LUẬN VĂN: Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung bộTư duy lý luận là một trong những yêu cầu quan trọng hàng đầu của người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Vấn đề này được xem như chìa khóa giúp cho người cán bộ nhận thức thực tiễn một cách sâu sắc và chỉ đạo thực tiễn đạt được hiệu quả cao. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước có biến thành hiện thực hay không phụ thuộc rất lớn vào năng lực và trình độ tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ, họ là người tiếp thu, bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương nơi mình đang công tác.
96 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2044 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh ở Bắc Trung bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h, pháp luật của
Nhà nước đòi hỏi cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải biết tổ chức thực hiện bằng các
biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế địa phương. Chẳng hạn chủ trương của Đảng là
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì
cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị phải biết ở tỉnh mình cần cụ thể chủ trương ấy như thế nào,
phải bắt đầu từ đâu, tiến hành như thế nào. Thực tế việc thực hiện chủ trương ấy ở tỉnh chưa
đem lại hiệu quả cao. So với những tỉnh lân cận trong vùng như Thừa Thiên Huế, Nghệ
An,… thì kết quả đó ở Quảng Trị vẫn còn khiêm tốn. Sự thật trên cho chúng ta nhận thức sâu
sắc rằng: cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị với cương vị và trọng trách của mình phải
nắm rõ hơn nữa chủ trương của Đảng từ đó đề ra chiến lược phát triển kinh tế – xã hội phù
hợp với địa phương. Điều đó đòi hỏi phải nâng cao năng lực về mọi mặt, trước hết là năng
lực tư duy lý luận.
Chương 3
Một số giải pháp cơ bản nâng cao năng lực
tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng bắc trung bộ
3.1. Đổi mới tư duy, nâng cao chất lượng giáo dục và hoạt động tự giáo dục
người cán bộ lãnh đạo, quản lý
Một trong những nhiệm vụ đặt lên hàng đầu của sự nghiệp đổi mới ở nước ta là
đổi mới tư duy. Đổi mới tư duy trong mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước, đổi mới tư
duy của cán bộ lý luận, cán bộ lãnh đạo, quản lý từ Trung ương đến địa phương. Nhiệm vụ
đó được đặt ra ngay từ đầu trong đường lối đổi mới mà Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ VI đã đề ra.
Mặc dù trong những năm vừa qua, trình độ tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt tỉnh Quảng Trị đã có những chuyển biến tích cực. Đó là kết quả của sự đổi mới
về cả lý luận, về công tác giáo dục lý luận; là kết quả sự chuyển đổi cơ chế quản lý đã tạo
ra môi trường thực tiễn sống động và là kết quả của ý thức chủ động trong học tập và rèn
luyện tư duy của chính bản thân người cán bộ; nhưng trước thực tiễn đổi mới đang diễn
ra một cách nhanh chóng, đa dạng, phong phú thì lối tư duy đó vẫn chưa thể bắt kịp và
phần nào đã lạc hậu. Tình trạng chưa ngang tầm, bất cập về trình độ, năng lực tư duy của
đội ngũ này biểu hiện trên nhiều mặt như: mức độ nắm bắt và chuyển hóa kiến thức lý
luận thành tư duy, suy nghĩ còn hạn chế; việc nhận thức và vận dụng đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước vào việc xây dựng các chủ trương, chính sách
phát triển kinh tế – xã hội cụ thể trong thực tiễn cuộc sống còn có những biểu hiện giáo
điều, kinh nghiệm chủ nghĩa; năng lực tổ chức thực tiễn, tổng kết thực tiễn còn nhiều bất
cập… Những mặt hạn chế đó sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động lãnh đạo quản lý.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng, tư duy là sản phẩm của lịch sử, chịu sự quy định
của tồn tại xã hội, nhưng tư duy có tính độc lập tương đối của nó. Nếu tư duy quá lạc hậu,
bảo thủ, đặc biệt nếu đó là tư duy của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh – những người có
vai trò điều hành nền kinh tế – xã hội của một tỉnh sẽ trở thành một trở lực cho sự phát
triển kinh tế – xã hội của địa phương. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, nhiệm vụ bức thiết hiện nay là phải nâng cao năng lực và
trình độ tư duy lý luận, đoạn tuyệt với lối tư duy kinh nghiệm, giản đơn, giáo điều, cứng
nhắc trong hoạt động lãnh đạo, quản lý của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Với tầm quan trọng, tính cấp bách của đổi mới tư duy, đòi hỏi người cán bộ lãnh
đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị phải nổ lực cao hơn nữa, tận dụng mọi điều kiện để thúc đẩy
quá trình đổi mới tư duy. Để làm được điều đó, mỗi người cán bộ phải tăng cường công
tác tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận, đổi mới và tăng cường công tác đào tạo, tự giáo
dục, nhất là học tập nâng cao trình độ lý luận chính trị. Trong công tác lãnh đạo, phải tạo
ra được môi trường thuận lợi cho đổi mới tư duy, xây dựng bầu không khí dân chủ trong
xã hội, nhất là trong sinh hoạt đảng, trong nghiên cứu khoa học. Khi đất nước đã chuyển
sang con đường hội nhập quốc tế, tầm nhìn và mối quan hệ trở nên rộng lớn hơn, thực tế
này đòi hỏi người cán bộ phải thay đổi tư duy bằng cách làm quen với cơ chế thị trường,
mở rộng quan hệ đối ngoại, tạo ra một thực tiễn sống động, đa dạng, phong phú. Từ hiện
thực đó sẽ đặt ra, đòi hỏi, kích thích đội ngũ cán bộ phải rèn luyện tư duy biện chứng,
phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo trong tư duy, suy nghĩ và hành động.
Trong thời đại hiện nay, thông tin, truyền thông ảnh hưởng không nhỏ đến sự đổi
mới tư duy của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Chúng đem lại những nội dung
mới, phương pháp mới, cách nghĩ mới cho người tiếp nhận. Bên cạnh đó, một số tổ chức,
cá nhân cũng lợi dụng sự rộng rãi, nhanh chóng của thông tin để xuyên tạc, bôi nhọ, tung
nhưng thông tin sai lệch. ở lĩnh vực này đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo chủ chốt một mặt
phải tích cực thu thập, tiếp thu thông tin nhiều chiều, mặt khác phải biết phân loại, lựa
chọn những thông tin chính xác, kịp thời, và truyền đạt lại những thông tin đó cho mọi
người một cách hợp lý để tránh hiểu lầm, hoang mang, dao động…
Những hạn chế về năng lực và trình độ tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp tỉnh bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân. Ngoài những ảnh hưởng tiêu cực của
lối tư duy truyền thống, của cuộc sống kéo dài trong nền sản xuất nhỏ, của cơ chế quản lý
cũ, … không thể không nói tới ảnh hưởng do những hạn chế trong công tác giáo dục và
hoạt động tự giáo dục của người cán bộ. Năng lực tư duy lý luận “là một đặc tính bẩm
sinh dưới dạng năng lực của người ta” [32, tr.487], nhưng “năng lực ấy cần phải được
phát triển hoàn thiện” thông qua giáo dục và tự rèn luyện. Để khắc phục những hạn chế
của lối tư duy cũ, tiếp thu một cách tự giác tư duy lý luận của thời đại mới, cần phải nâng
cao chất lượng giáo dục và hoạt động tự giáo dục đối với người cán bộ lãnh đạo chủ chốt.
