Luận văn Vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở thành phố Hải Dương

Từ năm 2002 đến năm 2010 tổ chức thực hiện cho 15000 lượt hộ được vay vốn với tổng số tiền khoảng 10000 triệu đồng để tạo thêm việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, nâng thời gian sử dụng ở nông thôn lên cao hơn. Đó mục tiêu của thành phố trong những năm tới và thành phố đang cố gắng thực hiện nhằm tạo việc làm cho người lao động của thành phố đạt kết quả tốt hơn. Gắn việc cho vay với việc chuyển giao công nghệ, hướng dẫn cách làm ăn cho người dân, phát triển các ngành nghề chủ công. Công nghệ phải phù hợp với các ngành nghề sản xuất nếu không sẽ không thu hút và tạo việc làm cho người lao động. Ví như trong nông nghiệp mà sử dụng công nghệ quá hiện đại không phù hợp với ngành nông nghiệp đang trên đà phát triển của tỉnh cũng như của thành phố, trong công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm thì việc đầu tư máy móc thiết bị là vô cùng quan trọng đồng thời phải nâng cấp trang thiết bị sử dụng trong công ty, doanh nghiệp mình. Các ngành nghề chủ công cần được đầu tư mạnh hơn về công nghệ khoa học kỹ thuật, cùng với việc giúp người lao động có thể sử dụng thực hiện thực hiện thành thạo máy móc khi đưa vào trong doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất thu hút thêm lao động vào làm việc ổn định như các doanh nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, công nghiệp nhẹ. thì có thể tiến hành cho vay vốn để phát triển sản xuất. Hầu như các doanh nghiệp này tình trạng vốn còn đang rất bế tắc, bởi vì vốn đọng trong khi mang hàng đi bán khá nhiều, thêm vào đó vốn không nhiều, nợ trong dân còn cao. Thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp này cũng rất quan trọng, so sản phẩm đầu ra nhiều nên ngoài thị trường tiêu thụ trong nước cần mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, ra các khu vực trên toàn thế giới. Đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ có khó khăn, hỗ trợ bằng cách cho vay vốn để số lao động nữ khỏi mất việc làm. Các doanh nghiệp này thường là các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo, may mặc, giày da Số lao đông ở đây nhiều khi lên tới 80% trong một doanh nghiệp cho nên ngoài tạo việc làm cho họ thì trong công việc phải luôn cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho lao động tránh tình trạng không làm tốt công việc là do bầu không khí không thuận lợi, không thể giúp cho họ nâng cao tay nghề của mình.

doc83 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở thành phố Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o từng loại, lợi dụng thuận lợi về mọi mặt như nhiệt độ, ánh sáng, tránh mưa gió, lũ lụt... Cụ thể các phường Bình Hàn, Hải Tân, Thanh Bình, Cẩm Thượng, xã Tứ Minh, Việt Hoà cần đẩy mạnh hơn nữa công tác trồng lúa hoa màu, tranh thủ trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, phát triển kinh tế trang trại rộng rãi. Đặc biệt là những vùng có thể thích nghi cho việc trồng các loại hoa cần được đầu tư mạnh, chăm sóc có kỹ thuật, tăng cường các giống hoa có giá trị kinh tế cao, thích hợp với từng loại đất của mỗi khu vực. Tích cực đẩy mạnh việc trồng rau sạch cho toàn thành phố, trồng rau để xuất khẩu sang khu vực khác. Có làm tốt các công tác này thì mới có thể tạo ra nhiều việc làm cho người lao động ở nông thôn hơn. Một vấn đề hết sức quan trọng nữa là diện tích đất dùng cho công nghiệp của thành phố ngày một tăng lên. Mỗi năm lại có vài hécta đất được dùng cho việc xây dựng các nhà máy, công ty, xí nghiệp. Do đó diện tích đất sẽ ngày càng bị thu hẹp nếu như không thực hiện công tác mở rộng diện tích thành phố ra các khu vực lân cận của thành phố. Trong thời gian này thành phố cần thực hiện tốt công tác quy hoạch thành phố, xây dựng các khu công nghiệp ở phía đông và phía tây của thành phố càng sớm càng tốt. Đảm bảo được nguồn điện và nguồn nước cho sinh hoạt và cho sản xuất. Bởi vì ngành công nghiệp là ngành thu hút lao động của thành phố vào làm việc nhiều nhất cho nên việc đẩy mạnh công tác trên là hết sức cần thiết. Vì vậy với diện tích đất không rộng như hiện nay, vấn đề phát triển các ngành công nghiệp, nông nghiệp , dịch vụ tạo việc làm cho lao động thành phố là vấn đề khó khăn. Thành phố cần phải có biện pháp phù hợp trong việc mở rộng diên tích và vấn đề quản lý đất đai được chặt chẽ hơn. b. Cơ sở hạ tầng và sự áp dụng khoa học kỹ thuật Là khu vực có con sông Thái Bình chảy qua nên nơi đây có một nguồn nước khá dồi dào, thuận tiện cho việc tưới tiêu, sản xuất, xây dựng công ty, xí nghiệp trên địa bàn thành phố. Hệ thống điện của thành phố rộng khắp, đảm bảo đủ điện dùng cho mọi người dân và cho sản xuất. Mạng lưới giao thông của thành phố khá đa dạng và đang phát triển bao gồm: đường sắt, đưòng bộ, đường thuỷ tạo điều kiện cho thu mua nguyên vật liệu, buôn bán với các vùng, các khu vực trong và ngoài vùng. Hệ thống đường sắt, đường bộ dài tổng cộng hàng trăm km, nối liền từ Hà Nội qua Hải Dương đến Hải Phòng, Quảng Ninh là các trung tâm kinh tế rất thuận lợi. Hầu hết toàn bộ đường đi lại của thành phố đều được dải nhựa, tuy nhiên nhiều đoạn còn hẹp, chưa thuận tiện cho việc vận chuyển hàng, nhiều đoạn vỉa hè chưa đạt tiêu chuẩn. Hệ thống đường thuỷ khá thuận lợi do có con sông Thái Bình chảy qua. Về thông tin liên lạc, thành phố có bưu điện tỉnh năm trên địa bàn, mạng lưới thông tin rộng khắp thành phố. Các bưu cục, bưu điện đã được tự động hoá, có thể liên lạc với cả trong nước và ngoài nước, toàn thnàh phố có trên 70% số hộ có máy điện thoại. Mạng lưới tài chính, tín dụng tiếp tục được phát triển mở rộng. Các Ngân hàng nông nghiệp tỉnh, ngân hàng công thương tỉnh, ngân hàng đầu tư và phát triển, Các công ty bảo hiểm đều đặt trên địa bàn thành phố. Tình hình áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong các ngành công nghiệp cũng như nông nghiệp đang có những chuyển biến tích cực. Trong nông nghiệp nhờ có sự ứng dụng công nghệ sinh học mà cơ cấu giống cây trồng ngày càng cho năng suất cao, chất lượng tăng, có giá trị kinh tế. Trong công nghiệp nhờ có ứng dụng khoa học kỹ thuật mà các sản phẩm trong ngành may mặc, giày da, chế biến lương thực,thực phẩm, công nghiệp nhẹ... trong đó ngành may đạt tốc độ tăng trưởng hơn 25%, ngành công nghiệp nhẹ đạt 20%. Hàng năm mỗi ngành đều thu hút một lượng lao động khá lớn vào làm việc. c. Tình hình sử dụng vốn Trong tất cả các ngành sản xuất, vón đóng vai trò hết sức quan trọng. Vốn là điều kiện để có tư liệu lao động và đối tượng lao động. Nói chung, nguồn vốn còn hạn hẹp, hơn nữa người lao động có rất ít vốn, đặc biệt đối với khu vực nông thôn, vì thế chưa tận dụng hết được các nguồn lực trong sản xuất. Vì vậy tỉnh và thành phố đã có rất nhiều biện pháp để tạo vốn cho người lao động và