Luận văn Vấn đề tính dục trong thơ nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ so sánh

MS: LVVH-VHVN054 SỐ TRANG: 134 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2010 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN DẪN NHẬP 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi khảo sát 4. Lịch sử vấn đề 5. Phương pháp nghiên cứu 6. Kết cấu luận văn 7. Đóng góp của luận văn Chương 1: TÍNH DỤC TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1.Khái niệm tính dục và vấn đề tính dục ở phương Đông, phương Tây 1.1.1. Khái niệm tính dục 1.1.2. Vấn đề tính dục ở phương Đông, phương Tây 1.2. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương 1.2.1. Tác giả 1.2.2. Sự nghiệp thơ ca 1.3. So sánh trong nghiên cứu văn học 1.3.1. Khái niệm 1.3.2. So sánh trong nghiên cứu văn học Chương 2: SO SÁNH VẤN ĐỀ TÍNH DỤC TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG VỀ MẶT NỘI DUNG 2.1. Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương và văn học dân gian 2.1.1. Tính dục thông qua đề tài tình yêu, hôn nhân, gia đình 2.1.2. Tính dục thể hiện tiếng cười trào lộng, phê phán 2.1.3. Tính dục thể hiện tinh thần lạc quan, tư tưởng dân chủ 2.2.Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương và thơ trung đại 2.2.1. Tính dục biểu hiện sự thức tỉnh của con người cá nhân 2.2.2. Tính dục thể hiện khát vọng hạnh phúc cá nhân 2.2.3. Đề tài tính dục thể hiện tinh thần phản kháng 2.3. Vấn đề tính dục trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương và thơ hiện đại 2.3.1. Vấn đề tính dục thể hiện những quan niệm nhân sinh mới 2.3.2. Tính dục thể hiện những quan niệm thẩm mĩ mới 2.3.3. Tính nhân văn của đề tài tính dục Chương 3: SO SÁNH VẤN ĐỀ TÍNH DỤC TRONG THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG VỀ MẶT NGHỆ THUẬT 3.1. Thể loại 3.1.1. Những vấn đề chung 3.1.2. Ảnh hưởng của thể loại đến việc thể hiện nội dung tính dục 3.2. Ngôn ngữ thể hiện nội dung tính dục 3.2.1. Nghệ thuật sử dụng từ ngữ 3.2.2. Các biện pháp khai thác ngữ nghĩa 3.3. Giọng điệu thể hiện nội dung tính dục 3.3.1. Giọng ngợi ca, tự hào, tin yêu 3.3.2. Giọng khát khao chân thành, mãnh liệt 3.3.3. Giọng xót xa, đồng cảm 3.3.4. Giọng bất bình phản kháng KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf134 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3893 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vấn đề tính dục trong thơ nôm Hồ Xuân Hương dưới góc độ so sánh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t loài hoa leo sắc trắng pha vàng, (chỉ cung nữ) vẫn thật nhỏ bé bên cạnh bóng dương (ánh mặt trời, chỉ nhà vua), hình ảnh đó như nhắc nhở về thân phận cung nữ, nàng chỉ có giá trị như món đồ chơi “ngon mắt” để thoả thú vui xác thịt của vua. Quả nhiên số phận cung nữ về sau ứng với hình ảnh có tính chất điềm báo đó, nàng bị vua rẻ rúng, lãng quên, sống mỏi mòn nơi cung lạnh; nhưng cả khi rơi xuống tận cùng của nghịch cảnh, người phụ nữ trong nàng vẫn da diết ước mong, vẫn không nguôi khao khát: Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi Những hương sầu phấn tủi sao xong? Phòng khi động đến cửu trùng Giữ sao cho được má hồng như xưa? Đặt cạnh nhau, hai khúc ngâm như hoà chung giọng điệu, đó là âm điệu của tiếng lòng triền miên, dai dẳng, âm ỉ, da diết, không dứt, không nguôi, không điểm dừng, không kết thúc; của những nỗi niềm với nhiều biến thái tinh vi : hạnh phúc ngắn ngủi, đợi chờ đau đáu, mong ước thiết tha, khát khao cháy bỏng, hồi tưởng mơ màng; là điệp khúc trở đi trở lại mãi của một bài hát dở dang ngậm ngùi, của hi vọng nối tiếp thất vọng….,nhịp điệu khúc ngâm đều đều, toàn bộ hai khúc ngâm ít biến cố, không sự kiện, thời gian như ngưng đọng, không gian như thu hẹp trong chốn buồng khuê, hậu cung trống và lạnh, cô tịch và u tối; cuối cùng khép lại khúc ngâm là hình ảnh bất động như hoá đá của hai tượng vọng phu : chinh phụ, cung nữ. So với hai khúc ngâm trên thì Truyện Kiều của Nguyễn Du lại phong phú tinh diệu vô cùng trong việc sáng tạo nên cả hệ thống giọng điệu. Tác giả đã gạt bỏ ảnh hưởng của thi pháp chương hồi trong nguyên tác Kim Vân Kiều truyện để sáng tạo nên nhân vật người kể chuyện mới – đó là người kể chuyện giấu mặt vừa đảm đương công việc giới thiệu, thuyết minh, miêu tả vừa bình luận, phân tích, đánh giá từ sự kiện, diễn biến bên ngoài đến việc đi sâu khám phá thế giới nội tâm từng nhân vật. Nguyễn Du vừa là chủ thể trữ tình vừa nhập thân, đóng vai từng nhân vật nhưng dù ở hệ thống nhân vật nào thì tất cả cũng hoà vào giọng điệu chung của giọng chính chủ thể trữ tình - nhà thơ; nói như giáo sư Lê Ngọc Trà: đó là giọng “ Có vai trò quyết định âm hưởng chính, không khí chung của toàn tác phẩm. Giọng chính giống như cái sườn để cho các giọng điệu khác quây quần lại tạo nên tính phức điệu về giọng điệu của tác phẩm, đồng thời thể hiện cái đa dạng, phức tạp trong tâm trạng, thái độ của nhà văn”.[79:76] Do phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ điểm qua đôi giọng điệu trong Truyện Kiều có đề cập đến vấn đề tính dục. Trong Truyện Kiều, cái nhìn của Nguyễn Du rất nhân đạo, theo giáo sư Trần Nho Thìn: “ Các mối tình của Kiều và các nhân vật chính diện, ở mức độ này khác, đều không thiếu màu sắc thân xác, nhục dục. Và điều quan trọng là nhà thơ tỏ thái độ tán đồng, thậm chí chăm sóc nâng niu những mối tình đó, tức là hoàn toàn thoát li lập trường truyền thống đối với vấn đề tình yêu thân xác”. [73: 427]. Thật vậy, trong tác phẩm, Nguyễn Du đã có những trang xúc động và tiến bộ nhất dành cho mối tình Kim Trọng và Thuý Kiều. Trong thế giới tình yêu của họ, Nguyễn Du đã tỏ ra đồng tình với thái độ dũng cảm, quyết liệt của nhân vật khi họ dám phá bỏ những rào cản của lễ giáo khắc nghiệt để đến với nhau bằng tình yêu thuỷ chung, son sắc mà không kém phần mãnh liệt say đắm, táo bạo. Nhà thơ chăm chút từng rung động của cảm xúc yêu đương ngay từ cái nhìn đầu tiên giữa đôi trai tài gái sắc: Người quốc sắc kẻ thiên tài Tình trong như đã mặt ngoài còn e. ( Truyện Kiều ) Ông hiểu lòng yêu của Kiều biết bao khi để nàng trong nỗi tương tư đã mơ đến cuộc vuông tròn trăm năm: Người đâu gặp gỡ làm chi Trăn năm biết có duyên gì hay không? ( Truyện Kiều ) Ông giục giã Kim Trọng đừng bỏ phí thời gian đợi chờ, tơ tưởng mà mau mau chủ động đi tìm người trong mộng: Bâng khuâng nhớ cảnh nhớ người Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. ( Truyện Kiều ) Ông để bước chân Kiều không chút đắn đo, chần chừ “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” để đến với tình yêu. Và trong cái đêm huyền diệu đôi lứa cùng nhau tình tự, thề nguyền, Nguyễn Du đã đưa người đọc