam cũng có cơ hội nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ do được làm việc trong môi trường lao động quốc tế. Rõ ràng là những cơ hội mà các doanh nghiệp Việt Nam có được quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là rất lớn. Tham gia vào WTO đã giúp các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao vị thế kinh doanh của mình, tự tin hơn để bước vào môi trường kinh doanh mới - môi trường toàn cầu hóa. 2.2.2. Thách thức: Đi cùng những cơ hội bao giờ cũng là những thách thức, đây là hai mặt thống nhất của một vấn đề mà môi trường khách quan đem lại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Phân tích môi trường kinh doanh mới của các doanh nghiệp Việt Nam kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, tác giả nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với sẹ cạnh tranh gay gắt, môi trường kinh doanh mới. Đây là cuộc cạnh tranh không cân sức giữa một bên là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn non yếu của một nước đang phát triển với một bên là các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia đã phát triển lâu đời, dày kinh nghiệm thương trường của các nước phát triển. Mức độc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế sẽ diễn ra gay gắt hơn, cạnh tranh với nhiều đối thủ hơn, trên bình diện rộng hơn và sâu hơn. Cạnh tranh không chỉ diễn ra khi hàng hóa - dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước ngoài, mà còn diễn ra ngay tại thị trường trong nước do việc cam kết mở cửa thị trường hàng hóa - dịch vụ của Việt Nam trong WTO. Thứ hai, các doanh nghiệp Việt Nam có một đặc điểm chung là xuất phát từ một nền kinh tế còn non yếu. Do vậy các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu kém nhiều mặt như: nguồn lực tài chính yếu, trình độ công nghệ sản xuất lạc hậu, nguồn nhân lực còn hạn chế, các yếu tố đầu tư vào quá trình sản xuất còn gặp nhiều khó khăn, năng lực tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường chưa mạnh. Về nguồn lực tài chính, theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê cho thấy, tính đến ngày 01/01/2004, cả nước có 71.012 doanh nghiệp thực tế hoạt động với tổng số vốn là 1.724.558 tỷ đổng (nếu quy đổi ra đô la Mỹ thì quy mô vốn của các doanh nghiệp ở Việt Nam chỉ tương đương với một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới. Trong đó doanh nghiệp nhà nước chiếm (1.018.615 tỷ đồng), doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 19,55% (337.155 tỷ đồng). Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 21,44% tổng vốn các doanh nghiệp cả nước (868.788 tỷ đồng). Xét riêng đối với mỗi doanh nghiệp, vốn của từng doanh nghiệp rất nhỏ (năm 2004, bình quân mỗi doanh nghiệp là 23.95 tỷ đồng). Trong đó số doanh nghiệp có quy mô dưới 0,5 tỷ đồng có 18.790 doanh nghiệp (chiếm 26,09% tổng số doanh nghiệp), có quy mô vốn từ 0,5 đến 1 tỷ đồng là 12.954 doanh nghiệp (chiếm 17,99%), dố doanh nghiệp có vốn đầu tư 1 tỷ đồng đến 5 tỷ đồng là 24.737 doanh nghiệp (chiếm 34,35%), dố doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng là 5.496 doanh nghiệp (chiếm 7,63%), số doanh nghiệp có vốn từ 10 đến 50 tỷ là 6.648 doanh nghiệp (chiếm 9,23%), số doanh nghiệp có số vốn từ 50 đến 200 tỷ đồng là 2.491 doanh nghiệp (chiếm 8,46%), số doanh nghiệp có vốn từ 200 đến 500 tỷ đồng là 586 doanh nghiệp (chiếm 0,81%) số doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng là 310 doanh nghiệp (chiếm 0,48% tổng số). Như vậy, có thể thấy đại đa số các doanh nghiệp đang hoạt động trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế. Đây là điều đáng lo khi các chính sách - bảo hộ của nhà nước đến năm 2006 hầu như không còn nữa vì theo lịch trình giảm thuế quan cho khu vực mậu dịch tự do ASEAN - AFTA. Khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ dễ dàng bị các tập đoàn lớn của các nước trong khu vực đánh bại. Nhiều khó khăn trong việc khai thác và sử dụng các yếu tố đầu vào một cách hiệu quả. Chi phí cho các yếu tố đầu vào như; chất lượng và số lượng nguồn lao động, chi phí cho mua sắm và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chi phí cho việc quan hệ tài chính, chi phí cho chiến lược kinh doanh… còn ở mức cao dẫn tới giá thành sản phẩm tăng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm bị giảm sút. Vì năng lực tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường, hoạt động nghiên cứu thị trường là không thể thiếu đối với các doanh nghiệp. Môi trường kinh doanh luôn biến đổi khiến các xu trên dùng của khách hàng cũng không ngừng thay đổi. Xu hướng