VĂN HOÁ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH TRONG LỊCH SỬ
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
1. Lí do chọn đề tài
Văn hoá là hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người
sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa
con người với môi trường tự nhiên và xã hội. Nếu văn hoá vật chất cung cấp
cho con người mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên
và xã hội thì văn hoá tinh thần lại thực hiện chức năng gắn kết cộng đồng, điều
chỉnh xã hội, định hướng các chuẩn mực làm động lực cho sự phát triển.
Văn hoá Việt Nam là thành quả kết tinh những tinh hoa có phong cách
riêng biệt của nhiều cộng đồng dân cư. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước,
trong lao động sản xuất, mỗi cộng đồng dân cư trên các vùng lãnh thổ khác
nhau vừa sáng tạo ra truyền thống văn hoá riêng cho mình, vừa giao lưu tác
động lẫn nhau làm cho nền văn hoá vật chất, tinh thần Việt Nam phong phú
đa dạng. Bản sắc văn hoá Việt Nam có ý nghĩa thiêng liêng cao quý là linh
hồn của núi sông là biểu hiện sự trường tồn của giống nòi, là sợi dây kết nối
giữa các thế hệ.
Mỗi giá trị văn hóa đều được biểu hiện trong cuộc sống thường nhật,
được lưu giữ trong trí nhớ, chữ viết, tồn tại trong lối sống, kí ức, tâm thức của
mỗi con người. Những giá trị văn hoá đặc biệt là văn hoá tinh thần với những
sinh hoạt cộng đồng có tính bền vững lâu dài song đang đứng trước nguy cơ
thất truyền mai một rất cao, nhất là khi các điều kiện của đời sống đang từng
bước được cải thiện cùng với sự hấp dẫn của những loại hình giải trí hiện đại.
Do đó cần hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn
hoá truyền thống không chỉ là bảo tồn mô hình mà phải làm cho những giá trị
văn hoá đó đi vào đời sống cộng đồng một cách tự nhiên, trở thành lối sinh
hoạt có văn hóa của mỗi người dân.
Vị trí cách biệt với đất liền, sự giao lưu với các khu vực xung quanh
cũng như trình độ phát triển kinh tế - văn hoá - xã hội còn nhiều hạn chế đã
làm cho những giá trị văn hoá truyền thống của ngư dân đảo Quan Lạn, huyện
Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh trở nên vô cùng quan trọng trong đời sống của cư
dân nơi đây. Những giá trị văn hoá được vun đắp trong hàng ngàn năm lịch sử
vừa là kết quả của sự giao lưu tình cảm văn hoá giữa các cộng đồng ngư dân,
vừa là sản phẩm của sự hòa nhập trong truyền thống của ngư dân Quan Lạn-
hoà nhập để cùng nhau kiên cường đứng trước biển nơi đầu sóng ngọn gió,
hoà nhập để tạo nên sức mạnh đập tan âm mưu xâm lược của các thế lực
ngoại xâm, gìn gữi từng tấc đất biên cương của tổ quốc, hoà nhập để cùng
“chung lưng đấu cật” cần cù làm ăn và phát triển. Hơn nữa được quy định bởi
tính chất ngư nghiệp, quan niệm tâm linh cũng như những tục lệ trong đời
sống văn hoá tinh thần của ngư dân nơi đây có nhiều nét đặc trưng riêng và
tiến bộ đơn giản mà ý nghĩa, đa dạng mà thống nhất. Đặc biệt hơn, những
hoạt động tín ngưỡng tôn giáo, lễ hội ở Quan Lạn đã và đang trở thành một
trong những tiềm năng quan trọng để phát triển loại hình kinh tế du lịch văn
hoá - lịch sử - sinh thái trên đảo.
