MS: LVVH-PPDH021
SỐ TRANG: 180
NGÀNH: VĂN HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN HỌC
TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM
NĂM: 2010
CẤU TRÚC LUẬN VĂNLỜI CẢM ƠN
Phần 1: MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài, đối tượng và mục đích nghiên cứu
II. Lịch sử vấn đề
1. Những nghiên cứu về việc dạy học ngữ pháp ở bậc THPT
2. Những nghiên cứu về PPDH theo quan điểm “tích cực”
III. Yêu cầu và nhiệm vụ
IV. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp nghiên cứu chung
2. Phương pháp nghiên cứu chuyên ngành:
V. Phạm vi nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
VI. Cấu trúc của luận văn
Phần 2: NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Những hướng đổi mới về PPDH Tiếng Việt
1.1.1. Đổi mới theo quan điểm tích hợp kiến thức
1.1.2. Đổi mới theo quan điểm tích cực hoá hoạt động của HS
1.1.3. Một số PPDH đặc thù được vận dụng khi dạy học theo quan điểm “tích hợp” và “tích cực”
1.1.4. Một số yêu cầu khi vận dụng quan điểm “tích hợp” và “tích cực” trong dạy học tiếng Việt
1.2. Một số vấn đề lí thuyết về dạy học ngữ pháp ở bậc THPT
1.2.1. Vị trí, vai trò của phân môn ngữ pháp
1.2.2. Những khái niệm công cụ có liên quan
1.2.3. Yêu cầu đối với GV và HS trong dạy học ngữ pháp
CHƯƠNG 2 : VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM “TÍCH CỰC” VÀ “TÍCH HỢP” TRONG DẠY HỌC NGỮ PHÁP Ở TRƯỜNG THPT
2.1. Tình hình dạy học ngữ pháp ở trường THPT
2.1.1. Những hạn chế trong cách dạy học ngữ pháp trước đây
2.1.2. Những thuận lợi và khó khăn của việc dạy học ngữ pháp theo chương trình mới
2.1.3. Tình hình dạy học ngữ pháp hiện nay
2.2. Vận dụng quan điểm “tích hợp” và “tích cực” trong dạy học ngữ pháp
2.2.1. Về phương pháp dạy học
2.2.2. Về hình thức dạy học
2.2.3. Về phương tiện dạy học
CHƯƠNG 3 : THỰC NGHIỆM MỘT SỐ GIÁO ÁN NGỮ PHÁP THPT ĐƯỢC SOẠN THEO QUAN ĐIỂM “TÍCH HỢP” VÀ “TÍCH CỰC”
3.1. Bài Ngữ cảnh (Ngữ văn 11 – Tập 1)
3.1.1. Phân tích bài học
3.1.2. Vận dụng PP nêu vấn đề khi dẫn dắt HS vào bài
3.1.3. Vận dụng PP giao tiếp cho HS thực hành giao tiếp theo ngữ cảnh
3.2. Bài Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản (Ngữ văn 11 – Tập 1)
3.2.1. Phân tích bài học
3.2.2. Vận dụng PP nêu vấn đề để HS phân biệt thành phần trạng ngữ chỉ tình huống và khởi ngữ
3.2.3. Vận dụng PP giao tiếp để xây dựng hệ thống bài tập cho HS thực hành về các kiểu câu
3.3. Thiết kế một buổi ngoại khoá ngữ pháp cho HS lớp 11
3.3.1. Mục đích
3.3.2. Yêu cầu
3.3.3. Nội dung và cách thức tổ chức
3.4. Thực nghiệm một số giáo án
3.4.1. Mục đích và phạm vi thực nghiệm
3.4.2. Đối tượng và phương pháp thực nghiệm
3.4.3. Kết quả thực nghiệm các giờ dạy lý thuyết và thực hành ngữ pháp
3.4.4. Kết quả thực nghiệm ngoại khoá ngữ pháp
3.4.5. Nhận xét chung về kết quả thực nghiệm
Phần 3 : KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
1. Phiếu khảo sát
PHIẾU SỐ 1 : PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH VỀ CÁC BÀI HỌC NGỮ PHÁP TRONG SGK NGỮ VĂN THPT
PHIẾU SỐ 2 : PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN GIÁO VIÊN VỀ VIỆC DẠY NGỮ PHÁP TRONG TRƯỜNG THPT
2. Kết quả khảo sát
2.1. Khảo sát ý kiến 50 GV
2.2. Khảo sát ý kiến 435 HS
3. Một số ý kiến của GV trong việc dạy phân môn ngữ pháp
4. Một số giáo án điện tử thực nghiệm
180 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2157 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Vận dụng quan điểm tích hợp và tích cực trong việc dạy học ngữ pháp ở trường trung học phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh, sau định thần lại, lò dò về phía cửa hang dế gần
đó hỏi:
- Đứa nào cạnh khoé gì tao thế? Đứa nào cạnh khoé gì tao thế?
- Dế mèn chui tọt vào hang sâu trốn.
Nhưng chị Cốc đã trông thấy Dế Choắt ở cái hang nông choèn choèn của nó.
Thấy Choắt, chị Cốc quát lớn:
- Mày nói gì?
- Lạy chị, em nói gì đâu?
- Chối hả? Chối này! Chối này!
Mỗi câu chối này, chị Cốc lại giáng một mỏ xuống người choắt. Hả giận, chị ta
lại đủng đỉnh bỏ đi kiếm ăn. Dế Mèn mon men lại gần Dế Choắt, hỏi một câu
ngớ ngẩn:
- Sao? Sao vậy?
Thấy Choắt nằm thoi thóp, Mèn ta hốt hoảng:
- Nào tôi biết đâu cơ sự lại ra nông nỗi này! Tôi hối lắm. Tôi hối hận lắm. Anh
mà chết là chỉ vì cái tội ngông cuồng dại dột của tôi. Tôi biết làm thế nào bây
giờ?
- Thôi, tôi ốm yếu quá rồi, chết cũng được. Nhưng trước khi nhắm mắt, tôi
khuyên anh: ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có óc mà không biết nghĩ ,
sớm muộn rồi cũng mang vã vào mình đấy.
Thế rồi Choắt tắt thở. Mèn vừa thương vừa ăn năn tội mình.
III. Tổng kết (10 phút)
- GV nhận xét, phát phần thưởng cho các tổ
- HS nêu ý kiến về buổi ngoại khoá.
3.4. Thực nghiệm một số giáo án
3.4.1. Mục đích và phạm vi thực nghiệm
Mục đích của việc thực nghiệm là kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của việc thiết
kế giáo án ngữ pháp có vận dụng các PPDH theo quan điểm “tích hợp” và “tích
cực”. Từ đó rút kinh nghiệm, khắc phục những thiếu sót về nội dung và sự chưa phù
hợp về PPDH của những giáo án thực nghiệm trong thực tế dạy học.
- 129 -
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm việc dạy một số bài lý thuyết, thực hành ngữ
pháp trong SGK Ngữ văn 11 (Bộ chuẩn) ở học kì 1 và tổ chức ngoại khoá về ngữ
pháp tại lớp cho HS lớp 11 ở học kì 2.
3.4.2. Đối tượng và phương pháp thực nghiệm
3.4.2.1. Đối tượng thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở 2 lớp 11 năm học 2008-2009 ở Trường THPT
An Đông, Quận 5, TP. Hồ Chí Minh.
Với các bài học trong SGK, lớp thực nghiệm được chọn là 11A1, lớp đối chứng
là 11A3. Với giờ ngoại khoá, chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở lớp 11A3.
Kết quả học tập môn Ngữ văn của hai lớp ở giữa HKI (2008-2009) được thể
hiện trong bảng 3.4 sau đây.
Lớp Sĩ số Giỏi Khá Trung bình Yếu
Lớp đối chứng 11A1 42 3 14 22 3
Lớp thực nghiệm 11A3 47 1 10 31 5
Bảng 3.4 Kết quả môn Ngữ văn (HK1) lớp 11A1, 11A3
3.4.2.2. Phương pháp thực nghiệm
Chúng tôi tiến hành thực nghiệm ở mỗi lớp hai bài học, bài lý thuyết Ngữ cảnh
và bài Thực hành lựa chọn một số kiểu câu trong văn bản.