khám phá đến tận cùng cảm xúc thăng hoa nhất của vẻ đẹp trong mối tình được xem là lý tưởng nhất của thời phong kiến. Đêm thề nguyền có gió mát trăng thanh, có “vầng trăng vằng vặc giữa trời”, có lời vàng đá “ đinh ninh hai mặt một lời song song”, có những rung động, rạo rực, những khát khao cháy bỏng nhuốm màu sắc bản năng nhục dục nhất của con người: Hoa hương càng tỏ thức hồng Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chiều lả lơi. ( Truyện Kiều ) Kiều của Nguyễn Du không phải gỗ đá, trước tình yêu nàng cũng hành động theo tiếng gọi của con tim: Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa. ( Truyện Kiều ) Nhưng Kiều đã biết kiềm nén cảm xúc, lựa lời khuyên nhủ chàng Kim bằng ngôn ngữ của lý trí. Đó là tình cảm vừa cao thượng vừa đoan chính mà Kiều muốn dâng hiến cho tình yêu. Với Kiều tình yêu không chỉ có ham muốn xác thịt, nhu cầu bản năng mà tình yêu đẹp là tình yêu hướng về nhau, dành trọn cho nhau những gì trọn vẹn thanh khiết nhất cả thể xác lẫn tâm hồn. Hoà vào giọng điệu chung của thời đại, thơ Nôm Hồ Xuân Hương mang đến giọng điệu tươi rói, sức sống trần thế tự nhiên, lành mạnh trong cảm hứng về tình yêu đôi lứa, khát vọng hạnh phúc, ham muốn hoan lạc, giao hoà trong đời sống tình ái của người dân lao động chân chất mộc mạc. Hồ Xuân Hương nói về lạc thú trong quan hệ yêu đương đôi lứa với giọng khẳng định xem đó như là một nhu cầu có thật, hiển nhiên đáng tôn trọng mà con người phải được nếm trải: nữ sĩ cho đó là thú vui, là hạnh phúc trần thế khi được yêu, thích, sướng khiến con người hưng phấn ham sống, yêu đời hơn: -….Nâng niu ướm hỏi người trong trướng, Phì phạch trong lòng đã sướng chưa? ( Cái quạt I ) -…Mười bảy hai là mười tám đây Cho ta yêu dấu chẳng rời tay… ( Cái quạt II ) -….Còn thú vui kia sao chẳng vẽ, Trách người thợ vẽ khéo vô tình. ( Tranh Tố nữ ) Viết về hoạt động tính giao nam nữ, giọng thơ Xuân Hương thật say mê, khoẻ khoắn, hình ảnh thơ nhịp nhàng, mạnh mẽ mà vẫn hồn nhiên tài hoa trong cách thể hiện khiến cho chuyện cấm kị chốn phòng the, buồng kín hiện ra không chút thô lậu, tục tằn: -…Hai chân đạp xuống năng năng nhắc, Một suốt đâm ngang thích thích mau… ( Dệt cửi ) -…Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới, Hai hàng chân ngọc duỗi song song…. ( Đánh đu ) Khác với nàng Kiều của Nguyễn Du, người phụ nữ trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương thật phóng khoáng, hết mình cho tình yêu, vì cả nể nàng phải một mình gánh chịu hậu quả “Không chồng mà chửa”, nhưng giọng điệu bài thơ không chút phiền trách, răn đe người phụ nữ, vì tình yêu vốn đâu có tội, dâng hiến cho tình yêu cũng là biểu hiện của tấm chân tình, có chăng đáng trách là trách kẻ bạc bẽo, vô trách nhiệm, làm người mà sống không tròn nghĩa: -…Nỗi niềm chàng có biết chăng chàng -…Cái nghĩa trăm năm chàng nhớ chửa? Người đàn ông không chỉ bạc tình (không biết nỗi niềm tình cảnh cô gái phải gánh chịu) mà còn bạc nghĩa ( vội quên cái nghĩa trăm năm). Giọng điệu trong bài thơ là lời đay nghiến, phỉ nhổ vào loại đàn ông vừa trăng hoa vừa bạc bẽo, vô tình, vô trách nhiệm. Nói vậy không có nghĩa là Xuân Hương đồng tình với lối sống buông thả hay cổ xuý cho những quan niệm đề cao ham muốn xác thịt thuần bản năng. Cùng quan niệm với Nguyễn Du và hướng theo lý tưởng thẩm mĩ của nhân dân, thơ Hồ Xuân Hương nhiệt thành ngợi ca một tình yêu son sắc thuỷ chung, hoà hợp trong đời sống lứa đôi để đạt đến sự hoà điệu từ thể xác đến tâm hồn, đôi lứa đồng lòng, chung sức xây đắp mái ấm gia đình, vượt bao sóng gió thăng trầm đưa con thuyền tình cập bờ hạnh phúc. Tình yêu đẹp ấy thể hiện qua bài Đá Ông Chồng Bà Chồng với giọng thơ trầm tĩnh, chiêm nghiệm, ngợi ca đầy xúc động,: Khéo khéo bày trò tạo hoá công, Ông Chồng đã vậy lại Bà Chồng. Tầng trên tuyết điểm phơ đầu bạc, Thớt dưới sương pha đượm má hồng. Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt, Khối tình cọ mãi với non sông. Đá kia còn biết xuân già dặn, Chả trách người ta lúc trẻ trung. (Đá Ông Chồng Bà Chồng) Khác với cái nghĩa bị lãng quên ở bài thơ trên, bài thơ này có đủ cả nghĩa và tình làm nền tảng cho đạo lí vợ chồng, vì thế mà tình yêu của Ông Chồng - Bà Chồng thật đẹp: hài hoà giữa son sắc thuỷ chung (gan nghĩa dãi ra) và nồng đượm ái ân ( khối tình cọ mãi) nên tình yêu ấy vẫn luôn trẻ trung, bền chặt trước bao dâu bể thăng trầm của cuộc đời (trò tạo hoá công), để trường tồn với non sông, nhật nguyệt. Phải chăng đây cũng chính là hình mẫu một tình yêu đẹp và lý tưởng mà nhân dân lao động muốn hướng đến? Văn học hiện đại sau này học tập văn học dân gian, tiếp nối những tư tưởng phóng khoáng, tiến bộ trong văn học trung đại từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… tiếp tục tạo nên sự đa thanh, đa giọng điệu trong văn học làm nên sự phong phú cho tiếng nói tình yêu và khát vọng hạnh phúc của con người. Một Xuân Diệu với tiếng thơ tràn đầy sức sống và tình yêu thương, khát khao yêu và được yêu; giọng điệu thơ vì thế cũng sôi nổi, nồng nàn cuồng nhiệt: vội vàng sống, giục giã yêu, cuống quýt tận hưởng cuộc sống cho kịp bước đi của thời gian. Xuân Diệu đem gởi hương tình cho gió, nhờ gió rải khắp nhân gian cõi lòng đầy ứ yêu thương của mình. Ông còn mượn thơ để kịp nói những lời yêu với người đời: Yêu tha thiết thế vẫn còn chưa đủ Phải nói yêu trăm bận đến nghìn lần Phải mặn nồng cho mãi mãi đêm xuân Đem hoa bướm thả trong vườn tình ái ( Phải nói ) Thơ Bích Khê lại góp vào làng thơ một giọng thơ lạ: vừa kì ảo, siêu thoát vừa bàng bạc một trời yêu thương da diết, một trời tâm tư buồn mơ. Thơ ông là khúc Mộng tình vừa hư ảo, vừa mênh mang lan toả. Mộng thì xa nhưng tình trong thơ ông rất thực: đó là tình với người, với đời, với giai nhân, với thi ca, âm nhạc, tình yêu với cái đẹp. Do quá say mê với nhiếu đối tượng nên tiếng thơ Bích Khê ít nhiều nhạt dần trong nội dung thể hiện khát khao tình yêu hạnh phúc của con người ở phạm vi đại chúng. Đó cũng là trường hợp tương tự của Vi Thuỳ Linh và một số nhà thơ sau này khi thơ tình của họ ngày càng bó hẹp trong cái tôi cá nhân. Điều đó một phần do ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử, thời nay những quan niệm lễ giáo phong kiến lạc hậu không còn nặng nề, con người được tự do yêu đương và mưu cầu hạnh phúc, con đường đi tìm hạnh phúc, đấu tranh cho tình yêu bằng phẳng hơn, ít rào cản hơn, vì thế mà khát vọng tình yêu hạnh phúc cho con người không còn vang lên thiết tha, mãnh liệt như ở các giai đoạn trước. 