Luận văn Văn hóa của người Tày ở huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên

VĂN HÓA CỦA NGưỜI TÀY Ở HUYỆN ĐỊNH HÓA TỈNH THÁI NGUYÊN Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam Mã số: 60.22.54 LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm tất cả bản sắc văn hóa của các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Tính thống nhất ấy không chỉ là phép cộng đơn giản, các dân tộc chỉ có thể đóng góp vào và làm nên sự phong phú của văn hóa Việt Nam với điều kiện không đánh mất bản sắc văn hóa tộc người. Nền văn hóa này đã chịu đựng được sự thử thách và khảo nghiệm của lịch sử trong quá trình dựng nước và giữ nước. Tính đoàn kết, tính thống nhất này đã hình thành nên khái niệm dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã xây dựng và phát triển một nền văn hóa Việt Nam với tất cả sự phong phú và độc đáo của 54 dân tộc sinh sống trên đất nước ta. Việc phát triển văn hóa nhằm mục tiêu tạo nên sự phát triển bền vững của văn hóa Việt Nam nhưng làm thế nào để tạo dựng nên một sự bền vững khi trên con đường phát triển các dân tộc lại đang đánh mất bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Bên cạnh đó, hiện nay các thế lực phản động trong nước và quốc tế đã và đang sử dụng văn hóa như một công cụ để kích động mâu thuẫn, xung đột dân tộc, sắc tộc. Do vậy, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, là vấn đề tồn tại hay không tồn tại đối với mỗi dân tộc. Dân tộc Tày là cư dân bản địa và lâu đời ở nước ta. Họ phân bố trên phạm vi rộng từ biên giới phía Bắc của các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai xuống vùng trung du; từ biên giới phía đông của tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng qua huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái và huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình. Thái Nguyên là một trong những tỉnh đồng bào Tày có mặt lâu đời và có số dân chiếm 9,08%. Trong đó người Tày ở Định Hóa có số dân trên 43367 người chiếm 49,2 % dân số toàn huyện. Do sớm có mặt ở Định Hóa lại chiếm tỷ lệ dân số khá đông, trong tiến trình phát triển của lịch sử, đồng bào Tày nơi đây đã sớm xây dựng cho mình một nền văn hóa truyền thống phong phú và đa dạng góp phần xây dựng nên truyền thống văn hóa Việt Nam. Trên cơ sở đó, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc luôn trở thành vấn đề trọng tâm trong đường lối của Đảng. Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ V khóa VIII, Đảng ta đã khẳng định rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để tạo ra những giá trị văn hóa mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”[56, tr.206]. Với mục đích bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc trong văn hóa truyền thống của đồng bào Tày ở huyện Định Hóa, chúng tôi chọn vấn đề “Văn hóa của người Tày ở huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên” làm luận văn thạc sỹ của mình. Trong đó tập trung chủ yếu vào đời sống vật chất và tinh thần của người Tày ở huyện Định Hóa. MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 2 3. Đối tượng, phạm vi và mục đích nghiên cứu 4 4. Phương pháp nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn . 5 5. Nguồn tài liệu . 5 6. Đóng góp của luận văn . 6 7. Bố cục luận văn 6 Chương 1: VÀI NÉT VỀ HUYỆN ĐỊNH HÓA TỈNH THÁI NGUYÊN 7 1.1. Lịch sử hành chính huyện Định Hóa 7 1.2. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên 8 1.3. Các thành phần dân tộc trong huyện 9 1.4. Vài nét về người Tày ở huyện Định Hóa . 13 1.4.1. Dân số, nguồn gốc . 14 1.4.2. Tình hình kinh tế . 14 1.4.3. Đời sống văn hóa, xã hội . 17 Tiểu kết chương 1 . 26 Chương 2: VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGưỜI TÀY ĐỊNH HÓA . 27 2.1. Ăn, uống 27 2.1.1. Ăn . 27 2.1.2. Uống . 31 2.1.3. Ứng xử trong ăn uống . 32 2.2. Nhà cửa . 34 2.2.1. Nhà ở 34 2.2.2. Kiến trúc công cộng 43 2.3. Trang phục 45 Tiểu kết chương 2 . 47 Chương 3: VĂN HÓA TINH THẦN . 48 3.1. Một số tục lệ trong chu kỳ đời người . 48 3.1.1. Cưới xin 48 3.1.2. Sinh đẻ 56 3.1.3. Các nghi lễ liên quan đến làm nhà mới 59 3.1.4. Ma chay 61 3.2. Văn học dân gian . 73 3.2.1. Truyện kể 73 3.2.2. Ca dao, tục ngữ, câu đố . 80 3.2.3. Thơ ca . 84 3.3. Lễ hội dân gian 99 3.3.1. Lễ hội Lồng tồng . 99 3.3.2. Lễ hội cầu mùa 103 3.4. Nghệ thuật . 104 3.4.1. Nghệ thuật múa rối 104 3.4.2. Nghệ thuật tạo hình . 106 3.5. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của người Tày Định Hóa trong điều kiện hiện nay . 111 Tiểu kết chương 3 . 113 KẾT LUẬN 115 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 119

pdf134 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 5039 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hóa của người Tày ở huyện Định Hóa tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gang xẻ làm hai miếng Lấy rìu to, rìu nhỏ vào băm, vào đẽo Người khéo đẽo mặt ngoài Người vụng băm mặt trong Đoạn gỗ thành thuyền to tại chỗ Con dâu mẹ đi mời anh em Lê kéo lội xuống suỗi Khiêng về để tại nhà Đến gà gáy ngày hôm qua Mẹ chết thê, chết thương Chê cơm người không ăn Chê đất xấu không ở Đội nón lên mường trời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 92 Cưỡi ngựa lên mường thiên Con trai, cùng con dâu nội tộc Mời bà con anh em thôn bản Mời anh em nội tộc dòng họ Lấy rìu to, rìu nhỏ về lau về sửa Lấy bào ngắn, bào dài về bào Làm lên cái hòm bốn phương Làm nên cái nhà bốn vách Lấy thân thể mẹ vào trồng Lấy xương mẹ vào chương Đưa mình mẹ vào để Giờ này lấy giờ tốt giờ đẹp Được phép bên ông bà, ông vải Con trai cùng nội tộc họ mạc Đã đưa thân thể mẹ vào trồng Đã đưa xương mẹ vào ương Đã đưa mình vàng mẹ vào để Mẹ sẽ phù hộ độ trì Lấy nhà đẹp nhà tốt mẹ ở Dẻo như bánh,đanh như gang như sắt Mẹ bịt kín lưới kèn, đóng lỗ sáo Hơi trong không bay ra Gió ngoài không lọt vào Món mắt xanh không được nhìn Món lưới dài không được ngửi được nếm... Lạy mẹ.... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 93 * Bài mo đƣa ma Hò na ông quan ơi Hôm nay ông tiễn đưa mày đi Hôm nay ông tiễn đưa mày lên Lên mường trời được mời ăn không Lên mường thiên được ăn sung sướng chỉ việc ấy thôi ông quan ơi. Mày đi ba mươi vía, bốn mươi hồn Bằng ấy ở mường nào thì về Ở nơi đâu cũng về cho đủ. Về ngồi mâm cơm trưa với con, với cái Cho mày ăn mỗi thứ mày cần Tay trái mày mắm cục cơm nếp Tay phải mày dùng đũa ngà voi Mày gắp đũa ăn, đừng nhìn đi đâu Phóng đũa ăn đừng mời Gan lợn mềm mày ăn Phèo lợn ngon mày hưởng Ăn cho hết, lấy cho sạch Nhiều thứ, nhiều món cũng ăn hết Ăn cơm mày không phải ăn chay. Bữa cơm chia tay còn có rượu Rượu này con trái múc ở hũ kín mang ra Lấy ở vại hoa ra mời Múc về đựng chai lọ đẹp miệng mỏng Đặt ngay ngắn trước mặt Rượu này ủ men lá thơm thảo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 94 Giót ra chén đẹp như hoa lim Chất rượu bốc mùi lên thơm dịu Chất rượu rượu rơi xuống họng lao sao Tay nhẹ nâng chén nhỏ lên cằm Tay mềm nâng chén sinh lên môi Chén kinh vẽ hoa phượng Bát kinh vẽ hoa rồng Tay nâng, miệng ngụm nuốt từng ngụm Tâm chén có nàng tiên nhuộm màu. Nghỉ thôi linh hồn ông bà quan Người nhìn và người thấy đã rõ Bằng ấy thứ mình mày ăn không hết Nhiều món mình mày ăn không đặng Mày hãy lấy bút mực ra ghi Lời sổ tay xuống in, chép lấy mang theo Mày hãy cố mang đi Mày hãy cố mang lên. Ghi lấy mang đi cùng bụt mặt hiền Ghi lấy mang đi cùng tiên mặt đẹp Ghi lấy mang đi cùng dòng tiên tổ Của dòng tộc nơi thiên đường trên ấy Mày ghi lấy con lợn giống Ghi lấy giống lợn to Ghi lấy con gà đuôi dái Con gà trống mào to Chép lấy cái xe lớn mày hưởng Chép lấy cái nhà hoa lên dùng Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 95 Chép lấy những cây hoa mang theo Chép lấy nhiều cỗ to trình tổ Chép lấy lụa cả sải Chép lấy vải cả tấm Chép lấy cỗ kim ngân tiền trăm Chép lấy cỗ vàng bạc tiền nghìn Chép lấy cỗ tiền bạc hàng vạn Chép lấy đồng rtiền mới keo làm Tiền tiêu dùng thời nay. Chép lấy tờ văn khế thông hành đi đường (Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Thái Nguyên) * Lễ hạ thuyền Rà rà ra rá kính chiềng hiếu tử Đồng tục một lòng, ngồi giáo hạ thuyền Kham tâm nhà hiếu, co hiền đông đả Con thảo cháu nhân giá ơn dã đạo Bình yên hỡi là lòng thấu nghãi tình Con cháu xót xa, thương ơi là thương Nguyệt long tây đổi ngày cách trở lặng Táng xa trung thực, nhà ở trên cao Cách trở đặi dương, nơi mà thương nhớ Trần trực mới đặng báo nghĩa dã đạo Công đầu là của nội tộc gần xa Ngoại tộc cùng gái rể góp vào bao nhiêu Mới có nghĩa tình vậy có thơ rằng: Hạ thuyền là đưa thuyền về bến Ngân Hán Lâm thuyền đưa hồn về âm phủ nơi xa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 96 Còn có lòng vấn vương khắp gần xa Còn thơ như bông nguyệt nga, độ bước ra lại tàn Khóc thở than lại thương càng thiết Trời mưa lớn cản đường về tây thiên Linh hồn có bắc đẩu dẫn đi Âm phủ cách rương gian muôn đời Phải khóc than đến lúc hạ thuyền Theo dòng chảy phẳng lặng quang đáng mênh mông Thắm thiết để mọi điều ước mong Nhớ thương chung hỡi là phiền lòng Hồn tiêu về miền quê tây phủ Con cháu mới kính lòng mẹ cha Cùng đứng trông theo hỡi là mọi đường Tiễn chân đi đến nơi nước thiên quốc Trong lòng con cháu tiếc thương thay Khóc xót xa cùng nhau hạ thuyền Bàn thờ rằng như chiêm báo đắng khổ Nhìn cao cháu cùng gái trai cam phường Cùng xong việc nghĩa tử là hạ thuyền Trả sang bên ngân hán cùng cánh tiên Con cháu được bình yên hỡi là đời đời Phường trao thuyền ở nơi bến khách Cảm ơn người giúp được thuyền to Nội tộc toàn họ mạc cùng lo Trả nghĩa ơn hỡi là cố phụ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 97 Được bình yên muôn đời, bình yên muôn đời. (Nguồn: Sở Văn hóa, thể thao và Du lịch Thái Nguyên) 3.2.3.3. Hát then Hầu hết trong các lễ cúng của người Tày đều có hát then, hát then không chỉ đơn thuần là một loại hình âm nhạc hay diễn xướng dân gian mà có sự gắn kết chặt chẽ với tín ngưỡng. Trong cộng đồng người Tày, các ông Then, Tào, Pụt, Mo là những người có khả năng liên hệ với thần linh, tiếp cận với thế giới siêu nhiên, là cầu nối giữa người trần với các đấng tự nhiên. Chính bởi thế họ có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh và tín ngưỡng của cộng đồng. Then được hát trong hầu hết các nghi lễ, hội với nhiều đường then khác nhau tùy thuộc vào mục đích của lễ cúng. Ngoài phần thuộc lễ nghi, diễn xướng then còn có phần mang tính chất vui chơi mang đậm yếu tố sân khấu. Ông Then là người thuộc nhiều đường then và có căn then. Người làm then phải là người có mình pang then (vía then) thích hợp cho việc làm thầy cúng, được cộng đồng tín nhiệm, nể trọng. Cũng giống như hầu đồng của người Việt, then của người Tày mượn lời ca, tiếng đàn cùng chùm xóc nhạc dẫn đường đến với các đấng siêu nhiên để thỉnh cầu hay cảm tạ. Trong then có nhiều đường then. Dạng then cũng lắm, trong mỗi dạng lại có nhiều điệu hát khác nhau. Nhạc dùng cho nhạc cụ của then trong các nghi lễ, các khúc then được tạo nên một cách có hệ thống, bài bản theo trình tự nội dung trình diễn. Không gian biểu diễn hát then thường được trình diễn chủ yếu trong nhà (trước bàn thờ) tuy nhiên đôi khi cũng được trình diễn trong một không gian rộng như ngoài cánh đồng, phổ biến ở lễ hội lồng tồng vào dịp giêng hai. Khi vui người ta mời then, khi nhà có chuyện mời then, người có bệnh mời then, người hiếm muộn mời then. Then không thể thiếu trong đời sống Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 98 tinh thần và tâm linh của người Tày, trở thành một trong số tín ngưỡng đặc thù của cộng đồng người Tày. Theo quan niệm của người Tày, có ba tầng trời, mỗi Mường đều có người sinh sống, trần sao âm vậy và họ tin khi tiếng đàn tính cùng lời then cất lên là lúc các ông then đang bắt đầu cuộc hành trình với từng đường then dẫn quan quân đi khắp ba tầng trời. Trong tàng then thống đẳm (đưa người chết về Mường trời), hay pang khoăn, cấp sắc, cầu hoa… đều thể hiện rất rõ quan niệm ấy. Qua lời then, người nghe có thể biết được quan quân của then đã đến đâu trên Mường Trời. Lời then cũng chỉ rõ đặc điểm của từng bản ở Mường Trời. Điệu then khi trầm khi bổng, đôi lúc sôi động gấp gáp kết hợp với động tác mô phỏng cùng tiếng hò reo tạo khí thế quyết tâm của quan quân then đồng thời xuất hiện yếu tố thiêng. Đặc biệt là trong thống đẳm, điệu hát cùng động tác lên ngựa hay đánh nhau với thủy quái, vượt khái… khiến người xem hồi hộp, nín thở. Khi lên ngựa then hát rằng: Phạt cờ khửn bưởng lăng tứn mạ Phạt cờ khửn bưởng nả tứn loan (Phất cờ về phía sau lên ngựa Phất cờ về phía trước xuất quân) Đồng thời tay then mô phỏng theo câu hát. Tiếng kèn „„mạy loi‟‟ tiếng trống „„mạy tảng‟‟reo lên, rồi cứ thế đoàn quan quân then đi hết từ pá nhả khâm thai đét (bãi trà may chết nắng), rồi pá nhả lẹp thai mươi (bãi rau hẹ chết sương) đến ruộng rồi đến các bản trong Mường Trời. Lời then cứ thế thủ thỉ, sôi động rồi lại trầm buồn, ngẫm ngợi. Mỗi bản một tâm trạng, một sắc thái, không khí. Có khi căng thẳng lo lắng, có lúc hồ hởi vui tươi, tiếng đàn tiếng hát quyện với nhau hư ảo. Toàn bộ cuộc hành trình đưa linh hồn người chết về Mường Đẳm đều gắn với đường then Thống Đẳm, câu then khắc họa những vất vả khó khăn của quan quân trên cuộc hành trình đó. Lời then khi đến chợ Tam Quan thể hiện khát vọng một cuộc sống ấm no, đầy đủ, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 99 câu hát rộn rã, tấp nập, hồ hởi, lạc quan, thấm vào từng cá thể đang sống nơi trần thế. Lời then cho người sống an tâm về linh hồn người đã mất. Những linh hồn ấy đã được then đưa về mường tổ tiên, được mua sắm đầy đủ, ấm no, có ruộng có vườn, có