Với lớp thực nghiệm: Chúng tôi sử dụng bài giảng điện tử. Các bài giảng
được thiết kế với các câu hỏi nêu vấn đề mang tính dẫn dắt để HS tự học. Những
ngữ liệu được chọn lọc từ nhiều nguồn (SGK Ngữ văn 11, các tác phẩm VH HS đã
học, báo, tạp chí...), có tính tiêu biểu, cần thiết cho việc khai thác nội dung bài học.
Với lớp đối chứng: Vận dụng PPDH thông báo, giải thích, phát vấn dựa
theo những câu hỏi đã được SGK soạn sẵn, chỉ sử dụng các ngữ liệu trong SGK.
- 130 -
Tất cả các giờ học ở lớp thực nghiệm và đối chứng đều được chú ý quan sát tính
tích cực, mức độ hiểu bài và khả năng vận dụng kiến thức của HS thông qua phiếu
điều tra HS và các bài kiểm tra 30 phút sau mỗi bài học.
Phần thực nghiệm ngoại khoá được tiến hành ở học kì 2, sau khi HS học xong
bài Nghĩa của câu. Giờ ngoại khoá được tổ chức tại lớp, có sự tham dự của các GV
trong tổ Ngữ văn.
3.4.3. Kết quả thực nghiệm các giờ dạy lý thuyết và thực hành ngữ pháp
3.4.3.1. Quan sát giờ học
Ở lớp thực nghiệm, phương thức tổ chức hoạt động của GV và HS trong giờ học
được quan sát dựa trên các tiêu chí :
- Cách thức nêu tình huống, đặt câu hỏi, tổ chức lớp học của GV, xác định trọng
tâm của bài học và định lượng thời gian tiết học sao cho hợp lí.
- Tính độc lập, tích cực và sáng tạo của HS trong giờ học.
- Những khó khăn trong quá trình sử dụng PP nêu vấn đề và PP giao tiếp.
- Khả năng vận dụng các kiến thức đã học vào trong quá trình tạo lập văn bản
(dạng nói và viết).
3.4.3.2. Nhận xét chung về các tiết học (Bảng 3.5)
Nội
dung
nhận xét
Ở lớp thực nghiệm Ở lớp đối chứng
Về thái
độ học
tập của
HS
- HS tỏ ra rất hào hứng khi tham gia thảo
luận về các câu hỏi tình huống hay tự
mình thể hiện một tình huống trong giao
tiếp.
- Không khí lớp học sinh động, sôi nổi,
- Các HS khá, giỏi tham gia tích
cực vào bài học.
- Một số HS yếu, kém cảm thấy
khó hiểu nên thờ ơ, không tham
gia vào các hoạt động do GV đề
- 131 -
cởi mở. HS mạnh dạn nêu ý kiến hoặc
nêu câu hỏi thắc mắc để GV và các HS
khác giải đáp.
- Không có HS ngồi thụ động hay có thái
độ thờ ơ với tiết học.
- Khi được phân công làm việc theo
nhóm, HS tích cực thể hiện vai trò của
một thành viên trong nhóm.
nghị.
- Một số HS khác chăm chú
nghe và ghi chép.
- Chỉ 1/3 lớp có thể hiểu và giải
được bài tập ngay sau khi học.
Về hoạt
động
chủ yếu
của GV
GV chỉ gợi ý qua các câu hỏi và trao đổi
với HS, đôn đốc, nhắc nhở, nhận xét
phần làm việc của HS.
- Hầu như GV phải thuyết giảng
nhiều, đặc biệt là ở bài dạy lí
thuyết ngữ pháp.
- Phần phát vấn của GV chủ yếu
dựa vào các câu hỏi trong SGK
nên HS ít chú ý.
Về cách
hình
thành
kiến
thức bài
học cho
HS
- HS cảm nhận được ý nghĩa của bài
học, tích cực suy nghĩ, rút ra những khái
niệm hay quy tắc sử dụng câu một cách
ngắn gọn, theo cách hiểu của mình, trên
cơ sở những điều đã biết chứ không máy
móc, rập khuôn theo những điều ghi
chép trong SGK.
- GV điều chỉnh, cho HS tự ghi chú
những kiến thức cần thiết vào vở.
- GV có thời gian để mở rộng và bổ
sung những kiến thức cần thiết có liên
- Sau khi phân tích ngữ liệu, GV
giúp chốt lại kiến thức cần nhớ,
cho HS ghi chép.
- HS học lí thuyết và làm bài tập
theo những gì GV chỉ dẫn.
- 132 -
quan đến bài học mà SGK không đề cập.
Ví dụ như: yêu cầu về việc tìm hiểu ngữ
cảnh đối với người giao tiếp, yêu cầu và
quy tắc sử dụng một số kiểu câu trong
văn bản...
Phương
tiện hỗ
trợ
- Công cụ giáo án điện tử được sử dụng
ở mức độ hợp lí, vừa phải, không quá
lạm dụng về hình ảnh, âm thanh.
- Các hoạt động giao tiếp giả định để làm
ngữ liệu chủ yếu do HS thực hiện.
- HS và GV đều làm việc dựa
trên SGK.
Về PP
kiểm tra,
đánh giá
Bài kiểm tra viết ngắn gọn, hướng đến
tính thực hành các kiến thức vừa học vào
hoạt động giao tiếp.
Bài kiểm tra được dùng là một
bài tập tương tự như trong SGK,
nhằm giúp HS thực hành những
kiến thức vừa học.
Kết quả
kiểm tra
và phiếu
điều tra
ý kiến
của HS
về tiết
học
- Thông qua các phiếu điều tra, HS thể
hiện sự đồng tình của HS với cách khai
thác bài học ngắn gọn và PPDH tích cực
của GV. Phần lớn HS đồng tình với
những ngữ liệu mà GV lựa chọn để đưa
vào bài học.
- Kết quả kiểm tra cho thấy mức độ tiếp
thu bài của HS khá tốt, tương đối đồng
đều. Ngay cả những HS yếu cũng có kết
quả đạt yêu cầu.
- Qua các phiếu điều tra ý kiến,
phần lớn HS cho rằng cách dạy
học của GV chưa thực sự thu
hút, chưa giúp HS tự giác tham
gia vào quá trình hình thành
kiến thức.
- Các ngữ liệu chủ yếu được lấy
từ các tác phẩm văn học, HS
không hứng thú.
- Khoảng 40% HS trong lớp
đồng ý với cách dạy như trên vì
- 133 -
các em cảm thấy hiểu được
những kiến thức cần nhớ.
- Kết quả kiểm tra nhìn chung là
đạt yêu cầu.
Bảng 3.5 Nhận xét giờ học ngữ pháp ở lớp thực nghiệm và lớp đối chứng
Từ đây có thể khẳng định rằng việc vận dụng quan điểm “tích hợp” và “tích
cực” vào việc giảng dạy ngữ pháp ở trường THPT thực sự làm thay đổi quan niệm
của GV và HS về giờ học ngữ pháp. Học ngữ pháp không còn đơn thuần là học các
khái niệm và quy tắc ngữ pháp một cách chung chung và đơn điệu mà còn là những
giờ học bằng thực hành và bằng trải nghiệm giao tiếp thực tế, việc HS được đóng
vai, được phản biện, được lựa chọn các kiểu diễn đạt... giúp cho giờ học sinh động
hơn.
3.4.3.3. Ý kiến của học sinh lớp thực nghiệm
Kết quả thu được từ các phiếu khảo sát ý kiến HS sau khi thực nghiệm cho thấy:
- Đa số HS tỏ ra hứng thú với cách dạy học tích cực của GV.
- HS nắm được bài học một cách nhanh chóng, chủ động và biết cách vận dụng
kiến thức đã học trong quá trình nói, viết.
- HS thấy được vai trò và tác dụng của các bài học ngữ pháp, có ý thức rèn luyện
câu từ trong quá trình tạo lập và tiếp nhận văn bản.
- Không khí lớp học sinh động.