3.3.3. Giọng xót xa, đồng cảm Ao ước nhiều, khát khao lắm nhưng mọi sự ở đời đâu phải lúc nào cũng thuận theo lòng người, huống chi trong xã hội phong kiến nhiều bất công, bi kịch luôn rình rập đổ xuống số phận con người, nhất là người phụ nữ. Có lẽ vì thế mà trong ca dao trữ tình, suốt bao thế kỉ qua, bên cạnh những câu hát yêu thương tình nghĩa, đâu đó vẫn văng vẳng tiếng than thân với giọng buồn thương da diết của người phụ nữ còn vang vọng đến tận ngày nay. Số phận càng cay nghiệt hơn với người tài hoa, Xuân Hương cũng từng nếm trải bao cay đắng: lấy chồng muộn, hai lần lấy chồng đều làm lẽ, rồi hạnh phúc chông chênh, hiếm hoi đó cũng không trọn vẹn, nữ sĩ sớm goá bụa, nuốt nước mắt vào lòng, bà chôn chặt ước mơ để sống trọn kiếp người, nhưng bên cạnh giọng thơ khoẻ khoắn yêu đời thi thoảng ta vẫn bắt gặp đâu đó trong thơ Nôm Xuân Hương những nỗi niềm thầm kín, nỗi đau thân phận lặn sâu trong câu chữ. Xuân Hương đã không ít lần trải qua những khoảnh khắc cô đơn đáng sợ khi một mình Tự tình trong đêm khuya thanh vắng, một mình đối diện với chính mình, trơ trọi, nhỏ bé trước non sông, vũ trụ bao la, trước thành trì cao ngất của lễ giáo, của định kiến xã hội tứ phía bủa vây, của con đường hạnh phúc mịt mù mờ ảo xa tầm tay với. Thật đáng sợ thay cái không gian đêm khuya ấy khi nó buộc con người phải đối diện với chính mình, với sự thật bẽ bàng của phận lẽ mọn hẩm hiu: Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn Trơ cái hồng nhan với nước non. ( Tự tình III ) Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom, Oán hận trong ra khắp mọi chòm. ( Tự tình II ) Trong đêm cô tịch vang lên tiếng trống dồn, triếng gà giục giã từ xa vọng lại như bước đi vội vã của thời gian, hình ảnh người thiếu phụ hiện lên trơ trọi, cô đơn, bất động như hoá đá đang ngồi đong hạnh phúc bằng nỗi oán hận ngao ngán. Giọng thơ sao chua chát, chất chứa ấm ức, tủi hờn: -….Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh. ( Tự tình I ) -….Sau giận vì duyên để mõm mòm. ( Tự tình II ) -…..Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại. ( Tự tình III ) Xuân Hương chẳng thể ngăn được nỗi buồn, cảm xúc cứ bật ra không cần che giấu: ngao ngán, giận, ngán nỗi…lại thêm từ láy và cách chơi chữ lênh đênh, mõm mòm, lại lại…như kéo dài thêm giọng ai oán xót xa cho cảnh ngộ éo le, cay đắng trong tình duyên. Mà số phận ấy đâu chỉ dành riêng cho mỗi Xuân Hương, trong xã hội phong kiến thối nát xưa có bao người phụ nữ trong đêm đã phải gạt lệ khóc thầm vì tình duyên, hạnh phúc không trọn vẹn ? Bao lần ta đã cùng Kiều thảng thốt giật mình trong đêm để tự thương mình trong tình cảnh ê chề, tê tái của kiếp ca kỹ lầu xanh mỗi khi tàn cuộc vui: Khi tỉnh rượu lúc tàn canh Giật mình mình lại thương mình xót xa. ( Truyện Kiều ) Bao lần ta cùng chinh phụ thổn thức trong đêm mơ giấc ái tình: Vì chàng lệ thiếp nhỏ đôi. Vì chàng thân thiếp lẻ loi một bề! (Chinh phụ ngâm) Bao lần ta lại cùng cung nữ trong canh vắng, lắng nghe tiếng gió lay động, nhìn ánh trăng nghiêng mái lầu, thấp thỏm đợi chờ ơn mưa móc. Nhưng chỉ có lạnh lùng đến giá băng, tịch mịch đến rợn người, thâm u đến não nề bủa vây, giọng thơ ai oán, não nề như những tiếng thở dài ngao ngán chán chường nối tiếp nhau không dứt: -…Lầu Tần chiều nhạt vẻ thu Gối loan tuyết đóng, chăn cù giá đông. -…Lạnh lùng thay giấc cô miên Mùi hương tịch mịch, bóng đèn thâm u. ( Cung oán ngâm khúc ) Ý thức về hạnh phúc, tuổi xuân qua mau, về sự hữu hạn của kiếp người trước cái vô tận, vô hạn của thời gian, không gian, sau này ta còn bắt gặp trong nhiều bài thơ có âm hưởng sầu thương, cô đơn trong tiếng thơ Xuân Diệu, Bích Khê, Vi Thuỳ Linh. Em sợ lắm. Giá băng tràn mọi nẻo. Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da. ( Lời kỹ nữ ) Cùng giọng buồn nhưng tình điệu thật khác nhau. Cái buồn trong thơ hiện đại gắn với tâm thức cái tôi nhận ra giới hạn của tình đời mâu thuẫn với lòng yêu của thi nhân mong tìm kiếm sự vô biên tuyệt đích. Còn nỗi buồn trong thơ trung đại nói chung, thơ Hồ Xuân Hương nói riêng là nỗi buồn thân phận gắn với khát vọng hạnh phúc trong hôn nhân tình yêu, rất chân thật và cụ thể, bình dị và đơn giản. Thiên chức của người phụ nữ là làm vợ, làm mẹ, hạnh phúc nhất đời người phụ nữ là tìm thấy ý nghĩa tồn tại, giá trị của mình không phải chỉ ngoài xã hội, trên chính trường hay thương trường mà chính là trong mái ấm giá đình, nơi họ tìm thấy ý nghĩa của hai chữ hi sinh. Ấy vậy mà sao trong xã hội xưa hạnh phúc đời thường ấy lại quá khó khăn, cao xa vượt tầm tay con người đến thế? Nhưng mạnh mẽ và nhân hậu biết bao, Xuân Hương đã dũng cảm vượt qua nghịch cảnh bản thân để hướng đễn nỗi đau chung của bao số phận, nữ sĩ mở lòng bao dung, đồng cảm, bênh vực con người. Từ xót xa thương mình thơ Hồ Xuân Hương đã hướng đến để yêu thương đồng cảm bênh vực những con người cùng chung số phận. Bà bênh vực cô gái lỡ làng: Quản bao miệng thế lời chênh lệch, Không có, nhưng mà có mới ngoan! ( Không chồng mà chửa ) Bà Dỗ người đàn bà khóc chồng: Văng vẳng tai nghe tiếng khóc chồng, Nín đi kẻo thẹn với non song. ( Dỗ người đàn bà khóc chồng) Bà đồng cảm với người phụ nữ chịu cảnh lẽ mọn hẩm hiu: Năm thì mười hoạ chăng hay chớ, Một tháng đôi lần có cũng không. ( Làm lẽ ) Giọng thơ lúc thì rắn đanh, chắc như tấm khiên chở che cho người phụ nữ trước miệng lưỡi cay nghiệt của thế gian, lúc thủ thỉ, dịu dàng nhắc nhở nhau cùng vượt qua nỗi đau mất chồng, khi chua chát cay đắng khuyên người cũng là tự nhủ lòng, dặn mình. Giọng thơ như lời tâm tình sẻ chia, an ủi của người chị lớn, người mẹ hiền, người bạn đồng cảnh. Và trong cõi nhân gian này, bao phận đàn bà cùng cảnh ngộ, lúc đau buồn nhất, tuyệt vọng nhất, có tìm thấy nơi những bài thơ của nữ sĩ họ Hồ nguồn an ủi ấm áp, chân thành không? 3.3.4. Giọng bất bình phản kháng Yêu thương, trân trọng quyền sống của con người, trong đó có quyền hạnh phúc trong tình yêu, tôn trọng tình cảm thuận theo lẽ tự nhiên của con người nên Xuân Hương“ dị ứng” với tất cả những gì đi ngược tự nhiên, trái với quyền được sống của con người. Đứng về phía con người, nhất là người phụ nữ – đối tượng cần được trân trọng, nâng niu, yêu thương, chở che, bà vạch trần thói đạo đức giả của chủ nghĩa cấm dục trong quan niệm Nho giáo, bà thẳng thừng hạ bệ, đánh vào chỗ hiểm của thói đạo đức giả nơi những đối tượng đáng tôn kính - đại diện cho bộ mặt của xã hội phong kiến đương thời: vua chúa, hiền nhân, quân tử, ông sư, nhà chùa….Bà chỉ ra cho thấy tuy mũ cao áo rộng nhưng họ vẫn là người trần mắt thịt, đều là những kẻ khao khát bản năng, ham thích ái tình. Tiếp thu tinh thần dân gian, tuy bất bình xã hội, phản kháng lại lễ giáo khắc nghiệt nhưng nữ sĩ không đao to búa lớn mà chọn giọng mỉa mai châm biếm nhẹ nhàng để cười cợt, nhắc nhở. Xã hội phong kiến trọng nam khinh nữ rẻ rúng