trâu, có của. Còn với pang khoăn lời then tạo niềm tin cho người bệnh, những người đang gặp hoạn nạn khó khăn, để vượt lên số phận, cải tạo số phận, là liều thuốc giúp họ vượt qua mọi trở ngại bệnh tật để sống. Hát then, đàn tính là linh hồn cho các lễ nghi, hội hè. Tiếng đàn tính vang vọng, lời then nồng ấm cùng yêu tố thiêng là món ăn tinh thần hơn tất thảy các món ăn tinh thần khác. 3.3. Lễ hội dân gian 3.3.1. Lễ hội Lồng tồng Lễ hội lớn nhất trong năm của người Tày ở huyện Định Hóa là lễ hội Lồng tồng. Lễ hội Lồng tồng hay còn gọi là lễ hội xuống đồng được tổ chức rất long trọng vào đầu năm, khởi đầu cho một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu. Vào dịp đầu xuân hầu như xã nào cũng tổ chức lễ hội Lồng tồng vào những ngày lệch nhau để mọi người trong vùng đến chia vui như: xã Phú Đình tổ chức vào mồng 10 tháng giêng âm lịch, xã Trung Hội ngày mồng 7 tháng giêng, xã Đồng Thịnh ngày 4 tháng giêng…) Để chuẩn bị cho lễ hội Lồng tồng, người Tày thường dựng một cây nêu ở khu đất rộng, bằng phẳng giữa cánh đồng cách miếu của bản khoảng 20 - 30 m. Cây nêu được làm bằng tre, dài 15 m, ở ngọn cây có vòng tròn tượng trưng cho mẹ Hằng Nga - nơi cung cấp giống cây trồng cho dân làng. Mỗi gia đình chuẩn bị một mâm cỗ cúng gồm 1 con gà luộc, xôi, các loại bánh, rượu trắng và đôi quả còn. Từ sáng sớm, mâm cỗ của các gia đình đã được xếp thẳng hàng trước cửa miếu làng, xung quanh mâm cỗ to của bản và dậu đựng hạt giống. Thầy Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 100 mo được sự trợ giúp của các thầy trợ mo chủ trì mọi nghi lễ cúng cầu mưa, cầu mùa. Trong khi thầy mo cúng, thầy trợ mo đội một chậu nước đứng bên cạnh. Sau khi khấn và xua đuổi mọi tà ma hại người, hại gia súc, hại mùa màng, thầy tào nhúng tay vào chậu nước vảy ra xung quanh, dân bản ai cũng muốn mình hứng được những giọt nước mưa tượng trưng đó để ruộng cấy đủ nước, cây trồng không bị gặp hạn. Thầy mo trộn đồng xu vào dậu hạt giống và quẳng vào đám đông đang đứng ở trước mặt. Nếu người nào nhặt được đồng xu và hứng được nhiều hạt giống là điềm báo hiệu một năm mới với nhiều may mắn sẽ đến với bản thân và gia đình. Sau 3 tuần hương, đốt vàng mã cắt bằng giấy bản có 5 hàng hình quả trám dâng lên thổ công của thôn bản, thầy mo chuyển sang thực hiện nghi lễ cúng ở cây nêu mong cho dân bản ném còn trúng vòng tròn để xin được nhiều hạt giống tốt về trồng cấy. Tiếp theo phần lễ là phần hội.Các trò chơi diễn ra trong hội Lồng tồng rất đa dạng, phong phú và kéo dài hết ngày hôm đó: *Trò chơi tung còn Tung còn là một trò chơi dân gian, là một hình thức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ được thanh niên nam nữ rất ưa thích. Ném còn thường được tổ chức vào các dịp lễ hội của đồng bào. Nhưng sôi nổi nhất vẫn là vào dịp hội Lồng tồng. Để chơi được trò ném còn, người ta phải dựng cây nêu thật cao, trên đỉnh cây nêu có một vòng tròn dán giấy màu. Quả còn được làm bằng vải ngũ sắc, trong bọc hạt giống được quấn chặt tạo thành hình tròn có đường kính khoảng 15 cm. Cách chơi: những người tham gia chơi được chia thành hai bên nam và nữ. Từng đôi trai gái thi nhau tung còn làm sao cho trúng vòng tròn, ai ném trúng thì được thưởng. Quả còn được tung đi tung lại, người chơi phải khéo Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 101 léo bắt được dây còn không cho quả còn rơi xuống đất. Tung còn là trò chơi được nhiều người ưa thích. Nơi đây còn lưu truyền bài lượn về trò chơi này: Về Nà Lại tung còn Về Nà Đon đánh quay Nà Lại không lìa còn Nà Đon không lìa quay Quay cái đi cái về Còn cái đi cái lại Trai đánh quay quên ngủ Gái tung còn quên ăn Con trẻ xem quên cơm Gái xem mồm há hốc Chia tay nước mắt rơi Nghĩ bâng khuâng không dứt Tháng giêng ngày mười lăm Đánh quay qua ngọn núi mới thôi Tung còn qua ngọn mai mới lài Trai gái nước mặt rơi hẹn với nhau Yêu nhau hẹn năm sau sẽ gặp Hội ném còn chỉ kết thúc khi có 3 quả còn chui qua vòng tròn, tượng trưng cho việc dân bản đã xin được hạt giống tốt hứa hẹn một mùa bội thu. Những người ném được quả còn chui qua vòng tròn, ngoài niềm vui lớn với hy vọng một năm may mắn còn được lĩnh tiền thưởng của thôn bản do các gia đình đóng góp lại. Khi hội tung còn kết thúc, dân bản tranh nhau nhặt quả còn đem về treo ở cây to trong vườn với mong muốn cây sai quả hoặc bóc lõi gạo bên trong cho lợn, gà ăn chóng lớn, không bị bệnh dịch. * Trò chơi đánh quay Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 102 Quay được làm bằng loại gỗ dẻo và cứng, đẽo thành hình tròn có đường kính khoảng từ 5 - 7 cm. Phần dưới thu nhỏ dần đều về phía chính tâm và trên có một mấu ở giữa dài khoảng 3 cm là nơi để cuốn dây. Dây cuốn thường là sợi vải hoặc dây rừng được se lại. Dây được quấn chặt vào đầu của con quay từ trong ra ngoài, quấn được càng nhiều vòng thì quay được càng lâu. Quấn xong dùng tay văng mạnh xuống đất, khi quay văng xuống đất cũng là lúc dây được từ từ dật ra khỏi quay tạo một lực phản làm quay quay tít. Khi chơi quay, trẻ vẽ một vòng tròn rồi bổ quay vào trong vòng tròn đó. Quay của ai ra khỏi vòng tròn trước thì người đó được bổ trước. Còn lại tất cả phải để quay của mình vào trong vòng tròn đó. Nếu người bổ quay bổ không trúng hoặc trúng mà quay của mình không quay thì phải nhặt quay của mình bỏ vào vòng tròn để người khác bổ. Nếu ngời nào bổ trúng quay của người khác mà quay của mình vẫn quay tít thì người đó sẽ giành phần thắng. * Trò chơi kéo co Kéo co là một trò chơi khỏe mang tính tập thể cao nên được thanh niên người Tày ở Định Hóa rất ưa thích. Để tổ chức được trò chơi này, người ta chọn dây thừng để chơi. Bãi chơi kéo co thường là một sân cỏ rộng và bằng phẳng. Trước khi chơi, họ dàn quân ra hai bên cầm sẵn hai đầu dây, mỗi bên có 6 - 8 người chơi tùy số lượng do bản quy định và cuộc thi bắt đầu. Tiếng trống dồn dập thôi thúc cả hai bên. Bên ngoài người xem cổ vũ hòa cùng tiếng trống hết sức náo nhiệt và vui nhộn. * Trò chơi đánh yến Đánh yến là một trò chơi dân gian mang tính phổ biến của đồng bào Tày ở huyện Định Hóa trong lễ hội Lồng tồng. Quả yến có hình dạng gần giống quả cầu lông, đế hình vuông hoặc hình lục giác được làm bằng tre, mai… ở giữa được nối bằng một ống trúc ngắn trong đó cắm từ 3 đến 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 103 chiếc lông gà. Người chơi chủ yếu là phụ nữ. Đánh yến chủ yếu được chơi từng đôi một. Đánh yến là một trò chơi dân gian truyền thống của đồng bào Tày, nó xuất hiện từ lâu đời. Đây là trò chơi vui khỏe, đòi hỏi sự khéo léo, nhịp nhàng nhưng hết sức vui nhộn, gây ấn tượng sâu đậm trong người đến dự hội. * Trò chơi thi bắn nỏ Trong lễ hội Lồng tồng cuộc thi bắn nỏ đã trở thành cuộc thi tài của thanh niên người Tày nơi đây. Khi tổ chức bắn, họ cắm hình nộm cách vị trí điểm bắn khoảng từ 30 đến 50 m. Mỗi người chỉ đượcbắn 3 mũi tên, tuy nhiên có những xã ở Định Hóa cuộc thi bắn nỏ trong ngày hội Lồng tồng không hạn chế tên bắn, nghĩa là mũi tên chạm vào hình nộm là được thưởng. Ngoài ra trong lễ hội Lồng tồng còn diễn ra rất nhiều trò chơi dân gian khác như đánh khăng, đánh đáo… Lễ hội Lồng tồng của người Tày ở Định Hóa, Thái Nguyên thực sự là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian đặc trưng. Đây là lễ cầu một mùa màng bội thu của những cư dân nông nghiệp thể hiện khát vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, vạn vật sinh sôi của con người. 