- Đa số HS đồng ý nên tiếp tục dạy ngữ pháp và các bài tiếng Việt khác theo PP
này.
- Một số ít HS cho rằng GV dạy hơi nhanh, phần thảo luận hào hứng nhưng mất
thời gian nhiều.
- 134 -
3.4.3.5. Kết quả kiểm tra sau giờ học
Bài Ngữ cảnh (Bảng 3.6)
% tính theo số
điểm >= 5 S
T
T
Tiêu chuẩn đánh giá Lớp
thực
nghiệm
Lớp
đối
chứng
1 Biết khái niệm ngữ cảnh 100% 100%
2 Giải thích được các nhân tố của ngữ cảnh và vai trò của
nó trong giao tiếp.
90% 75%
3 Vận dụng kiến thức ngữ cảnh để thực hiện một cuộc
giao tiếp với lời thoại theo yêu cầu của GV
90% 65%
4 Có thể phân tích được các nhân tố của ngữ cảnh trong
một tình huống giao tiếp
86% 58%
5 Với một ngữ cảnh, có thể tạo được tình huống đối thoại
với lời thoại hợp lí hoặc nhanh chóng hiểu chính xác lời
nói của người đối thoại.
70% 50%
6 Nhận xét được giá trị, vai trò của ngữ cảnh trong giao
tiếp hàng ngày, trong việc phân tích các tác phẩm văn
học.
70% 30%
Bảng 3.6 Mức độ tiếp thu bài của HS sau khi học bài “Ngữ cảnh”
- 135 -
Bài Thực hành sử dụng một số kiểu câu trong văn bản (Bảng 3.7)
% tính theo số
điểm >= 5 S
T
T
Tiêu chuẩn đánh giá Lớp
thực
nghiệm
Lớp
đối
chứng
1 Biết ba kiểu câu và tác dụng của chúng 100% 97%
2 Giải thích được tác dụng của các thành phần khởi ngữ,
trạng ngữ chỉ tình huống, chủ ngữ trong câu bị động
trong những ngữ cảnh cụ thể.
95% 83%
3 Biết chọn kiểu câu thích hợp để viết tiếp một câu cho
sẵn.
96% 72%
4 Phân tích, lí giải trường hợp sử dụng một kiểu câu trong
một ngữ cảnh cụ thể
85% 70%
5 Tạo lập văn bản theo yêu cầu của GV, trong đó sử dụng
các kiểu câu đã học một cách hợp lí.
78% 60%
6 Biết so sánh, đối chiếu để thấy được những đặc điểm
giống và khác nhau của các kiểu câu. Từ đó có ý thức
sử dụng phù hợp kiểu câu khi nói, viết.
70% 50%
Bảng 3.7 Mức độ tiếp thu bài của HS
sau khi học bài “Thực hành sử dụng một số kiểu câu trong văn bản”
- 136 -
3.4.4. Kết quả thực nghiệm ngoại khoá ngữ pháp
Sau khi tổ chức một buổi ngoại khoá ngữ pháp trong thời gian 90 phút tại lớp
11A3, chúng tôi nhận thấy kết quả như sau (Bảng 3.8):
Về thời gian Không đủ, phải cộng thêm khoảng 15 phút
Về thái độ tham gia của HS Hào hứng, tích cực, kể cả những em trực tiếp dự
thi và những em ngồi quan sát.
Về kiến thức và kĩ năng HS được ôn tập và củng cố các kiến thức cơ bản
của chương trình ngữ pháp lớp 10, 11, rèn luyện kĩ
năng viết câu nhanh, phù hợp với ngữ cảnh và
được thể hiện khả năng giao tiếp theo các ngữ
cảnh khác nhau.
Những thiếu sót cần rút
kinh nghiệm
Còn thiếu những câu hỏi cho các em HS không
trực tiếp dự thi, người dẫn chương trình là HS
chưa ứng xử linh hoạt nên GV phải can thiệp
nhiều lần, số lượng câu hỏi ở vòng 3 nhiều, HS
không đủ thời gian để thực hiện.
Bảng 3.8 Nhận xét về việc tổ chức ngoại khoá ngữ pháp cho HS lớp 11
Các GV dự giờ ngoại khoá đều đánh giá cao tính tích hợp kiến thức, sự hợp lí
về tính chất, nội dung, hình thức của các phần dự thi cũng như thấy được vai trò
tích cực, sáng tạo của HS trong quá trình tham gia ngoại khoá. Tuy nhiên, GV
cho rằng sẽ rất khó khăn về mặt thời gian và kinh phí nếu tổ chức những buổi
ngoại khoá thường xuyên như vậy.
- 137 -
3.4.5. Nhận xét chung về kết quả thực nghiệm
Sau các giờ học và buổi ngoại khoá, HS các lớp thực nghiệm đều rút ra được
những kiến thức cần thiết và được rèn luyện những kĩ năng tạo câu trong quá trình
giao tiếp. Không khí lớp học sôi nổi, HS phát huy được tính tích cực và sự sáng tạo
khi tham gia vào những hoạt động trong giờ học. Vai trò tổ chức, hướng dẫn của
GV thực sự phát huy có hiệu quả trong quá trình vận dụng các PPDH tích cực.
Ngoài ra, các kết quả thực nghiệm còn cho thấy việc vận dụng quan điểm “tích
hợp” và “tích cực” trong dạy học ngữ pháp là việc hoàn toàn có tính khả thi, ngay
cả trong hoàn cảnh trường lớp không có những phương tiện dạy học hiện đại. Vì
yếu tố quyết định sự thành công của các PPDH được vận dụng ở đây là cách thức tổ
chức lớp học và sự thành thạo kĩ năng xây dựng tình huống có vấn đề và đặt câu hỏi
nêu vấn đề, kĩ năng tổ chức các tình huống giao tiếp của GV... Nó không phụ thuộc
nhiều vào các phương tiện dạy học có liên quan đến công nghệ thông tin.
Tuy nhiên, thời gian của các giờ thực nghiệm đều nhiều hơn so với thời gian quy
định của chương trình. Rút kinh nghiệm, khi vận dụng các PPDH theo quan điểm
“tích hợp” và “tích cực”, GV cần xác định rõ những nội dung nên trao đổi với HS
tại lớp và những nội dung hướng dẫn HS tự học ở nhà. Việc định hướng về nội
dung và PPDH chứng tỏ bản lĩnh sư phạm của GV khi họ biết phân tích chương
trình bài dạy, biết cách làm việc với SGK và với từng đối tượng HS.
- 138 -
Phần 3
KẾT LUẬN
1. Việc đổi mới PPDH đã và đang được thực hiện ở các trường phổ thông
nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng dạy học. Trong những hướng đổi mới ấy
có việc vận dụng quan điểm dạy học “tích hợp” và “tích cực”.
Quan điểm “tích hợp” và “tích cực” là hai mặt của vấn đề dạy học. “Tích
hợp” chú trọng đến nội dung dạy học, là sự kết hợp nhiều kiến thức và nhiều kĩ
năng trong một đơn vị bài học. Còn dạy học “tích cực” lại hướng đến PPDH, đến
cách thức tổ chức và khai thác hiệu quả từng PP của GV nhằm hướng dẫn HS
lĩnh hội kiến thức một cách chủ động, hứng thú. Việc thực hiện cả hai quan điểm
trên đều nhằm mục đích nâng cao hiệu quả dạy học và tiết kiệm thời gian cho
người học. Bên cạnh đó, khi dạy học theo quan điểm “tích hợp” và “tích cực”
GV còn giúp người học hình thành PP tự học.
2. Dạy học ngữ pháp theo quan điểm “tích hợp” và “tích cực” không phủ
nhận nội dung và PPDH ngữ pháp truyền thống mà kế thừa những mặt tích cực
đã có của nó đồng thời bổ sung những PPDH khoa học và hiện đại nhằm tăng
thêm tính hiệu quả của việc dạy tiếng cho HS. Dạy học ngữ pháp theo quan điểm
“tích hợp” và “tích cực” không chỉ là sự thay đổi cần thiết, phù hợp với xu thế
dạy học hiện nay của các môn khoa học nói chung mà còn hướng đến bản chất
của việc dạy ngữ pháp: dạy ngữ pháp là dạy HS vận dụng linh hoạt những kiến
thức ngữ pháp vào hoạt động giao tiếp trong mọi lĩnh vực, có khả năng giao tiếp
tốt bằng tiếng mẹ đẻ ở các hình thức nói, nghe, viết, đọc trong các văn bản thuộc
các phong cách ngôn ngữ khác nhau.