người sử dụng lao động như hỗ trợ vốn, cho vay với lãi suất thấp, đối với doanh nghiệp thì được miễn giảm thuế sử dụng đất trong mười năm đầu... Tổng kinh phí do chương trình quốc gia hai năm 2001-2002 là 32,235 ỷ đồng trong đó ngân sách trung ương là 25 tỷ còn lại là ngân sách địa phương và nguồn tín dụng. Qua báo cáo của thành phố thì vốn vay đã góp phần phát triển sản xuất rất nhiều, tạo nhiều chỗ làm việc cho người lao động. Trong tổng số đó thì sản xuất công nghiệp và dịch vụ chiếm hơn 80%, chỉ có khoảng 20% dành cho nông nghiệp . Nguồn vốn cho vay thường tập trung chủ yếu vào cơ sở hạ tầng giáo dục, đào tạo nghề, phát triển tiểu thủ công nghiệp, xây dựng các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trên địa bàn thành phố. Nhìn chung lượng vốn được huy động cho sản xuất còn chưa đáp ứng được con số mỗi năm cần 70 tỷ đồng cho vấn đề đầu tư xây dựng. Đây cũng là ván đề hết sức khó khăn và là thách thức lớn cần giải quyết. Cần tạo điều kiện cho các công ty 100% vốn nước ngoài đầu tư vào thành phố mạnh hơn nữa. d. Lực lượng lao động Lực lượng lao động của thành phố không ngừng tăng lên qua các năm. Hàng năm, thành phố có một lượng lao động khá lớn cần tìm việc làm. Tuy vậy số lao động trong độ tuổi lao động không có việc làm trong năm vừa qua lên tới gần 4000 người. Trong số thất nghiệp, số lượng lao động có trình độ không phù hợp với công việc cũng khá cao. Chất lượng lao động của thành phố còn thấp ( 22,3%), số lượng lao động không có trình độ chuyên môn còn rất cao. Số lao động có trình độ đại học cao đẳng và trên đại học chưa nhiều tuy số người tốt nghiệp vào các trường đại học, cao đẳng hàng năm không ngừng tăng nhưng họ lại không muốn về thành phố Hải Dương làm việc bởi họ cho rằng không thể phát huy năng lực của họ, thu nhập lại không bằng các thành phố lớn khác. Vì thế muốn chất lượng lao động được nâng lên thì thành phố cần đầu tư cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Phải có các chính sách khuyến khích người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật bằng các biện pháp khác nhau, cả về vật chất lẫn tinh thần,tạo điều kiện cho họ có thể tìm được việc làm phù hợp. Số lao động không có trình độ chuyên môn cần được cử đi học thêm các lớp đào tạo tại địa phương, có thể là ở Hà Nội, hoặc một số thành phố khu vực khác. Tạo điều kiện để cho sinh viên ra trường trở về quê hương công tác, tránh hiện tượng chảy máu chất xám trong lực lượng lao động của thành phố. e. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế Trong những năm qua thành phố đã có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, tuy nhiên chưa có sự đồng bộ, sản xuất kinh doanh chưa đi vào ổn định, ngành nghề dịch vụ kém. Đặc biệt sản xuất công nghiệp quy mô còn bé, trình độ công nghệ chưa hiện đại, doanh nghiệp nhà nước chậm được sắp xếp lại và đổi mới quản lý, một số thiếu năng động. Trong thời gian tới, tỉnh chủ trương phối hợp cùng với thành phố mạnh dạn thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả đóng trên địa bàn thành phố. Đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, chế biến, công nghiệp nhẹ, phát triển dịch vụ thương mại, công nghiệp nặng, giảm bớt trong nông nghiệp. f. Thị trường tiêu thụ Trong bất kỳ hình thức nào thì thị trường tiêu thụ sản phẩm đều rất quan trọng. Một sản phẩm khi sản xuất ra phải đáp ứng đảm bảo cả về chất lượng và số lượng thì mới có thể mong mở rộng thị trường của mình ở trong và ngoài nước. Tuy nhiên do trình độ công nghệ thấp, trình độ quản lý chưa cao, tiến bộ khoa học công nghệ còn hạn chế nên chất lượng sản phẩm chưa đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng trên thị trường; bởi vì giá thành cao, mẫu mã chưa đa dạng, tiêu thụ khó, không cạnh tranh với mặt hàng của trung quốc. Các ngành sản xuất công nghiệp của mình còn phải nhập nguyên nhiên vật liệu nên hầu hết các mặt hàng của mình đều có giá cao. Như mặt hàng may mặc thì vải chủ yếu nhập từ nơi khác do vậy khi bán ra sản phẩm cao hơn mặt hàng của trung quốc rất nhiều, ngoài ra còn các mặt hàng khác như sứ thuỷ tinh, xi măng cũng vậy. Điều này sẽ khiến cho chúng ta gặp khó khăn khi tham gia hội nhập trong khu vực và thế giới. f.Cơ chế chính sách của trung ương, địa phương Trong 5 năm qua các cơ quan, ban ngành địa phương đã nhiệt tình và nỗ lực phấn đấu làm việc để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của thành phố. Tỉnh đã cùng với thành phố tập trung thực hiện các chương trình quốc gia, đặc biệt là chương trình mục tiêu việc làm, xoá đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội. Hai năm 2000, 2001việc thực hiện giải quyết việc làm cho người lao động đạt kết quả khá tốt, hàng nghìn lao động được tạo việc làm với thu nhập khá, cách thực hiện là cho vay vốn với lãi suất thấp, điều chỉnh các luật đầu tư tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Các công tác đào tạo nghề, công tác dịch cụ việc làm đã đi vào hoạt động có hiệu quả hơn so vớí trước đây.Các trường dạy nghề đã thực hiện đào tạo mỗi năm hơn 1000 lao động, tư vấn giới thiệu việc làm cho 500 lượt người. Trong cả hai lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp của thành phố đã gặt hái được kết quả khả quan, số lao động vào làm việc trong các khu vực, thành phần kinh tế hàng năm không ngừng tăng lên. Tạo việc làm là một trong những vấn đề bức xúc và liên quan đến cuộc sống của nhiều người. Do đó cần có sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quuyến và sự phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành đoàn thể, giữa các chương trình, dự án. * Những mặt tồn tại và nguyên nhân Nhìn chung trong 5 năm qua, thành phố Hải Dương đã và đang khắc phục được những khó khăn, đã có những kinh nghiệm tìm ra những hướng đi đúng trong công tác tạo việc làm. Hàng năm số lao động được tạo việc làm của thành phố không ngừng tăng lên. Kết quả đó có được là do sự quan tâm nhiệt tình của các cấp uỷ đảng, các ban, ngành lãnh đạo tới cuộc sống của người dân của thành phố nói riêng và của cả tỉnh nói chung. Nhưng cũng còn có những tồn tại chưa giải quyết. Cụ thể: Số lao động được giải quyết việc làm của thành phố thấp hơn số lao động cần được giải quyết việc làm. Số lao động thường xuyên không có việc làm ở nông thôn còn chiếm tỷ lệ khá cao. Chất lượng lao động của thành phố cũng chưa cao, số lao động có trình độ chuyên môn chỉ chiếm 21% tổng số lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo của thành phố đạt, số lao động chưa có trình độ thì phải mất thời gian khá lâu cho đào tạo. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị vẫn còn ở mức 5,7%; tỷ lệ sử dụng thời gian ở khu vực nông thôn chiếm 79%. Như vậy vẫn có một lượng lao động không có việc làm hoặc việc làm không đầy đủ. Các ngành nghề ở địa phương chưa được đầu tư chiều sâu, quy trình công nghệ không được đổi mới, nhiều sản phẩm không cạnh tranh được với thị trường bên ngoài. Số lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật còn phải tuyển ở nơi khác đến, chất lượng lao động nhiều khi chưa đạt tiêu chuẩn. Các hoạt động trợ giúp người lao động thất nghiệp chưa đủ mạnh. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa đủ mạnh để tác động tới việc chuyển dịch cơ cấu lao động. Nguyên nhân của sự tồn tại: Ngân sách cho vấn đề tạo việc làm chưa đáp ứng được. Số lượng vốn chỉ đáp ứng được trên 50% nhu cầu. Biện pháp thực hiện chưa đạt kết quả cao. Biên chế cán bộ làm công tác quản lý lao động và tạo việc làm chưa được coi trọng cả về mặt số lượng và chất lượng theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Việc ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa được đồng bộ. Thiết bị sản xuất của một số doanh nghiệp mặc dù đã được đổi mới nhưng vẫn còn ở quy mô nhỏ, lạc hậu, giá thành sản phẩm cao, khả năng cạnh tranh kém, tình hình tài chính gặp nhiều khó khăn, vốn kinh doanh của một số doanh nghiệp tư nhân là vốn vay ngân hàng. Thiếu đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật giỏi, năng động. Vấn đề mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản thực phẩm gặp nhiều khó khăn, cơ sở chế biến những mặt hàng này chưa đạt iêu chuẩn. Việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, các tỉnh còn chịu sự cạnh tranh gay gắt của các khu vực phụ cận như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh. Nhu cầu đầu tư là rất lớn trong khi nguồn thu và khả năng huy động nội lực còn hạn chế. Hạ tầng cơ sở tuy đã được cải thiện nhưng chất lượng chưa cao, nhất là hạ tầng cho phát triển các ngành dịch vụ, du lịch.Sự hấp dẫn về đầu tư cho các lĩnh vực này còn chưa cao, đôi khi còn tồn tại tư tưởng nhà nước bao cấp. Huy động vốn tăng nhanh nhưng chủ yếu là vốn ngắn hạn, nguồn vốn trung và dài hạn còn ít nên vốn vay trung và dài hạn chưa đáp ứng được nhu cầu. Thủ tục vay còn phức tạp, nhiều lúc chưa bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Trong phương hướng hàng năm của các cấp ngành về vấn đề giải quyết việc làm chưa được đề cập đúng vị trí, các chỉ tiêu quan trọng chưa được lượng hoá, số liệu điều tra lao động việc làm trước đây hầu như không đầy đủ nên việc thu thập số liệu xây dựng còn mất rất nhiều thời gian. Vẫn còn một bộ phần lao động chưa tự mình tìm việc làm và trông chờ vào nhà nước. Từ những phân tích trên, khách quan nhận thấy, việc tạo việc làm cho người lao động của thành phố đã có kết quả nhưng chưa cao. Số người còn thiếu việc làm còn khá nhiều. Đây là một sự lãng phí vô hình lớn về nhân lực, tài lực, dẫn đến lãng phí về lực đối với xã hội. Là một tỉnh nông nghiệp nhưng giá trị hàng hoá nông nghiệp cuả tỉnh nói chung và của thành phố nói riêng không cao, sự đa dạng của sản phẩm ít. Các ngành công nghiệp, dịch vụ là hai ngành thu hút chủ yếu lực lượng lao động của thành phố. Tuy vậy mức sống chung so với các thành phố khác không cao. Đã có một số sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu nhưng số lượng không nhiều. Số lao động có trình độ không nhiều, chưa đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp liên doanh. Tỷ lệ lao độngđã qua đào tạo chưa cao. Ngay ở thành phố cũng có sự phân hoá giàu nghèo, giữa một công nhân với các cán bộ quản lý là rất xa. Tóm lại vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động của thành phố Hải Dương cần phải tiếp tục giải quyết nhiều mặt nữa, phối hợp mọi biệnpháp, nguồn lực thích hợp, không nên qúa kỳ vọng, đề cao kết quả đã đạt được. Chương III: Giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở thành phố Hải Dương đến năm 2010 I. Dự báo nhu cầu việc làm thành phố Hải Dương đến năm 2010. Theo kết quả dự báo của thành phố Hải Dương, đến năm 2010, số người trong độ tuổi lao động tăng nhanh về số tuyệt đối và tương đối, lực lượng lao động cũng không ngừng tăng trong giai đoạn tới. Đó là nguồn lực đáng kể cho phát triển kinh tế- xã hội nhưng cũng tạo áp lực lớn về vấn đề tạo việc làm cho người lao động, nhất là trong thời gian gần đây. Theo dự báo thì sau khi trừ đi số người trong tuổi lao động tham gia các hoạt động khác trong xã hội như học sinh trong độ tuổi lao động, những người làm nội trợ, tàn tật, mất sức lao động thì những người đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân của thành phố Hải Dương năm 2002 là 71012 người thì đến năm 2010 là 86000 người, tức là hàng năm số lao động cần tạo việc làm là từ 2000 đến 3000 người trong mỗi năm, chưa kể số lao động dôi dư ra do áp dụng khoa học công nghệ, tăng năng suất lao động. Biểu11: Dự báo nhu cầu tạo việc làm cho người lao động ở thành phố Hải Dương đến năm 2010 Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2010 1.Tổng lực lượng lao động Người 75328 89000 Số người trong độ tuổi lao động Người 71561 85000 % so với lực lượng lao động % 95 95,5 Số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân Người 71012 83400 % so với tổng số % 94,27 93,79 Trong đó: - Công nghiệp Người 35320 41400 - Nông nghiệp Người 10945 13000 - Dịch vụ Người 24747 29000 Số lao động cần tạo việc làm trong năm Người 3000 Nguồn: Dự báo của uỷ ban dân số Hải Dương Từ những dự báo trên chúng ta có thể đưa ra một vài giải pháp phù hợp với điều kiện kinh tế cũng như điều kiện về xã hội của thành phố để tạo việc làm cho người lao động. II. Giải pháp tạo việc làm cho người lao động ở thành phố Hải Dương đến năm 2010. Hiện nay vấn đề tạo việc làm cho người lao động là hết sức cần thiết và được các cấp các ngành rất quan tâm. Trong những năm gần đây, tạo việc làm cho lao động thành phố Hải Dương đã đạt được kết quả ban đầu tương đối tốt. Tuy vậy vẫn còn một lượng lao động chưa có việc làm, tập trung ở các khu vực ngoại thành. Mục tiêu đến năm 2010, tạo việc làm cho người lao động ở thành phố Hải Dương cơ bản đáp ứng được nhu cầu việc làm cho người lao động. Phương hướng trong những năm tới của thành phố nhằm tạo việc làm cho lao động thành phố Hải Dương là: Đối với khu vực thành thị thì phương hướng có tính chất lâu dài để gải quyết tạo việc làm cho ngươoì lao động khu vực này là phải gắn liền với chương trình phát triển doanh nghiệp quy mô lớn, nhất là ở các khu vực có điều kiện lập khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung, phát triển mạnh các tập đoàn sản xuất có hiệu quả của nhà nước ở các vùng trong phạm vi thành phố, các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn,các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm mới có giá trị kinh tế cao, phù hợp với tính chất đặc thù của lao động thành thị. Hướng này phải đầu tư lớn, suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc lại khá cao nhưng giải quyết được nhiều lao động có trình độ, đồng thời cũng thu hút