3.3.2. Lễ hội cầu mùa Gần giống như lễ hội Lồng Tồng diễn ra trong dịp xuân về, lễ hội cầu mùa là một sinh hoạt văn hoá, giúp cho người dân vui tươi thoải mái về tư tưởng; cầu cho con cái mạnh khoẻ, chăm ngoan, học giỏi; cầu cho cái xấu, cái ác ra khỏi nhà, cái may, cái hạnh phúc luôn vào nhà; cầu cho mùa màng tốt tươi chăn nuôi phát triển, trâu đầy đàn, lợn nhiều con năng suất cao. Lễ hội diễn ra vào ngày 28 tháng 3 âm lịch với hai phần lễ và hội. Phần lễ tổ chức trong hội trường hay trong đình, gồm có các mâm xôi, thịt, hương hoa để các già làng và thầy mo, thầy tào khấn vái. Phần hội tổ chức ở Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 104 ngoài sân làng hay trên các bãi rộng. Phụ nữ thì thi nhau thêu thùa, làm các mặt hàng thủ công, mỹ nghệ. Nam giới thì làm nỏ vót tên, làm bẫy bắt thú rừng. Tất cả tạo nên không khí vui tươi, sôi nổi. Đàn ông mặc áo chàm đen, phụ nữ mặc váy áo chàm, quàng khăn đen hoặc khăn chàm, cổ đeo vòng bạc duyên dáng. Mở đầu cho khai hội là múa lân, tung còn, đây là trò chơi có nhiều người tham gia. Cây còn làm cao 12 mét thể hiện 12 tháng trong năm. Trên sân khấu tổ chức múa hát văn nghệ đến khuya, đó là các làn điệu hát then, hát sli, hát lượn, hát đối đáp của dân tộc Tày - Nùng. Họ hát bằng cả tấm lòng của mình. Về khuya, các đôi nam nữ tìm hiểu nhau, trao cho nhau chiếc khăn tay, hay chiếc túi thổ cẩm thể hiện vật kỷ niệm đính ước tình yêu... Tan canh họ mời nhau ly rượu dã bạn gửi anh một chén rượu đi đường, cũng là gửi lời thương lời nhớ: hẹn đến lễ hội năm sau. Sau lễ hội cầu mùa nhiều đôi nam nữ đã nên vợ nên chồng. 3.4. Nghệ thuật 3.4.1. Nghệ thuật múa rối Nghệ thuật rối Tày ở Định Hóa là một nét văn hóa dân gian độc đáo. Cả phường rối thường gồm 12 người, trong đó 6 người điều khiển con rối, 4 người chơi nhạc, 1 người giáo (dẫn truyện) và 1 người phụ giúp chuẩn bị các con rối. Ru Nghệ là một bản nhỏ của xã Đồng Thịnh huyện Định Hóa nơi còn lưu giữ nghệ thuật múa rối độc đáo của người Tày. Múa rối Ru Nghệ thường được tổ chức vào ngày mồng 4 tháng giêng âm lịch. Đây là một phần nghi lễ quan trọng không thể thiếu của ngày hội Lồng tồng, diễn ra hàng năm tại bản không mang đi nơi khác. Trò rối diễn ra trong lễ hội Lồng tồng là trò Bắt tắc kè. Theo tín ngưỡng địa phương thì báo giờ tắc kè kêu thì trời mới mưa to, mới có nước để sản xuất. Nhân dân muốn trong năm mới mưa thuận gió hòa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 105 thì phải bắt tắc kè kêu. Trò được diễn ra nhằm ý đồ này. Trò được diễn ra như sau: Một đoạn thân cây thẳng bằng tre hoặc bằng trúc, dài khoảng 3 m, có bố trí con tắc kè ở cái tổ trên ngọn, một người leo lên bắt ở dưới gốc cây. Nghệ nhân đứng dưới gốc cây đẩy hai que thép luồn trong một cây trúc có đầu buộc vào hai tay và hai chân người bắt làm động tác, co tay duỗi chân, vươn mình khi leo lên và một nghệ nhân khác kéo đẩy một que sắt khác có đầu buộc vào con tắc kè điều khiển nó thò ra thụt vào trong tổ. Các quân rối đều đẽo bằng gỗ bôi màu hóa trang. Các nghệ nhân mang quân trò tắc kè ra giữa sân khấu, hai người ngồi giữ cho cây đứng và hai người điều khiển hai quân rối hoạt động. Tắc kè cứ thập thò cửa sổ Người bắt ở dưới gốc cây đã sẵn sàng. Ông trùm gõ mèn giáo Kính chiềng thượng hạ Được nghe ông trời Sét đắp bờ cày bừa Ruộng đến ngày cày bừa ruộng có nước Tôi mới đi Rủ làng dưới nhiều người Ngày mai đắp vai Lấy nước gieo mạ Suối thì cạn lắm Nước không lên mương Tắc kè nghe thương Hắn nói đằng hắng Ba tiếng “e hèm” Khỉ bầy tức cười Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 106 Định vào chầu vua Được mùa bội thu. Trong khi đó, người bắt leo lên. Nhưng cứ leo gần đến nơi tắc kè lại thụt vào tổ, người bắt lại tụt xuống, tắc kè lại chui ra bò xuống, người bắt lại leo lên và tắc kè lại lui về tổ, người bắt lại tụt xuống… Có những lúc tưởng như tắc kè nằm ngủ không biết người đang lặng lẽ nhẹ nhàng leo lên sát đến nơi, nhưng cũng không bắt được, khi người vừa tụt xuống tắc kè lại bò xuống theo như trêu như thách… Trò diễn ra khá sinh động làm người xem thích thú. Kết thúc trò múa rối là tắc kè cũng bị người bắt. Dân làng phấn khởi. Cả bản kết thúc ngày hội trong cơm rượu no say. Không chỉ có bản Ru Nghệ mà phường Bình Yên cũng có múa rối. Đây là nghệ thuật múa rối que và rối máy, các quân rối đều làm bằng gỗ, bôi màu. Quân rối Bình Yên nhỏ, cỡ 0,3 m, đẽo, gọt, hóa trang sơ sài, màu sắc nghèo nàn, kỹ thuật và nghệ thuật chưa cao. Tổng số có 31 quân rối gồm 22 quân rối người và 9 quân rối vật. Theo các nghệ nhân số quân này không thay đổi. Nghệ nhân điều khiển nấp kín trong buồng trò, mắt nhìn mặt quân rối cao trên đầu mình, hai tay điều khiển quân rối làm động tác : quân rối di chuyển theo sự di chuyển của toàn thân người điều khiển. Cách diễn là : theo lời giáo ở ngoài, các nghệ nhân lần lượt đưa các con rối lên múa. Nghệ thuật múa rối ở Định Hóa đã thể hiện khá sinh động sinh hoạt sân khấu của đồng bào Tày nơi đây.Tính kỳ kạ của nghệ thuật múa rối tỏ ra có sức hấp dẫn lớn bên cạnh tính tổng hợp của nghệ thuật này. Người xem thích quân rối đẹp, cử động tài, lời văn cảm động, câu chuyện có ý nghĩa, tiếng đàn hát hấp dẫn. 3.4.2. Nghệ thuật tạo hình 3.4.2.1. Đàn tính Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 107 Cũng giống như các dân tộc khác, dân tộc Tày có những nét văn hoá đặc trưng riêng của mình, trong đó đàn tính là một phương tiện giao tiếp mang đậm bản sắc văn hoá của người Tày. Đàn tính thuộc bộ dây bao gồm những bộ phận chính như sau : - Bầu vang (bộ phận tăng âm): làm bằng nửa quả bầu khô (cắt ngang). Kích cỡ bầu vang có thể thay đổi tùy theo quả bầu lớn nhỏ, song đường kính thường tư 15 đến 25cm. Để có độ vang, âm sắc chuẩn người ta thường chọn quả bầu tròn và dày đều để làm bầu vang. Mặt đàn thường làm bằng gỗ cây ngô đồng xẻ mỏng khoảng 3mm. Trên mặt đàn có khoét 2 lỗ hình hoa thị để thoát âm (trước kia 2 lỗ hoa thị được khoét ở phía sau bầu đàn). Ngựa đàn tương đối nhỏ nằm trên mặt đàn. - Cần đàn: bằng gỗ, thường là gỗ dâu hay gỗ thừng mục, nhẹ và thẳng. Cần đàn dài khoảng 9 nắm tay của người chơi đàn. Theo kinh nghiệm dân gian, “số đo” cỡ nào thì hợp với cỡ giọng hát của người có số đo