Dựa trên nghị quyết hội nghị lần thứ X Ban chấp hành trung ương Đảng
khoá 9 đã xác định “tiếp tục đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng tư tưởng
đạo đức lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội ", với mục đích
bảo tồn và phát huy các giá trị bản sắc trong văn hoá của ngư dân đảo Quan
Lạn, được sự giúp đỡ chỉ bảo tận tình của PGS TS. Đàm Thị Uyên, cùng các
thầy cô giáo trong tổ bộ môn lịch sử Việt Nam và Ban chủ nhiệm khoa lịch sử
ĐHSP - ĐHTN, nên em chọn “Văn hoá đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh
Quảng Ninh trong lịch sử” làm đề tài luận văn. Đề tài góp phần làm rõ một
số nội dung và hình thức biểu hiện, chỉ ra những nét đặc sắc mang tính truyền
thống trong văn hoá của ngư dân đảo Quan Lạn. Qua đó góp phần giáo dục
thế hệ trẻ trên đảo có ý thức trách nhiệm giữ gìn bảo vệ những giá trị văn hoá
truyền thống. Từ việc phát huy bảo tồn các yếu tố văn hoá sẽ thúc đẩy hơn
nữa sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ ĐẢO QUAN LẠN HUYỆN VÂN ĐỒN
TỈNH QUẢNG NINH 8
1.1. Vị trí địa lý - Điều kiện tự nhiên 8
1.2. Quan Lạn trong lịch sử . 10
1.3. Thành phần dân cư, dân tộc . 13
Chương 2: VĂN HOÁ VẬT CHẤT CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH . 15
2.1. Ăn- ở- mặc- đi lại . 15
2.2. Hoạt động kinh tế . 20
2.2.1. Kinh tế ngư nghiệp . 20
2.2.2. Kinh tế thương nghiệp 24
2.2.3. Kinh tế nông nghiệp . 29
2.2.4. Kinh tế lâm nghiệp . 30
2.2.5. Nghề vận tải biển 31
Chương 3: VĂN HOÁ TINH THẦN CỦA CƯ DÂN ĐẢO QUAN LẠN . 34
HUYỆN VÂN ĐỒN TỈNH QUẢNG NINH . 34
3.1 Các tục lệ chủ yếu trong đời sống . 34
3.1.1. Sinh đẻ . 34
3.1.2. Cưới xin . 37
3.1.3. Tang ma . 45
3.1.4. Một số lễ tết và lễ hội trong năm . 48
3.1.5. Những biến đổi ngày nay 54
3.2. Tín ngưỡng- tôn giáo . 56
3.2.1 Tín ngưỡng dân gian . 57
3.2.2. Những ảnh hưởng của tam giáo trong đời sống ngư dân Quan
Lạn . 69
3.3. Văn học dân gian . 72
3.4. Mối quan hệ và ảnh hưởng giữa văn hoá tinh thần của ngư dân Quan
Lạn với ngư dân và cư dân Quảng Ninh. 85
KẾT LUẬN . 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO 91
103 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Văn hoá đảo Quan Lạn huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh trong lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thần" hay còn gọi là tứ vị
thánh nương. Theo sách “Việt Điện u linh”,” Lĩnh Nam chính quái” và theo
truyền thuyết còn kể lại trong ngư dân Quan Lạn hiện nay thì tứ vị thánh
nương là thái hậu họ Dương và ba công chúa con vua Tống Đế Bình. Cuối
niên hiệu Trùng Hưng ( 1278 - 1279) quân Tống bị quân Mông Cổ đánh tan
ở Nhai Sơn, vua Tống đem gia quyến và bề tôi lên thuyền trốn ra biển. Bị
đuổi gấp, vua tôi phải nhảy xuống biển tự tử- xác của thái hậu và ba cô công
chúa trôi vào cửa Cờn, được dân chài chôn cất dựng miếu thờ gọi là Đền
Cờn. Miếu tương truyền rất thiêng thường phù hộ cho người đi biển. Cho
nên dân chài dọc bờ biển nước ta nói chung và dân Quan Lạn nói riêng đều
lập miếu thờ.
Tại đình Quan Lạn hiện nay còn lưu giữ sắc phong của vua Minh Mệnh
gia tặng cho tứ vị thượng đẳng thần danh hiệu "Đại càn quốc gia Nam Hải
hàm hoằng quang đại chí đức". Sau đó vua Thiệu Trị sắc phong thêm hai chữ
"Phổ báo" vào năm 1846. [7; 562]
Ngoài việc thờ tứ vị thánh nương, trong đình Quan Lạn còn thờ cả Dương
Không Lộ - ông tổ của nghề đúc đồng ở nước ta. Nhưng ở Quan Lạn lại có ý
nghĩa là vị thần của nghề chài lưới. Sắc phong Thiệu Trị 1846 phong thần cho
Không Lộ Giác Hải, gia tặng " Thành xung Tuệ Trùng Tĩnh"[36, tr562]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
64
+ Thờ Sơn Thần:
Ngư dân Quan Lạn tôn thờ thần Cao Sơn. Theo truyền thuyết Cao Sơn là
một trong 50 người con trai của Lạc Long Quân theo cha lên núi. Thần Cao
Sơn giỏi thuốc, thường hiện thân làm thầy lang chữa bệnh đậu mùa cho nhân
dân. Lúc sinh thời có hiệu là Tế giang cư sĩ. Nhân dân Quan Lạn thờ Cao Sơn
trong miếu ở xóm Thái Hoà gọi là Cao Sơn thần miếu.
Đối với ngư dân Quan Lạn, Cao Sơn là một vị thần rất linh ứng, " Thần
tối cao chi thượng, ngồi cao trông xa, cứu bệnh cứu hoả… cứu dân độ thế, trừ
tà ác quỷ, trừ tại côn đồ".[42, 3].
Một điều đặc trưng ở Quan Lạn trong việc thờ Sơn Thần là có sự hoà
quyện giữa thiên thần và nhân thần. Tại miếu, bên cạnh Cao Sơn còn thờ ông
tổ dòng họ Đỗ Tấn Thân, đã nhập vào làm một phù hộ cho con cháu " làm ăn
xa vắng, đi xa về gần…".