chung của người tiêu dùng là ngày càng tiếp cận các kênh phân phối hiện đại như siêu thị và cửa hàng tự chọn. Phần lớn khách hàng khi mua hàng vẫn tham khảo qua nguồn thông tin từ báo chí, quảng cáo và bạn bè. Khách hàng ngày nay không chỉ lựa chọn hàng hóa - dịch vụ mà còn lựa chọn thương hiệu của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam còn rất nhiều hạn chế trong việc tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường do phần lớn thương hiệu của các doanh nghiệp Việt Nam không có khả năng duy trì mức độ nhận biết của người tiêu dùng trong bối cảnh thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt. Có những trường hợp hàng hóa của các doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh thị trường nước ngoài nhưng mức độ nhận biết thương hiệu hàng hóa Việt Nam là rất kém. Một điểm yếu nữa của các doanh nghiệp Việt Nam là khả năng cung cấp hàng hóa - dịch vụ và đảm bảo chất lượng hàng hóa dịch vụ. Hầu hết các phản hổi đều đánh giá cao hệ thống phân phối và dịch vụ của các thương hiệu nước ngoài. Thứ ba, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp nước ngoài không chỉ là cạnh tranh về chất lượng hàng hóa - dịch vụ mà còn cạnh tranh về thu hút nguồn lực tài chính, nguồn nhân lực chất lượng cao đặc biệt là các nhà quản lý giỏi, những lao động có chuyên môn nghiệp vụ cao. Bởi vì, theo cam kết mở cửa thị trường hàng hóa - dịch vụ trong WTO, thời gian tới sẽ xuất hiện nhiều nhà đầu tư, nhiều doanh nghiệp nước ngoài đến Việt Nam kinh doanh. Họ mang theo vốn, kỹ thuật, phương pháp quản lý hiện đại, nguồn lực tài chính dồi dào sẽ hấp dẫn nguồn nhân lực chất lượng cao từ các doanh nghiệp của Việt Nam. Thứ tư, như đã phân tích các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài, nhưng thông qua đó, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phụ thuộc rất lớn vào các đối tác nước ngoài. Điều này sẽ làm mất đi tính tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam. Thứ năm, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó khăn trong việc thực thi các hiệp định về quyến sở hữu trí tuệ - sức ép từ môi trường kinh doanh mới sẽ buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải đầu tư nhiều hơn cho việc xây dựng thương hiệu, xây dựng chiến lược kinh doanh, cho việc quảng bá sản phẩm dịch vụ. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải chuẩn bị nguồn nhân lực cho việc tìm hiểu các quy định, cam kết trong WTO, tìm hiểu hệ thống pháp luật và các tập quán kinh doanh quốc tế. Đây là một vấn đề rất khó khăn cho các doanh nghiệp của Việt Nam. Mặc dù thách thức mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải là vô cùng to lớn. Song, trở thành thành viên của WTO là con đường đúng đắn nhất để đưa các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới. Quyết tâm vượt qua những thách thức và biến những cơ hội, trở thành những nguồn lực vật chất giúp cho việc phát triển của các doanh nghiệp Việt Nam là điều cần thiết đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam trong môi trường kinh doanh quốc tế như hiện nay. 2.3. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới (WTO), cùng với sự phát triển của du lịch Việt Nam nói riêng và Du lịch thế giới nói chung. Các doanh nghiệp Du lịch Việt Nam đang đứng trước những cơ hội và thách thức vô cùng to lớn. 2.3.1. Cơ hội Như tác giả đã phân tích ở mục trước, cơ hội luôn luôn xuất hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Cơ hội của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam là những đặc điểm và hoàn cảnh khách quan của môi trường kinh doanh mang lại cho các doanh nghiệp để các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam có thể nắm bắt, tận dụng cơ hội để vươn lên trong kinh doanh. Phân tích môi trường kinh doanh mới của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Tác giả nhận thấy cac doanh nghiệp lữ hành Việt Nam đang đứng trước các cơ hội lớn sau: Thứ nhất, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ có cơ hội lớn trong việc khai thác nguồn khác du lịch. Quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ thúc đẩy kinh tế toàn cầu phát triển mà còn thúc đẩy hoạt động du lịch phát triển mạnh mẽ ở mỗi quốc gia, khu vực và trên toàn thế giới. Theo thống kê của tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) năm 2005 lượng khách du lịch thế giới đã lên tới 808 triệu lượt khách, tăng 42 triệu so với 766 triệu lượt năm 2004. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 5,5%. Tại Châu á- Thái Bình Dương tốc độ tăng trưởng đạt 7%, tại Việt Nam là 18% thuộc loại cao của thế giới. Theo các chuyên gia, thế kỷ 21 được xem là thế kỷ của du lịch châu á - Thái Bình Dương , đặc biệt là khu vực Đông Nam á sẽ là một trong những khu vực có hoạt động du lịch phát triển nhanh nhất. Với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO, vị thế Việt Nam nói chung , du lịch Việt Nam nói riêng sẽ được nâng lên tầm cao mới. Hình ảnh đất nước và con người Việt Nam sẽ được du khách biết đến nhiều hơn, kéo theo dòng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng. Trước đây, khi khó tới du lịch châu á, đặc biệt là Đông Nam á, khách du lịch quốc tế thường nói tới Thái Lan, Indonexia, Malaisia. Tuy nhiên, sau một loạt những biến cố chính trị làm cho tình hình an ninh, trật tự xã hội ở các nước này trở lên bất ổn gây ra tâm lý lo ngại cho du khách khi đến đây du lịch, du khách quốc tế bắt đầu hướng tới Việt Nam nhiều hơn do môi trường du lịch của Việt Nam an toàn, con người Việt Nam được xem là thân thiện, tài nguyên du lịch còn hoang sơ chưa bị tác động nhiều. Đây là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam chuẩn bị mọi nguồn lực để khai thác nguồn khách quốc tế lớn đến Việt Nam trong thời gian tới. Thứ hai, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế sẽ có một môi trường kinh doanh mới năng động hơn, bình đẳng hơn, nhờ các lý do sau đây: Sức ép từ môi trường kinh doanh mới, đặc biệt là sự xuất hiện của những đối thủ cạnh tranh tiềm ẳn mới sẽ làm cho môi trường kinh doanh mới của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam trở lên sôi động hơn. Điều này sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế cải tổ phương thức kinh doanh hiện tại của mình từ việc cải tôt phương thức quản lý, khai thác mọi nguồn lực hiệu quả hơn, nâng cao năng lực kinh doanh của nhà lãnh đạo, năng lực điều hành của nhà quản lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ ngoại ngữ của cán bộ nhân viên, đến việc cải tổ môi trường văn hóa công ty nhằm thích nghi hơn với môi trường kinh doanh mới. Tham gia vào WTO sẽ thúc đẩy tiến trình cải cách các thủ tục hành chính, các chính sách kinh tế, sửa đổi bổ sung các văn bản luật của Việt Nam để phù hợp hơn với thông lệ quốc tế và các quy định, cam kết trong WTO. Đặc biệt từ khi luật Du lịch có hiệu lực tháng 01/2006 đã góp phần tạo ra hành lang pháp lý công bàng hơn, minh bạch hơn để các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam tự do cạnh tranh trong kinh doanh. Thứ ba, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác với các đối tác nước ngoài thông qua đó mở rộng hoạt động kinh doanh, mở rộng mạng lưới đại lý gửi khách và nhận khách tại nước ngoài. Từ đó các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, trao đổi kinh nghiệm kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, kinh nghiệm điều hành tour với các doanh nghiệp lữ hành lớn trên thế giới thông qua đó nâng cao năng lực quản lý, điều hành của nhà lãnh đạo, cán bộ quản lý doanh nghiệp, nâng cao năng lực chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của độ ngũ nhân viên, hướng dẫn viên. Đồng thời nâng cao chất lượng, sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu ngày càng biến đổi của du khách quốc tế và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam cũng sẽ được nâng lên. Thứ tư, từ hiệu quả của hoạt động kinh doanh lữ hành và việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có quy mô vốn lớn, phương thức quản lý hiện đại. trình độ cán bộ, nhân viên cao sẽ vươn mình trở thành những tổng công ty, tập đoàn kinh tế kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhiều thị trường hàng hóa - dịch vụ khác nhau, không chỉ đầu tư kinh doanh trong nước mà còn đầu tư kinh doanh ra cả nước ngoài. Từ đó đóng góp chung vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Thứ năm, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam cũng cso dơ hội khai thác nguồn khách trong nước nhiều hơn do: Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam liên tục phát triển mạnh, tăng trưởng thuộc loại cao của thế giới từ đó Chính phủ sẽ có nhiều vốn hơn để đầu tư cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho du lịch. Đời sống nhân dân được cải thiện, thu nhập tăng lên đáng kể, kéo theo đó là nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, đi du lịch cũng tăng cao. Bên cạnh đó, sức ép từ quá trình đô thị hóa, sức ép từ môi trường làm việc mới và thời gian làm việc được rút ngắn thời gian nghỉ ngơi tăng lên. Do đó cũng làm cho nhu cầu đi du lịch của người dân tăng cao. Đây là cơ hội để