ấy. Phần dưới của cần đàn xuyên qua bầu vang, còn phần trên cùng là đầu đàn uốn cong hình lưỡi liềm hoặc đầu rồng, đầu phượng… Mặt cần đàn trơn, không có phím như đàn tam. Hốc luồn dây có 2 hoặc 3 trục dây. - Dây đàn: trước đây làm bằng tơ xe, nay là nilon. Đàn tính có loại 2 dây và loại 3 dây theo từng vùng và từng chức năng âm nhạc. Người Tày ở Đinh Hóa thường sử dụng cả hai loại. Ở loại 3 dây, người ta thêm 1 dây trầm ở giữa. Âm thanh của dây trầm thấp hơn dây cao 1 quãng tám đúng. Loại 3 dây được gọi là tính then (đàn then) thường dùng trong nghi lễ Then để phân biệt với loại 2 dây là tinh tẩu dùng để đệm hát và múa. Làm đàn tính khó nhất là tìm quả bầu. Phải chọn được quả bầu không quá to, cũng không quá nhỏ, phải già, hình dáng bên ngoài phải tròn đẹp, vỏ dày, gõ vào phải kêu thật đanh. Như thế đàn mới có âm sắc chuẩn. Cần đàn phải nhẹ và thẳng, chiều dài phải bằng 9 nắm tay của người chơi, theo kinh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 108 nghiệm dân gian, số đo cỡ nào thì hợp với giọng hát của người có số đo ấy. Cần đàn trơn, không có phím bấm, người chơi tính phải có khả năng diễn tấu linh hoạt. Nhưng chỉ bấy nhiêu thôi cũng chưa đủ cho một cây tính hay bởi đó còn là niềm đam mê cho tiếng đàn tính bay cao bay xa, là lòng tự hào dân tộc và thêm một chút tài hoa đặc biệt của người nghệ nhân. Đàn tính có mặt trong tất cả các ngày vui, ngày trọng đại của bản người Tày như hội xuân đón năm mới, mừng nhà mới, ngày cưới, lễ mừng thượng thọ, mừng thăng quan, tiến chức… Nó là phần quan trọng trong nghệ thuật dân ca, dân vũ của người Tày. 3.4.2.2. Hoa văn trên vải Nói đến nghề dệt vải, trước hết đó là một hoạt động kinh tế - là một nghề thủ công cổ truyền của đồng bào Tày. Song ở khía cạnh văn hóa thì đó lại là sự biểu hiện của giá trị nghệ thuật, giá trị thẩm mỹ. a. Hoa văn trên vải thổ cẩm Vải thổ cầm của người Tày có 4 loại đó là mặt chăn, mặt địu, màn che và túi đeo. Mô típ trang trí hoa văn thổ cẩm đa dạng đó là: - Các mô típ đường viền hoa móc. Mỗi tấm vải thổ cẩm đều bố cục một cách chặt chẽ trong các đường viền xung quanh. Đường viền đó là các hình chữ T và chữ thọ liên tiếp đảo ngược nhau; băng ô cách, mỗi ô cách nhau một khoảng nền có kích thước bằng 1 ô, loại này thể hiện màu tương đối tùy tiện vì các ô nền màu đen ngăn cách ô làm cho màu sắc ở mỗi ô kia nổi lên; băng hoa 6 cánh tròn rời nhau đồng màu hoặc khác màu… - Mô típ hoa, lá, quả như hoa hồi 8 cánh hình thoi xếp thành 4 cặp đối xứng nhau hay hoa hồi kép 16 cánh ở giữa có nhân hình quả trám, mỗi mô típ hoa hồi nằm trong 1 ô hình thoi liên tiếp theo băng chéo và được phối màu tương phản; quả trám được bố trí theo băng chéo, nhân của mỗi hình thoi là Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 109 một hình thoi nhỏ; hoa móc và quả trám nằm trong mô típ các băng chéo và hình thoi cùng với mô típ hoa hồi kép. Hai loại này đối màu nhau… Đặc biệt ở những tấm vải thổ cẩm làm màn che ở nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thường thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo như thêm đường diềm ở phía trên tương ứng cho cõi trời có hình các vị thần linh bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới tương ứng với cõi đất có hình con ngựa, con chim là những hình tượng trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú… b. Hoa văn trên trang phục thầy Tào Hoa văn trên trang phục thầy Tào Tày ở Định Hóa bao gồm mô típ hoa văn trang trí trên mũ và trên áo. - Mũ: Trên mũ của thầy Tào (loại mũ ngũ nhạc) người ta trang trí hình rồng bán thân hoặc phượng hình gà trống. Đối với hình rồng bán thân, toàn bộ mô típ, thêu bằng chỉ màu vàng, đỏ và xanh trên nền đen, thân rồng thêu chỉ vàng theo từng mảng xuôi và phủ kín, tạo thành các mảng vảy to, quanh thân viền chỉ xanh. Rồng có tư thế ngang, đầu tròn hai mắt đen, lồi to, viền nhân mắt bằng chỉ trắng, lông mày dài, màu trắng vuốt về phía sau, mi mắt đỏ, cổ vươn cao, một chân vươn về phía trước, một chân quặp về phía sau gồm 4 ngón. Trên lưng rồng là hình bó lúa nằm dọc theo thân. Phía dưới ngực là một mô típ các quả cau nối nhau, thêu chỉ đỏ viền trắng; Đối với phượng hình gà trống, mô típ thêu chỉ màu trắng, xanh, đỏ, vàng trên nền đen, viền khung theo hình mặt mũ. Phượng có thân ngắn mập, đuôi to tròn. Đầu phượng to, mỏ đỏ, mặt vàng, mắt đỏ. Mào gồm hai phần: phần trên đỉnh đỏ, màu xanh, phần sau dài, nhọn, màu đỏ, dưới cằm có 2 mào hạ màu xanh. Cổ to ngắn viền ngoài có hàng lông trắng, to, 2 cánh xòe rộng, bả cánh đỏ, mỗi cánh có hai tia lông vàng, đỏ từ trên xuống. Chân dài màu trắng, đùi dài, gập về phía trước, 5 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 110 ngón chụm vào nhau. Toàn thân thêu chỉ vàng xen màu xanh. Cả hai con phượng ở tư thế nghiêng, xòe cánh chầu vào quả bàu vàng ở giữa. - Áo: Trên hai thân trước áo của thầy Tào Tày ở Định Hóa trang trí nhóm rồng - cá - hồ lô và người cưỡi ngựa theo chiều dọc từ trên xuống. Mô típ này thêu bằng chỉ màu trắng, xanh, vàng trên nền đen. Rồng ở đây là rồng toàn thân. Thân rồng uốn lượn, đuôi ngắn, nhọn, thả theo chiều dọc, lưng xanh, bụng trắng. Toàn thân phủ vẩy, đầu nhỏ, mồm dài, lưỡi đỏ, mi mắt đỏ, tóc bờm trắng, vuốt ra phía sau. Từ phần ngực rồng vươn cao, hai chân trước dang rộng xòe 5 ngón hình chân gà. Chân sau đứng thẳng, một chân bị lấp. Loại rồng này được trang trí theo cặp: hai bên thân áo chầu và giữa trong nhóm dọc cùng với cá, hồ lô, người cưỡi ngựa. [9, tr.31] Mặt sau áo có trang trí hình phượng bay, kỳ lân đầu rồng đuôi cá. Người ta trang trí hình phượng bay ở hàng thứ 2 và 4 của 2 cột dọc bên cạnh của mặt sau áo. Mô típ thêu chỉ màu đỏ, trắng, xanh, vàng nhạt trên nền đen. Các con phượng được bố cục thành hai cặp đối xứng và quay đầu vào nhau theo tư thế nằm nghiêng, cách nhau một mảng trang trí dọc ở phần giữa áo. Phượng có thân thon, cổ to, thấp, phần đuôi to, tròn, thân thêu bằng chỉ trắng xen vàng nhạt. Đầu thon có mào xanh, mỏ dài trắng, mắt chấm đỏ, hai cánh dang rộng, mỗi cánh có 4 tia lông trắng, ba cánh màu đỏ, hai chân nhỏ nằm dưới bụng có 3 ngón, một cựa phía sau, lông đuôi có 3 chiếc to, 2 chiếc sau nhạt, 1 chiếc màu đỏ nằm ở giữa; Kỳ lân đầu rồng đuôi cá được trang trí đứng độc lập trong khung hình chữ nhật ở hàng thứ 3. Con kỳ lân được thêu chỉ màu trắng trên nền đen. Mặt xanh, dọc sống lưng có vây đỏ, mồm há rộng, hai mắt tròn, đầu quay về phía sau, 4 chân đứng hơi quỳ, đuôi ngắn hình đuôi cá. [9, tr.35]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 111 Bên cạnh đó áo thầy Tào còn được trang trí bởi các hình ngựa lùn thân có vẩy thêu bằng chỉ màu xanh theo dạng lưới, hình cá đầu nhọn, vẩy nhỏ thêu chỉ vàng nhạt và xanh lơ theo dạng mắt lưới,… Tóm lại, hoa văn trang trí trên trang phục thầy Tào Tày ở Định Hóa là những họa tiết có tính khái quát và tính biểu tượng rất sâu sắc. Mỗi họa tiết thêu, vẽ và ghép vải đều hàm chứa một hay nhiều ý và tuân theo một nguyên tắc khắt khe về màu sắc, bố cục và đường nét. Có những yếu tố khác với tính tự nhiên, phóng khoáng của nghệ thuật dân gian. Nhưng nhìn chung đó là những ước lệ phản ánh tín ngưỡng nên mặc dù đạt ở trình độ thẩm mỹ cao nhưng lại bó hẹp trong khuôn mẫu. Chính vì thế, trang trí hoa văn trên trang phục tín ngưỡng của người Tày đã trải qua nhiều thời kỳ, đến nay nó vẫn bảo lưu gần như nguyên vẹn. 3.5. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống của ngƣời Tày Định Hóa trong điều kiện hiện nay Dưới tác động của nền kinh tế thị trường cùng với quá trình giao lưu văn hóa giữa miền xuôi và miền ngược, giữa các dân tộc, đời sống vật chất và tinh thần của người Tày Định Hóa đang có sự biến đổi và có sự mai một về các giá trị của văn hóa truyền thống. Cho nên vấn đề bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của người Tày nơi đây là hết sức cấp thiết để người Tày giữ gìn được bản sắc văn hóa vốn có riêng của dân tộc mình. Sự mai một về văn hóa thể hiện trước hết là ngôi nhà sàn. Nhà sàn là sản phẩm của sự lao động sáng tạo xuất hiện phù hợp với những điều kiện tự nhiên, là nơi diễn ra các nghi thức, các sinh hoạt văn hóa nay đã và đang thay đổi về hình thức và kết cấu ngôi nhà. Ngôi nhà sàn truyền thống đang mất dần đi thay vào đó là những ngôi nhà xây, mái lợp ngói hoặc đổ bê tông. Càng ở gần thị trấn, ven quốc lộ hay trung tâm thì sự mất dần của ngôi nhà sàn càng rõ nét. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 112 Y phục cổ truyền đang có hướng hiện đại hóa. Người Tày nhất là lớp trẻ, học sinh, sinh viên, cán bộ… hầu như không mặc bộ y phục truyền thống nữa. Nguyên nhân là họ ngại khi mặc quần áo truyền thống, hơn nữa hiện nay nghề trồng bông, dệt vải truyền thống cuãng thưa thớt dần thay vào đó là hàng dệt may công nghiệp. Kho tàng văn học dân gian cũng đang mai một dần. Hiện nay lớp trẻ không còn mấy ai biết đến các câu chuyện truyền thuyết, câu đố, tục ngữ, ca dao, dân ca, mà chỉ có người già mới am hiểu và đang nắm giữ nhiều vốn văn học dân gian mà thôi nhưng do quy luật sinh học khắc nghiệt mà lớp người này đang mất dần đi mang theo những giá trị văn hóa mà họ chưa kịp trao truyền cho thế hệ sau. Lễ hội dân gian cũng đang mất dần đi tính truyền thống, đang bị hiện đại hóa. Nhiều vùng đã mai một các lễ hội dân gian, chỉ còn lưu giữ được lễ hội Lồng tồng nhưng các phần lễ bị lược hóa, đơn giản đi, hiện nay chỉ còn chủ yếu phần hội. Tuy nhiên trong phần hội các trò chơi dân gian truyền thống như bắn nỏ, đánh quay, đánh bam… thưa dần nhường chỗ cho các hoạt động của văn hóa hiện đại như thi đấu bóng đá, cầu lông, biểu diễn văn nghệ bằng tiếng phổ thông. Để có thể gìn giữ và phát huy được bản sắc văn hóa truyền thống của người Tày Định Hóa cần phải có những giải pháp thích hợp: Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa. Tăng cường đội ngũ cán bộ, xây dựng đội ngũ tri thức, nâng cao học vấn đối với đồng bào Tày nơi đây Thứ hai, tuyên truyền giáo dục rộng rãi văn hóa dân tộc Tày cho đồng bào nhất là lớp trẻ để nâng cao lòng tự hào dân tộc, để đồng bào nhận thấy rõ giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc mình. Bởi vì bản sắc dân tộc chỉ có thể được bảo tồn, phát huy khi mọi di sản văn hóa quý báu được lưu giữ vững Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 113 chắc trong bảo tàng và ý thức của mỗi người dân, do chính họ là người thực hiện. Việc tuyên truyền này không chỉ thông qua việc giáo dục trường học mà còn thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài phát thanh, đài truyền hình,… Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh nghệ thuật quần chúng trong cộng đồng dân tộc Tày, làm cho vốn văn nghệ dân gian tiếp tục đâm chồi nảy lộc ngay trên mảnh đất mà nó đã sinh ra. Đó là việc duy trì, phát triển phong trào văn nghệ quần chúng, duy trì các đội văn nghệ ở thôn bản, khai thác các tiết mục dân gian, tranh thủ sự trao truyền của các bậc nghệ nhân, già làng để những giá trị văn hóa có thể được lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thứ tư, đối với các lễ hội dân gian, cần có kế hoạch khôi phục lễ hội truyền thống của đồng bào Tày. Tìm kiếm các bài dân ca, các làn điệu dân gian, các trò chơi dân gian để thu hút đông đảo quần chúng tham gia lễ hội, tạo môi trường văn hóa lành mạnh. Trước mắt và lâu dài là phải làm cho các lễ hội dân gian truyền thống của đồng bào Tày song hành cùng với những loại hình văn hóa hiện đại. Tiểu kết chƣơng 3 Những tập tục trong chu kỳ đời người của người Tày như cưới xin, sinh đẻ, mừng nhà mới, ma chay có nhiều sắc thái riêng mang đâm đặc trưng văn hóa tộc người. Nó phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên. Đồng bào Tày có kho tàng văn học dân gian hết sức phong phú với nhiều thể loại như dân ca, câu đố, tục ngữ… phản ánh nhiều mặt của cuộc sống sinh hoạt và sản xuất của đồng bào. Các lễ hội truyền thống được tổ chức vào đầu năm nhất là lễ hội Lồng tồng không chỉ để cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống yên vui mà còn là dịp để đồng bào vui chơi, giao lưu kết bạn với nhau. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 114 Nghệ thuật tạo hình dân gian cũng rất phong phú thể hiện được sự khéo léo, sáng tạo của đồng bào và cũng thể hiện được tâm lý, tìh cảm, đời sống tâm linh của đồng bào. Tất cả tạo nên một đời sống văn hóa tinh thần phong phú hướng con người đến các giá trị chân, thiện, mỹ. Những giá trị văn hóa đó cần phải được gìn giữ và trao truyền qua nhiều thế hệ để bản sắc văn hóa Tày không bị mai một đi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 115 KẾT LUẬN Qua nghiên cứu về văn hóa dân tộc Tày ở huyện Định Hóa chúng tôi đã rút ra một số kết luận sau : 1. Định Hóa là một huyện nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh Thái Nguyên, có vị trí chiến lược hết sức quan trọng trong tiến trình phát triển của lịch sử. Đây là vùng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng tạo điều kiện hình thành nền kinh tế tự cung tự cấp cho nhân dân, có tác dụng ổn định đời sống và là hậu phương cho lực lượng vũ trang cách mạng. Định Hóa là nơi sinh cơ lập nghiệp lâu dài của nhiều dân tộc trong đó chiếm số đông và có mặt lâu đời nhất là dân tộc Tày. Dân tộc Tày vốn có truyền thống văn hóa bản địa rực rỡ từ lâu đời trên mảnh đất Định Hóa, nơi đã từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử đấu tranh giữ nước oanh liệt của cả dân tộc Việt Nam, từng là cái nôi của nhiều cuộc cách mạng, kháng chiến.Văn hóa Tày là một trong những yếu tố văn hóa đặc trưng của vùng Việt Bắc trước đây nói chung và Định Hóa nói riêng. Người Tày ở Định