Muốn vậy, việc dạy học ngữ pháp không thể chỉ dừng lại ở việc trang bị cho
HS những kiến thức lí thuyết thuần tuý hay là việc GV giảng giải các khái niệm,
- 139 -
các quy tắc một cách khô khan, trừu tượng mà nó cần được thể hiện trong những
tình huống giao tiếp sinh động, gần gũi, bổ ích, thiết thực với HS để từ đó các
em có thể tự hình thành những khái niệm hay quy tắc ngữ pháp cần thiết cho
hoạt động giao tiếp của mình.
Để việc tích hợp kiến thức có hiệu quả, bên cạnh các PPDH quen thuộc như
thông báo - giải thích, thuyết trình,… GV có thể vận dụng hai PP là PP nêu vấn
đề và PP giao tiếp. Nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục đã chứng
minh hiệu quả của việc vận dụng hai PP này, đặc biệt trong việc dạy ngôn ngữ
cho HS.
Vận dụng PP nêu vấn đề trong dạy học ngữ pháp là cách dạy các khái niệm,
các quy tắc ngữ pháp thông qua các tình huống có vấn đề… HS là người trực
tiếp tìm cách giải quyết vấn đề và rút ra những kết luận cần thiết sau khi thảo
luận về vấn đề. Vai trò của GV là khơi gợi nhu cầu nhận thức của HS thông qua
việc đặt ra những tình huống có chứa đựng mâu thuẫn vừa sức HS, giới thiệu với
HS các phương tiện nhận thức như nguồn ngữ liệu, tài liệu tham khảo và đặt ra
những câu hỏi nêu vấn đề để hướng dẫn và dẫn dắt HS đi đúng hướng, không
bàn bạc xa rời nội dung bài học… Những kết luận về khái niệm hay quy tắc rút
ra được ở mỗi tình huống hay mỗi bài tập cần có tính khái quát và được chú
trọng về khả năng hiện thực hoá trong quá trình giao tiếp.
Cùng với PP nêu vấn đề, PP giao tiếp cũng là PP được vận dụng phổ biến
trong dạy học ngữ pháp. Đặc trưng của PP này là các tình huống giao tiếp, trong
đó, HS là người tham gia thể nghiệm các vai giao tiếp. Lời thoại trong tình
huống thường được GV gợi ý hoặc do HS tự sáng tạo từ những hiểu biết của các
em qua việc quan sát và tham gia vào thực tế giao tiếp. Từ những tình huống liên
- 140 -
quan đến nội dung bài học mà HS thể hiện, GV và các HS khác quan sát, nhận
xét, rút ra những kết luận về kiến thức và kĩ năng cần thiết. Dạy theo PP giao
tiếp, chúng tôi thấy đã khắc phục được một cách cơ bản những hạn chế của PP
thông báo- tái hiện một chiều trước đây như làm cho HS bị động, không biết tự
mình lí giải các khái niệm, quy tắc ngữ pháp hay lí giải sự khác nhau giữa các
hiện tượng ngữ pháp trong nhà trường với hiện thực giao tiếp sinh động hàng
ngày.
3. Để vận dụng hiệu quả quan điểm “tích hợp” và “tích cực” trong dạy học
ngữ pháp, GV Ngữ văn cần được trang bị tốt và cập nhật thường xuyên các kiến
thức về ngữ pháp tiếng Việt, quan tâm đầy đủ đến các bình diện của câu trong
tiếng Việt, đặc biệt là bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng. Bên cạnh đó, việc nắm
chương trình ngữ pháp ở phổ thông một cách hệ thống cũng giúp ích cho GV
trong việc dạy học tích hợp. Đó là về kiến thức. Còn về PPDH, một khi GV thay
đổi PP dạy thì HS cũng sẽ thay đổi cách học. Để tạo cho HS sự tích cực, chủ
động trong việc học môn ngữ pháp, GV có thể vận dụng các PPDH tích cực như
đã nêu ở trên. Tuy nhiên, khi vận dụng các PP này, GV cần được rèn luyện kĩ
năng xây dựng các tình huống có vấn đề và tình huống giao tiếp, kĩ năng đặt câu
hỏi nêu vấn đề, kĩ năng xử lí tình huống trước những cách lí giải khác nhau của
HS, … Mỗi PPDH đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, vận dụng PP
nào trong bài dạy là điều GV cần cân nhắc sao cho phù hợp với thực tế dạy học.
4. Qua quá trình nghiên cứu, điều tra và thực nghiệm, luận văn đã triển khai
một cách cụ thể các PPDH, hình thức và phương tiện dạy học ngữ pháp ở
trường THPT dựa trên những định hướng chung về dạy học theo quan điểm
“tích hợp” và “tích cực”. Trong đó, luận văn luôn chú trọng những thao tác và kĩ
năng cần thiết đối với GV vì thực tế khảo sát cho thấy điều làm hầu hết GV lúng
- 141 -
túng vẫn là khả năng vận dụng các PPDH nói chung vào thực tiễn dạy học phân
môn ngữ pháp. Với kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu và thực nghiệm,
chúng tôi nhận thấy luận văn đã bổ sung được một số vấn đề có giá trị thực tiễn
và tính khả thi cho lí luận dạy tiếng bậc THPT ở phân môn ngữ pháp.
5. Do hạn chế về thời gian, chúng tôi vẫn chưa đi sâu nghiên cứu một cách
đầy đủ, tổng hợp về hệ thống chương trình ngữ pháp được giảng dạy trong nhà
trường mà chỉ dừng lại ở bậc THPT. Do vậy, trong luận văn, chúng tôi chưa đề
cập việc vận dụng quan điểm “tích hợp” và “tích cực” để dạy học phần từ loại –
một phần quan trọng trong phân môn ngữ pháp chủ yếu được giảng dạy ở bậc
THCS.
Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ phát triển một số vấn đề trong luận văn dưới
dạng những chuyên đề về dạy học ngữ pháp ở THPT, từ đó hướng đến việc biên
soạn một giáo trình chuẩn những kiến thức và kĩ năng dạy học ngữ pháp,
trong đó có cập nhật những thành tựu nghiên cứu mới về ngữ pháp tiếng Việt
cũng như PPDH ngữ pháp để sinh viên và GV ngành Ngữ văn có thể tham khảo
như một tài liệu bổ sung về PP dạy Tiếng hiện nay. Đây thực sự là một vấn đề
cần thiết và quan trọng trong việc đổi mới PPDH Tiếng Việt nói chung và ngữ
pháp nói riêng.
- 142 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. SÁCH, TẠP CHÍ
1. Lê A (chủ biên) (2007), Phương pháp dạy học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
2. Lê A, Thành Thị Yên Mĩ, Lê Phương Nga (2001), Phương pháp dạy học
tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
3. Lê Thị Lan Anh (2009), “Thiết kế các tình huống có vấn đề- một cách thức
dạy học tự phát hiện trong dạy học luyện từ và câu ở tiểu học”, Tạp chí Giáo dục
(213), tr.33-35.
4. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp tiếng Việt (Tập 2), Nxb Giáo dục.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (1998), Phát triển năng lực ngôn ngữ cho HS
trong việc dạy học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2006), Tài liệu bồi dưỡng giáo viên thực hiện
chương trình, sách giáo khoa lớp 10 trung học phổ thông – môn Ngữ văn, Nxb
Giáo dục.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Tiếng Việt 10 , Nxb Giáo dục.
8. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2000), Tiếng Việt 11 , Nxb Giáo dục.
9. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11 (tập 1, tập 2 – Chương trình
chuẩn), Nxb Giáo dục.
10. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11 (tập 1, tập 2 – Chương trình
nâng cao), Nxb Giáo dục.
11. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 10 - Sách giáo viên (tập 1), Nxb
Giáo dục.
- 143 -
12. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11 - Sách giáo viên (tập 1), Nxb
Giáo dục.
13. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Ngữ văn 11 - Sách giáo viên (tập 2), Nxb
Giáo dục.
14. Nguyễn Hữu Châu (2005), Những vấn đề cơ bản về chương trình và quá
trình dạy học, Nxb Giáo dục.
15. Nguyễn Hữu Châu, Lưu Thu Thuỷ, Nguyễn Thuý Hồng (2007), “Đổi mới
phương pháp dạy học ở trường phổ thông”, Khoa học giáo dục (17), tr. 25-27.
16. Hồng Dân (2008), “Một số nội dung cần nắm vững trong phần Tiếng Việt
SGK Ngữ văn 12 – Nâng cao”, Văn học và tuổi trẻ (165), tr. 15-17.
17. Bùi Minh Đức (2004), “Nên quan niệm thế nào về phương pháp dạy học
tích cực”, Dạy và học ngày nay, (7), tr. 33-35.
18. Bùi Minh Đức (2008), “Dạy học văn theo hướng chú trọng vào người đọc
– học sinh ở Nga và Mĩ”, Tạp chí Giáo dục (184), tr. 62-65.
19. Lê Thị Thu Hà (2007), “Những quan điểm chính trong dạy và học tại
trường Đại học New England – Australia”, Dạy và học ngày nay (10), tr. 56-59.
20. Đỗ Thị Hải (2008), “Mối quan hệ giữa hệ thống câu hỏi hướng dẫn học
bài trong sách giáo khoa ngữ văn với hệ thống câu hỏi trong giờ học tác phẩm
văn chương”, Tạp chí Giáo dục (199), tr. 29-30.
21. Cao Xuân Hạo (2007), Ngữ pháp chức năng tiếng Việt (Quyển 1)- Câu
trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
22. Nguyễn Thuý Hồng (2007), “Đánh giá giờ dạy trong nhà trường phổ
thông hiện nay”, Khoa học Giáo dục(18), tr. 25-28.
- 144 -
23. Nguyễn Thị Thuý Hồng (2008), “Kích thích hứng thú học tập của học
sinh- Một tiết học cần nhiều yếu tố”, Giáo dục và thời đại, (đặc biệt tháng
6/2008), tr.13..
24. Dương Giáng Thiên Hương (2007), “Xây dựng một số tình huống có vấn
đề trong dạy học môn Khoa học lớp 5 thông qua sử dụng đa phương tiện”, Khoa
học Giáo dục (16), tr. 36-38.
25. Bùi Quý Khiêm (2009), “Tích hợp dạy học môn Tiếng Việt để nâng cao
chất lượng dạy học phân môn lịch sử ở trường tiểu học”, Tạp chí Giáo dục (214),
tr. 22-25.
26. Nguyễn Phú Lộc (2008), “Sự “ thích nghi” trí tuệ trong quá trình nhận
thức theo quan điểm của J. Piaget”, Tạp chí Giáo dục (183), tr. 11-13.
27. Phan Trọng luận (1996), Phương pháp dạy văn, Nxb Đại học Quốc gia
28. Phan Trọng Luận (1999), Đổi mới giờ học tác phẩm văn chương ở trường
trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.
29. Lê Xuân Mậu, (2009), “Nghĩ về việc dạy học sinh nói viết”, Giáo dục và
thời đại, (đặc biệt tháng 2/2009), tr.14.
30. Lê Phương Nga (2000), Dạy học ngữ pháp ở tiểu học, Nxb Giáo dục.
31. Lê Xuân Phán (2009), “Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học”,
Dạy và học ngày nay (6), tr. 16-18.
32. Vũ Thị Sơn (2009), “Dạy học tích hợp và khả năng áp dụng vào thực tiễn
giáo dục Việt Nam”, Dạy và học ngày nay (6), tr. 21-25.
33. Đinh Thị Kim Thoa (2008), “Mười điều cần lưu ý khi dạy khái niệm”,
Khoa học Giáo dục (29), tr. 14-17.
- 145 -
34. Đỗ Ngọc Thống (2006), Tìm hiểu chương trình và sách giáo khoa Ngữ
văn trung học phổ thông, Nxb Giáo dục.
35. Đỗ Ngọc Thống (2006), “Điều giáo viên lúng túng nhất vẫn là …phương
pháp”, Văn học và Tuổi trẻ (121), tr. 21-25.
36. Phan Thị Minh Thuý (2009), “Quy trình xây dựng tình huống vấn đề
trong giờ dạy thực hành Luyện tập câu, Tạp chí Giáo dục (221), tr. 33-35
37. Hồ Hải Thuỵ (2008), “Dạy học sinh phổ thông viết đúng, viết hay”, Ngôn
ngữ và đời sống (154), tr. 42-43.
38. Bùi Minh Toán (2007), “Giới thiệu phần Tiếng Việt trong SGK Ngữ văn
11 (Biên soạn theo Chương trình chuẩn)”, Văn học và Tuổi trẻ (140), tr. 26-29.
39. Nguyễn Đức Tồn (2003), Mấy vấn đề lí luận và phương pháp dạy học từ
ngữ Tiếng Việt trong nhà trường, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
40. Hoàng Gia Trang (2007), “Xây dựng thái độ học tập tích cực cho học
sinh”, Khoa học Giáo dục (16), tr. 34-38.
41. Nguyễn Trí (2005), Dạy và học môn Tiếng Việt ở tiểu học theo chương
trình mới, Nxb Giáo dục.
42. Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hoàn, Đinh Thái Hương (biên soạn) (2001),
Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Văn – Tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
43. Bùi Tất Tươm (chủ biên) (2003), Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt
bậc Trung học cơ sở, Nxb Giáo dục.
44. Hồng Vân (2009), “Cách nhìn về đổi mới phương pháp dạy học bộ môn
Văn” (Bài phỏng vấn GS. Phan Trọng Luận) , Giáo dục và thời đại, (đặc biệt
tháng 2/2009), tr.12.
- 146 -
45. (2008), Luật giáo dục, Nxb. Lao động.
II. TÀI LIỆU DỊCH
46. I.Ia.Lecne, (Phạm Tất Đắc dịch), 1977, Dạy học nêu vấn đề, Nxb Giáo
dục.
47. Peter Filene, (Tô Diệu Lan, Trần Nữ Mai Thy dịch), 2008, Niềm vui dạy
học, Nxb Văn hoá Sài Gòn.
III. TRANG WEB
48.
49.
50. www.unesco.org/delors/fourpil/htm
IV. TỪ ĐIỂN
51. Hoàng Phê (Chủ biên), 2003, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
- 147 -
PHỤ LỤC
1. Phiếu khảo sát
PHIẾU SỐ 1
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN HỌC SINH VỀ
CÁC BÀI HỌC NGỮ PHÁP TRONG SGK NGỮ VĂN THPT
Các em học sinh thân mến!
Việc dạy học ngữ pháp tiếng Việt trong nhà trường nhằm trang bị cho các em
kiến thức cơ bản về những phương thức và quy tắc cấu tạo từ, cấu tạo câu, giúp
các em nói, viết cho đúng, cho hay điều mình muốn diễn đạt. Sau đây, chúng tôi
xin được tham khảo ý kiến của các em về các bài học ngữ pháp, cụ thể là các
bài trong SGK Ngữ văn 11 (Thực hành về lựa chọn trật tự các bộ phận trong
câu, Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản, Nghĩa của câu).
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các em về nội
dung bài học, những thuận lợi và khó khăn trong quá trình học ngữ pháp.
Xin chân thành cảm ơn!
Các em vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu móc () vào ô
tương ứng với từng ý nếu đồng ý.
1. Theo em, những ví dụ hướng dẫn tìm hiểu bài ở các bài học ngữ pháp:
rất phong phú.
hay, gần với thực tế giao tiếp.
không thực tế vì chỉ có trong các tác phẩm văn học.
quá ít.
2. Sau mỗi bài học đều có phần “Ghi nhớ”. Những kiến thức ngữ pháp được
trình bày trong phần này:
ngắn gọn, dễ hiểu.
quá dài.
nhiều kiến thức thừa, không được ứng dụng khi thực hành.
- 148 -
3. Trong quá trình học, em thấy giữa lý thuyết ngữ pháp và thực hành:
có mối quan hệ chặt chẽ.
ít có sự gắn kết vì sau khi học thuộc lý thuyết em vẫn chưa làm được bài tập.
4. Sau khi học xong một bài lý thuyết ngữ pháp:
em phân biệt được khái niệm ngữ pháp và quy tắc ngữ pháp.
em học hết các kiến thức ghi trong vở, không phân biệt khái niệm với quy tắc.
5. Các bài tập ngữ pháp:
hay, sinh động, gắn liền với thực tế
chỉ có một dạng (hỏi – trả lời), rất nhàm chán
đặt ra các vấn đề không sát với thực tế giao tiếp của em, phần lớn lấy trong các
tác phẩm văn chương.
6. Khi làm bài tập ngữ pháp, em cảm thấy lúng túng vì:
không hiểu đề bài yêu cầu làm gì.
không biết cách trình bày bài giải.
không biết vận dụng các quy tắc ngữ pháp cần thiết để giải bài tập.
có những kiến thức học ở THCS, bây giờ em đã quên.
7. Theo em, việc thảo luận nhóm trong giờ học ngữ pháp:
hay, vì em được thể hiện ý kiến riêng của mình trong nhóm
tạo được hứng thú trong giờ học.
không nên áp dụng vì chỉ những bạn học khá làm việc tích cực, các bạn học
yếu không chịu trao đổi ý kiến.
không nên áp dụng vì rất tốn thời gian.
8. Em nhận thấy mình vận dụng những kiến thức ngữ pháp đã học vào quá
trình nói, viết:
thường xuyên.
ít khi.
chỉ vận dụng khi làm văn ở lớp, nhưng rất ít.
hầu như không vận dụng được gì cả, em chỉ nói và viết theo thói quen.
- 149 -
9. Khi nói, viết em thấy mình vẫn:
viết câu sai cấu trúc ngữ pháp.
dùng từ không chính xác.
mắc nhiều lỗi chính tả.
chỉ viết được những câu đơn, ngắn; nếu viết câu dài thì rất lủng củng.
10. Khi viết bài làm văn ở lớp, em có thói quen:
đọc lại bài, sửa câu sai, sửa lỗi chính tả.
đọc lại, nhưng không nhận ra lỗi.
đọc lại, nhận ra lỗi nhưng không biết phải sửa như thế nào.
viết xong thì nộp, không cần đọc lại.
11. Khi học các giờ học ngữ pháp, em cảm thấy:
rất thích thú, vì các kiến thức gần gũi với giao tiếp hàng ngày.
chán vì toàn lý thuyết khó hiểu, không thực tế.
có khi thích, có khi không, tuỳ nội dung bài học, ví dụ bài…………………….
................................................................................................................................…..
có khi thích, có khi không, tuỳ cách dạy của giáo viên, ví dụ (nêu cách dạy)
……………………………………………………………………………………
…
12. Em thấy các kiến thức Tiếng Việt, Văn học và Làm văn:
có sự liên quan với nhau mật thiết.
chỉ có kiến thức Văn học là quan trọng vì được sử dụng nhiều trong khi kiểm
tra, thi cử.
đều cần thiết, nhưng kiến thức Văn học là quan trọng nhất.
hỗ trợ cho nhau để học tốt môn Ngữ văn, trong đó kiến thức Tiếng Việt là nền
tảng.
Xin chân thành cảm ơn các em đã tham gia đóng góp ý kiến!
- 150 -
PHIẾU SỐ 2
PHIẾU KHẢO SÁT Ý KIẾN GIÁO VIÊN
VỀ VIỆC DẠY NGỮ PHÁP TRONG TRƯỜNG THPT
Kính gửi quý thầy cô!
Các bài học ngữ pháp trong chương trình THPT đã được biên soạn theo hướng tích
hợp kiến thức, chú trọng tính thực hành nhằm nâng cao kỹ năng nói, viết của học sinh.
Tuy nhiên, làm thế nào để đạt được mục tiêu như trên trong thực tế dạy học hiện
nay vẫn đang là một vấn đề khiến chúng ta phải suy nghĩ. Mong quý thầy cô cho biết
những thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy các bài học ngữ pháp ở SGK Ngữ
văn THPT, cụ thể là các bài trong SGK Ngữ văn 11 (Thực hành về lựa chọn trật tự các
bộ phận trong câu, Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản, Nghĩa của
câu).
Chúng tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của quý thầy cô. Xin chân
thành cảm ơn!
Quý thầy cô vui lòng cho biết ý kiến của mình bằng cách đánh dấu móc () vào ô
tương ứng với từng ý nếu đồng ý:
I. Khi dạy các bài học ngữ pháp trong chương trình Ngữ văn THPT, đặc biệt
là ở lớp 11, quý thầy cô nhận thấy có những thuận lợi nào?
1. Về nội dung các bài học:
Thứ tự các bài học được sắp xếp hợp lý (vd: HS học bài “Ngữ cảnh”, sau đó mới
học “Nghĩa của câu”)
Nội dung các bài học được trình bày rõ ràng, dễ hiểu, theo hướng quy nạp (phân
tích ngữ liệu để hình thành khái niệm hay quy tắc ngữ pháp).
Phần lớn các ngữ liệu và các bài tập đã tích hợp được kiến thức Văn học, Làm
văn và Tiếng Việt. (vd: Bài “Thực hành về sử dụng một số kiểu câu trong văn bản” lấy
các ngữ liệu từ văn bản “Chí Phèo” mà HS vừa học).
Các ngữ liệu được biên soạn đều hướng đến giao tiếp, sát với thực tế giao tiếp.
Thời lượng dành cho giờ thực hành ngữ pháp nhiều hơn (so với SGK cải cách
trước đây).
- 151 -
Phần ghi nhớ sau mỗi bài lý thuyết giúp HS nắm được kiến thức cơ bản.
Các bài tập được trình bày theo mức độ từ dễ đến khó.
Yêu cầu của các bài tập phù hợp với trình độ của HS và tạo được hứng thú làm
bài.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
2. Về phương pháp dạy học ngữ pháp:
a. Dạy kiểu bài lý thuyết:
Các ngữ liệu và câu hỏi tìm hiểu bài có sẵn, GV không phải mất nhiều thời gian
khi chuẩn bị bài giảng.
GV không nhất thiết phải giảng tất cả các ngữ liệu trong bài học, mà có thể tuỳ
vào thời gian và trình độ của HS để lựa chọn ngữ liệu hướng dẫn HS tìm hiểu bài.
HS nhiệt tình tham gia vào việc phân tích ngữ liệu và tự mình hình thành khái
niệm hay quy tắc ngữ pháp.
Vai trò của GV là hướng dẫn HS phân tích ngữ liệu và nhận xét những kiến thức
ngữ pháp mà HS rút ra sau khi phân tích.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
b. Dạy kiểu bài thực hành:
GV có thể áp dụng phương pháp luyện theo mẫu thường xuyên, vì có nhiều bài
tập cùng dạng để HS đối chiếu với mẫu và tự giải bài tập.
Thời gian dành cho thực hành nhiều hơn lý thuyết.
Phương pháp thảo luận nhóm có thể áp dụng dễ dàng trong giờ thực hành.
- 152 -
GV chỉ là người điều khiển, hướng dẫn HS cách giải, theo dõi và chú ý sửa bài
tập cho HS.
GV có thể xem xét nhiều cách giải khác nhau của HS, không nhất thiết phải bắt
buộc HS theo một đáp án duy nhất.
GV dễ dàng tích hợp các kiến thức về Văn học và Làm văn và giúp HS thấy được
tác dụng của việc vận dụng những kiến thức ngữ pháp đã học vào quá trình nói, viết.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
3. Phương pháp kiểm tra, đánh giá:
Mỗi bài kiểm tra Ngữ văn đều dành một số điểm nhất định, khoảng 1/3 tổng số
điểm cho các bài tập thực hành ngữ pháp Tiếng Việt.