Công việc này là con đường nhanh nhất, hiệu quả nhất đem lại cho họ một trình độ tri
thức, trí tuệ nhất định. Chính trình độ tư duy, trí tuệ là điều kiện quan trọng để con người
phát triển năng lực của mình về mọi mặt. Quá trình này mang lại cho con người không
chỉ nội dung các tri thức mà cả những phương pháp tư duy khoa học ngày càng một hoàn
thiện hơn. Thông qua giáo dục, đào tạo con người được hướng dẫn định hướng trong tư
duy. Nhờ quá trình tự học tập rèn luyện thì năng lực tư duy nói chung, năng lực tư duy lý
luận nói riêng được trau dồi, rèn luyện, củng cố, phát triển. Đó chính là nền tảng, là cơ sở
để con người mài dũa khả năng tư duy nhạy bén, sáng tạo. Nếu bị hạn chế về tri thức, trí
tuệ thì khó nâng cao được năng lực tư duy lý luận.
Cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị tuy có trình độ lý luận chính trị khá,
nhưng trình độ chuyên môn chưa cao. Còn có sự chưa ngang tầm ở một số cán bộ so với
vị trí, chức vụ của mình. Công việc phổ biến ở tỉnh hiện nay chủ yếu là hành chính, giấy
tờ, người cán bộ luôn bị cuốn vào guồng máy đó mà quên đi việc phải nghiên cứu lý
luận. Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở: “Cán bộ đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc
quân sự mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to. Khác nào người thầy
thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa” [35, tr.231].
Trong những năm qua, công tác đào tạo nhằm chuẩn hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo
cấp tỉnh đã có nhiều cố gắng, nhưng thực tế cho thấy chất lượng đào tạo chưa cao.
Chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo chưa được cải tiến phù hợp với yêu cầu
của tình hình. Cần có những lớp học, bồi dưỡng kiến thức kết hợp được lý luận với giải
quyết các vấn đề đang đặt ra ở địa phương. Người cán bộ đi học phải tự xây dựng cho
mình một thái độ, ý thức học tập đúng đắn, tích cực. Khi được cử đi học, người cán bộ sẽ
đối mặt với nhiều vấn đề bất lợi cho cá nhân như giảm thu nhập, mất thời gian, tiền bạc,
chức vụ,… và khi học xong vẫn không được quan tâm cân nhắc, bố trí công tác hợp lý,
tiền lương vẫn không tăng… Vì vậy, Trung ương và địa phương cũng cần phải có một cơ
chế, chính sách rõ ràng để họ yên tâm học tập. Phải thường xuyên tổng kết việc đào tạo
cán bộ để rút kinh nghiệm về chính sách, chương trình, nội dung, thời gian, phương pháp
đào tạo. Thực tế cho thấy rằng, nếu người cán bộ vừa có kinh nghiệm thực tiễn, vừa có
trình độ tư duy chính trị cao thì việc loại bỏ tư duy phiến diện, khắc phục giáo điều, máy
móc càng có hiệu quả. Chính vì thế mà nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn chính là nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của họ. Chỉ có thông
qua đào tạo một cách nghiêm túc, cơ bản trong các nhà trường kết hợp việc nâng cao ý
thức thường xuyên học tập, nghiên cứu lý luận thì người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh mới có đủ năng lực tư duy lý luận ở mức độ nắm bắt thực chất phương pháp tư duy
biện chứng duy vật và vận dụng phương pháp đó trong nhận thức và trong hoạt động lãnh
đạo.
Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt khi được đào tạo cũng cần xác định cho mình ý
thức tự giác và tạo lập phương pháp học tập một cách khoa học. Quá trình đào tạo có
nhiệm vụ phải kích thích, phát huy ý thức học tập, nghiên cứu ấy và biến chúng thành
quá trình tự đào tạo. Sự chủ động, tích cực, sáng tạo của đội ngũ này sẽ là điều kiện nâng
cao năng lực tư duy lý luận cho họ.
3.2. Tăng cường và nâng cao tính hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn
Đại hội IX của Đảng đề ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, thảo luận dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới bức xúc nảy
sinh từ thực tiễn”[8, tr.141]. Đại hội X cũng nhấn mạnh nhiệm vụ: “Thường xuyên tổng
kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng đắn những vấn đề do cuộc sống
đặt ra”[10, tr.131]. Tổng kết thực tiễn là một khâu quan trọng, không thể thiếu trong quy
trình lãnh đạo của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Tổng kết thực tiễn có kết quả
sẽ giúp cho cán bộ lãnh đạo rút ra được những bài học kinh nghiệm để bổ sung, hoàn
thiện những quyết định của mình; khắc phục được bệnh kinh nghiệm, bệnh giáo điều, góp
phần quan trọng vào quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Tổng kết
thực tiễn là phương thức cơ bản để bổ sung, hoàn thiện đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Tổng kết thực tiễn vừa là nhiệm vụ, vừa là yêu cầu bắt buộc đối
với người cán bộ lãnh đạo, quản lý. Xét về bản chất, đây là hoạt động trí tuệ; là quá trình
bằng tư duy khoa học với phương pháp biện chứng duy vật phân tích, đánh giá, khái quát
hoạt động sản xuất vật chất; hoạt động cải tạo chính trị – xã hội, cải tạo các quan hệ xã
hội; hoạt động thực nghiệm khoa học nhằm kiểm tra tính đúng sai của lý luận để bổ sung,
hoàn thiện, phát triển lý luận và rút ra những bài học kinh nghiệm chỉ đạo hoạt động thực
tiễn và hoạt động lý luận tiếp theo.
Với tầm quan trọng như vậy, để đạt hiệu quả cao trong công tác lãnh đạo, mà cụ
thể là nâng cao được năng lực tư duy lý luận, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cần phải
tăng cường và nâng cao tính hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn. Để có được điều đó,
cần thực hiện tốt các giải pháp cơ bản sau đây:
Một là, đổi mới cách thức và tăng cường tổng kết thực tiễn. Đây là một trong
những biện pháp quan trọng nâng cao hiệu quả công tác tổng kết thực tiễn. Để đổi mới
cách thức tổng kết thực tiễn cần thực hiện phối hợp đồng bộ các biện pháp. Đầu tiên là
việc xác định đúng mục đích, yêu cầu tổng kết thực tiễn. Đối với cán bộ chủ chốt tỉnh
Quảng Trị, cần xác định rõ việc tổng kết thực tiễn là nhằm rút ra được những bài học
kinh nghiệm chỉ đạo phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự, an
toàn xã hội; phát triển đảng, xây dựng đời sống văn hóa mới… trên địa bàn tỉnh. Xác
định đúng mục đích, yêu cầu của tổng kết thực tiễn sẽ giúp hoạt động này có định hướng,
mang tính tự giác cao. Từ yêu cầu của công việc, người cán bộ sẽ xác định được phương
pháp vận dụng trong tổng kết. Ngoài những quan điểm phương pháp luận chung, để hoạt
động tổng kết có hiệu quả cần đề cao tính trung thực, nhìn thẳng vào sự thật, phát huy tự
do tư tưởng, thảo luận dân chủ,… chỉ như vậy mới có thể phản ánh đúng thực trạng tình
hình, đưa ra được những đề xuất mới, đúng đắn để giải quyết các vấn đề mà thực tiễn
cuộc sống trên địa bàn đặt ra.