Hóa làm kinh tế nông nghiệp với hình thức canh tác ruộng lúa và nương rẫy là chủ yếu. Bên cạnh đó đồng bào còn phát triển trồng hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm kết hợp với các hình thức đánh bắt, hái lượm. Thủ công nghiệp phát triển nhiều nghề đa dạng như dệt vải, đan lát, nghề rèn, nghề mộc,… Quan hệ xã hội của người Tày ở Định Hóa thể hiện qua các mối quan hệ cộng đồng làng bản, dòng họ và gia đình. Đồng bào ở đây cư trú thành làng bản lấy quan hệ dòng họ, làng giềng làm cơ sở. Gia đình của người Tày là gia đình nhỏ phụ hệ, vai trò của người đàn ông được coi trọng. Trong sinh hoạt hàng ngày có nhiều quy định khắt khe dành cho con gái, con dâu thể hiện rõ nét tính chất phụ quyền này. Người Tày còn có tục nhận con nuôi và kết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 116 tồng thể hiên nét đẹp trong phong tục tập quán và cũng là yếu tố tạo nên sự cố kết cộng đồng dân tộc Tày nơi đây. Người Tày theo tín ngưỡng dân gian thờ đa thần cùng với quan niệm vạn vật hữu linh với hệ thống miếu thờ thổ công, thờ cúng tổ tiên, các nghi lễ liên quan đến sản xuất nông nghiệp… 2. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, người Tày đã tạo dựng cho mình một nền văn hóa phong phú cả về vật chất lẫn tinh thần. Văn hóa vật chất của người Tày thể hiện qua ăn uống, trang phục và nhà ở. Người Tày ăn hai bữa chính trong ngày với những bữa ăn giản dị gồm cơm, rau xào với mỡ và một bát canh rau. Đôi khi thêm thịt, cá, cua hoặc một trong các món hém thịt, hém cá… được chế biến phức tạp và khéo léo. Trong bữa cơm hàng ngày người Tày luôn có ý thức ưu tiên, dành những phần ngon cho người già, trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai, khách. Điều này đã thành nếp, thành thói quen của mỗi thành viên trong gia đình. Trong những ngày lễ tết đồ ăn của đồng bào Tày rất phong phú và đẹp mắt như Tết Thanh Minh (3/3) có xôi đỏ đen, ngày lễ Lồng Tồng có xôi ngũ sắc và nhiều loại bánh… Ngày thường đồng bào có tập quán uống trà, nước đun sôi. Trong dịp lễ tết hoặc khi nhà có khách thì uống rượu. Trang phục của người Tày đơn giản, không thêu hoa văn với sắc chàm đằm thắm và kín đáo. Nhà sàn của người Tày là nơi trú ngụ thường ngày của một cộng đồng người, là nơi sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ con người từ khi sinh ra đến khi trưởng thành và còn là nơi diễn ra hết thảy các lễ thức liên quan đến đời người từ khi sinh ra đến khi chết đi. Thông qua ngôi nhà sàn, chúng ta có thể khai thác nhiều thông tin quan trọng về các yếu tố liên quan đến đời sống xã hội của họ như điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội, trình độ sản xuất, thị hiếu thẩm mỹ… Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 117 3. Văn hóa tinh thần đa dạng, phức tạp thể hiện ở các lễ tục trong chu kỳ đời người và kho tàng văn học nghệ thuật phong phú. Sinh đẻ, cưới xin, làm nhà mới và ma chay là những mốc đáng nhớ trong suốt cuộc đời mỗi con người. Tập tục sinh đẻ và nuôi dạy con cái của người Tày Định Hóa phản ánh truyền thống tốt đẹp, mối quan hệ giữa con người và tự nhiện, giữa con người với con người; Cưới xin là sự thừa nhận của cộng đồng, bản làng đối với việc kết hôn của đôi nam nữ. Lễ cưới của người Tày hiện nay còn bảo lưu được những nét văn hóa mang tính truyền thống tốt đẹp vốn có của đồng bào như: tục hát Quan làng trong đám cưới, thiếu nữ phải biết dệt vải thổ cẩm khi chuẩn bị về nhà chồng. Tập tục ma chay của người Tày diễn ra với những nghi lễ phức tạp bị chi phối bởi nền đạo đức luân lý phong kiến và thuyết “linh hồn tồn tại” nhưng qua đó thể hiện lòng hiếu thảo, lòng hiếu thảo muốn được báo hiếu, đền đáp ơn sinh thành dưỡng dục của những người đang sống với người đã khuất, với đạo lý “uống nước nhớ nguồn” đã có từ ngàn đời. 4. Trong quá trình lao động sản xuất cà sinh hoạt lâu dài, người Tày ở Định Hóa đã tạo dựng được một kho tàng văn học dân gian phong phú với nhiều thể loại như truyện kể, dân ca, tục ngữ, câu đố… Truyện kể của người Tày phong phú, nó được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, trải qua bao thế hệ qua phương thức truyền khẩu. Bên cạnh đó là những câu tục ngữ, câu đố, các làn điệu hát lượn… đã thấm sâu vào tâm hồn người Tày nơi đây một cách sâu lắng, tự nhiên thông qua lời ru của mẹ từ thủa còn nằm nôi, qua những câu đố trong những buổi làm nương, làm đồng, qua làn điệu hát quan làng trong đám cưới… Trong trí nhớ của những người cao tuổi: vào những buổi làm đồng mệt nhọc thường cử ra một người kể chuyện dân gian, đọc truyện thơ nhằm động viên mọi người tích cực lao động; lễ hội Lồng Tồng bao giờ cũng kết thúc muộn bằng những bài cọi lưu luyến lòng người, những Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 118 đám cưới thực sự trở thành ngày vui của cả bản làng chứ không riêng gì gia đình, dòng họ bởi những bài hát quan làng ý nhị, sâu sắc. Kho tàng văn hóa ấy là những kinh nghiệm được đúc kết qua quá trình lao động sản xuất, là nơi gửi gắm những khát khao của con người muốn vươn lên trong cuộc sống hướng tới chân, thiện, mỹ. Không chỉ có văn học phong phú mà người Tày còn có một nghệ thuật tạo hình độc đáo. Đó là nghệ thuật tạo hình đàn tính, hoa văn trên vải thổ cẩm và trên trang phục thầy Tào. Tất cả thể hiện được bàn tay khéo léo, sức sáng tạo, thị hiếu thẩm mỹ và cả những quan niệm về thế giới tự nhiên xung quanh con người của người Tày. 5. Đời sống văn hóa vật chất cũng như tinh thần của người Tày ở Định Hóa (Thái Nguyên) rất đa dạng, phong phú nhưng hiện nay nhiều giá trị văn hóa đó đang bị mai một dần. Do vậy, cần có biện pháp thích hợp để bảo lưu và phát huy những giá trị văn hóa trong cộng đồng Tày nhất là lớp thanh niên. Để đồng bào Tày giữ gìn được bản sắc văn hóa của dân tộc mình từ đó góp phần vào sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam đa dạng trong thống nhất. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 119 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa thông tin, HN. 2. Vi Văn An (2009), Người Tày ở Việt Nam, Nxb Thông tấn. 3. Triều Ân (Chủ biên) (2000), Then Tày - những khúc hát, Nxb VHDT, HN. 4. Triều Ân (1994), Ca dao Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 5. Triều Ân, Hoàng Quyết (1995), Tục cưới xin người Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 6. Phƣơng Bằng (Chủ biên) (1994), Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc. 7. Ban chấp hành Đảng bộ huyện Định Hóa (2000), Lịch sử đảng bộ huyện Định Hóa, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội. 8. Bộ văn hóa thông tin - Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (2005), 45 năm Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam, Thái Nguyên. 