Các bài làm văn chú trọng kiểm tra khả năng sử dụng từ ngữ, kỹ năng viết câu
của HS.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
II. Bên cạnh những thuận lợi như trên, thầy cô còn cảm thấy có những khó
khăn gì trong quá trình dạy các bài học ngữ pháp ở THPT?
1. Việc chuẩn bị trước khi lên lớp:
GV chưa nắm rõ cách dạy học ngữ pháp theo hướng tích hợp.
Phòng học tiếng Việt chưa được trang bị đầy đủ các thiết bị nghe nhìn làm hạn
chế việc cung cấp ngữ liệu sinh động cho HS.
- 153 -
GV còn lúng túng trong kỹ năng phát vấn (đặt câu hỏi cho HS tìm hiểu nội dung
bài học) và xây dựng tình huống có vấn đề.
Việc xác định mục tiêu cho bài học là khó vì có sự mâu thuẫn giữa nội dung phải
truyền đạt và lượng thời gian dành cho bài học.
GV còn lúng túng trong việc lựa chọn và chuẩn bị ngữ liệu.
GV chưa đựơc tập huấn nhiều về các phương pháp dạy học tích cực và cách áp
dụng trong giờ dạy học ngữ pháp.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
2. Phương pháp dạy học lý thuyết:
Các kiến thức cơ bản về câu ở THCS hầu như HS không nhớ, GV phải ôn lại
trước khi dạy bài mới.
Những ngữ liệu trong SGK phần lớn là lấy từ các tác phẩm văn học, ít sinh động.
Hầu hết các bài học thiếu các tình huống có vấn đề.
PP thảo luận nhóm không thể áp dụng trong giờ học lý thuyết về câu vì không đủ
thời gian.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
3. Phương pháp dạy học thực hành:
Trước mỗi bài tập ngữ pháp, hầu hết HS lúng túng về cách trình bày bài giải.
PP thảo luận nhóm không thể vận dụng thường xuyên trong những bài học thực
hành ngữ pháp.
- 154 -
Các phương pháp dạy bài thực hành mà sách giáo viên nêu còn chung chung, chủ
yếu là những gợi ý giải bài tập.
Hầu hết HS không hứng thú với các bài tập trong SGK.
GV thường cảm thấy thiếu thời gian cho các giờ thực hành.
Hầu hết GV không có thời gian để chú ý đến hoạt động ngoại khoá Tiếng Việt.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
4. Phương pháp kiểm tra, đánh giá:
Việc kiểm tra kĩ năng nói, viết của HS chưa được chú trọng, số điểm dành cho
phần tiếng Việt ít.
Câu hỏi kiểm tra chủ yếu nhằm tái hiện kiến thức đã học, không có dạng bài tập
tình huống để HS vận dụng những kiến thức đã học vào việc giao tiếp.
Ý kiến khác:
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
....................................................................................................................................
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô!
- 155 -
2. Kết quả khảo sát
2.1. Khảo sát ý kiến 50 GV
a. Thuận lợi
Nội dung
Số GV
đồng ý
Tỉ lệ
1. Về nội dung các bài học ngữ pháp
Phần ghi nhớ sau mỗi bài lý thuyết giúp HS nắm
được kiến thức cơ bản
42/50 84%
Phần lớn các ngữ liệu và các bài tập đã tích hợp
được kiến thức Văn học, Làm văn và Tiếng Việt.
41/50 82%
Các bài tập được trình bày theo mức độ từ dễ đến
khó
40/50 80%
Thời lượng dành cho giờ thực hành ngữ pháp nhiều
hơn (so với SGK cải cách trước đây)
34/50 68%
Nội dung các bài học được trình bày rõ ràng, dễ
hiểu, theo hướng quy nạp (phân tích ngữ liệu để
hình thành khái niệm hay quy tắc ngữ pháp)
32/50 64%
2. Về phương pháp dạy học ngữ pháp
a. Dạy kiểu bài lý thuyết
GV là người hướng dẫn HS phân tích ngữ liệu và
nhận xét những kiến thức ngữ pháp mà HS rút ra
sau khi phân tích
43/50 86%
GV được tự do trong việc lựa chọn ngữ liệu. 40/50 80%
Các ngữ liệu và câu hỏi tìm hiểu bài có sẵn, GV 31/50 62%
- 156 -
không phải mất nhiều thời gian để chuẩn bị ngữ
liệu cho bài giảng
b. Dạy kiểu bài thực hành
PP được sử dụng chủ yếu là PP luyện theo mẫu 29/50 58%
GV dễ dàng tích hợp các kiến thức về Văn học và
Làm văn, qua đó giúp HS thấy được tác dụng của
việc vận dụng những kiến thức ngữ pháp đã học
vào quá trình nói, viết.
41/50 82%
GV là người điều khiển và theo dõi, chỉ hướng dẫn
HS cách giải khi cần thiết.
33/50 66%
Đáp án các bài tập có thể linh hoạt, khuyến khích
sự sáng tạo của HS.
36/50 72%
3. Phương pháp kiểm tra, đánh giá
Mỗi bài kiểm tra Ngữ văn đều dành một số điểm
nhất định, khoảng 1/3 tổng số điểm cho các bài
tập thực hành ngữ pháp Tiếng Việt.
30/50 60%
Các bài làm văn chú trọng kiểm tra khả năng sử
dụng từ ngữ, kỹ năng viết câu của HS.
40/50 80%
- 157 -
b. Khó khăn
Nội dung
Số GV
đồng ý
Tỉ lệ
1. Việc chuẩn bị trước khi lên lớp
GV chưa được tập huấn kĩ về các phương pháp dạy
học tích cực và cách áp dụng trong giờ dạy học ngữ
pháp
44/50 88%
Việc xác định mục tiêu cho bài học là khó vì có sự
mâu thuẫn giữa nội dung phải truyền đạt và lượng
thời gian dành cho bài học
26/50 52%
GV còn lúng túng trong việc lựa chọn và chuẩn bị
ngữ liệu.
35/50 70%
GV còn lúng túng trong kỹ năng phát vấn và xây
dựng tình huống có vấn đề.
31/50 62%
Phòng học tiếng Việt chưa được trang bị đầy đủ
các thiết bị nghe nhìn làm hạn chế việc cung cấp
ngữ liệu sinh động cho HS
38/50 76%
2. Phương pháp dạy học lý thuyết
Các kiến thức cơ bản về câu ở THCS hầu như HS
không nhớ, GV phải ôn lại trước khi dạy bài mới
40/50 80%
Những ngữ liệu trong SGK phần lớn là lấy từ các
tác phẩm văn học, ít tính sinh động.
35/50 70%
Hầu hết các bài học thiếu các tình huống có vấn đề 36/50 72%
PP thảo luận nhóm không thể áp dụng trong giờ 29/50 58%
- 158 -
học lý thuyết vì không đủ thời gian.
3. Phương pháp dạy học thực hành
Trước mỗi bài tập ngữ pháp, hầu hết HS lúng túng
về cách trình bày bài giải
28/50 56%
PP thảo luận nhóm không thể vận dụng thường
xuyên trong những bài học thực hành ngữ pháp vì
lượng bài tập nhiều và chỉ có một số ít HS tích cực
tham gia
32/50 64%
Các phương pháp dạy bài thực hành mà sách giáo
viên nêu còn rất chung chung, chủ yếu là những
gợi ý giải bài tập
29/50 58%
GV thường cảm thấy thiếu thời gian trong các giờ
thực hành
36/50 72%
Hầu hết GV không có thời gian để chú ý đến hoạt
động ngoại khoá Tiếng Việt
35/50 70%
4. Phương pháp kiểm tra, đánh giá
Việc kiểm tra kĩ năng nói, viết của HS chưa được
chú trọng, số điểm dành cho phần tiếng Việt ít.