Trên cơ sở những vấn đề nảy sinh, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải xác định
đúng những vấn đề trọng điểm và địa bàn thích hợp mà việc tổng kết các vấn đề đó trên
địa bàn tương ứng sẽ mang lại nhận thức chung cho vấn đề tổng kết cần quan tâm. Nếu
xác định vấn đề trọng tâm không đúng và lựa chọn địa bàn không tiêu biểu sẽ gây khó
khăn cho tổng kết thực tiễn. Chẳng hạn ở Quảng Trị thì một trong những vấn đề nổi trội
là ô nhiễm ở các nhà máy sản xuất tinh bột sắn ở Hải Lăng, Hướng Hóa, nhà máy gỗ
MDF ở Đông Hà. Theo đó, các cơ quan chuyên môn như Sở khoa học – công nghệ, Sở
tài nguyên – môi trường, Sở y tế, phòng cảnh sát môi trường … phải là những người chủ
trì việc tổng kết thực tiễn. Những bộ phận tổng hợp cũng phải dựa trên kết quả báo cáo và
khảo sát trực tiếp để có những nhận thức nhất định, độc lập về vấn đề cần tổng kết, sau
đó phải lấy ý kiến của các chuyên gia từ trung ương đến địa phương để thẩm định kết
quả.
Đổi mới phương thức tổng kết thực tiễn đòi hỏi cần phải nâng cao chất lượng
thông tin, bảo đảm tính chân thật, tính đầy đủ, tính kịp thời của thông tin. Điều đó đòi hỏi
người cán bộ nói chung phải khắc phục tình trạng quan liêu chủ nghĩa, xa rời thực tiễn
cuộc sống.
Cùng với những đổi mới về phương thức tổng kết thì cần phải tăng cường tổng
kết thức tiễn. Đây là công việc liên tục, thường xuyên, không có giới hạn cuối cùng. Thực
tiễn luôn vận động, biến đổi, phát triển, do vậy mà tổng kết thực tiễn phải được tiến hành
thường xuyên. Chính việc tăng cường tổng kết thực tiễn là con đường vô cùng quan trọng
để nâng cao năng lực tư duy lý luận.
Hai là, chống chủ nghĩa cá nhân, bệnh thành tích và chủ nghĩa hình thức trong
tổng kết thực tiễn. Chủ nghĩa cá nhân là nguyên nhân của nhiều thứ bệnh. Nếu tổng kết
thực tiễn dựa trên cơ sở cá nhân thì sẽ đi đến những kết luận nhằm phục vụ cho những
mục đích cá nhân, hoặc rơi vào bao biện, tâng bốc, thiếu tính khách quan, khoa học. Từ
chủ nghĩa cá nhân rất dễ dẫn đến chủ nghĩa cơ hội, tư tưởng cục bộ và chủ nghĩa thành
tích. Những đặc trưng cơ bản của cơ hội chủ nghĩa như ngã nghiêng không có định
hướng đường lối rõ rệt; thõa hiệp, hợp tác vô nguyên tắc; trong lý luận thì mắc phải chủ
nghĩa chiết trung, ngụy biện. Những đặc trưng ấy phản ánh sự mơ hồ về sự vật, không
tìm ra bản chất hoặc quy luật phát triển của sự vật. Những kẻ cơ hội thường tổng kết thực
tiễn theo một ý đồ chủ quan định sẵn, hoặc dùng kết quả thực tiễn để chứng minh cho
một mục đích cá nhân mang tính chất chủ quan nào đó.
Bệnh thành tích chỉ chú ý đến thành tích và thường là thành tích cá nhân. Người
mắc bệnh này dùng mọi thủ đoạn để thông qua và chứng minh cho thành tích ấy. Từ đó
để lấy danh hiệu chứ không đi vào thực chất, nội dung tổng kết thực tiễn. Có thể thấy
được rất rõ điều này trong thời bao cấp, vì ảnh hưởng của bệnh thành tích mà ở lĩnh vực
nào, ở đâu cũng cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, kế hoạch của mình, nhưng kinh tế
vẫn khủng hoảng, suy thoái. Ngay trong giai đoạn hiện nay, ở tỉnh Quảng Trị, có nhiều
nhà máy, cơ quan luôn báo cáo là vượt công suất thiết kế, tăng doanh thu, đời sống của
cán bộ, công nhân được nâng lên rõ rệt, theo đó, đã đạt được nhiều bằng khen của tỉnh,
của Trung ương như: xí nghiệp sản xuất quạt Điện cơ Cotico được giải thưởng Sao vàng
đất Việt, tổng công ty Đông Trường Sơn được phong danh hiệu Anh hùng thời đổi mới…
thế nhưng thực chất thì làm ăn thua lỗ, không có chổ đứng trên thị trường và dẫn tới phá
sản hoặc chuyển hình thức quản lý ngay sau khi nhận giải thưởng.
Chủ nghĩa hình thức nhìn chung chỉ chú ý đến hình thức mà quên mất nội dung,
từ đó mà làm bất cứ việc gì cũng hời hợt, bề ngoài. Trong tổng kết thực tiễn thì làm một
cách đại khái, qua loa cho xong chuyện để báo cáo thành tích, để phô trương. Với chủ
nghĩa hình thức thì cái gì cũng làm, cái gì cũng có, nhưng không có cái nào đến nơi đến
chốn, không đi vào bản chất, nội dung của vấn đề. Bệnh hình thức biểu hiện không riêng
ở Quảng Trị và ở bất cứ ngành, lĩnh vực nào. Chẳng hạn Nhà máy xi măng Đông Hà khi
chỉ sản xuất xi măng và vôi thì làm ăn rất phát đạt, tuy nhiên, sau khi phát triển thêm
nhiều ngành nghề như phân bón, vật liệu xây dựng, chế biến thủy sản, nhà hàng khách
sạn thì ngay lập tức biểu hiện sự yếu kém trong quản lý và không thể phát triển được.
Ba là, nâng cao đạo đức người cán bộ lãnh đạo, phát huy được vai trò của các bộ
phận giúp việc trong tổng kết thực tiễn.