người phụ nữ thì dân gian lại trả họ về vị trí xứng đáng: -…..Ba đồng một mớ đàn ông Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha. Ba trăm một mụ đàn bà, Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. -….Chồng con là cái nợ nần Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm. -…..Bao giờ lão móm chầu trời, Thì em lại kiếm một người trai tơ. Trong thơ Hồ Xuân Hương người phụ nữ được nâng niu, chăm chút, được đặt đúng vị trí xã hội của mình. Người phụ nữ không còn là nạn nhân của những cuộc chiến phi nghĩa (Chinh phụ ngâm) hay trò mua vui cho bọn vua chúa háo sắc hoang dâm (Cung oán ngâm khúc), họ giờ đây là nguồn cội sự sống, nguồn ban phát hạnh phúc ái ân, là nỗi khát thèm ao ước của bao kẻ quyền cao chức trọng. Trước người phụ nữ, cái bản năng tầm thường của không ít đối tượng bị bóc trần. Tiếng cười vang lên thật hồn nhiên láu lỉnh khi nữ sĩ như “đi guốc vào bụng” cái anh chàng mang tiếng quân tử tài cao, chí lớn kia lại không nén nỗi lòng tà trước vẻ tươi thắm, nõn nà của tấm thân thiếu nữ đang say giấc nồng : Quân tử dùng dằng đi chẳng dứt Đi thì cũng dở, ở không xong. (Thiếu nữ ngủ ngày) Giọng điệu hài hước tinh nghịch có khi lại như thủ pháp mèo vờn chuột, nói xa nói gần cuối cùng “ nốc ao” bằng câu kết khiến đối tượng bị phê phán xanh mặt vì bị nói trúng tim đen. Đó là tiếng cười phổ biến trong chùm thơ vịnh cảnh, vịnh vật mà Đèo Ba Dội là một điển hình: Một đèo, một đèo, lại một đèo, Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo. Cửa son đỏ loét tùm hum nóc, Hòn đá xanh rì lún phún rêu. Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc, Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo. Hiền nhân quân tử ai mà chẳng, Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo. (Đèo Ba Dội) Đọc sáu câu đầu, cảnh tả thật đến nỗi ta như thấy đèo Ba Dội hiện lên sừng sững trước mặt, loạt từ láy tượng hình (cheo leo, tùm hum, lún phún, lắt lẻo, đầm đìa…) và tính từ, động từ cực tả (đỏ loét, xanh rì, gió thốc, sương gieo…) gây ấn tượng mạnh về một đẹp thiên nhiên trong trạng thái động và sống, quả là tài tình! Đến hai câu cuối xuất hiện hình ảnh hiền nhân quân tử có vẻ như chẳng ăn nhập gì với cảnh, rồi cái sự gắng sức đến nhiệt tình của họ khi cố trèo lên Ba Dội dù gối đã mỏi chân đã chồn khiến người đọc nghi ngại, nửa tin nửa ngờ, buộc phải đọc lại bài thơ đôi ba lần, cuối củng thì vỡ lẽ, tiếng cười vỡ oà còn bọn quân tử hiền nhân kia thì sượng sùng cúi mặt. Tiếng cười ở đây thật gần với tiếng cười dân gian trong câu đố tục giảng thanh, đố thanh giảng tục. Là nhà thơ trân trọng hạnh phúc, khao khát tình yêu nên nữ sĩ thấy chướng tai gai mắt trước đối tượng Quan thị chọn lối sống trái tự nhiên, diệt dục để chịu cảnh sống vô hồn, vô cảm mất hết ý nghĩa tồn tại của con người. Giọng thơ không đồng tình nhưng cũng thấu hiểu cảm thông: Mười hai bà mụ ghét chi nhau, Đem cái xuân tình vứt ở đâu? …………………………….. Đã thế thì thôi, thôi mặc thế, Trăm năm càng khỏi tiếng nương dâu. (Quan thị ) Kẻ đáng kính bị hạ bệ còn nơi tôn nghiêm cũng bị điểm mặt. Xuân Hương không tha cho những kẻ buôn thần bán thánh lấy chốn trang nghiêm làm điều xằng bậy, bởi điều đó đồng nghĩa với việc họ đã chà đạp lên niềm tin, tín ngưỡng của nhân dân. Viết về đối tượng này, nữ sĩ không ngăn được giọng bất bình, không giấu được thái độ ghét cay ghét đắng bọn sư hổ mang qua nghệ thuật nói lái, dùng tiếng chửi dân gian -…Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc, Trái gió cho nên phải lộn lèo ( Cái kiếp tu hành ) -…Cha kiếp đường tu sao lắt léo, Cảnh buồn thêm ngán nợ tình đeo! ( Chùa Quán Sứ ) Giọng điệu bất bình phản kháng trong thơ Hồ Xuân Hương (trong đó có bất bình về quyền sống hạnh phúc, tình yêu không được xã hội trân trọng) cũng là giọng điệu chủ đạo trong văn học giai đoạn thế kỉ XVIII – giữa thế kỉ XIX đánh dấu sự trỗi dậy của tinh thần Phục hưng của thời đại và tiếng nói dân chủ của con người trong xã hội phong kiến thối nát đang trên đường giãy chết. Nó khác về mức độ và sắc thái so với văn học hiện đại. Về mức độ, trong văn học hiện đại hầu như vắng bóng giọng điệu bất bình phản kháng về đề tài giới tính, tính dục; về sắc thái biểu hiện nếu có thì đó là giọng điệu không rõ tính chất đối kháng với xã hội, với hoàn cảnh mà đó là sự mâu thuẫn giữa cá nhân với thế thái nhân tình, với qui luật tồn vong của con người: một cái tôi ham sống yêu đời vô tận đối lập với đời người hữu hạn, một trái tim đa cảm, đa tình, đa mang nhưng gặp phải thói đời vô tình hờ hững, đen bạc…Văn học hiện đại (nhất là sáng tác của các nhà Thơ mới: Xuân Diệu, Bích Khê) luôn lấy “cái tôi nội cảm” của mình làm thước đo cho muôn vật. Vì thế nó có phạm vi hẹp trong một trào lưu ,một đối tượng (ví dụ nỗi buồn trong thơ mới là nỗi buồn của một lớp trí thức yêu nước nhưng bế tắc tìm đến thiên nhiên, tình yêu như cứu cánh để thoát ly hiện thực….). Còn giọng điệu bất bình trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương và các tác giả cùng thời lại tiếp nối tinh thần dân chủ, tính chiến đấu trong văn học dân gian: mượn tiếng cười để mỉa mai những hiện tượng, đối tượng đáng cười, để châm biếm đấu tranh với những thói hư tật xấu nhằm hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn nên đó là tiếng cười tái sinh, tiếng cười có ý nghĩa xây dựng tích cực, là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.  Tiểu kết: Viết về vấn đề tính dục là việc khó đối với người cầm bút. Khó bởi đấy vốn là vùng đất cấm kị, người viết luôn chịu tác động bởi phản ứng, áp lực từ dư luận xã hội; khó vì đây còn là vùng đất hoang ít người cày xới nên việc định hình một chuẩn mực, một hướng đi vẫn còn bỏ ngõ; khó còn là vì tính dục là chuyện buồng kín, phòng the, giờ phơi bày lên mặt giấy thì viết sao cho không rơi vào thô thiển, dung tục, sỗ sàng quả không phải là dễ. Đó thực sự là thử thách đối với người cầm bút. Nhưng bao giờ cái khó cũng vừa là thử thách vừa mang đến cho ta cơ hội. Các tác giả mà chúng tôi tuyển chọn trong phạm vi nghiên cứu của luận văn đã chứng tỏ: với những tài năng lớn, thử thách luôn là cơ hội để họ ghi một dấu ấn trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của mình, thậm chí họ còn khai phá cả một con đường khi lựa chọn tính dục như là một yếu tố nghệ thuật đắc dụng giúp họ biểu đạt những quan niệm mới. Mỗi tác phẩm một vẻ, mỗi nhà thơ một phong cách, nhưng họ đều góp phần đưa văn học có đề cập đến yếu tố tính dục vượt khỏi cái bản năng thô sơ vươn đến cái thẩm mĩ trong nghệ thuật, chất nhân văn trong nội dung. Trong quá trình tìm hiểu tư liệu để viết luận văn, chúng tôi thích thú vô cùng khi đọc và giải những câu đố lý thú, những