lao động có trình độ không cao lắm, như lao động phục vụ, mặt khác phát triển theo hướng này tạo điều kiện tăng tích luỹ cho thành phố cũng như nâng cao cơ sở vật chất và trình độ công nghệ để tránh tụt hậu so với các nước khác trong khu vực. Đồng thời tạo việc làm cho người lao động ở thành thị là thu hút một lượng lao động thanh niên khá lớn.Vì vậy phải phát triển các lĩnh vực, các ngành nghề thủ công thu hút nhiều lao động và phù hợp với đặc điểm của lao động ở đó. Đối với khu vực nông thôn: ở nông thôn vấn đề cơ bản nhất, cần thiết nhất là nạn thiếu việc làm còn rất phố biến, việc làm kém hiệu quả và thu nhập không cao dẫn đến đời sống chưa cao, vẫn có một bộ phận dân cư sống trong tình trạng nghèo khổ. Hơn nữa giải quyết việc làm hco khu vực này tốt sẽ giảm sức ép lao động từ nông thôn ra thành thị tìm kiếm việc làm. Vì vậy trong những năm tới thành phố cần có hướng giảm dần số hộ thuần nông, đa dạng hoá sản phẩm của ngành nông nghiệp. Đa dạng hoá nghành nghề, thực hiện người lao động nào giỏi việc gì thì làm việc đó, trên cơ sở giao đất và ổn định lâu dài cho các hộ gia đình, đặc biệt là phát triển mạh mẽ các việc làm phi nông nghiệp, xây dựng các xí nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn. Do đó, thành phố có thể thực hiện bằng nhiều hình thức tạo việc làm khác nhau để giảm bớt sức ép về việc làm, duy trì, nâng cao kiến thức cho người lao động. Cụ thể: 1 Phát triển kinh tế xã hội tạo chỗ làm việc mới a. Phát triển các ngành nghề sản xuất nông nghiệp Do đặc điểm đất đai của thành phố tương đối thuận lợi cho việc phát triển các loại cây trồng vật nuôi, trong phương hướng sản xuất những năm tới thành phố phải từng bước quy hoạch và hình thành các vùng chuyên cung cấp nguyên liệu cho các cơ sở chế biến nông sản thực phẩm. Đưa nhanh tiến độ khoa học vào sản xuất nông nghiệp góp phần tăng năng suất lao động. chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá đạt cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ là: 67%, 28%, 5%. Để đạt được mục tiêu này ngoài việc ổn định diện tích trồng lúa, đảm bảo ổn định lương thực, thành phố cần phải thực hiện khuyến khích chuyển dịch cây trồng vật nuôi, phát triển kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình. Về chăn nuôi, hướng chung là phát triển chăn nuôi để lấy thịt, trứng, cá, …nên kinh tế trang trại đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển ngành nông nghiệp của thành phố. Tiềm năng phát triển chăn nuôi của thành phố là rất lớn nếu như giải quyết được thị trường đầu ra cho cho sản phẩm, khắc phục những khó khăn tình trạng biến động của giá cả đối với sản phẩm. Khuyến khích phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp phát triển các hình thức đấu thầu cho thuê nhằm khai thác hết các diện tích ao hồ sông ngòi để nuôi trồng thuỷ sản. Phát triển rau màu là một trong những nhân tố hàng đầu tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, đảm bảo lương thực, thực phẩm và có thức ăn phát triển chăn nuôi. Sắp xếp theo vị trí kinh tế của từng cây như ngô, khoai lang, khoai tây, đỗ đậu các loại…Hiện nay việc sản xuất rau màu đã trở nên ổn định và ngày càng phát triển. Tuy nhiên tiềm năng thâm canh tăng năng suất lao động và sản lượng hoa màu của thành phố còn rất lớn nếu tích cực đổi mới cơ cấu mùa vụ, công tác giống để có đủ giống và giống tốt, cho năng suất cao, tăng cường bón phân, tưới nước và chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho hoa màu. Điều quan trọng là cần đầu tư công nghệ chế biến hoa màu để tạo ra nhiều sản phẩm từ hoa màu, nâng cao giá trị hoa màu, phát triển mạnh chăn nuôi cho thị trường nội địa và xuất khẩu. Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất nông nghiệp , kiên cố hoá kênh mương, đường giao thông, công trình thuỷ lợi...Hầu hết các tỉnh nông nghiệp khác đều đã thực hiện kiên cố hoá kênh mương, nội đồng, công trình thuỷ lợi của địa phương mình, từ đó phục vụ cho bà con nông dân có thể yên tâm sản xuất, nâng cao năng suất lao động,… Trong những năm tới thành phố thực hiện mở rộng diện tích đất về các khu vực lân cận để tăng diện tích đất cho trồng trọt chăn nuôi, phát triển kinh tế nông nghiệp của thành phố. Trong năm tới do một số khu đất đã đưa vào quy hoạch đô thị và khu công nghiệp nên thành phố phải được tiến hành mở rộng về các phía, đặc biệt là khu vực giáp với các huyện nam Sách, Cẩm Giàng, Gia Lộc, Tứ Kỳ. Chọn khu đất phù hợp cho phát triển nông nghiệp, trồng trọt và chăn nuôi của thành phố. b. Phát triển sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Phấn đấu đạt giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 13-14%/năm. Khuyến khích nhiều hình thức đầu tư để thu hút mọi nguồn vốn đầu tư vào các lĩnh vực: sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông sản thực phẩm, thu hút nhiều lao động tham gia, hình thành các khu, cụm công nghiệp tại địa bàn thành phố... Mở rộng các khu công nghiệp ở phía đông và phía nam thành phố. Thực tế cho thấy các ngành sản xuất vật liệu xây dựng cần phát triển mạnh hơn nữa nhằm tạo việc làm cho người lao động thành phố. Dựa trên thế mạnh của vùng về tài nguyên khoáng sản, tập trung phát triển các ngành sành sứ, thuỷ tinh, đá mài, xi măng…Nhà máy sứ và đá mài Hải Dương đóng trên địa bàn thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa tốc độ tăng cả chất lượng, số lượng sản phẩm từ đó thực hiện mở rộng thi trường tiêu thụ sản phẩm cho nhà máy ra các thị trường trong và ngoài khu vực, tăng lợi nhuận cho nhà máy. Ưu tiên công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm để tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, gắn đầu tư công nghiệp chế biến với phát triển vùng nguyên liệu hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm ra thị trường trong và ngoài nước. Xây dựng nhà máy chế biến rau quả, nâng cấp các cơ sở chế biến nông sản thực phẩm để tăng sản lượng bánh kẹo, sản lượng chế biến hoa quả, nước giải khát... Công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm và các ngành sản xuất bánh kẹo của thành phố đã có chuyển biến tích cực nhưng trong thời gian tới cần có biện pháp đẩy mạnh hơn nữa đầu tư trong công nghiệp nhằm tạo việc làm cho lao động thành phố. Khai thác hết công suất các dây chuyền sản xuất giày thể thao, giày vải, may xuất khẩu, chế biến tơ tằm. Tạo điều kiện để xây dựng khu công nghiệp giày Hải Dương. Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng để tăng khả năng kinh doanh, chuyển dần từ hình thức gia công sang sản xuất và tiêu thụ trực tiếp với khách hàng. Mặc dù hàng hoá của ta sản xuất ra nhiều nhưng khi đưa vào tiêu dùng trong nước lại khó được tiếp nhận hơn là đối với hàng nước ngoài, cơ bản vẫn là chất lượng và giá cả hàng hóa. Vì thế để chuẩn bị gia hội nhập kinh tế khu vực thì vấn đề là các doanh nghiệp cần làm thế nào đổi mới công cụ phù hợp, thuê lao động đúng người đúng việc, hạch toán kinh doanh tốt, giảm tới mức tối đa các rủi ro trong kinh doanh. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất cơ khí ổn định và phát triển. Một số cơ sở sản xuất có khí cần mở rộng hơn nữa quy mô sản xuất và đầu tư nhiều vốn hơn, thu hút đầu tư của các nhà đầu tư trong và ngoài khu vực vào trong sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất cơ khí ở thành phố chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân, một số ít là doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài. Vì thế vốn đối với các doanh nghiệp này thường nhiều, vốn dũng để sản xuất khá lớn như vậy cho nên thành phố cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này nhiều hơn nữa. Một số doanh nghiệp cơ khí thực tế đã thu hút khá lớn lao động tham gia đặc biệt là đối với lao động nam. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, hợp tác xã sản xuất cơ khí, các công ty liên doanh phát triển phục vụ cho nông nghiệp nông thôn như: máy móc, nông cụ, phụ tùng cơ khí, hàng tiêu dùng và dịch vụ sửa chữa tại chỗ. Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn là hai hình thức chủ yếu ở thành phố. Đã có hàng trăm loại hình công ty như vậy đã và đang đi vào hoạt động. Thành phố cần có biện pháp khuyến khích các công ty xí nghiệp này để thu hút nhiều lao động vào làm việc tại đây. Khuyến khích phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, có chính sách hỗ trợ vốn, đào tạo nguồn nhân lực, tư vấn kỹ thuật nhằm mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm như chạm khắc gỗ, gốm sứ, da giày, sản xuất bánh kẹo... tạo nghề mới để tăng thêm chỗ làm việc cho người lao động, tăng thu nhập cho họ nhất là đối với các hộ ở diện còn nghèo như hiện nay. Với mặt hàng đặc sản thì đầu tư khuyến khích mở rộng thị trường tiêu thụ cho các công ty này. Sắp xếp lại và phát triển các ngành dịch vụ đáp ứng yêu cầu của sản xuất và đời sống. Thực hiện sắp xếp lại các doanh nghiệp trong ngành thương mại, dịch vụ gọn nhẹ, giảm đầu mối để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả và giải quyết cho số lao động đang thiếu việc làm của ngành. Mở rộng liên kết giữa các thành phần kinh tế để tăng khả năng mua, bán hàng nhất là tiêu thụ sản phẩm cho người nông dân. Giữ vững và mở rộng thị trường xuất khấu để tiêu thụ sản phẩm nông sản thực phẩm, sản phẩm công nghiệp, đặc biệt là khai thác thị trường các nước ở Châu á và Châu âu như Trung Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Singapo...đầu tư tạo một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim ngạch xuất khẩu lớn và thị trường ổn định như: giày dép, quần áo may sẵn, thịt lợn sữa cấp đông, rau quả chế biến, hàng thêu ren,... Trong năm 2002 thành phố đã hoàn thành một số trung tâm thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển thương mại của thành phố, đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu hàng hoá ra thị tường trong và ngoài khu vực. Phát triển ngành kinh tế du lịch, khách sạn, xây dựng các tuyến du lịch gắn với các tuyến du lịch của các vùng phụ cận đồng thời đầu tư khai thác có hiệu quả các khu du lịch hiện có. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì nhu cầu cho nghỉ ngơi của con người càng cao, ngành du lịch nếu được phát triển một cách đúng mức thì nó sẽ góp phần không nhỏ vào trong tăng trưởng kinh tế của vùng đó. Vì thế trong giai đoạn tới thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển du lịch, xây dựng nhiều tuyến du lịch trong và ngoài nước khuyến khích người dân trong và thành phố đi du lịch. Tập trung huy động các nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng: Tạo nguồn vốn thích hợp cho cơ sở sản xuất nhỏ và vừa thuộc các lĩnh vực sản xuất. Đây cũng một trong các là vấn đề cơ bản nhất. Việc hình thành các tổ chức tín dụng là vô cùng cần thiết đối với người lao động, nhất là khu vực nông nghiệp. Tranh thủ các nguồn vốn của trung ương để đầu tư cho hệ thống đê kè do trung ương quản lý. Hiện nay các công trình này cần được các cơ quan có thẩm quyền quản lý chặt chẽ hơn nữa tránh tình trạng để cho hệ thống bị hỏng mà không kịp sửa chữa, không tạo được điều kiện thuận lợi cho người lao động tham gia sản xuất. Mặt khác, khu vực này hàng năm sẽ dễ dàng thu hút lao động làm việc và công việc thường sử dụng sức lực là chủ yếu nên rất phù hợp với thanh niên, nhất là thanh niên nông thôn. Vì thế trong những năm tới thành phố cần đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống đê kè phục vụ cho sản xuất của mình. Nâng cấp và mở rộng hệ thống đường bộ từ thành phố đến các khu vực lân cận. Thực tế thì các công trình này sử dụng một lực lượng lao động phổ thông lớn tại chỗ. Hầu hết công trình giao thông đường bộ của thành phố đã và đang đi vào hoạt động, chất lượng tương đối khá nhưng để thu hút thêm vốn đầu tư trong và ngoài nước cần hoàn thiện hơn nữa các công trình này nhằm đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp sản xuất trong thành phố, từ đó thu hút và tạo cơ hội việc làm cho lao động thành phố. 2.Tổ chức các dịch vụ việc làm trong thị trường lao động. Hiện nay ở thành phố các trung tâm dịch vụ việc làm đã đi vào hoạt động và đã đạt được kết quả. Hàng năm số lao động được tạo việc làm lên tới hàng trăm người và ngày càng có nhiều lao động tham gia đăng ký tìm việc làm qua các trung tâm này. Vì thế trong những năm tới cần đẩy mạnh hơn nữa đầu tư cho các trung tâm đi vào hoạt động đạt kết quả tốt hơn. Tổ chức cho người thất nghiệp và thiếu việc làm đăng ký tìm việc làm tại các trung tâm dịch vụ việc làm của thành phố và của tỉnh. Cung cấp các dịch vụ việc làm miễn phí cho người lao động thất nghiệp, người thiếu việc làm, nội dung gồm: Tư vấn lựa chọn nghề nghiệp, nơi làm việc, tư vấn chọn học nghề, nơi học, tư vấn lập dự án tạo việc làm, tư vấn pháp luật liên quan đến việc làm, giới thiệu việc làm, các dịch vụ khác về việc làm khi được yêu cầu. Tổ chức cung cấp dịch vụ việc làm cho người sử dụng lao động theo hợp đồng. Nội dung bao gồm: Cung cấp nguồn nhân lực, tư vấn về pháp luật lao động, trao đổi thông tin về thị trường lao động, các dịch vụ khác. Vấn đề là làm cho người lao động hiểu rõ các thông tin về lao động, về pháp luật, giúp người lao động khi vào làm việc có thể đảm bảo được quyền lợi của mình và làm việc theo đúng luật định. Điều tra, khảo sát thu thập xử lý thông tin từ thị trường lao động. Cần đẩy mạnh công tác điều tra, khảo sát để từ đó nắm vững nhu cầu thị trường về lao động, giúp họ tìm được việc làm phù hợp. Tuy vậy công tác này cũng thường phải yêu cầu một đội điều tra có năng lực, chuyên môn và có tâm huyết với nghề nghiệp của mình. Đầu tư xây dựng trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các trung tâm dịch vụ việc làm, thực hiện nội dung của chương trình đến năm 2010. Đồng thời phải kiểm tra giám sát các trung tâm tổ chức dịch vụ việc làm cho người lao động, tránh tình trạng có một số cơ sở chỉ mang tính chất là trung tâm mà mục đích lại nhằm thu lợi nhuận cho mình mà không nghĩ đến quyền lợi của người lao động. Thành phố cần kiểm tra chặt chẽ hoạt động của các trung tâm này và phải có biện pháp cứng rắn khi các trung tâm vi phạm luật định đề ra. 3.Tổ chức dạy nghề gắn với việc làm Phải nói rằng trình độ chuyên môn của lao động thành phố Hải Dương còn rất thấp, chủ yếu là lao động phổ thông, số lao động đi học nghề còn rất hạn chế. Mặt khác số lao động đi học nghề thường lại chỉ thích kiếm việc làm ở những thành phố, những khu công nghiệp chứ không muốn về. Do đó xuất hiện tình trạng số lao động có tay nghề tham gia lao động ở thành phố là không nhiều, chủ yếu là ở các khu vực khác chuyển đến. Do vậy trong thời gian tới thành phố cần có các biện pháp đẩy mạnh chương trình dạy nghề cho người lao động ở thành phố bằng cách: Tổ chức dạy nghề theo hợp đồng học nghề gắn với việc làm cho người thất nghiệp, thiếu việc làm đến đăng ký tìm việc làm, chủ yếu là thanh niên tại các cơ sở dạy nghề của trung tâm dịch vụ việc làm, các trường và các đơn vị dạy nghề của tỉnh nhà... Tổ chức các lớp đào tạo tập huấn cho cán bộ làm công tác dịch vụ việc làm, đội ngũ giáo viên dạy nghề...Chất lượng lao động của thành phố không cao vì thế công tác đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy phải càng được chú trọng, đào tạo cán bộ làm công tác dịch vụ việc làm theo đúng tiêu chuẩn đặt ra. Không có tình trạng đội ngũ cán bộ, giáo viên giảng dạy không đạt tiêu chuẩn về chuyên môn, kinh nghiệm. Đầu tư trang thiết bị, phương tiện dạy nghề cho các trung tâm và các cơ sở dạy nghề dành riêng cho người tàn tật, hỗ trợ các làng nghề truyền thống. Đây cũng là vấn đề nổi bật hiện nay bởi vì trang thiết bị, phương tiện dạy nghề của các cơ sở này đang rơi vào tình trạng xuống cấp. Cần đẩy mạnh đầu tư cho các cơ sở này, giúp cho người tàn tật có thể tham gia lao động cùng cộng đồng trong xã hội, giúp cho các làng nghề truyền thống khôi phục được nghề truyền thống. Nâng cấp các trung tâm dịch vụ việc làm. Đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị để các trung tâm có đủ điều kiện dạy nghề ngắn hạn. Bố trí đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ làm công tác dịch vụ việc làm. Đầu tư trường hướng nghiệp dạy nghề, trường công nhân kỹ thuật, đào tạo một lực lượng lao động có tay nghề cao cho các doanh nghiệp, các khu công nghiệp trong nước và nước ngoài. Kết hợp chặt chẽ giữa các trường dạy nghề và các doanh nghiệp để học sinh học nghề được tiếp cận với các máy móc hiện đại, công nghệ mới do các trường chưa đủ điều kiện đầu tư, khắc phục tình trạng thừa thầy, thiếu thợ. Phần lớn lao động đi học nghề ở đây thường phải học lý thuyết nhiều hơn là thực hành, máy móc phục vụ cho học tập còn ở trong tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, không đáp ứng để cập nhật thông tin trên thị trướng các nước khác trên thế giới. Giáo dục định hướng cho học sinh phổ thông để sau khi tốt nghiệp trung học tuỳ điều kiện năng lực, trình độ và điều kiện kinh tế mà chọn nghề học, cấp học phù hợp chứ không cứ là phải thi vào các trường đại học gây lãng phí thời gian, tiền của. Nhiều người sau khi vào học rồi mới nhận thấy là mình không có năng lực theo học, học nghề không phù hợp với khả năng của mình để rồi ra trường không biết sẽ xin việc như thế nào. Hiện nay tình trạng học sinh ra trường là quyết tâm thi bằng được vào đại học chứ không đi học các trường dạy nghề khác. Vì thế cần có định hướng cho học sinh ngay từ ban đầu, đưa chương trình định hướng nghề nghiệp cho học sinh ngay từ khi học sinh còn học trong trường phổ thông, giúp cho học sinh có thể chọn được nghề, chọn được trường thi phù hợp với khả năng và nguyện vọng của mình. Mặt khác, để đạt được mục tiêu nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2010 là 27% thì hàng hàng năm thành phố Hải Dương phải thực hiện đào tạo cho khoảng gần 10000 lao động nữa. Do đó chi phí cho đào tạo là rất lớn, thành phố cần xác định để đầu tư cho phù hợp với từng chuyên ngành cần đào tạo, đào tạo lao động để người lao động có thể tìm được việc làm đúng người đúng việc là tốt nhất. Cần thu hút vốn đào tạo từ các nguồn khác nhau, từ ngân sách trung ương, địa phương và từ các doanh nghiệp đóng trên địa bàn thành phố, trong đó chủ yếu nhất vẫn là nguồn từ ngân sách nhà nước tuy nhiên cần linh động trong việc thu hút vốn của các doanh nghiệp và của địa phương. Vì vậy điều quan trọng để nâng cao chất lượng lao động của thành phố là làm tốt công tác dạy nghề cho người lao động ngay trên địa bàn thành phố hoặc có thể cắt cử đi học ở các trung tâm của các tỉnh, thành phố lân cận. Tạo điều kiện cho họ có thể đi học nâng cao trình độ, kiến thức, kỹ năng bằng cả vật chất và tinh thần. 4. Tổ chức cho vay vốn tạo việc làm cho người lao động Từ năm 2002 đến năm 2010 tổ chức thực hiện cho 15000 lượt hộ được vay vốn với tổng số tiền khoảng 10000 triệu đồng để tạo thêm việc làm mới cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị, nâng thời gian sử dụng ở nông thôn lên cao hơn. Đó mục tiêu của thành phố trong những năm tới và thành phố đang cố gắng thực hiện nhằm tạo việc làm cho người lao động của thành phố đạt kết quả tốt hơn. Gắn việc cho vay với việc chuyển giao công nghệ, hướng dẫn cách làm ăn cho người dân, phát triển các ngành nghề chủ công. Công nghệ phải phù hợp với các ngành nghề sản xuất nếu không sẽ không thu hút và tạo việc làm cho người lao động. Ví như trong nông nghiệp mà sử dụng công nghệ quá hiện đại không phù hợp với ngành nông nghiệp đang trên đà phát triển của tỉnh cũng như của thành phố, trong công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm thì việc đầu tư máy móc thiết bị là vô cùng quan trọng đồng thời phải nâng cấp trang thiết bị sử dụng trong công ty, doanh nghiệp mình. Các ngành nghề chủ công cần được đầu tư mạnh hơn về công nghệ khoa học kỹ thuật, cùng với việc giúp người lao động có thể sử dụng thực hiện thực hiện thành thạo máy móc khi đưa vào trong doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có khả năng mở rộng sản xuất thu hút thêm lao động vào làm việc ổn định như các doanh nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, công nghiệp nhẹ... thì có thể tiến hành cho vay vốn để phát triển sản xuất. Hầu như các doanh nghiệp này tình trạng vốn còn đang rất bế tắc, bởi vì vốn đọng trong khi mang hàng đi bán khá nhiều, thêm vào đó vốn không nhiều, nợ trong dân còn cao. Thị trường tiêu thụ của các doanh nghiệp này cũng rất quan trọng, so sản phẩm đầu ra nhiều nên ngoài thị trường tiêu thụ trong nước cần mở rộng thị trường