Đạo đức là cái gốc của người cán bộ, nó đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo phải quán
triệt quan điểm khách quan trong công tác tổng kết thực tiễn. Cụ thể là tránh tô hồng hoặc
bôi đen đối tượng cần tổng kết. Phải có thái độ trung thực, tránh chủ nghĩa chủ quan;
không được lấy ý đồ có sẵn mang tính chất cá nhân chủ quan để áp đặt cho công việc, bởi
lẽ đây là điều kiện cho bệnh chủ quan duy ý chí. Cũng không thể lấy kết quả của việc
tổng kết để chứng minh cho ý đồ chủ quan định sẵn. Điều quan trọng ở đây là chống chủ
nghĩa chủ quan. Những người theo khuynh hướng chủ quan rất coi thường hiện thực
khách quan và ở những mức độ nhất định thường phủ nhận hoặc không tính đến những
quy luật khách quan diễn ra trong tự nhiên và xã hội. Trong tổng kết thực tiễn, chủ quan
thể hiện từ khâu lựa chọn vấn đề, lập chương trình và thu thập, xử lý thông tin. Chính vì
mắc bệnh chủ quan nên dẫn đến sai lệch, xuyên tạc sự thật, làm cho người khác hiểu
không đúng vấn đề cần tổng kết. Trung thực trong tổng kết thực tiễn đòi hỏi cần phải
tránh hai thái cực: hoặc chỉ đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan hoặc chỉ đổ lỗi cho những
thiếu sót, khuyết điểm chủ quan. Đạo đức cách mạng biểu hiện ở người cán bộ lãnh đạo
chủ chốt đòi hỏi khi tổng kết thực tiễn phải có tính mục đích đúng đắn. Điều này thể hiện
ở chổ dù ở cấp nào, ngành nào đều phải hướng đến phục vụ cho mục đích dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hiệu quả của việc tổng kết thực tiễn tùy thuộc rất nhiều vào năng lực của chủ thể
tiến hành công việc này, trong đó còn có năng lực của các cán bộ phòng, ban, chuyên gia
chuyên môn. Việc tổ chức lực lượng, động viên, phát huy vai trò của họ là một giải pháp
quan trọng để nâng cao chất lượng, hiệu quả tổng kết thực tiễn. Tuy nhiên, công tác này ở
cán bộ lãnh đạo chủ chốt Bắc Trung bộ nói chung, và ở Quảng Trị nói riêng còn rất nhiều
hạn chế. Thường thì công việc này được tiến hành bởi những người chuyên làm lý luận
mà thiếu sự tham gia của những người làm thực tiễn. Còn khi những người làm thực tiễn
muốn tổng kết thì lại không khuyến khích được những người làm lý luận. Điều này làm
hạn chế kết quả của công tác tổng kết thực tiễn. Chẳng hạn như việc lập làng sinh thái ở
ven biển ở các xã Triệu Vân, Triệu Lăng, Triệu Sơn,…thuộc huyện Triệu Phong. Những
người lãnh đạo và người dân ở đây rất muốn tổng kết thực tiễn để rút ra bài học kinh
nghiệm, qua đó để kêu gọi thêm đầu tư để nhân rộng mô hình. Họ là người có thực tiễn,
có những dữ kiện thực tiến phong phú, tuy nhiên họ không có năng lực và không quen sử
dụng các phương pháp của lý luận để rút ra những bài học có tính khái quát cao. Trong
khi đó, những người làm lý luận thì có ưu điểm về phương pháp tư duy, có khả năng khái
quát hóa, trừu tượng hóa nhưng họ thiếu thông tin và những trãi nghiệm thực tiễn. Những
người làm lý luận và thực tiễn cần phải kết hợp lại với nhau mới phát huy những ưu điểm
và hạn chế những yếu kém của mình. Lực lượng cán bộ, chuyên gia sẽ là người có vai trò
lớn trong việc lựa chọn vấn đề tổng kết thực tiễn, thu thập và xử lý thông tin, đưa ra
những kết luận và rút ra bài học kinh nghiệm chính xác hơn. Cuối cùng, họ cũng chính là
người giúp đỡ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh trong việc vận dụng các bài
học kinh nghiệm vào chỉ đạo thực tiễn tiếp theo trên địa bàn của mình. Ngay cả bản thân
của nhưng người làm công tác chuyên môn cũng phải được phát huy tính tích cực chủ
động, sáng tạo trong việc tự phấn đấu, rèn luyện năng lực tổng kết thực tiễn.
Tóm lại, với việc tăng cường và nâng cao tính hiệu quả của công tác tổng kết
thực tiễn thông qua thực hiện các giải pháp đồng bộ trên thì năng lực tư duy lý luận của
người cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị phần nào sẽ được nâng cao hơn.
3.3. Phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương để đội ngũ cán bộ
lãnh đạo quản lý cấp tỉnh phát huy được tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám
làm
Một trong nhà những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ trong tư duy và hành động
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh chính là không tạo cho họ quyền chủ động
và không khuyến khích được tính tự giác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Đất nước ta đã trãi qua thời kỳ bao cấp, nhưng ảnh hưởng của cơ chế quản lý tập trung,
quan liêu – một cơ chế trói buộc con người, làm thui chột tính năng động, sáng tạo của tư
duy độc lập của con người nói chung, trong đó có đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh – vẫn còn nặng nề. Chính vì thế, mà cho đến ngày hôm nay, trong tư duy người cán
bộ vẫn còn sự e ngại, không dám nói và làm ngoài, khác và trái ý kiến chỉ đạo của cấp
trên và Trung ương. Điều đó đã làm mất đi bầu không khí dân chủ, triệt tiêu môi trường
sống của tư duy khoa học, lối tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Con người trong điều kiện
đó bị khuôn vào những trật tự an bài, bất biến dưới sự chỉ đạo, kiểm soát tối đa của cấp
trên. Sống trong môi trường ấy, người cán bộ có cảm giác rất ổn định, an toàn, loại trừ
những mạo hiểm, rủi ro. Nhưng cũng chính vì cơ chế ấy mà người cán bộ không dám
thoát ra, vượt lên bứt phá, đổi mới, không có những quyết định táo bạo để thúc đẩy nền
kinh tế tỉnh nhà phát triển.
Trong hoàn cảnh như vậy, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh ngày càng trở
nên thụ động trong suy nghĩ, lời nói và việc làm. Họ không tự và không dám suy nghĩ mà
chỉ dựa hoàn toàn vào cấp trên; làm việc gì cũng phải chờ và xin ý kiến. Họ tư duy không
bằng cái đầu của mình mà bằng cái đầu của cấp trên. Từ đó, họ thường đi theo hướng
tuyên truyền, giải thích, thực hiện đường lối, chủ trương của Trung ương, của cấp trên.
Họ quên vai trò của mình là người chỉ đạo thực tiễn mà chỉ dựa vào sự đồng tình ủng hộ,
bảo trợ của cấp trên.
Sự nghiệp đổi mới đang yêu cầu có sự thay đổi trong cách lãnh đạo và quản lý
cho phù hợp với điều kiện mới. Trong hoàn cảnh đất nước thay đổi hằng ngày, tình hình
kinh tế – xã hội có những biến đổi mau chóng, phức tạp, người cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh cần phải năng động hơn bao giờ hết. Họ chỉ có sự chủ động hoàn toàn khi hội tụ
những điều kiện như:
Một là, Trung ương có cơ chế cho người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh có
thực quyền lãnh đạo toàn diện trong lĩnh vực, địa bàn quản lý của mình. Bên cạnh đó
cũng có những quy định, chế tài để người cán bộ thực hiện tốt đường lối, chính sách;
không độc quyền, độc tài, hoạt động không vượt quá khuôn khổ, thẩm quyền cho phép.