bài ca dao trữ tình có đề cập đến yếu tố tính dục vẫn còn nguyên chất mộc mạc của cuộc sống và vẻ tươi tắn, hồn nhiên trong tâm hồn người bình dân. Tác giả dân gian đã khéo léo vận dụng thể thơ lục bát quen thuộc, tiếng nói đời sống sinh động để bộc lộ tiếng yêu thương da diết, khát vọng hạnh phúc thiết tha của mình. Gấp quyển sách lại, kết thúc bài viết, chúng tôi vẫn như nghe đâu đó tiếng đồng vọng thiết tha của tình yêu và khát vọng vang lên sau luỹ tre làng, mênh mông trên những cánh đồng và trải dài theo những con sông trên khắp mọi nẻo đường quê, cuối cùng đọng lại thiết tha trong lòng người. Tình yêu mang màu sắc tính dục được đề cập đến trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương và văn học trung đại lại mang đến cho người đọc một khoái cảm thẩm mĩ mới. Nó ví như một đoá hoa hàm tiếu còn e ấp mà đã dậy hương thơm gợi mời sự khám phá và đón nhận nơi người đọc. Chịu ảnh hưởng của tinh thần dân chủ của thời đại, phong trào phục hưng trong dân gian, văn học trung đại với sự thức tỉnh của ý thức cá nhân đã dấy lên cả một trào lưu văn học mang tiếng nói khát khao đòi giải phóng con người, đòi quyền sống cho con người trong đó có quyền hạnh phúc. Chưa bao giờ những áng thơ tình xuất hiện trên thi đàn văn học nhiều và đặc sắc như thế. Một Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều với thể ngâm khúc diễm lệ, ngôn từ bóng bẩy hoa mĩ, giọng điệu đắm say đã nói thay người phụ nữ nỗi oan trái và đánh thức nơi họ những khát khao tình yêu đầy bản năng mà vẫn tinh tế, không chút sống sượng. Đại thi hào Nguyễn Du tìm về dân tộc trong thể thơ dân gian lục bát để làm nên Truyện Kiều bất hủ. Tưởng chừng khó có thể dung hoà những đề tài lớn, những tư tưởng cao sâu, những biến động dữ dội và trên hết là những tiếng tâm tình bi thiết mà tinh vi nhất của thế giới nội tâm con người vào thể thơ dân gian mộc mạc. Ấy vậy mà Nguyễn Du đã thành công! Điều đó vừa chứng minh tầm vóc lớn của một thiên tài - Nguyễn Du vừa giúp người đọc khám phá ra chất ngọc, mỏ vàng vẫn còn tiềm ẩn trong thể thơ dân gian và những chất liệu quý trong nền văn hoá dân tộc. Xuân Hương lại là một khám phá bất ngờ khác. Trái với Nguyễn Du tìm về hình thức thể hiện quen thuộc của dân gian, Xuân Hương vẫn sử dụng thể thơ tứ tuyệt, thất ngôn luật Đường phổ biến trong xã hội đương thời nhưng bằng sự thông mính và sáng tạo nữ sĩ đã cách tân, Việt hoá thể thơ bác học này để nó có thể chứa được bên trong cái hồn cốt, tư tưởng thuần Việt. Với công lao ấy, nhà phê bình Lại Nguyên Ân đã không quá lời khi khẳng định: “Trong số những tác giả lớn của văn học đương thời, Hồ Xuân Hương dân chủ nhất. Bà cũng khác hẳn và mạnh mẽ hơn hẳn các tác giả khuyết danh đã tạo ra cả một loại truyện Nôm; nếu như họ đã dân tộc hoá những quy phạm của đạo lý phong kiến, đại chúng hoá những mẫu mực của văn chương bác học thì Xuân Hương làm theo hướng ngược lại với họ, bà đem vào văn học cả tinh thần, thế giới quan của văn học dân gian lẫn những phương tiện ngôn ngữ đặc thù của nó”. [: 538]. Nghĩa là không chỉ Việt hoá nội dung mà ngòi bút Xuân Hương còn buộc thể thơ Đường luật bác học ấy phải lột xác để chứa cho khớp cái tinh thần Việt ấy. Quả là một hiện tượng độc đáo vô song; chưa kể đến những biệt tài khác của nữ sĩ trong việc kế thừa và sáng tạo thi liệu văn học dân gian. Chính nhờ khả năng đặc biệt đó mà thơ Nôm mang màu sắc tính dục của Xuân Hương bao thế kỷ qua vẫn sống và luôn tạo thành hiện tượng tranh luận, là nguồn cảm hứng khám phá, là đề tài nghiên cứu của bao thế hệ. Tiếp nối những thành tựu của thế hệ trước, đoá hoa tình yêu hàm tiếu đã mãn khai rực rỡ dưới ngòi bút của các nhà thơ hiện đại. Thơ ca hiện đại viết về tình yêu có đề cập đến yếu tố tính dục lại tiếp tục hành trình cách tân nghệ thuật đưa thơ ca Việt Nam nói chung, thơ ca có yếu tố tính dục nói riêng, ngày càng phát triển, rút ngắn khoảng cách với thơ ca hện đại thế giới. KẾT LUẬN Xuất hiện đề tài tính dục trong văn chương là dấu hiệu sự thức tỉnh của con người cá nhân. Theo dòng lịch sử “cái tôi” cá nhân ấy cũng có sự phát triển. Khởi đầu “cái tôi” ấy phôi thai trong lòng đại chúng, phát triển tự nhiên, hồn nhiên trong môi trường văn hóa dân gian như là một cách lý giải tự nhiên mang màu sắc tín ngưỡng . Đến giai đoạn trung đại, “cái tôi” cá nhân ấy thức tỉnh giữa xã hội phong kiến đang trên đường suy tàn, và “cái tôi” ấy ngày càng lớn mạnh khi đón nhận luồng gió hiện đại của những tư tưởng dân chủ từ phương Tây thổi vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX . Không thể phủ nhận những đóng góp lớn lao của văn học viết về đề tài tính dục vì nó đã góp phần thay đồi quan niệm nghệ thuật về con người: từ con người vô ngã đến con người cá nhân tự ý thức giá trị bản thân , khẳng định nhu cầu sống tự nhiên, trọn vẹn. Đó là khát vọng muôn đời của con người. Vì thế văn học viết về vấn đề tính dục giàu giá trị nhân văn. Vấn đề tính dục trong văn học qua những tác phẩm tìm hiểu trong luận văn ít nhiều góp phần làm phong phú đa dạng bộ phận văn học Việt viết về đề tài tình yêu, thay đổi cái nhìn của không ít người do định kiến khắt khe với vấn đề khá nhạy cảm này nên thường có cái nhìn phiến diện, đánh giá chưa chính xác, mặt khác bài viết cũng góp một tiếng nói để khẳng định giá trị của những trang thơ Nôm giàu sức sống làm nên tên tuổi Hồ Xuân Hương. Do ảnh hưởng thời đại, cuộc đời riêng, phong cách sáng tác …mà mỗi nhà thơ đều có những đóng góp riêng, những nét riêng trong nội dung và cách thể hiện khi viết về vấn đề tính dục. Qua tìm hiểu chúng tôi rút ra được một số kết luận thú vị: Các tác giả thuộc nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau nhưng trong cảm thức về tình yêu, một chủ đề muôn thuở, thơ họ vẫn có những điểm tương đồng.Trước hết thơ họ viết về vấn đề tính dục đều thể hiện một quan niệm nhân sinh mới về con người. Tiếp nối chủ nghĩa nhân văn trong những giai đoạn trước: văn học ca ngợi con người với vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách, trí tuệ, kết tinh phẩm chất của cộng đồng, dân tộc; những tác phẩm văn học có yếu tố tính dục mà chúng tôi giới hạn tìm hiểu trong luận văn đã bổ sung quan niệm mới về con người khi đưa vào văn học hình tượng con người cá nhân với nhân vật trung tâm là người phụ nữ - biểu tượng mới của cái đẹp, tình yêu, tuổi trẻ, biểu tượng cho khát vọng sống và quyền hạnh phúc của con người. Giờ đây văn học không chỉ đề cao con người lí tưởng, đạo đức gắn với trách nhiệm, cống hiến và hi sinh, mà văn học còn khẳng định con người cá nhân với quyền được sống, được yêu thương và mưu cầu hạnh phúc, trong đó bao gồm cả hạnh phúc về mặt tinh thần lẫn vật