tiêu thụ ra nước ngoài, ra các khu vực trên toàn thế giới. Đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ có khó khăn, hỗ trợ bằng cách cho vay vốn để số lao động nữ khỏi mất việc làm. Các doanh nghiệp này thường là các doanh nghiệp sản xuất bánh kẹo, may mặc, giày da…Số lao đông ở đây nhiều khi lên tới 80% trong một doanh nghiệp cho nên ngoài tạo việc làm cho họ thì trong công việc phải luôn cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho lao động tránh tình trạng không làm tốt công việc là do bầu không khí không thuận lợi, không thể giúp cho họ nâng cao tay nghề của mình. Tổ chức cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, cơ sở dạy nghề cho người tàn tật, các cơ sở có đông người tàn tật theo học hoặc các cơ sở sản xuất trực tiếp nhận người tàn tật vào làm cao hơn quy định của nhà nước được vay vốn để dạy nghề và tạo việc làm. Đối với người tàn tật thường để đầu tư cho một lao động có được công ăn việc làm là rất tốn kém nhưng nếu đào tạo ra mà không có việc làm cho họ thì đây cũng là vấn đề hết sức khó khăn. Thêm vào đó số sản phảm do người tàn tật sản xuất ra thường thị trường tiêu thụ không nhiều cho nên để tìm thị trường tiêu thụ thì các doanh nghiệp cần có thời gian đi tìm hiểu thị trường cho sản phẩm của doanh nghiệp mình. Nhìn chung tình hình vốn đang là vấn đề được tất cả các cấp các ngành quan tâm và cũng đang là vấn đề nan giải. Vì thế trong thời gian tới thành phố cần đẩy mạnh hơn nữa công tác cho vay vốn đối với các doanh nghiệp đang thực hiện sản xuất kinh doạnh trên địa bàn thành phố. 5. Những giải pháp để kiểm soát việc thực hiện chỉ tiêu tạo chỗ làm việc cho người lao động Thành lập ban chỉ đạo, phân công cán bộ làm công tác tạo việc làm ở các phường, xã trong thành phố. Hiện nay mỗi cơ sở, cấp, ngành đều có các ban chỉ đạo, phân công cán bộ làm công tác tạo việc làm vì thế trong thời gian tới cần phát huy và thực hiện tốt hơn vấn đề này. Tuyên truyền cho mọi người thấy rõ được yêu cầu cấp bách của mục tiêu tạo việc làm cho người lao động của thành phố nói riêng và của tỉnh nói chung. Các ngành đều xây dựng chương trình việc làm của ngành mình, đưa ra mục tiêu cụ thể cho hàng quý, hàng năm để mỗi đơn vị đánh giá được việc thực hiện chỉ tiêu của đơn vị mình. Trên cơ sở đó đưa ra các mục tiêu, bài học cho thời gian tiếp theo. Thiết lập hệ thống báo cáo thống kê trong các doanh nghiệp, tình hình sử dụng lao động của họ. Tổ chức điều tra khảo sát lao động việc làm trên toàn thành phố. Thông tin về thị trường lao động: Các doanh nghiệp đóng trên địa bàn phải thực hiện nghiêm túc thống kê tình hình sử dụng thời gian lao động, nhu cầu tuyển lao động, tình hình thực hiện các chính sách đối với người lao động theo tinh thần nhgị định 72/CP ngày 31/10/1995 quy định chỉ tiêu và hướng dẫn một số điều của Bộ luật lao động về việc làm. Tổ công tác giúp việc của ban chỉ đạo thành phố phải thu thập thông hin về thị trường lao động, thông qua các thông tin của các phường, xã trên địa bàn thành phố. Thông tin tuyên truyền về chương trình việc làm của thành phố: Tuyên truyền cho người lao động hiểu biết về pháp luật lao động; về thực trạng lao động việc làm trên địa bàn thành phố; giới thiệu các nội dung hỗ trợ trực tiếp của nhà nước về công tác đoàn thể đối với người lao động. Hình thức tuyên truyền thông qua các thông tin đại chúng như đài báo, truyền hình, phóng sự.. 6. Xuất khẩu lao động Hải Dương là một trong hai tỉnh đầu tiên được nhà nước cho phép thực hiện xuất khẩu lao động sang thị trường các nước trong khu vực và một số các nước khác. Trong thời gian đầu thực hiện tỉnh nói chung và thành phố nói riêng đã thu được những kết quả khá tốt. Số lao động đã sang nước ngoài làm việc khá đông và phần lớn có việc làm phù hợp. Vì thế trong thời gian tới tỉnh cũng như thành phố cần làm tốt công tác sau: Công tác chuẩn bị nguồn lực Đưa công tác đào tạo lao động để xuất khẩu vào kế hoạch của các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề. Nếu như trước kia số lao động đưa đi lao động xuất khẩu thường chủ yếu là được đào tạo qua các lớp ngắn hạn không có quy củ thống nhất giữa các cơ quan ban ngành thì bây giờ cần thực hiện công tác đào tạo vào các trường, các trung tâm học nghề, dạy nghề. Để sau khi học người lao động sẽ cảm thấy yên tâm khi sang các nước làm việc, họ sẽ được trang bị đầy đủ kiến thức để không còn gặp những khó khăn trong giao tiếp cũng như trong công việc. Khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề, các doanh nghiệp và người lao động cùng đầu tư vào việc đào tạo, chuẩn bị nguồn lực phục vụ cho xuất khẩu lao động theo nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Vấn đề doanh nghiệp và người lao động cùng làm, thấy được tầm quan trọng của cả hai bên trong công tác đầu tư đào tạo, nếu chỉ có một bên tham gia thì vẫn chưa đủ mà cả hai phải đồng thời. Tăng cường liên kết giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp xuất khẩu lao động để nâng cao chất lượng đào tạo bổ túc tay nghề, giáo dục định hướng, ngoại ngữ, pháp luật, phong tục tập quán cho người tham gia xuất khẩu lao động. Không để tình trạng khi người lao động sang nước bạn làm việc mà không hiểu gì về đất nước, về con người, cũng như luật pháp của nước bạn. Như thế sẽ gây ra tình trạng vi phạm hợp đồng lao động, vi phạm pháp luật khi sang làm việc ở nước đó. Nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ trong giáo dục phổ thông để khi ra trường có đủ điều kiện ngoại ngữ cần thiết để tham gia xuất khẩu lao động. Ban đầu chỉ là các giao tiếp bình thường nhưng nếu không đáp ứng thì rõ ràng hiệu quả làm việc không thể cao, vì thế cần tổ chức các lớp học ngoại ngữ cho lao động tham gia xuất khẩu lao động tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề cho họ. Đầu tư cơ sở vật chất, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực và bố trí cán bộ có phẩm chất đáp ứng nhiệm vụ xuất khẩu lao động. Kết quả cuối cùng là làm thế nào để người lao động có được trình độ, năng lực, kiến thức đáp ứng đúng yêu cầu công việc được giao. Cho nên vấn đề đặt ra là cần đẩy mạnh công tác đầu tư cơ sở vật chất, đầu tư cán bộ giảng đạy có trình độ, kỹ năng, phẩm chất tốt là rất cần thiết. Tìm kiếm thị trường để xuất khẩu lao động Khai thác thị trường lao động ở trong nước như Hà Nội, Hải Phòng, Thành Phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp khác. Đây là các khu vực thu hút nhiều lao động bởi các khu vực này thường được đầu tư mạnh, ở đó lao động vừa có thể học hỏi vừa có thể nâng cao kiến thức của mình. Khai thác thị trường lao động ở các nước, các đơn vị có giấy phép xuất khẩu lao động, để đến năm 2010 sẽ đưa được 3000 lao động đi làm việc ở nước ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau. Xuất khẩu trực tiếp do các công ty cung ứng lao động ngoài nước của tỉnh thực hiện là 3000 lao động, qua các bộ ngành trung ương, qua các doanh nghiệp có giấy phép xuất khẩu là 3000 lao động. 7. Nhu cầu tài chính và thực hiện chương trình. Thực tế cho thấy nguồn tài chính phục vụ nhu cầu tạo việc làm luôn là vấn đề rất quan trọng. Trong thời gian qua nguồn tài chính thực hiện chương trình cũng phần nào đảm bảo tuy nhiên vẫn chưa thể đảm bảo đủ 100% do đó trong những năm tới nhu cầu cần được tăng cao hơn. Tài chính cần có để phục vụ cho các hoạt động triển khai và quản lý chương trình việc làm, hàng năm có hàng tỷ đồng là nhu cầu tài chính cần có để phục vụ cho các hoạt động của chương trình: Điều tra lao động việc làm, tập huấn cán bộ, tuyên truyền hoạt động của các ban ngành. Tài chính cần hỗ trợ cho các giải pháp phát triển trong chương trình tạo việc làm, nhu cầu tài chính trung bình mỗi năm cho các giải pháp phát triển là 40 tỷ đồng. Các nguồn này chủ yếu từ dự kiến nguồn địa phương nguồn trung ương là chủ yếu. Tổng kinh phí cho chương trình tạo việc làm tính đến năm 2010 là 115.100 triệu đồng trong đó cho thực hiện dạy nghề, đào tạo nghề là 2.600 triệu đồng, cho dạy nghề cho người tàn tật là 1.500 triệu đồng, vay vốn theo chương trình 120 là 20.000 triệu đồng, nguồn vốn đối ứng trong dân và các tổ chức xã hội là 61.000 triệu đồng, cho đào tạo lao động là 30.000 triệu đồng. Tuy vậy so với thực tế thì đây là nhu cầu khá cao nên để thực hiện được thành phố cần có biện pháp đẩy mạnh hơn nữa công tác tạo việc làm cho người lao động, huy động nguồn vốn từ các nguồn khác nhau, tuỳ theo mức độ của từng nguồn. Chi phí tạo ra một làm ở thành phố là khá cao, nhiều khi lên tới hàng chục triệu đồng nên nhu cầu vốn cho vấn đề đào tạo nghề là khá lớn, hàng năm có khi lên tới vài trăm triệu đồng, chưa kể các lao động từ nơi khác chuyển đến, họ đã mất chi phí đầu tư cho học hành rất nhiều. Ngoài ra có thể dành những chính sách khuyến khích lao động có trình độ của thành phố về làm việc tại quê hương bằng các chính sách khuyến khích cả về vật chất lẫn tinh thần. 8. Lãnh đạo và tổ chức thực hiện. Tăng cường vai trò lãnh đạo, tổ chức của đảng, chính quyền các cấp: Thực hiện chỉ đạo chặt chẽ và quán triệt nghiêm túc chương trình tạo việc làm đến toàn thể cán bộ đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, để tạo ra thống nhất cao sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành các cấp chính quyền, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức xã hội. Thành lập ban chỉ đạo cho vấn đề tạo việc làm: ở các xã phường, ban chỉ đạo do đồng chí phó chủ tịch uỷ ban nhân dân xã phường làm trưởng ban. Cần xây dựng quy chế làm việc, bố trí cán bộ đủ phẩm chất năng lực, phân công trách nhiệm cho từng thành viên ban chỉ đạo. Nhiệm vụ của các ngành: Các ngành sản xuất kinh doanh theo chứuc năng của mình triển khai chưong trình tạo việc làm cho người lao động của ngành mình. Riêng có một số ngành: Ngành văn hoá thông tin đại chúng các tổ chức xã hội đoàn thể phổ biến đến các hội viên, tập trung tuyên truyền các chủ chương chính sách của đảng và nhà nước để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ nhận thức về chương trình tạo việc làm cho người lao động. Ngành lao động thương binh xã hội là cơ quan thưòng trực chỉ đạo chặt chẽ của trung tâm dịch vụ việc làm, các cơ sở đào tạo nghề, các trường nghề thực hiện nhiệm vụ được giao; tổng hợp chung tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm của thành phố. Ngành tài chính kinh kế, ngành kế hoạch đầu tư, ngân hàng đề xuất các giải pháp về vốn đầu tư, vốn vay, chính sách cho vay và thu hồi vốn Ngoài ra còn một số biện pháp hỗ trợ nhằm phục vụ cho vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở thành phố Hải Dương như kiểm soát sự gia tăng dân số của thành phố trong những năm tới, đặc biệt là số lực lượng lao động từ các nơi khác chuyển đến. Hạn chế bằng cách thành lập thành lập khu chế xuất ở các vùng nông thôn, xây dựng đường sá, phát triển kinh tế nông thôn, dần dần san bằng khoảng cách giữa nông thôn, thành thị. Kiểm soát sự gia tăng dân số để giảm sức chi phí tạo việc làm, tuy vậy đây cũng chưa hẳn là biện pháp tạo việc làm mới một cách hữu hiệu, đặc biệt là trong phát triển kinh tế- xã hội. Bên cạnh đó cần có biệ pháp tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đại phương để giải quyết việc làm đạt kết quả tốt nhất. kết luận Phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm cho người lao động là một trong những vấn đề bức xúc nhất và nhạy cảm nhất hiện nay, liên quan đến cuộc sống của nhiều người và là một trong những yếu tố quan trọng nhất góp phần ổn định kinh tế - chính trị - xã hội. Nhận thức rõ được tầm quan trọng trên, trong những năm qua thành phố luôn quan tâm đến vấn đề tạo việc làm cho người lao động. Các cơ quan đoàn thể, các doanh nghiệp trong toàn thành phố đã có những hoạt động thiết thực cho công tác tạo việc làm và đạt kết quả đáng kể. Hoạt động của các loại hình kinh tế phát triển nhanh, rất cơ động, hiệu quả kinh tế cao tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Trong những năm tới vấn đề tạo việc làm sẽ cần được sự quan tâm nhiều hơn nữa của tất cả các cấp các ngành trong toàn thành phố. Tạo nhiều việc làm sẽ tránh được tình trạng thiếu việc làm cho người lao động, giảm tệ nạn xã hội, phát huy được lợi thế, tiềm năng của khu vực là một trong những tiêu chí đảm bảo định hướng XHCN, là chính sách xã hội cơ bản góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo tình hình thực hiện kinh tế xã hội của thành phố Hải Dương giai đoạn 1998 - 2002 2. Đề án phát triển công nghiệp của Hải Dương giai đoạn 2001 - 2005 và phương hướng những năm tới của sở công nghiệp tỉnh Hải Dương. 3. Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo và việc làm giai đoạn 2001 - 2005 của chính phủ. 4. Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương các năm 1998 - 2002. 5. Tài liệu tập huấn cán bộ thực hiện chương trình việc làm của tỉnh Hải Dương. 6. Tài liệu hướng dẫn điều tra lao động việc làm của Bộ lao động thương binh và xã hội. 7. Giáo trình kinh tế lao động - Trường đại học kinh tế quốc dân. 8. Tạp chí lao động xã hội . Lời cảm ơn Sau thời gian nghiên cứu và thực tập tại Sở Lao động Thương binh và xã hội tỉnh Hải Dương, em đã thực hiện đề tài: “Vấn đề tạo việc làm cho người lao động ở Thành phố Hải Dương”. Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế Lao động - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã truyền đạt cho em những kiến thức cơ bản về lao động việc làm, cảm ơn các cán bộ trong Sở Lao động Thương binh và xã hội đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Hà Nội, tháng 05 năm 2003 Sinh viên Nguyễn Thị Minh Phượng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37077.doc
Tài liệu liên quan