Hai là, người cán bộ lãnh đạo có đầy đủ phẩm chất, năng lực cần thiết, trong đó
có cả năng lực tư duy lý luận. Họ là những người am hiểu chính sách, pháp luật của Đảng
và Nhà nước; biết đưa chính sách đó vào áp dụng hợp lý tại địa phương; năng động, dám
nghĩ, dám làm, biết chịu trách nhiệm.
Để đáp ứng yêu cầu đó, đòi hỏi phải cần thiết có sự phân cấp quản lý rõ ràng
giữa Trung ương và địa phương. Cần có những chính sách quy định rõ những việc mà
Trung ương làm, những việc mà cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải thực hiện và cả những
việc họ có quyền thực hiện. Về cơ chế quản lý, nên chăng, Trung ương chỉ là người đưa
ra đường lối, chính sách và kiểm tra, giám sát, đôn đốc cán bộ địa phương thực hiện.
Thực ra, những điều này Trung ương đã biết và đã làm, nhưng trong điều kiện mới, cần
phải thay đổi cho cơ chế mới dần đi vào thực chất hơn. Đã có những lúc, những nơi,
Trung ương đã can thiệp quá sâu vào địa phương để giải quyết những công việc đơn giản;
trong khi đó lại chưa đưa ra được một quyết định tích cực để chỉ đạo, định hướng cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở địa phương dựa vào đó thực hiện. Chẳng hạn như việc hải
quan tỉnh Quảng Trị bắt giữ 03 sừng tê giác khi bọn buôn lậu đưa mặt hàng này qua cửa
khẩu quốc tế Lao Bảo. Theo quyết định của UBND tỉnh thì chúng được đem đấu giá công
khai và thu tiền về cho ngân sách nhà nước theo quy định như những mặt hàng khác. Tuy
nhiên, Thủ tướng Chính phủ lại có công văn buộc UBND tỉnh Quảng Trị không được
đem bán mà nộp chúng về cho Trung ương. Sự việc trên cho thấy sự bất cập trong cơ chế,
pháp luật. Bởi lẽ, Trung ương đã có quy định về việc xử lý những mặt hàng buôn lậu bị
bắt, việc làm của tỉnh như vậy là đúng. Còn nếu Trung ương bảo đó là hàng quý hiếm,
cần phải đem nộp và bảo cách làm của tỉnh là sai thì quan điểm đó là chưa đúng, bởi vì
lúc đó, chưa có quy định nào quy định những mặt hàng quý hiếm, mà cụ thể chưa xếp
sừng tê giác vào danh mục mà địa phương phải nộp cho Trung ương. Những chính sách
của Trung ương phải thật bao quát, có tính chất định hướng, không nên quá đi vào chi
tiết, thậm chí can thiệp vào hoạt động lãnh đạo của cán bộ cấp dưới. Từ đó khuyến khích
người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải biết tư duy, căn cứ trên những điều kiện chủ
quan và khách quan của tỉnh nhà mà đưa ra những quyết định sáng suốt, phù hợp, kịp
thời. Điều đó sẽ khuyến khích sự sáng tạo, chủ động, dám nghĩ, dám làm và dám tự chịu
trách nhiệm. Bản thân người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh phải có quyền điều hành
địa phương mình theo những yêu cầu của thực tiễn đặt ra, chứ không phải bất cứ cái gì
cũng phải xin ý kiến, chờ ý kiến chỉ đạo của Trung ương. Bởi lẽ, chính người cán bộ lãnh
đạo ở địa phương là người hiểu rõ hơn hết trong những điều kiện cụ thể cần phải làm gì, làm
như thế nào, làm từ đâu, làm lúc nào. Quảng Trị là tỉnh cách khá xa thủ đô Hà Nội, mặc dù
càng ngày, cơ sở vật chất của ngành giao thông càng hoàn thiện hơn, thời gian đi lại càng rút
ngắn, nhưng không thể hễ có bất cứ việc gì xảy ra, tỉnh cũng chờ cán bộ Trung ương vào
nghiên cứu, chỉ đạo. Tất cả mọi việc, trước tiên, phải do chính đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ
chốt tại chỗ giải quyết.
Thực hiện Nghị quyết, chính sách của Trung ương là yêu cầu bắt buộc, nhưng
cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh cần tránh lối suy nghĩ là mình phải luôn luôn chấp hành
mệnh lệnh, chỉ thị cấp trên. Hiểu như vậy là chưa đúng và chưa đủ về đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta. Người cán bộ lãnh đạo phải làm những điều mà người
dân tỉnh mình đang cần, phải biết đề nghị với cấp trên những gì mà người dân đang
muốn. Lâu nay cơ chế quản lý tập trung, bao cấp làm cho người cán bộ thích nghe những
gì mình muốn, chứ không quan tâm những điều người khác cần. Từ đó đã làm cho họ có
thói quen thích người khác nói cho mình vừa ý, cấp dưới phải tuân thủ sự chỉ đạo cấp
trên, làm gì cũng phải báo cáo, xin phép. Suy nghĩ đó có cả ở cán bộ Trung ương cũng
như ở địa phương. Cần có sự rõ ràng, minh bạch để một mặt, địa phương không cảm thấy
bị Trung ương bỏ rơi, dửng dưng; nhưng mặt khác, không để cơ sở thấy bị can thiệp quá
sâu vào nội bộ. Còn địa phương không quá phụ thuộc ý kiến của cấp trên và coi đó như
các tín điều, nhưng cũng không được bỏ qua sự chỉ đạo của cấp trên theo kiểu “phép vua
thua lệ làng”. Quá trình này phải được thực hiện đồng bộ từ Trung ương đến tận cơ sở.
Ngay trong mục tiêu, phương hướng của Đại hội Đại biểu đảng bộ tỉnh Quảng Trị, vẫn đã
xác định: “Thực hiện tốt việc phân cấp, phân quyền để khuyến khích tính sáng tạo, tự
chịu trách nhiệm của chính quyền cấp dưới và các cơ quan của ủy ban nhân dân”[6,
tr.95].
Việc phân cấp quản lý là công việc phức tạp, lâu dài, không thể thực hiện trong
một sớm một chiều. Trước tiên, cần phải xác định rõ mục tiêu của việc phân cấp là để
tăng tính tích cực, chủ động của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, tránh phụ thuộc, rập
khuôn, giáo điều. Tuy nhiên, Trung ương cũng cần xác định những nội dung, địa bàn,
lĩnh vực cần phân cấp để tránh được hiện tượng buông lỏng những lĩnh vực cần quan
tâm, quản lý, trong khi đó lại can thiệp quá sâu vào những vấn đề cụ thể. Những địa bàn
trọng điểm, giữ vị trí chiến lược về kinh tế – xã hội, an ninh, quốc phòng như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh thì sự phân cấp phải phân biệt các tỉnh thành khác. Cũng như
vậy, sự phân cấp quản lý giữa Trung ương và tỉnh trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng
cũng không thể giống như các vấn đề về xã hội, tôn giáo. Từ đó, Trung ương cần xác
định được thời gian, phương pháp, tiến trình cụ thể cho việc phân cấp quản lý. Đây là
một quá trình lâu dài, phức tạp, vì vậy, không thể tiến hành một cách ồ ạt, quy mô trên
toàn quốc mà cần phải có thí điểm trên một số địa bàn và ở một số lĩnh vực nhất định.