chất, thể xác, bản năng…. Hành trình sống của con người là hành trình đi tìm hạnh phúc trong đó có hạnh phúc tình yêu. Khao khát tình yêu gắn với khao khát nhục cảm ái ân là khát vọng có thật của con người được phản ánh trong văn học dưới hình thức những yếu tố tính dục. Dưới góc độ so sánh, ta có thể thấy vấn đề tính dục trong văn học có sự phát triển như một dòng chảy liên tục, có sự kế thừa và cách tân nhưng tất cả đều bắt nguồn từ cội rễ văn học dân gian kế thừa ở giai đoạn văn học trung đại và nối tiếp mạnh mẽ ở văn học hiện đại. Cả ba bộ phận văn học dân gian, trung đại và hiện đại viết về vấn đề tính dục đều lấy hình tượng người phụ nữ vừa là đối tượng phản ánh vừa là nguồn cảm hứng sáng tạo. Người phụ nữ hiện lên trong văn học với nhiều vẻ đẹp khác nhau: mộc mạc trong ca dao, tươi tắn trong thơ Hồ Xuân Hương, quyến rũ trong thơ trung đại và tràn trề nhựa sống trong thơ hiện đại. Đặc biệt cả ba bộ phận văn học trên đều tìm thấy ở vẻ đẹp hình thể người phụ nữ nguồn sống, nguồn yêu, nguồn hoan lạc. Người phụ nữ xuất hiện trong những tác phẩm tìm hiểu trên đều đẹp, từ góc nhìn tổng thể đến từng bộ phận cơ thể đều thức dậy dục tình, đánh thức những khát khao bản năng rất đời thường của con người. Trước vẻ đẹp đó con người vứt bỏ lớp áo đạo đức ngụy trang trở về với đúng bản ngã hồn nhiên của mình. Qua hình tượng người phụ nữ gắn với đề tài tính dục ta tìm thấy sự tương đồng trong cách nghĩ cách cảm của Hồ Xuân Hương với văn học dân gian gắn với triết lý phồn thực mật thiết hơn so với văn học trung đại và văn học hiện đại. Văn học trung đại mượn tiếng nói đòi quyền sống hạnh phúc cho con người nhất là người phụ nữ để gián tiếp chống lại lễ giáo phong kiến nhưng do nhà thơ đa số là những trí thức phong kiến bị trói buộc bởi ý thức hệ giai cấp mình nên trong sáng tác vấn đề tính dục nếu có đề cập cũng bóng gió xa xôi, mang tính ước lệ. Trái lại, văn học hiện đại do tư tưởng tự do dân chủ nên các nhà thơ không chút e dè khi công khai, trực tiếp để người phụ nữ trong thơ mình vượt lễ giáo, định kiến tự do đuổi theo khát vọng tình yêu. Đó là thứ tình yêu mang đậm triết lí hưởng thụ, tình yêu là sự gắn bó hòa hợp cả thể xác lẫn tâm hồn, tan biến vào nhau đến vô biên tuyệt đích, yêu là tận hưởng, tận hiến. Với quan niệm đó những tác phẩm viết về đề tài tính dục cũng trở nên khá táo bạo: đề cập nhiều đến các bộ phận nhạy cảm (sinh thực khí), mô tả trực tiếp đôi lúc khá thô và trần trụi các hoạt động tính giao. Đặc biệt các nhà thơ hiện đại với cái tôi cá nhân mạnh mẽ không ngần ngại kiêng dè khi bộc lộ đích danh cái tôi cá nhân – chủ thể trữ tình trong thơ. Họ không che dấu những khát vọng bản năng, họ ca tụng tình yêu, bản năng và thân xác và họ dũng cảm đi tìm hạnh phúc nơi thiên đường trần thế. Vấn đề tính dục trong thơ hiện đại được thể hiện nhiều về số lượng và đa dạng, phong phú về nội dung. Nhưng do dấu ấn cái tôi cá nhân khá đậm nét nên vấn đề tính dục trong thơ hiện đại còn mang tính cá thể. Hồ Xuân Hương lại khác, thơ Nôm của nữ sĩ hài hòa giữa tiếng lòng riêng và tiếng nói thân phận chung của người phụ nữ nên vấn đề tính dục trong thơ nữ sĩ không phải là ẩn ức cá nhân mà là khát vọng chính đáng của con người. Bà đã nói đúng, nói thay cái điều mà lẽ ra là quyền sống của con người nhưng trong xã hội phong kiến lễ giáo nó bị cấm kị, kiêng dè. Rõ là thơ Nôm Xuân Hương đã nhân đạo và tiến bộ hơn thời đại bà sống để vượt không gian thời gian tìm thấy sự tri âm tương giao trong tư tưởng với các nhà thơ hiện đại thế kỉ XX. Vấn đề tính dục trong thơ Hồ Xuân Hương do đó vừa mang tính khái quát, đại chúng vừa giàu giá trị nhân văn khi dám lên tiếng đấu tranh cho quyền sống chính đáng của con người. Vấn đề tính dục phản ánh trong ba bộ phận văn học kể trên còn xác lập cho văn học một quan niệm thẩm mĩ mới: con người tuổi trẻ, tình yêu là cái đẹp, nhưng cái đẹp đó phải được thức dậy, được sống động ở nhục thể, ở da thịt, ở ân ái. Họ thay cái nhìn e dè vốn có trong tư tưởng con người phương Đông bằng cái nhìn trực diện về xác thịt, tính dục. Và ở điểm này, các nhà thơ hiện đại tìm thấy ở Hồ Xuân Hương sự đồng điệu trong quan niệm thơ tính dục. Trước hết là cái nhìn thiên nhiên được miêu tả luôn mang màu sắc tính dục, thiên nhiên mang bóng dáng con người biết tìm đến nhau để giao hòa, giao tình. Sau nữa, các nhà thơ đã làm đổi mới một quan niệm truyền thống: Thơ xưa (thơ trung đại) lấy thiên nhiên làm thước đo vẻ đẹp của con người thì thơ nay ( thơ hiện đại) lấy con người làm chuẩn mực để đo vẻ đẹp của tự nhiên. Thật lạ thơ Nôm Hồ Xuân Hương như nhịp cầu nối hai bờ hiện đại – trung đại, trở về hồi sinh trong văn học dân gian khi thiên nhiên trong thơ nữ sĩ hài hòa cả hai quan niệm trên. Mặt khác, với cá tính độc đáo, tài năng lạ thường, nữ sĩ đã không lặp lại văn học dân gian, thơ bà cũng không phải là trung bình cộng các giá trị của hai bộ phận văn học trung đại và hiện đại mà những bài thơ Xuân Hương viết về con người thực sự là những khám phá mới lạ, toàn diện và nhân bản nhất về con người. Thơ Nôm Hồ Xuân Hương thực sự là bài ca tin yêu nhân hậu nhất viết về con người – con người đúng nghĩa trần thế nhất: cao thượng và bình thường, tâm hồn và vật chất, lí tưởng và bản năng, hạnh phúc và khổ đau, ước mơ và bi kịch…, Ngòi bút Xuân Hương chứa chan tình: ca ngợi người phụ nữ đầy yêu thương, đề cao khát vọng tình yêu đôi lứa rất trần thế, viết về nhu cầu hạnh phúc ái ân vô cùng chân thành…những đề tài, cảm hứng quen thuộc, những khao khát muôn đời của con người vào thơ nữ sĩ bỗng có hồn, có tình, khác thường và xúc động khôn tả, bởi nữ sĩ đã sống và viết bằng tất cả ước mơ, khát khao, hi vọng, đau khổ của bản thân của giới nữ và của cả nhân loại. Về nghệ thuật, từ cách nói nôm na, bình dị bằng thứ ngôn ngữ bình dân, đại chúng trong văn học dân gian, đến văn học trung đại thì đề tài tính dục trở nên sâu sắc hơn, sục sôi khát khao dù được bọc trong lớp vỏ nghệ thuật bóng bẩy hoa mỹ để có thể tồn tại trong lòng xã hội phong kiến nhiều trói buộc. Và đến giai đoạn văn học hiện đại, đề tài tính dục đã trở nên phổ biến, trần trụi, hiện thực hơn với nhiều cách tân nghệ thuật làm giàu cho nền văn học nước nhà. Cách thể hiện đề tài tính dục trong dân gian bộc trực hồn nhiên, đến Xuân Hương lại nhẹ nhàng thâm thúy, sâu sắc, đề cập đến những khao khát của con người ở chiều sâu chứ không dừng ở khoái cảm, cảm xúc sinh lý nên thật độc đáo. Cách nói, cách nghĩ và phương tiện biểu đạt trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương vừa gần gũi với văn hoá dân gian vừa mang dấu ấn sáng tạo riêng nên thơ Nôm Hồ Xuân Hương đã vượt qua giới hạn tiếng nói cá nhân