36/50 72%
Câu hỏi kiểm tra chủ yếu nhằm tái hiện kiến thức
đã học, không có dạng bài tập tình huống để HS
vận dụng những kiến thức đã học vào việc giao tiếp
37/50 74%
- 159 -
2.1. Khảo sát ý kiến 435 HS:
Nội dung
Số HS
đồng ý
Tỉ lệ
1. Nhận xét về bài học
gần với giao tiếp hàng ngày,
phong phú
102/435 23,45%
ít thực tế, chỉ có trong các tác
phẩm văn học.
214/435 49,2%
Những ví dụ
hướng dẫn tìm
hiểu bài ở các bài
học ngữ pháp
khó hiểu 119/435 27,36%
ngắn gọn, dễ hiểu 233/435 53,56% Phần “Ghi nhớ”
sau mỗi bài học nhiều kiến thức không được
vận dụng khi thực hành
164/435 37,7%
có mối quan hệ chặt chẽ 138/435 31,72% Giữa lý thuyết và
thực hành ngữ
pháp
ít có sự gắn kết vì sau khi học
lí thuyết em vẫn chưa làm
được bài tập.
279/435 64,14%
sinh động, gần với thực tế giao
tiếp
59/435 13,56%
hầu hết là dạng hỏi – trả lời, rất
nhàm chán
128/435 29,42%
Các bài tập ngữ
pháp
đặt ra các vấn đề không sát với
thực tế giao tiếp, phần lớn
được lấy trong các tác phẩm
văn chương
260/435 59,77%
- 160 -
thích thú 34/435 7,82%
Chán 136/435 31,26%
có khi thích, tuỳ vào nội dung
bài học
176/435 40,46%
Khi học ngữ pháp,
em thường cảm
thấy
có khi thích, tuỳ cách dạy của
GV
114/435 26,21%
có sự liên quan mật thiết. 113/435 25,98%
có liên quan và hỗ trợ cho nhau
để HS học tốt môn Ngữ văn,
trong đó kiến thức Tiếng Việt
là nền tảng.
159/435 36,55%
Em nhận thấy
giữa các kiến thức
Tiếng Việt, Văn
học và Làm văn
chỉ có kiến thức Văn học là
quan trọng.
217/435 49,89%
Nhận xét về việc vận dụng kiến thức
không hiểu yêu cầu của đề bài 94/435 21,61%
không biết cách trình bày bài
giải
169/435 38,85%
không biết vận dụng các quy
tắc ngữ pháp
190/435 43,68%
Khi làm bài tập
ngữ pháp em cảm
thấy lúng túng vì
có nhiều kiến thức học ở
THCS mà em đã quên.
104/435 23,91%
Thường xuyên 53/435 12,18%
Ít khi 124/435 28,51%
Em nhận thấy
mình vận dụng
những kiến thức Rất ít, chỉ vận dụng khi làm 188/435 43,22%
- 161 -
văn ở lớp ngữ pháp vào quá
trình nói, viết ở
mức độ nào?
Hầu như không, em chỉ nói và
viết theo thói quen
69/435 15,86%
hay vì em được thể hiện ý kiến
của bản thân
169/435 38,85%
hay vì tạo được nhiều hứng thú 253/435 58,16%
không nên áp dụng vì chỉ một
số ít HS làm việc
81/435 18,62%
Theo em, việc học
theo nhóm trong
giờ học ngữ pháp
không nên áp dụng vì tốn thời
gian và lớp ồn
66/435 15,17%
chỉ viết được những câu đơn,
ngắn; nếu viết câu dài thì rất
lủng củng, làm người khác
hiểu sai ý mình muốn diễn đạt.
415/435 95,4%
dùng từ không chính xác 98/435 22,53%
Khi nói, viết em
thấy mình vẫn
mắc nhiều lỗi chính tả 77/435 17,7%
viết xong thì nộp, không đọc
lại
98/435 22,53%
đọc lại và sửa những từ, câu sai 178/435 40,92%
Khi viết bài làm
văn, em có thói
quen
đọc lại, nhưng không nhận ra
lỗi.
165/435 37,93%
- 162 -
3. Một số ý kiến của GV trong việc dạy phân môn ngữ pháp
Đây là ý kiến của các GV dạy Ngữ văn ở các trường mà chúng tôi tiến hành
khảo sát: Trường THPT An Đông, Trường THPT Lương Văn Can (TP. Hồ Chí
Minh) và Trường THPT Xuân Lộc (Đồng Nai).
a. Ý kiến về nội dung và chương trình ngữ pháp
- Đối với HS THPT, điều chúng tôi quan tâm nhất là kĩ năng viết văn của các
em. Những kiến thức ngữ pháp như ngữ cảnh, nghĩa của câu… cũng cần thiết
nhưng theo tôi, nếu chỉ như vậy thì chưa đủ. Một vài bài ngữ pháp trong chương
trình THPT chỉ giống như một sự điểm xuyết cho chương trình chứ tác dụng thì
chưa thấy được.
- Số lượng bài ngữ pháp trong chương trình THPT như thế là ít, không tương
xứng với phần giảng văn và làm văn. Muốn HS viết tốt, theo tôi cần tăng cường
dạy học ngữ pháp cả về lí thuyết và thực hành.
- Đừng kì vọng HS viết câu hay, hãy mong các em viết câu đúng ngữ pháp trước.
Đúng ở đây là đúng cả về cấu trúc và ý nghĩa. Cho nên, tôi nghĩ bài “Nghĩa của
câu” phải được dạy sớm hơn, từ lớp 9, 10 chứ không phải là ở lớp 11 như vậy.
b. Ý kiến về việc dạy lí thuyết ngữ pháp
- Bản thân tôi khi dạy lí thuyết ngữ pháp cũng cảm thấy khá lúng túng. Có lẽ vì
những kiến thức ngữ pháp mà tôi được đào tạo đã khá “cũ” so với những kiến
thức trong sách giáo khoa. Tôi đã tham khảo thêm trong sách giáo viên nhưng
vẫn cảm thấy chưa ổn.
- Tích hợp dạy ngữ pháp với giảng dạy tác phẩm văn chương là việc rất khó
thực hiện, chúng tôi cảm thấy lúng túng nên thường ngại làm. Với một tác phẩm,
- 163 -
chúng tôi chú trọng giúp HS tìm hiểu nội dung, phân tích những cách diễn đạt
hay của tác giả… Chừng đó cũng đã cảm thấy không đủ thời gian, vậy thì phải
tích hợp như thế nào?
- Theo tôi, điều quan trọng khi dạy một bài lí thuyết ngữ pháp là giúp HS nắm
được khái niệm ngữ pháp. Còn bằng cách nào để giúp các em thì sách giáo khoa
biên soạn khá tốt rồi.
- Dạy những bài lí thuyết ngữ pháp thì ngữ liệu đóng vai trò rất quan trọng. Sau
đó là kiến thức của GV. Người GV vững kiến thức thì mới có thể giúp HS nắm
vững khái niệm. Còn PPDH thì tuỳ đối tượng HS mà linh hoạt.
c. Ý kiến về dạy thực hành ngữ pháp
- Đối với một tác phẩm văn học quan trọng, 45' hay 90’ không thể nào đủ, tôi
luôn phải dùng giờ Tập làm văn và Tiếng Việt để dạy môn Văn học (thực tế hai
môn này rất chán, nội dung nghèo nàn nên việc không học nó làm cả thầy lẫn trò
đều hài lòng). Như thế thì đâu còn thời gian để thực hành về Tiếng Việt.
- Đã đến lúc phải báo động về tình trạng viết câu tuỳ tiện của HS. Các giờ thực
hành ngữ pháp phải được tăng thêm và hệ thống bài tập cần được điều chỉnh
theo hướng thực hành.
- Việc làm cho HS hứng thú với những bài học ngữ pháp là cần thiết. Nó sẽ giúp
HS có một cái nhìn tích cực hơn về vai trò của môn Tiếng Việt trong nhà trường.
- 164 -
3. Một số giáo án điện tử thực nghiệm
- 165 -
- 166 -
- 167 -
- 168 -
- 169 -
- 170 -
- 171 -
- 172 -
- 173 -
- 174 -
- 175 -
- 176 -
- 177 -
- 178 -
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHPPDH021.pdf