Sau thời gian thực hiện thí điểm, cần phải tổng kết thực tiễn, rút ra bài học kinh nghiệm
để điều chỉnh và nhân rộng mô hình.
Việc phân cấp quản lý là một yêu cầu bức thiết trong điều kiện đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay. Công việc này đem lại nhiều lợi ích thiết thực, trong đó có việc thúc
đẩy tính tích cực, chủ động, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh. Sự thay đổi trong cả tư duy và hành động là một trong
những tác nhân nâng cao được năng lực nói chung, trong đó có năng lực tư duy lý luận
của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh.
3.4. Có chính sách cán bộ hợp lý nhằm đề ra những tiêu chí đánh giá cán bộ,
khuyến khích nâng cao năng lực tư duy lý luận
Đánh giá cán bộ là một nội dung có tính nguyên tắc, là vấn đề hết sức hệ trọng, tế
nhị, nhạy cảm, phức tạp; là khâu mở đầu quyết định cho việc xem xét, quyết định đề bạt, bổ
nhiệm, bố trí, sử dụng, thực hiện chế độ, chính sách đối với cán bộ. Đây là một công việc
quan trọng, là động lực kích thích, động viên cán bộ phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành, hoàn
thiện nhân cách, nâng cao phẩm chất cũng như trình độ năng lực về mọi mặt, trong đó có
năng lực tư duy lý luận.
Ngay từ khi có Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII ngày 18/6/1997 về chiến
lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Ban Thường vụ Tỉnh
ủy tỉnh Quảng Trị và các tỉnh Bắc Trung bộ nói chung đã có kế hoạch để các cấp, các
ngành căn cứ vào các tiêu chí cụ thể để đánh giá đối với cán bộ. Việc thực hiện đánh giá
cán bộ hàng năm bước đầu đã tiến hành khá tốt, công tác cán bộ đã thực hiện ngày càng
có chất lượng, sát với yêu cầu, đúng quy trình và đi vào nền nếp, chính xác, khách quan,
hiệu quả. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đánh giá cán bộ vẫn còn
một số tồn tại, hạn chế. Thực trạng này đòi hỏi:
Một là, các cấp ủy đảng, cơ quan, đơn vị cần quán triệt đầy đủ chủ trương, quan
điểm, yêu cầu của Trung ương về đánh giá cán bộ; cần nhận thức thống nhất về vai trò,
vị trí công tác đánh giá cán bộ, hiểu đúng, mềm dẻo, linh hoạt yêu cầu đánh giá cán bộ để
tránh lúng túng, xem nhẹ yêu cầu, quy định trong đánh giá cán bộ, ảnh hưởng đến kết quả
đánh giá cán bộ làm hạn chế trong công tác tham mưu cho cấp ủy trong quy hoạch, đào
tạo, đề bạt, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển cán bộ.
Hai là, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh cần thực hiện đầy đủ theo yêu cầu của
Ban Tổ chức Trung ương, tránh đơn giản khi thực hiện quy trình, thủ tục. Tránh bệnh
hình thức, tư tưởng “dĩ hòa vi quý”.
Ba là, phải công khai trao đổi kết quả đầy đủ và kết luận đánh giá cán bộ đối với
cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Quản lý, sử dụng khoa học kết quả đánh giá cán bộ, gắn với
việc đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch, sử dụng cán bộ.
Bốn là, về phía Trung ương, cần sớm đề ra nội dung, cơ chế, quy trình về đánh
giá cán bộ cho thật sát hợp, cụ thể, để thực hiện nhằm nâng tác dụng, hiệu quả so với hiện
nay.
Tuy nhiên, đánh giá đúng cán bộ là vấn đề phức tạp. Đánh giá về công tác này
trong những năm vừa qua, kết luận của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
khóa IX chỉ rõ rằng quản lý và đánh giá cán bộ là khâu yếu nhất nhưng chậm khắc phục;
quan điểm, phương pháp, tiêu chí đánh giá cán bộ chưa rõ ràng, nhất quán, chưa căn cứ trước
hết vào kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Để đánh giá đúng năng lực của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cần phải có
những tiêu chí cụ thể. Tuy nhiên, tiêu chí đánh giá mỗi loại cán bộ có khác nhau, và ngay
trong từng loại cán bộ đó ở các cấp khác nhau, với công việc cụ thể khác nhau cũng khác
nhau. Điều đó đòi hỏi phải bên cạnh những tiêu chí đánh giá cán bộ chung, cần có những
tiêu chí mang tính đặc thù, cụ thể. Vì thế, Trung ương cần có một chính sách hợp lý khi
đề cập đến vấn đề này. Một trong những nhiệm vụ cách mạng ở thời điểm hiện nay yêu
cầu cán bộ từ cấp tỉnh trở lên phải có năng lực tư duy ở trình độ lý luận. Năng lực này thể
hiện trong thực tế chủ yếu ở kết quả nhiệm vụ ở từng cán bộ.
Đối với cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, năng lực tư duy lý luận còn thể hiện ở
mức độ đóng góp vào đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước; vào
Nghị quyết, chủ trương, quyết định những công tác chung trên địa bàn, lĩnh vực mà họ
phụ trách … thông qua nghiên cứu thực tiễn, tổng kết thực tiễn của họ. Tuy tiêu chí này
không phải là duy nhất, quan trọng nhất, nhưng lại là cái đang đòi hỏi bức thiết của thực
tiễn phức tạp, đầy biến động. Đánh giá cán bộ, nhấn mạnh tiêu chuẩn năng lực tư duy lý
luận, gắn tiêu chuẩn này với kết quả thực hiện nhiệm vụ, một mặt động viên được những
cán bộ có năng lực tư duy lý luận tiếp tục phát huy; mặt khác, đòi hỏi các cán bộ chưa
tương xứng với nhiệm vụ phải dày công học tập rèn luyện nâng cao trình độ tư duy trong
thực tế nếu không muốn bị đào thải.
Ngoài ra, để thúc đẩy cán bộ nâng cao năng lực tư duy lý luận cần có những
chính sách khuyến khích, tạo mọi điều kiện thuận lợi, động viên cả về vật chất lẫn tinh
thần đối với những người tích cực rèn luyện, trau dồi kiến thức, nâng cao năng lực và
trình độ tư duy lý luận. Biện pháp này sẽ làm cho cán bộ thêm phấn khởi, tăng thêm
quyết tâm, tự giác rèn luyện, học tập đạt hiệu quả tốt hơn, hạn chế được tình trạng học để
đối phó, học để lấy tấm bằng,… Đồng thời, cũng cần kiên quyết không đề bạt, bổ nhiệm
những cán bộ có tư duy cũ kỹ, lạc hậu, bảo thủ, không có ý chí phấn đấu rèn luyện nâng
cao năng lực tư duy biện chứng, khoa học; có hình thức kỷ luật nghiêm đối với những
cán bộ luôn tìm cách thoái thác, trì hoãn việc chấp hành quyết định cử đi học tập, bồi
dưỡng trình độ chuyên môn cũng như lý luận chính trị…
Như vậy, chú ý đến năng lực tư duy lý luận, gắn năng lực đó với kết quả thực
hiện nhiệm vụ trong đánh giá cán bộ, đồng thời có chính sách khuyến khích hợp lý đối
với những cán bộ tích cực trong học tập, rèn luyện và vận dụng tư duy lý luận trong thực
hiện nhiệm vụ là một giải pháp cần thiết, có giá trị cao đối với việc thúc đẩy, kích thích
cán bộ lãnh đạo nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng nâng cao năng lực
tư duy lý luận.