mà trở thành tiếng nói, khát vọng của con người nói chung nên nó có sưc sống thật kì diệu. Hồ Xuân Hương tiếp thu cái đẹp tự nhiên, chân chất của ca dao, hình thức ngắn gọn, kiệm lời, của tục ngữ, tiếng cười bình dân mà trí tuệ của câu đố để làm giàu và đem lại sức sống mới cho thơ Nôm đường luật; Việt hóa, dân gian hóa thể thơ Nôm Đường luật. Nữ sĩ tiếp thu văn học dân gian nhưng không lặp lại, rập khuôn. Bà tiếp thu những cái hay nét đẹp, cái đúng, bà không phủ định dân gian mà góp phần làm cho kho tàng văn học dân gian ngày càng phong phú. Thơ Hồ Xuân Hương là sự hài hoà giữa nội dung và nghệ thuật: một hình thức thuần tuý Việt Nam chứa một tâm hồn, lối sống, cách nghĩ cũng rất Việt Nam. Nữ sĩ dù mượn thơ để vịnh cảnh, tự tình để đứng về phía người phụ nữ xót thương đồng cảm, chống lễ giáo, phong kiến hay lên tiếng đòi quyền sống hạnh phúc trần thế cho con người…Dù ở nội dung nào nó cũng ánh lên vẻ đẹp nhân văn rất gần với chủ nghĩa nhân đạo của dân tộc. Đồng thời ở thơ bà ta còn thấy dấu hiệu của sự cách tân trong nội dung tư tưởng về tính dân chủ, tính cá thể hóa tạo nên bước tiến vượt thời đại, có lẽ vì thế mà ta thường bắt gặp lại hình ảnh Xuân Hương trong sáng tác của một số nhà thơ hiện đại. Có thể nói Xuân Hương đứng trên truyền thống mà hướng về tương lai. Chính điều đó khiến Xuân Hương chiếm vị trí quan trọng trên thi đàn văn học và tồn tại lâu dài trong lòng bạn đọc muôn thế hệ. Điều đó làm nên sức sống kì diệu cho thơ Nôm của bà. Như trên đã đề cập, giá trị lớn nhất mà luận văn đem lại cho chúng tôi là qua so sánh chúng tôi nhận thấy có sự giao thoa, học tập kế thừa và cách tân trong văn học viết về vấn đề tính dục ở các bộ phận văn học: dân gian, trung đại, hiện đại, qua những giai đoạn lịch sử trong những quá trình văn học khác nhau. Dù chọn cách nói trực tiếp hay gián tiếp, dù tuân theo truyền thống hay đổi mới cách tân, dù nghệ thuật thể hiện vấn đề này có đa dạng phong phú đến đâu thì điểm gặp nhau duy nhất ở những bộ phận văn học viết về đề tài tính dục là hướng đến mục đích đấu tranh cho quyền sống chính đáng, đẹp đẽ, hồn nhiên và bản năng nhất của con người. Đó cũng chính là gía trị nhân văn của văn học viết về đề tài tính dục nói chung và thơ Nôm Hồ Xuân Hương nói riêng. Mặt khác, chúng tôi còn rút ra qui luật trong sáng tạo nghệ thuật: những tác phẩm nào bắt rễ trong mạch nguồn văn hóa dân tộc cùng với cá tính và tài năng sáng tạo độc đáo tạo nên phong cách riêng thì nhất định sẽ luôn mới, luôn đúng, luôn sống bất chấp mọi thời đại. Cuối cùng, sự gặp gỡ giữa các tác giả viết về đề tài tính dục là một minh chứng hùng hồn cho sự phổ biến và tất yếu của những quan điểm, khát khao đi tìm sự tự do trong việc giải phóng và thoả mãn những khát khao chân chính và đậm tính nhân văn về bản năng tự nhiên của nhân loại trên con đường tiến hoá của lịch sử. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. M. Bahktin ( Lê Sơn -dịch), Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian Trung cổ và Phục hưng, tài liệu photo. 2. M. Bakhtin ( Phạm Vĩnh Cư, tuyển chọn, dịch và giới thiệu), (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao, trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, 1992. 3. Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Chinh phụ ngâm khúc, Nxb Đồng Nai, 2001. 4. Nhật Chiêu (2001), Văn học Nhật Bản từ khởi thuỷ đến 1868, Nxb Giáo dục, tr.122. 5. Nguyễn Văn Dân (1995), Những vấn đề lý luận của văn học so sánh, Nxb KHXH, HN 6. Nguyễn Văn Dân (2007), Từ điển Thần thoại Hy Lạp – La Mã, Nxb Từ điển Bách Khoa. 7. Nguyễn Văn Dân ( 1998), Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.72. 8. Nguyễn Nghĩa Dân (tuyển chọn-giải thích) (2005), Tục ngữ các dân tộc Việt Nam về Giáo dục đạo đức, Nxb Giáo dục. 9. Chu Xuân Diên (2001), Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn hoá dân gian, Nxb Giáo dục, tr.72. 10. Chu Xuân Diên (1999), Cơ sở văn hoá, ĐHQG, TP. HCM, tr.171,172. 11. Xuân Diệu (1987), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam ( 2 tập ), Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Vũ Dung, Vũ Thúy Anh, Vũ Quang Hào (sưu tầm và biên soạn), (2008), Ca dao trữ tình Việt Nam, Nxb Văn học. 13. Lê Tiến Dũng (1998), Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 - 1945, Nxb Giáo dục. 14. Lê Tiến Dũng, Thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932 – 1945, Cái nhìn nghệ thuật mới về thế giới con người, tạp chí Văn học số 9 – 1997. 15. Phan Cự Đệ ((chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục. 16. Hà Minh Đức ( 1987), “Giá trị nhân bản của phong trào thơ mới” trong Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thi ca, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Tản Đà, An Nam tạp chí, số 3-1933. 18. Trần Thanh Đạm, Giới tính và Văn nghệ, Báo SG-GP- số Chủ Nhật 31.10.1993. 19. Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh (tuyển chọn và giới thiệu) (1999), Nguyễn Du về tác giả tác phẩm, Nxb Giáo dục. 20. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 21. Hà Huy Giáp (giới thiệu), Nguyễn Thạch Giang (Khảo đính, chú thích), Truyện Kiều của Nguyễn Du (Chú thích chú giải và tư liệu gốc ), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, 2000. 22. Nguyễn Hữu Hào, Truyện Song Tinh, Nguyễn Thị Thanh Xuân khảo đính, phiên âm và chú thích (1984), Nxb Văn Nghệ, TP.HCM. 23. Dương Quảng Hàm (1930), Quốc văn trích diễm, Nxb Lê Văn Tân, Hà Nội. 24. Dương Quảng Hàm (1940), “ Hồ Xuân Hương”, Việt văn giáo khoa thư, Hà Nội, tr.387. 25. Dương Quảng Hàm ( 1942), Việt Nam văn học sử yếu, Học chánh Đông Dương, Hà Nội. 26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, tr. 134. 27. Nguyễn Văn Hanh (1937), Hồ Xuân Hương tác phẩm thân thế và văn tài, J. Aspar, Sài Gòn, tr.111. 28. Khánh Hằng ( tuyển chọn ) (2005), Ca dao tục ngữ hay nhất, Nxb Thanh niên. 29. Lý Trạch Hậu (2002), Bốn bài giảng mỹ học, Trần Đình Sử, Lê Tẩm dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 30. Trần Đình Hượu (Chủ biên) (1998), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.172. 31. Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Trung cận đại Việt Nam, Nxb Giáo dục. 32. Kiều Thu Hoạch (2008), Thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học. 33. Hà Minh Đức ( Chủ biên ) (2007), lý luận văn học, Nxb Giáo dục, tr.185. 34. Châu Nhiên Khanh ( tuyển chọn) (2000), Tục ngữ Việt Nam, Nxb Đồng Nai 35. Vũ Ngọc Khánh (2007), Nghiên cứu văn hóa cổ truyền Việt Nam, Nxb Giáo dục. 36. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh Văn hoá Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.172. 