các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam khai thác thị trường khách trong nước. 2.3.2. Thách thức Tham gia vào WTO một mặt làm cho hình ảnh du lịch Việt Nam được nâng lên, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam có nhiều cơ hội hơn, nhưng đồng thời cũng tạo ra nhiều sức ép lớn lên các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam do việc thực hiện các cam kết về hàng hóa - dịch vụ du lịch trong WTO của Việt Nam trong thời gian tới, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ phải tham gia vào một “sân chơi” mới với nhiều khó khăn và thách thức mà không có sự bảo hộ của nhà nước. Phân tích môi trường kinh doanh mới, tác giả nhận thấy các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ phải đối mặt với những thách thức lớn sau đây: Thứ nhất, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài ngay tại “sân nhà”. Cạnh tranh sẽ diễn ra trên bình diện rộng hơn, sâu hơn, không chỉ là cạnh tranh trong khai thác thị trường khách mà còn cạnh tranh trong việc thu hút các nguồn lực khách như: nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học kỹ thuật, quan hệ với các nhà cung cấp dịch vụ du lịch, nguồn lực chất lượng cao, đặc biệt là các hướng dẫn viên giỏi. Bởi vì, thời gian tới, xuất phắt từ việc cam kết mở cửa thị trường hàng hóa - dịch vụ du lịch mà Việt Nam cam kết trong WTO. Các nhà đầu tư, các doanh nghiệp lữ hành quốc tế sẽ tới Việt Nam để đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, đặc biệt lĩnh vực lữ hành. Họ mang theo nguồn tài chính lớn, công nghệ quản lý hiện đại, chính sách lương, thưởng hấp dẫn và tận dụng nguồn nhân lực giá rẻ của Việt Nam, họ sẽ thu hút những nhà quản lý, điều hành và tổ chức tour kinh nghiệm, các nhân viên, hướng dẫn viên chất lượng cao từ các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sang làm việc cho họ. Thứ hai, nguy cơ phá sản của nhiều doanh nghiệp lữ hành Việt Nam là điều có thể nhìn thấy trước. Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam đều có đặc điểm chung là xuất phát trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam còn yếu kém, trình độ quản lý thấp, trình độ tổ chức và điều hành tour còn non yếu, chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của đội ngũ nhân viên, hướng dẫn viên còn nhiều bất cập. Do đó, dẫn tới chất lượng sản phẩm - dịch vụ thấp làm giảm năng lực cạnh tranh của sản phẩm - dịch vụ từ đó làm giảm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, phần lớn các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ, hoạt động kinh doanh còn manh mún, chưa biết liên kết với nhau để kinh doanh, sản phẩm - cvu chưa đa dạng, chủ yếu là bắt trước của nhau. Do vậy không có khả năng hấp dẫn khách hàng. Trong khi các tuyến điểm du lịch mơi lạ, hấp dẫn ngày càng ít, các công ty khong con đường đủ nguồn lực để tạo ra những sản phẩm - dịch vụ mới độc đáo, hấp dẫn khách hàng. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước diễn ra ngày càng gay gắt dẫn đến chất lượng sản phẩm - dịch vụ bị sụt giảm nghiêm trọng dẫn tới năng lực cạnh tranh của sản phẩm - dịch vụ và của doanh nghiệp yếu. Vì vậy, khă năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài là rất thấp. Điều này có thể dẫn tới nguy cơ phá sản của một số doanh nghiệp lữ hành Việt Nam là rất rõ rang. Thứ ba, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào các doanh nghiệp lữ hành và các nhà đầu tư quốc tế. Do đó để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, một số doanh nghiệp sẽ lựa chọn hợp tác kinh doanh với các đối tác nước ngoài. Điều này sẽ giúp các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam tăng quy mô vốn, mở rộng hoạt động kinh doanh, nâng cao chất lượng dịch vụ. Nhưng đồng thời cũng làm tăng tính phụ thuộc trong kinh doanh của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam vào các đối tác nước ngoài, làm mất đi tính tự chủ trong kinh doanh của các công nghệ lữ hành Việt Nam. Thứ tư, năng lực tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam còn yếu. Bởi vì những lý do sau đây: Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam chủ yếu có qui mô vừa và nhò, tiềm lực vốn yếu, các nguồn lực khác cũng hạn chế, do vậy chưa có đủ điều kiện để xây dựng thương hiệu, đầu tư nhiều hơn cho hoạt động marketing, hoạt động quảng bá sản phẩm dịch vụ. Bên cạnh đó, đặc trưng của sản phẩm - dịch vụ du lịch là tính vô hình, khách hàng không thể nhìn thấy sản phẩm - dịch vụ trước khi tiêu dùng mà chủ yếu thông qua sự giới thiệu của bạn bè, người quen giới thiệu. Vì vậy, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận và chiếm lĩnh thị trường khác đặc biệt là chiếm được niềm tin của khách hàng về sản phẩm dịch vụ của mình. Thời gian tới, do sức ép từ môi trường kinh doanh mới, đặc biệt là sự xuất hiện của những đối thủ tiềm ẩn mới, buộc các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam phải đầu tư nhiều hơn cho việc xây dựng chiếm lĩnh kinh doanh, xây dựng, quảng bá thương hiệu, các hoạt động marketing, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới. Điều này đồng nghĩa với việc chi phisx và quản lý sẽ tăng cao dẫn tới giá thành sản phẩm dịch vụ cao khả năng cạnh tranh về giá sẽ gặp nhiều khó khăn. 2.3.3. Đánh giá những cơ hội và thách thức của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Rõ ràng là những cơ hội mà quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới, đặc biệt khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO đem lại cho các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam là rất lớn. Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam có thể nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trên cơ sở đổi mới mọi mặt như; đổi mới phương pháp quản lý, đổi mới công nghệ kinh doanh, nâng cao trình độ kinh doanh của nhà lãnh đạo cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ của độ ngũ nhân viên, hướng dẫn viên thông qua quá trình cạnh tranh với các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài trong môi trường kinh doanh quốc tế. Trên cơ sở đó giúp các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm dịch vụ, hạ giá thành sản phẩm tạo tiền đề để các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam tự tin hơn trong việc mở rộng hoạt động kinh doanh, xâm nhập thị trường mới. Môi trường kinh doanh mới cũng sẽ sản sinh ra những tổng công ty, tập đoàn du lịch hùng mạnh kinh doanh trên nhiều lĩnh vực và thị trường khác nhau, từ đó đóng góp chung vào sự phát triển của ngành du lịch và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh những cơ hội có được, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều thách thức trong thời gian tới. Các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam sẽ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp lữ hành nước ngoài ngay trên “sân nhà” khi mà Việt Nam mở cửa hoàn toàn lĩnh vực dịch vụ du lịch vào năm 2009. Cạnh tranh sẽ diễn ra ngày càng gay gắt và thể hiện ở nhiều mặt như: cạnh tranh thị trường khách, cạnh tranh các nguồn lực tài chính, vật lực, cạnh tranh nguồn nhân lực chất lượng cao. Hợp tác trong kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài một mặt giúp các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh , mặt khác làm tăng tính phụ thuộc trong kinh doanh của các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam. Có thể thấy để vượt qua thách thức và chiến thắng trong kinh doanh, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam cần phải chủ động hội nhập vào môi trường kinh doanh mới bằng cách chuẩn bị tốt mọi nguồn lực cần thiết, có chiến lược kinh doanh đúng đắn, chủ động tìm hiểu hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế, tìm hiểu các quy định và cam kết mà Việt Nam phải thực hiện trong WTO. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp lữ hành, phải không ngừng học hỏi, vươn lên trong kinh doanh, mở rộng tư duy kinh doanh, hướng rả môi trường kinh doanh quốc tế. Đội ngũ nhân viên, hướng dẫn viên trong các nhân dân lữ hành cũng phải học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ. Ngoài ra, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam cũng cần phải chủ động tìm kiếm các đối tác nước ngoài, mở rộng mạng lưới các đại lý gửi khách, nhận khách, giữ gìn và mở rộng mối quan hệ tốt đẹp với các nhà cung cấp dịch vụ du lịch, chủ động ứng dụng khoa học kỹ thuật vào trong hoạt động kinh doanh như: internet, các phương tiện thanh toán, các phương tiện đặt tour… cung cấp đầy đủ thông tin liên quan đến chuyến đi cho khách du lịch tạo thuận lợi cho khách trong quá trình thực hiện chuyến du lịch. Trên cơ sở phân tích môi trường kinh doanh mới, phân tích các cơ hội và thách thức, các doanh nghiệp lữ hành Việt Nam phải có chiến lược kinh doanh đúng đắn, đồng thời phải có chiến thuật, kế hoạch trong từng giai đoạn hoạt động nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh. Từ đó giúp các doanh nghiệp nắm được các cơ hội và vượt qua thách thức mà môi trường kinh doanh giai đoạn sau khi Việt Nam gia nhập WTO mang lại. Chương 3: chiến lược kinh doanh của công ty du lịch toàn cầu (Open World) sau khi Việt Nam gia nhập WTO. 3.1. Môi trường