Trên đây là những giải pháp chủ yếu nhằm tạo ra động lực kích thích và tạo điều
kiện từng bước nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt
cấp tỉnh vùng Bắc Trung bộ nói chung và tỉnh Quảng Trị nói riêng hiện nay. Muốn thực
hiện trên thực tế được chất lượng, hiệu quả, các giải pháp ấy phải được tiến hành đồng bộ
và nhất quán. Tuy nhiên, việc giải quyết tốt những yêu cầu trên chỉ tạo ra những điều
kiện khách quan, những tiền đề cần thiết cho việc nâng cao năng lực tư duy lý luận. Trên
nền tảng đó, người cán bộ chủ chốt cần phát huy nhân tố chủ quan, cố gắng nỗ lực cá
nhân. Vì vậy, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục, thì còn phải có được một cơ chế trên
thực tế để hướng được tất cả mọi cán bộ lãnh đạo vào quỹ đạo học tập và rèn luyện, trong
đó, tự học tập, tự rèn luyện là quan trọng nhất để nâng cao năng lực tư duy lý luận cho
mình. Đồng thời phải không ngừng trau dồi, rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ
cán bộ này. Có như vậy thì chủ trương nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán
bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, mới không dừng lại trên lý thuyết sách vở, thực sự đi vào
cuộc sống.
Kết luận
Từ khi xã hội loài người có sự phân chia lao động thành lao động trí óc và lao động
tay chân thì tư duy, trí tuệ càng thể hiện vai trò và sức mạnh của mình trong việc trợ giúp con
người vươn lên chinh phục tự nhiên, xã hội. Trong thời đại hiện nay – thời đại công nghệ
thông tin phát triển mạnh mẽ – tư duy, trí tuệ trở thành tài sản vô giá, nguồn lực cơ bản cho sự
phát triển của một quốc gia, dân tộc. Nếu trí tuệ được xem là kết quả của quá trình thu nhận tri
thức thì tư duy chính là quá trình suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng những tri thức đó để đề xuất
những nhận thức mới hướng đến bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng.
Năng lực tư duy lý luận được xem là một nhân tố không thể thiếu, có tầm quan
trọng đặc biệt, vừa là bộ phận cấu thành năng lực của người cán bộ chủ chốt cấp tỉnh vừa
là động lực thúc đẩy năng lực lãnh đạo, quản lý nói chung phát triển. Đó chính là năng
lực suy nghĩ thấu đáo đến bản chất của sự vật, hiện tượng; biết phân tích, tổng hợp và
khái quát từ những hiện tượng sinh động, đa dạng của đời sống thực tiễn, từ kinh nghiệm
muôn vẻ của hoạt động hàng ngày tích lũy và khái quát thành lý luận. Trong quá trình
lãnh đạo, yêu cầu về năng lực tư duy lý luận của người cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh
còn thể hiện ở nhiều khía cạnh như: năng lực tư duy về con người, hiểu biết về con người
để thu hút tập hợp họ, động viên, lôi cuốn họ để họ hoạt động tích cực, năng lực tổng kết
thực tiễn, đúc rút kinh nghiệm để có cơ sở hình thành các giải pháp cho việc giải quyết
các vấn đề ở quá trình thực tiễn tiếp theo.
Năng lực tư duy lý luận là vũ khí sắc bén nhất trong hoạt động lãnh đạo của đội
ngũ cán bộ chủ chốt cấp tỉnh. Năng lực ấy được thể hiện ở khả năng nắm bắt được bản chất
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước... trong quan hệ với nhiệm vụ của mình; ở khả năng nắm bắt vấn đề
thực tiễn trên địa bàn mình phụ trách và ở khả năng đề ra phương hướng tối ưu để giải
quyết vấn đề đó.
Như vậy, năng lực tư duy lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với hoạt động lãnh
đạo của cán bộ nói chung, cán bộ chủ chốt cấp tỉnh nói riêng. Đối với thực tiễn đổi mới ở
nước ta hiện nay, vai trò của năng lực tư duy lý luận đối với cán bộ nói chung, đặc biệt là
đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh nói riêng lại càng quan trọng do phải
đáp ứng những yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Người cán bộ lãnh đạo chủ chốt tỉnh Quảng Trị nói riêng và Bắc Trung bộ nói
chung đang đứng trước mâu thuẫn giữa thực trạng yếu kém, chưa ngang tầm về năng lực
tư duy lý luận với những yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của thực tiễn đổi mới. Nguyên
nhân yếu kém về năng lực của đội ngũ này bắt nguồn từ sự tác động tiêu cực của nhiều
yếu tố. Xét về điều kiện khách quan có cả điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Nhân tố chủ quan ảnh hưởng đến chính là yếu tố sinh học, nhu cầu
lợi ích, sự cố gắng nổ lực của bản thân và hoạt động thực tiễn của chủ thể. Các yếu tố này
có quan hệ biện chứng, tác động lẫn nhau, trong đó, nhân tố chủ quan là yếu tố mang tính
quyết định nhất đến sự hình thành và phát triển năng lực tư duy lý luận. Trong nhân tố
chủ quan, hoạt động thực tiễn chính là cơ sở sâu xa và chủ yếu nhất của năng lực tư duy
lý luận.
Đứng trước yêu cầu của sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới, người cán bộ
chủ chốt cấp tỉnh vùng Bắc Trung bộ phải kịp thời khắc phục hạn chế, khiếm khuyết,
nâng cao năng lực tư duy lý luận. Muốn làm được điều đó phải có biện pháp tác động
đồng thời lên cả điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó, những giải pháp
trực tiếp lên nhân tố chủ quan là quan trọng nhất. Đây là một vấn đề khó khăn, phức tạp,
đòi hỏi phải nhanh chóng thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp, trong đó có những giải
pháp mang tính cơ bản là: đổi mới tư duy, nâng cao chất lượng giáo dục và hoạt động tự
giáo dục của người cán bộ quản lý; tăng cường, nâng cao tính hiệu quả của công tác tổng
kết thực tiễn; phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương để đội ngũ cán bộ lãnh
đạo quản lý cấp tỉnh phát huy được tính năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; có
chính sách cán bộ hợp lý nhằm đề ra những tiêu chí đánh giá, khuyến khích nâng cao
năng lực tư duy lý luận…
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (1996), Lịch sử Đảng bộ Quảng Trị, tập 1,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Hoàng Chí Bảo (1988), "Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý luận", Thông tin lý
luận, (6).