9. Bảo tàng văn hóa các dân tộc Việt Nam (1997), Hoa văn trên vải các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 10. Nguyễn Duy Bắc (2001), Lễ hội Tày - Nùng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 11. Đỗ Thúy Bình (1994), Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 12. Lê Ngọc Canh (1998), Múa tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 13. Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam (1992), Viện KHXH và Viện Dân tộc học xuất bản, Hà Nội. 14. Nguyễn Từ Chi (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 15. Nông Minh Châu (1973), Dân ca đám cưới Tày - Nùng, Nxb Việt Bắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 120 16. Trƣờng Chính (1983), Về các giá trị Văn hóa tinh thần Việt Nam, Nxb Tông tin lý luận, Hà Nội. 17. Phan Hữu Dật (1995), Trở lại vấn đề tín ngưỡng dân gian, Tạp chí dân tộc học số 02. 18. Phan Hữu Dật - Lê Ngọc Thắng (1994), Lễ cầu mùa của các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 19. Ma Ngọc Dung (2004), Nhà sàn truyền thống của người Tày ở Đông Bắc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 20. Ma Ngọc Dung (2007), Văn hóa ẩm thực của người Tày ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 21. Nịnh Văn Độ (2003), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày, Dao, Sán Dìu ở Tuyên Quang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 22. Lê Quý Đôn (1997), Kiến văn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 23. Gìn giữ và bảo vệ bản sắc văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam (1996), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 24. Lê Huy Hòa - Hoàng Đức Nhuận (2000), Văn hóa truyền thống và hiện đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 25. Đỗ Thị Hòa (2004), Trang phục các dân tộc thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt - Mường và Tày - Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 26. Nguyễn Huy Hồng (2003), Nghệ thuật múa rối Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 27. Vi Hồng (1979), Sli lượn - Dân ca trữ tình, Nxb Văn hóa. 28. Nguyễn Văn Huy (1997), Bức tranh văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 29. Vũ Ngọc Khánh (2004), Truyền thống văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam, tập 1 - 2, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 121 30. Vũ Ngọc Khánh (Chủ biên) (2007), Văn hóa lễ hội truyền thống cộng đồng các dân tộc Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân. 31. Hoàng Ngọc La - Hoàng Hoa Toàn (1999), Tín ngưỡng dân gian Tày lịch sử và hiện đại, đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ. 32. Hoàng Ngọc La - Hoàng Hoa Toàn - Vũ Anh Tuấn (2002), Văn hóa dân gian Tày, Sở Văn hóa thể thao, Thái Nguyên. 33. Cung Văn Lƣợc - Lê Bích Ngân (1978), Lượn cọi Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 34. Hoàng Lƣơng (2002), Lễ hội truyền thống của các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 35. Lã Văn Lô - Đặng Nghiêm Vạn (1968), Sơ lược giới thiệu các nhóm dân tộc Tày - Nùng, Thái ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 36. Lã Văn Lô - Hà Văn Thƣ (1984), Văn hóa Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, HN. 37. Lời hát then, nxb Việt Bắc, 1974. 38. Đặng Văn Lung… (1997), Phong tục tập quán các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 39. Phan Ngọc (1998), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 40. Quốc sử quán triều Nguyễn (1992), Đại Nam nhất thống chí, Tập IV, Nxb Thuận Hóa, Huế. 41. Hoàng Văn Páo (2009), Lễ hội Lồng tồng của dân tộc Tày ở Lạng Sơn, Luận án Tiến sĩ lịch sử, Viện dân tộc học. 42. Lục Văn Pảo (1994), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 43. Hoàng Quyết (1974), Truyện cổ dân tộc Tày - Nùng, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 44. Hoàng Quyết - Triều Ân - Hoàng Đức Toàn (1996), Từ điển văn hóa cổ truyền dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 122 45. Hoàng Quyết - Ma Khánh Bằng - Hoàng Huy Phách (1993), Văn hóa truyền thống Tày - Nùng, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 46. Hoàng Quyết - Tuấn Dũng (1994), Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 47. Hà Đình Thành (Chủ biên) (2010), Văn hóa dân gian Tày - Nùng ở Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nôi. 48. Lê Ngọc Thánh (Chủ biên) (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc. 49. Lê Bá Thảo, Bế Viết Đẳng, Đặng Nghiêm Vạn (1978), Các dân tộc ít người ở Việt Nam - Các tỉnh phía Bắc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 50. Ngô Đức Thịnh (1994), Trang phục cổ truyền các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 51. Lê Thông (Chủ biên) (2002), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 52. Hoàng Hoa Toàn - Đàm Thị Uyên (1998), Nguồn gốc lịch sử các dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam, Tạp chí dân tộc học số 2, Hà Nội. 53. Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb KHXH, HN. 54. Nguyễn Trãi (1960), Dư địa chí, Nxb văn sử học. 55. UBND huyện Định Hóa (2003), Quy hoạch tổng thể xây dựng kết cấu hạ tầng khu ATK huyện Định Hóa đến năm 2010, Định Hóa. 56. Văn kiện nghị quyết Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ƣơng khóa VIII (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.. 57. Viện Dân tộc học (2004), Dân cư - Dân tộc tỉnh Thái Nguyên (Địa chí Thái Nguyên), Hà Nội. 58. Viện KHXH Việt Nam (1992), Thành ngữ Tày - Nùng, Nxb KHKT, Hà Nội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 123 59. Viện KHXH - Viện Nghiên cứu VHDG (2008), Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam , Tập 2, 14, 15, 16, Nxb KHXH, Hà Nội. 60. Nguyễn Thị Yên (2009), Tín ngưỡng dân gian Tày - Nùng, Nxb KHXH. 61. Nguyễn Thị Yên (Chủ biên) (2009), Then chúc thọ của người Tày, Nxb KHXH, HN. 62. Tƣ liệu điền dã Những ngƣời cung cấp thông tin STT Họ tên Tuổi Chỗ ở 1 Lô Văn Lợi 71 Xã Bình Yên 2 Ma Sình Phỉn 82 Xã Trung Hội 3 Lương Sùng Chúng 76 Xã Đồng Thịnh 4 Lộc Thị Khích 74 Xã Bảo Cường 5 Vi Thị Nghinh 86 Xã Phú Đình 6 Nông Văn Táu 69 Xã Lam Vĩ 7 Tô Đức Lam 81 Xã Bình Yên 8 Phùng Thị Luyến 63 Xã Bảo Cường 9 Lý Thành Công 68 Xã Phú Đình MỘT SỐ HÌNH ẢNH MINH HOẠ Bản của ngƣời Tày (Ảnh: Dương Quốc Huy) Khung nhà của ngƣời Tày (Ảnh: Dương Quốc Huy) Cầu thang lên nhà sàn (Ảnh: Dương Quốc Huy) Thầy làm lễ cúng mụ cho trẻ (Ảnh: Dương Quốc Huy) Làm nhà táng cho ngƣời chết (Ảnh: Dương Quốc Huy) Thầy Tào dẫn con cháu đi làm lễ phá ngục (Ảnh: Dương Quốc Huy) Hoa văn trên vải thổ cẩm (Ảnh: Dương Quốc Huy) Hoa văn trên mũ thầy Tào (Ảnh: Dương Quốc Huy) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên 1 Chuẩn bị lễ cúng trong lễ hội Lồng Tồng (Ảnh: Dương Quốc Huy) Trò chơi đánh quay (Ảnh: Dương Quốc Huy)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLV2010_SP_DuongQuocHuy.pdf