kinh doanh mới của công ty lữ hành toàn cầu sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Chương này tác giả tập trung nghiên cứu và phân tích môi trường kinh doanh mới của Công ty Lữ hành toàn cầu (Open World) sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Trên cơ sở phân tích môi trường kinh doanh mới của công ty và phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của công ty trong môi trường kinh doanh mới, tác giả sẽ đưa ra những đề xuất vềviệc xây dựng chiến lược kinh doanh của Công ty Lữ hành toàn cầu (Open World) trong thời gian sắp tới. Mục đích của việc phân tích môi trường kinh doanh mới, phân tích các điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức là để Công ty Lữ hành toàn cầu (Open World) thấy được những công việc mà công ty phải làm trong thời gian tới để nắm bắt được những cơ hội và hạn chế được những rủi ro mà môi trường kinh doanh mới mang lại. Việc đề xuất chiến lược kinh doanh đúng đắn sẽ giúp lãnh đạo Công ty Lữ hành toàn cầu (Open World) đưa ra được những quyết sách và hành động cụ thể nhằm phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty, từ đó góp phần vào việc phát triển chung của ngành Du lịch Việt Nam trong xu thế hội nhập như hiện nay. 3.1.1. Môi trường vĩ mô. 1. Những xu thế phát triển của Du lịch thế giới và khu vực; trong xu thế hiện tại cũng như tương lai, hoạt động du lịch đã và sẽ trở thành một hiện tượng phổ biến , mang tính đại chúng và phát triển với nhịp độ cao. Cùng với những thành tựu về kinh tế, khoa học kỹ thuật phát triển là đời sống vật chất và tinh thần của người dân trên thế giới tăng lên không ngừng kéo theo nhu cầu du lịch sẽ tăng cao và trở thành một nhu cầu phổ biến và cần thiết. Ngành du lịch là một ngành đem lại hậu quả kinh tế cao. Do vậy, nhiều quốc gia trên thế giới xem du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn trong đó có Việt Nam. Ngành Du lịch sẽ là một ngành ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ cao như tin học, vô tuyến viễn thông… Các tourr du lịch giữa các nước sẽ được gắn kết với nhau đáp ứng nhu cầu đi du lịch nhiều nước trong một chuyến du lịch của khác sản phẩm du lịch sẽ được quốc tế hóa. Nhờ có các yếu tố đảm bảo cho nhu cầu du lịch tăng cao như đời sống của dân cư trên thế giới được cải thiện, đời sống vật chất và tinh thần nâng cao, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới tác động mạnh lên hoạt động du lịch và các điều kiện khác đang thúc đẩy nhu cầu du lịch phát triển nhanh chóng. Theo một nghiên cứu của tổ chức du lịch thế giới có tên “Toàn cảnh du lịch đến năm 2000” thì lượng khách qte dự báo đạt khoảng 1000 triệu lượt người vào năm 2010 và khoảng 16000 triệu vào năm 2020. Tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 4,5%/năm giai đoạn 2000 – 2010 và 4,4%/năm giai đoạn 2010 – 2020. (nguồn : Viện nghiên cứu phát triển du lịch). Điều này sẽ tác động rất mạnh lên cả yếu tố cầu và yếu tố cung trong du lịch. Với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, khách du lịch tiếp cận dễ dàng hơn với các thông tin du lịch, cho phép họ mở rộng phạm vi lựa chọn để liên hệ trực tiếp với các nhà cung ứng dịch vụ du lịch. Số người đi du lịch nhiều hơn và khách du lịch trở nên hiểu biết hơn trong việc lựa chọn các tuyến điểm du lịch và các dịch vụ du lịch phù hợp với nhu cầu và khả năng thanh toán của bản thân. Về phương diện cung, nhờ sự ứng dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin cho phép các nhà cung cấp dịch vụ du lịch tiếp cận với khách du lịch dễ dàng hơn. Tạo thuận lợi cho du khách rong việc đặt tourr, thanh toán và phản hồi thông tin cho nhà cung cấp dịch vụ du lịch. Theo các chuyên gia, thế kỷ 21 được coi là thế kỷ của châu á - Thái Bình Dương. Trong những năm gần đây cũng như trong thời gian tới, dòng khách du lịch quốc tế đến khu vực này sẽ gia tăng nhanh chóng. Một số người đến đây để tìm cơ hội làm aqwn, ký kết hợp đồng, nghiên cứu các cơ hội đầu tư… Một số khác đến đây vì cảnh quan hay vì muốn tìm hiểu một nền văn hóa phương Đông đầy bản sắc và phần nào kỳ bí với họ. ở châu á, khu vực ASEAN sẽ là một trong những khu vực có hoạt động du lịch sôi động nhất. Những nguyên nhân chính thúc đẩy hoạt động du lịch ở khu vực này phát triển là, Môi trường thiên nhiên của các quốc gia trong khu vực Brunei, Indonesia, Lao, Malaisia, myamar, Philipine, Việt Nam so với các quốc gia công nghiệp khác trên thế giới vẫn còn nguyên sơ, hoang dã, chưa bị tác động nhiều của công nghiệp.Tình hình an ninh, chính trị trong khu vực ASEAN tương đối ổn định và an toàn so với số khu