3. Lê Thanh Bình (1986), “Xây dựng phong cách tư duy khoa học của người cán bộ
đảng viên theo gương Bác Hồ vĩ đại”, Triết học, (13).
4. Vũ Đình Chuyên (2000), Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang, Luận
văn Thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
5. Cục Thống kê Quảng Trị (2009), Niên giám thống kê Quảng Trị, Nxb Thống kê, Hà
Nội.
6. Đảng bộ tỉnh Quảng Trị (2005), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI,
Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn
qua 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Dương Minh Đức (2006), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ lãnh đạo
chủ chốt các tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
12. Tô Duy Hợp (1989), “Bàn về cơ sở triết học của đổi mới tư duy ở nước ta hiện nay”,
Triết học, (1).
13. Nguyễn Hoàng Hưng (2005), Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ chủ chốt
người dân tộc thiểu số cấp tỉnh ở miền núi phía Bắc, luận văn thạc sĩ triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
14. Nguyễn Thế Kiệt (2001), Thực trạng tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo, quản lý
nước ta hiện nay, Trong sách: "Học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh", Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Hồng Lê (2004), Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Hưng Yên trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 6, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
17. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 9, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
18. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
19. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
20. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
21. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
22. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
23. V.I.Lênin (1984), Toàn tập, tập 37, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
24. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
25. Nguyễn Văn Linh (1987), Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự
thật, Hà Nội.
26. Nguyễn Ngọc Long (1988), Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới tư duy lý luận, Trong
sách: "Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận", Học viện Nguyễn ái
Quốc, Hà Nội.
27. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới tư
duy", Cộng sản, (10).
28. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. C.Mác - Ph.Ăngghen (1996), Toàn tập, tập 29, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Lê Hữu Nghĩa (1992), "Quan hệ giữa lý luận và chính trị", Cộng sản, (6).
40. Thái Ninh (1988), "Mấy ý kiến về đổi mới tư duy lý luận", Cộng sản, (3).
41. Trần Văn Phòng (1994), Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước ta
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
42. Trần Văn Phòng (chủ biên) (2008), Nâng cao năng lực tổng kết thực tiễn của đội
ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng, Học viện
Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
43. Nguyễn Đa Phúc (1997), Phát triển tư duy biện chứng của đội ngũ cán bộ chủ chốt
cơ sở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
44. Đỗ Cao Quang (1996), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ chủ
chốt cấp xã miền núi hiện nay (qua thực tế tỉnh Tuyên Quang), Luận văn Thạc
sĩ triết học Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
45. Nguyễn Đăng Quang (1987), "Quan hệ giữa đổi mới nội dung và phương pháp tư
duy", Cộng sản, (10).
46. Phạm Ngọc Quang (1994), "Yêu cầu đổi mới về năng lực trí tuệ của Đảng trong giai
đoạn hiện nay", Triết học, (2).
47. Trần Viết Quang (1996), Phát triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên thông qua
việc giảng dạy môn Triết học Mác - Lênin ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc
sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
48. Nguyễn Duy Quý (1987), "Nâng cao tri thức khoa học - Điều kiện quan trọng để đổi
mới tư duy", Cộng sản, (12)..
49. Hoàng Thị Xuân Thanh (1998), Nâng cao trình độ lý luận Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh cho cán bộ đảng viên ta trong công cuộc đổi mới hiện nay, Luận
văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
50. Duy Thành (1987), "Đổi mới tư duy, cơ sở khoa học và ý nghĩa thực tiễn", Triết
học, (1).
51. Trần Thành (chủ biên) (2003), Tư duy lý luận với hoạt động của người cán bộ lãnh
đạo, chỉ đạo thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Trần Thành (2004), “Một số vấn đề phương pháp luận trong tổng kết thực tiễn”, Lý
luận chính trị, (2).
53. Hồ Bá Thâm (1994), "Bàn về năng lực tư duy", Triết học, (2).
54. Hồ Bá Thâm (1995), Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ
chốt cấp xã hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Lê Thi (1988), "Thực trạng tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó",
Triết học, (3).
56. Nguyễn Quang Thông (1987), "Những đặc trưng cơ bản của phương pháp tư duy
khoa học", Cộng sản, (10).
57. Lại Văn Toàn (1988), "Đổi mới tư duy lý luận. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới", Triết học, (1).
58. Nguyễn Đình Trãi (1999), "Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc
nâng cao năng lực tư duy lý luận cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính
trị tỉnh hiện nay", Triết học, (1).
59. Nguyễn Đình Trãi (2001), Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy
lý luận Mác - Lênin ở các trường Chính trị tỉnh, Luận án Tiến sĩ Triết học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
60. Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên)(2001), Luận cứ khoa học cho
việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Hà Xuân Trường (1987), "Vai trò của lý luận trong cuộc sống", Nghiên cứu lý luận,
(1).
62. Từ điển Triết học (1986), Bản dịch ra tiếng Việt có sửa chữa và bổ sung của Nxb
Tiến bộ và Nxb Sự thật, Mátxcơva.
63. Vũ Văn Viên (2001), “Tư duy truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới tư
duy ở nước ta”, Lý luận chính trị, (12).
64. Viện Ngôn ngữ học (1992), Từ điển Tiếng Việt.
65. Ngô Đình Xây (1990), "Vài nét về thực trạng tư duy lý luận hiện nay ở nước ta",
Triết học, (4).
Phụ lục
Phụ lục 1
Cơ cấu lứa tuổi, giới tính, dân tộc của cán bộ chủ chốt
tỉnh Quảng Trị
(Có đến tháng 4 năm 2009)
Đơn vị tính: người
Thứ tự Mục Số lượng Tỉ lệ (%)
1 Tổng số 48 100
Nam 46 95,8
Nữ 02 4,2
2 Dân tộc
Kinh 46 95,8
Pakô – Vân kiều 02 4,2
3 Tuổi đời
Từ 18 – 35 tuổi 0 0
Từ 36 – 45 tuổi 03 6,2
Từ 46 – 55 tuổi 25 52,1
Từ 56 – 60 tuổi 20 41,7
61 tuổi trở lên 0 0
Tuổi bình quân 54,15
4 Thời gian kết
nạp Đảng
Trước tháng 8/1945 0 0
Từ 8/1945 đến 20/7/1954 0 0
Từ 21/7/1954 đến
30/4/1975
13 27,1
Từ 1/5/1975 đến nay 35 72,9
Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Trị.
Phụ lục 2
Trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của cán bộ chủ chốt tỉnh Quảng Trị
(Có đến tháng 4 năm 2009)
Đơn vị tính: người
Thứ tự Mục Số lượng Tỉ lệ (%)
1 Chuyên môn kỹ
thuật
Công nhân kỹ
thuật
0 0
Trung học
chuyên nghiệp
02 4,2
Cao đẳng 01 2,1
Đại học 40 83
Thạc sĩ 02 4,2
Tiến sĩ 01 2,1
2 Trình độ lý luận
chính trị
Sơ cấp 0 0
Trung cấp 01 2,1
Cao cấp 06 12,5
Cử nhân 41 85,4
Nguồn: Ban Tổ chức Tỉnh ủy Quảng Trị.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 43_2951.pdf