37. Đinh Gia Khánh (1976), Ca dao Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 38. Đinh Gia Khánh, Tục thờ mẫu và truyền thống văn hoá dân gian ở Việt Nam, Văn học, số 5, 1992. 39. Nguyễn Xuân Kính ( 1992 ), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội. 40. Bích Khê (1996), Tinh hoa, Nxb Hội nhà văn. 41. Lê Đình Kỵ ( 1988), Thơ với Xuân Diệu, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Nxb Cửu Long. 42. Nguyễn Quang Lê, Thử tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội với các tín ngưỡng dân gian, VHDG, số 1, 1990. 43. Nguyễn Hiến Lê (1922), Kinh Dịch- đạo của người quân tử, Nxb Văn học, tr.112. 44. Nguyễn Lộc (1999), Văn học Việt nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, tr. 47, 63, 284, 460. 45. Nguyễn Lộc (1983), Thơ Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học. 46. Vi Thùy Linh (1999), Khát, Nxb Hội nhà văn. 47. Vi Thùy Linh (2000), Linh, Nxb Thanh niên. 48. Vi Thùy Linh (2005), Đồng tử, Nxb Văn nghệ. 49. Vi Thùy Linh (2008), Vili in love, Nxb Văn nghệ, tr.120. 50. Phan Trọng Luận, Trương Dĩnh,Nguyễn Thanh Hùng, Trần Thế Phiệt (1999), Phương pháp dạy học văn, Nxb ĐH Quốc gia Hà Nội, tr.152. 51. Phương Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi học so sánh, Nxb Văn học. 52. Trần Thanh Mại (1964), Bản “Lưu hương ký” và lai lịch phát hiện của nó, Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 11.1964. 53. Trần Thanh Mại, Phải chăng Hồ Xuân Hương còn là một nhà thơ chữ hán,Tạp chí Nghiên cứu văn học số 3-1963. 54. Trần Thanh Mại, Trở lại vấn đề Hồ Xuân Hương, tạp chí Văn học, số 10 – 1964. 55. Nguyễn Đăng Mạnh (1998), “Xuân Diệu và niềm khát khao giao cảm với đời” trong sách Luận đề Xuân Diệu, Nxb Trẻ. 56. Tôn Thảo Miên ( 2007), “Thơ thơ và gửi hương cho gió”, Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học, Hà Nội, tr 89. 57. Trần Quang Minh, Đinh Thị Khang (tuyển chọn và biên soạn), Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nxb Giáo dục, 1999. 58. Vương Trí Nhàn, Văn học sex - chấp nhận để tìm cách đổi khác?, Nguồn Vietnamnet. 59. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) Hồ Quốc Hùng, Nguyễn Thị Ngọc Điệp (2000), Văn học Việt Nam Văn học dân gian những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục. 60. Trần Đình Sử (1996), Lý luận, phê bình văn học, Nxb Hội nhà văn. 61. Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh ( tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Hồ Xuân Hương về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 62. Văn Tân (2004), Văn học trào phúng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến ngày nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.115. 63. Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm (1994), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội. 64. Quách Tấn (1971), Đời Bích Khê, Nxb Lửa Thiêng, Tr. 95. 65. Tuấn Thanh – Anh Vũ (tuyển chọn) (2005), Hồ Xuân Hương tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học. 66. Thanh Thảo – Lại Nguyên Ân (tuyển chọn) (2005), Thơ Bích Khê tuyển tập, Nxb Hội Nhà văn Việt Nam – Hội Văn học – Nghệ thuật Quãng Ngãi. 67. Ngô Ngọc Thăng (tuyển chọn) (2008), Ca dao Việt Nam chọn lọc, Nxb Văn hóa - thông tin. 68. Lưu Khánh Thơ ( tuyển chọn) (1999), Xuân Diệu về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 69. Đỗ Lai Thúy ( 1999), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hóa thông tin, tr.51. 70. Đỗ Lai Thuý, Tín ngưỡng phồn thực - nhìn từ góc độ văn hoá, Nxb Văn hoá nghệ thuật, số 4, 1994 71. Trần Khải Thanh Thủy (2004), Băm sáu cái nõn nường, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 72. Nguyễn Đình Thi (1949), Mấy ý nghĩa về thơ (tiểu luận-phê bình), 73. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, Nxb Giáo dục, tr. 420, 427. 74. Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc, Nxb Đồng Nai. 75. Hoàng Tiến Tựu (1992 ), Bình giảng ca dao, Nxb Giáo dục. 76. Trương Tửu (1940), Kinh thi Việt nam, Nxb Hàn Thuyên, Hà Nội. 77. Đào Thái Tôn. (1999), Hồ Xuân Hương: Tiểu sử văn bản – Tiến trình huyền thoại dân gian hóa, Nxb Nhà văn. 78. Đào Thái Tôn (1994), Thơ Hồ Xuân Hương (tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 79. Lê Ngọc Trà (1990), Lí luận văn học, Nxb Trẻ, tr.76. 80. Lưu Đức Trung (1999), Văn học Ấn Độ, Nxb Giáo dục, tr 36, 37. 81. Nguyễn Văn Trung (1986), Câu đố Việt Nam, Nxb Tổng hợp TP. HCM. 82. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con người nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kì trung đại, Nxb Giáo dục, tr.5. 83. Đông Vân ( Sưu tầm và biên soạn), (2005), Kho tàng báu truyền câu đố dân gian, Nxb Văn hóa dân tộc, Tr. 9, 87, 89. 84. Lê Trí Viễn, Lê Xuân Lít, Nguyễn Đức Quyền, (1987), Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, SGD Nghĩa Bình. 85. Nguyễn Như Ý( Chủ biên ), (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 1593. 86. Lê Thu Yến (2008), Sức hấp dẫn của thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Nxb Văn học, tr.32,120,121. 87. Lê Thu Yến, Ám ảnh Tiền Đường, Tạp chí Tài hoa trẻ, số 327, ngày 4-8-2004. 88. Lê Thu Yến tuyển chọn (2008), Hồ Xuân Hương trong cảm hứng sáng tác người đời sau, Nxb Giáo dục. 89. Lê Thu Yến tuyển chọn (2001), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời sau, Nxb Giáo dục.  Một số tạp chí, báo, giáo trình 90. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, ĐHSP. 91. Nguyễn Đức Bính (1962), Người Cổ Nguyệt, chuyện Xuân Hương, Tạp chí Văn nghệ số 10/1962. 92. Nguyễn Thị Thanh Hà (1998), Từ láy trong thơ Hồ Xuân Hương, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 5. 93. Đỗ Đức Hiểu (1990), Thế giới thơ Nôm Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học, số 5/1990. 94. Đặng Thanh Lê, Nguyễn Đức Dũng (1963), Góp thêm một tiếng nói trong việc đánh giá thơ Hồ Xuân Hương, Nghiên cứu văn học, số 3/1963. 95. Nguyễn Đăng Na (1991), Thơ Hồ Xuân hương với văn học dân gian, Tạp chí Văn học, số 2/1991. 96. Hồ Tuấn Niêm (1973), Chung quanh vấn đề về tiểu sử Hồ Xuân Hương, Tạp chí Lịch sử, số 152/1973. 97. Đỗ Lai Thuý (1998), Phong cách thơ Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học, số 12/1998. 98. Đỗ Lai Thuý(1995) Tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương từ nguyên lý hội hoá trang, Tạp chí văn hoá dân gian, số 3/1991. 99. Trương Xuân Tiếu (1999), Thành ngữ và tục ngữ tiếng Việt với thơ Nôm Đường luật của Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 1/1999. 100. Trần Tường (1974), Một số tư liệu mới tìm thấy về Hồ Xuân Hương, Tạp chí Văn học, số 3/1974.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN054.pdf
Tài liệu liên quan