vực khác trên thế giới như các nước Đông Âu, châu Phi, Nam á. Nhiều quốc gia trong khu vực của du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của mình. Kinh tế các nước ASEAN đang và sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng và phát triển mạnh. Điều này sẽ tạo ra những tác động quan trọng đến khả năng tăng nhu cầu đi du lịch của người dân và tạo ra nguồn vốn lớn để đầu tư cho phát triển du lịch. Các sản phẩm du lịch của các quốc gia trong khu vực ASEAN sẽ ngày càng đa dạng với chất lượng ngày càng cao thích ứng nhanh với nhu cầu cảu du khách quốc tế. Hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực ASEAN đã và sẽ tạo thuận lợi cho du lịch phát triển và mở rộng. Các quốc gia trong khu vực đang nỗ lực liên kết và thúc đẩy để biến khu vực này thành một cộng đồng chung. Điều này đồng nghĩa với việc biến khu vực này rở thành một điểm đến thống nhất, hấp dẫn và độc đáo. Theo kết quả khảo sát của tổ chức VISA và Hiệp hội Du lịch khu vực châu á - Thái Bình Dương (PATA) năm 2007 “Khảo sát những dự định du lịch châu á năm 2007” thực hiện hàng năm trên 5000 khách du lịch quốc tế từ 10 thị trường du lịch trọng điểm trên toàn thế giới và nghiên cứu những dự định du lịch của những người được phỏng vấn cũng như những động cơ thúc đẩy và rào cản cho việc đi du lịch của họ. Kết quả khảo sát cho thấy, có tới 52% số người dự kiến đi du lịch nước ngoài trong vòng 2 năm tới xem châu á là điểm đến tiếp theo của họ. Kết quả khảo sát cũng cho thấy xu thế nổi bật là khách du lịch lựa chọn kiểu du lịch thân thiện với môi trường và du lịch văn hóa. Gần 9/10 số người được hỏi trả lời rằng họ sẽ chọn những sản phẩm du lịch mang đậm bản sắc văn hóa địa phương và bảo vệ môi trường tự nhiên. Đây là những lợi thế về du lịch mà các quốc gia trong khu vực ASEAN đang có được đặc biệt là du lịch Việt Nam. Môi trường kinh doanh cảu doanh nghiệp lữ hành nói chung và của công ty lữ hành toàn cầu (Open Worold) nói riêng, được hiểu là tập hợp các yếu tố, điều kiện có ảnh hưởng và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp tới các doanh nghiệp lữ hành. Doanh nghiệp lữ hành và môi trường kinh doanh của nó là hai vấn đề có liên quan, tác động qua lại với nhau. Mỗi doanh nghiệp du lịch đều tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh doanh nhất định. 1. Mỗi doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp lữ hành nói riêng đều tồn tại và hoạt động trong một môi trường các yếu tố vĩ mô nhất định. Đây là các yếu tố tác động bên ngoài hoạt động của doanh nghiệp. Chúng có thể đem lại cho các doanh nghiệp lữ hành những tác động tích cực hay tiêu cực. Một mặt, những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô có thể kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp lữ hành, vì vậy doanh nghiệp lữ hành phải cần có khả năng thích ứng, nếu không doanh nghiệp sẽ bị loại bỏ khỏi thị trường. Mặt khác, môi trường vĩ mô cũng tạo ra những cơ hội thuận lợi để các doanh nghiệp lữ hành có thể nắm bắt, thích ứng và phát triển. Nói chung môi trường vĩ mô có những tác động không giống nhau đối với các doanh nghiệp lữ hành, nó phụ thuộc rất nhiều vào vị trí địa lý, chức năng hoạt động của doanh nghiệp trong ngành. Không phải mọi thay đổi của môi trường đều có tác động đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lữ hành. Đồng thời các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô thường khó có khả năng dự đoán chính xác như những biến động về tình hình kinh tế, công nghệ… Hoặc các yếu tố thuộc về tự nhiên như: khí hậu, thời tiết , địa hình… đây là những nhân tố nằm ngoài ý thức của con người. Tuy nhiên, một số yếu tố thuộc môi trường vĩ mô sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của doanh nghiệp lữ hành như: các chính sách của nhà nước, hệ thống pháp luật, chính sách đối ngoại, chính sách quản lý, điều tiết thị trường. Đây cũng là nội dung quan trọng khi nghiên cứu phân tích môi trường kinh doanh của doanh nghiệp lữ hành. Môi trường vĩ mô của các doanh nghiệp lữ hành bao gồm các yếu tố sau: Tài nguyên du lịch Văn hóa, trình độ nhận thức Xã hội và sự đô thị hóa Dân số, thời gian rỗi Nguồn lực kinh tế Giáo dục Pháp luật/chính sách, thủ tục Tập quán tiêu dùng Phát minh công nghệ Tỷ giá, thuế, lãi suất tín dụng, khả năng chuyển đổi ngoại tệ… Quan hệ quốc tế… Trên cơ sở các yếu tố trên, tác giả sẽ phân ra thành môi trường quốc tế và môi trường quốc gia của doanh nghiệp lữ hành. Môi trường quốc tế : đã phân tích. Môi trường quốc gia: trong xu thế phát triển chung của du lịch toàn cầu, Du lịch Việt Nam đang và sẽ phát triển nhanh chóng. Mặt khác nhờ Du lịch Việt Nam đang dần bắt nhịp được với xu hướng phát triển chung của du lịch khu vực và thế giới, mặt khác, nhờ những điều kiện thuận lợi và lợi thế về tiềm năng tài nguyên du lịch cũng như những điều kiện và kinh tế, chính rị, văn hóa và xã hội của đất nước trong quá trình hội nhập. Trong khi sự bất ổn định về chính trị đang diễn ra ở một số khu vực và quốc gia trên thế giới, ngay cả một số nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Indonexia cũng đang trở lên bất ổn, thì tình hình chính trị của Việt Nam vẫn đang đươc giữ vững và ổn định. Bên cạnh đó, tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội cũng diễn biến tốt. Điều này tạo điều kiện thuận lợi đảm bảo cho các doanh nghiệp lữ hành yên tâm kinh doanh. Khách du lịch quốc tế cảm thấy yên tâm khi tới du lịch ở Việt Nam. Kinh tế của Việt Nam đang phát triển nhanh chóng. Tăng trưởng kinh tế thuộc loại cao so với mức tăng trưởng trung bình của thế giới. Điều này một mặt làm tăng thu nhập của người dân, một mặt tạo ra nguồn vốn lớn để chính phủ đầu tư nhiều hơn nữa cho việc phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật tạo thuận lợi cho ngành du lịch phát triển. GDP bình quân đầu người tăng lên không ngừng, đời sống nhân dân được cải thiện kéo theo đó là nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, du lịch cũng gia tăng. Việt Nam có tài nguyên du lịch vô cùng phong phú và đa dạng. Lợi thế của du lịch Việt Nam hiện nay là loại hình du lịch văn hóa, du lịch sinh thái môi trường. Đặc biệt là chương trình du lịch được xây dựng dựa vào các tài nguyên về văn hóa, lịch sử, các danh làm thắng cảnh… Đây cũng là xu hướng chung cuardl thế giới hiện nay. Tháng 11/2006 là mốc son quan trọng đánh dấu sự gia nhập vào tổ chức Thương mại thế giới WTO của Việt Nam. Tiến trình hội nhập WTO, sẽ thúc đầy cải thiện và mở rộng các mối quan hệ kinh tế song phương, đa phương giữa Việt Nam và các quốc gia khác trên thế giới. Quá trình này cũng thúc đẩy chính phủ Việt Nam thực hiện việc cải cách các thủ tục hành chính, sửa đổi và bổ sung các văn bản luật hướng tới sự phf hợp hơn với các thông lệ quốc tế và các quy định, cam kết trong WTO. Đến nay, luật du lịch đã được áp dụng kèm theo nhiều văn bản hướng dẫn tạo ra một môi trường pháp lý rõ ràng hơn. Minh bạch hơn để các doanh nghiệp cạnh tranh tự do và bình đẳng hơn. Đây cũng là điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động kinh doanh trong lv du lịch nhờ môi trường đầu tư được cải thiện và thuận lợi hơn. Năm 1002, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định phế duyệt chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010. Nội dung của bản chiến lược đã nêu rõ: “đã có … Tháng 9/2007, Bộ trưởng Bộ Văn hóa thể thao và Du lịch đã ban hành quyết định thông qua chương trình hoạt động của ngành Du lịch sau khi Việt Nam gia nhập WTO giai đoạn 2007 – 2012. Nội dung của chương trình nêu rõ: “Mục tiêu chung: nhằm thực hiện nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương chính sách lớn để nền ke Việt Nam phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Chương trình này xũng xác định rõ nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương, của các doanh nghiệp Du lịch nhằm tận dụng cơ hội, vượt qua thách thức đưa du lịch Việt Nam bước vào giai đoạn phát triển mới, nhanh, mạnh và bền vững. Hoàn thành vượt chỉ tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam giai đoạn 2011- 2010. Mục tiêu cụ thể của chương trình: về đón khách; đến năm 2010, Du lịch Việt Nam sẽ đón được 5,5 đến 6 triệu lượt khách quốc tế. Nhịp độ tăng trưởng bình quân đạt 11,4%. Khách du lịch nội địa phấn đấu đạt khoảng 25 triệu lượt vào năm 2010. Về thu nhập du lịch, phấn đấu năm 2010, doanh thu du lịch đạt 4,0 à 4,5 tỷ USD, đưa tổng sản phẩm du lịch (GDP) năm 2010 đạt 5,3% tổng GDP của cả nước với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 11,0 – 11,5%/năm. Về phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật; đầu tư xây dựng và hoàn thiện 4 khu du lịch tổng hợp quốc gia và 16 khu du lịch chuyên đề quốc gia, nâng cấp các tuyến điểm du lịch quốc gia và quốc tế, các khu du lịch có ý nghĩa vùng và địa phương. Đều tư ây mới và nâng cấp hệ thống khách sạn, phấn đấu đến năm 2010 có trên 250.000 phòng khách sạn, đáp ứng nhu cầu lưu trú của du khách. Phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam trở thành một trong những nước có ngành du lịch phát triển hàng đầu trong khác nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc14208.DOC
Tài liệu liên quan