Với địa hình đất đảo Quan Lạn được che chắn bởi 8 dãy núi ( Phía trước
5 dãy, phía sau 3 dãy), hơn nữa ngư dân nơi đây lại có một ngư trường kín gió
được bao bọc bởi các dãy núi để làm ăn sinh sống thuận lợi, do đó ngư dân
Quan Lạn rất tôn thờ thần Cao Sơn. Đầu năm trước khi ra biển ngư dân đảo
Quan Lạn đều bình an, mưa thuận gió hoà. Đồ cúng lễ tại Cao Sơn thần miếu
thường có những hình thuyền chèo bằng vàng mã có quân có tướng, vừa
mang ý nghĩa cúng tế cho Cao Sơn, thế mạng cho dân chài, vừa kỉ niệm chiến
thắng Vân Đồn Lịch sử tháng 2 năm 1288. [42, 4]
+ Tín ngưỡng thờ mẫu:
Tại chùa Linh Quang trên đảo Quan Lạn, điện thờ mẫu cũng được bày trí
theo sơ đồ chung sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
65
- Điện thờ mẫu được bày trí theo quan niệm tả nam, hữu nữ từ trong nhìn
ra. Bên tả tay trái (âm)- tôn ông (dương) âm dương hoà hợp. Bên hữu tay phải
(dương) - chầu bà ( âm) âm dương hoà hợp.
- Tam toà: Được đưa lên ngự cao nhất trong điện thờ mẫu thể hiện mối
quan hệ Thiên Địa Nhân mới đủ số 3, số đủ âm dương (số 1 dương, số 2 âm).
Mẫu Nhân được nổi trội lên, ở giữa là mẫu Thượng Thiên theo ý nghĩa là mẫu
Liễu Hạnh từ trên trời giáng xuống, hai bên là mẫu Thượng Ngàn số 2 và mẫu
Thoải số 3, ở đây không có vai trò của mẫu Địa vì cho rằng người chết bị
hành tội dưới âm phủ mà việc thờ mẫu là cầu mong cho hiện thực cuộc sống
nên vai trò của mẫu Địa không được chú ý. Tam toà là tôn âm dương những
yếu tố gây ra sự biến hoá sinh thành của muôn vật.
- Tứ phủ theo thứ tự Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Địa, Mẫu Thuỷ, Mẫu
Thiên biểu thị về ngũ hành.
Thập
vị
tôn
ông
Tam Toà
Tứ Phủ
Toà Sơn Trang
Tứ phủ chầu bà
Ngũ vị tôn ông
Ban cô
Ban cậu
Thập
nhị
chầu
bà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
66
+ Mẫu Sơn Lâm:
Sơn: đất đá thuộc hành Kim khoác áo trắng
Lâm: Gỗ cây thuộc hành Mộc khoác áo xanh
+ Mẫu Địa: thuộc hành Thổ khoác áo vàng
+ Mẫu Thuỷ: Thuộc hành Thuỷ khoác áo đen ( tía)
+ Mẫu Thiên: Thuộc hành Hoả khoác áo đỏ
Tam toà, tứ phủ ngự ở trên cao. Từ trong thực tế cuộc sống có cả một bộ
máy quan lại bên dưới thừa hành lệnh vua thì trong điện thờ Mẫu con người
cũng không thể không cho xuất hiện những hàng ngũ thừa hành lệnh mẫu.
Với quan niệm thiêng liêng triết học không chỉ có không gian mà phía có cả
thời gian. Tín ngưỡng thờ Mẫu cũng nằm trong cái thiêng liêng đó.
-Toà Sơn Trang: Khi kinh tế hàng hoá phát triển với quan niệm rừng
vàng thì trong điện thờ mẫu xuất hiện thêm toà Sơn Trang.
-Tứ phủ chầu bà: là các đệ tử phục vụ Tứ phủ Thánh Mẫu, trấn trị tại bốn
phương trời đất.
-Ngũ vị tôn ông tương ứng với ngũ hành còn gọi là các quan lớn.
-Ban cô, ban cậu: Biểu hiện thế hệ trẻ kế tiếp sinh sôi, bởi trong tinh thần
cầu mong sự sinh sôi nảy nở của cư dân nông nghiệp. Tín ngưỡng thờ Mẫu
không thể không hỗn dung tinh thần đó. Nên trong điện thờ Mẫu cũng thờ ban
cô, ban cậu nhưng khác với thờ bà Cô, ông Mãnh trong tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên.
Chầu bà, tôn ông thường không có tượng mà thường treo bên trên các
nón chóp, hoặc mũ cánh buồm, bên dưới đặt các đôi hia, bên chầu bà bên
trên treo các nón thúng, bên dưới đặt đôi hài.
- Thập nhị chầu bà: ứng với thần thời gian là 12 địa chi ( Tý, sửu, dần,
mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi ).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
67
- Thập vị tôn ông: ứng với thần thời gian là 10 thiên can ( Giáp, ất,
bính, đinh, mậu, kỉ, canh, tân, nhâm, quý).
Ở điện thờ mẫu thường có hình con rắn leo cao gọi là ông Lốt ấy là thể
hiện con vật đầy đủ âm dương, con cú, con dơi lấy đêm làm ngày, lấy ngày
làm đêm, là âm dương trong chúng hoán đổi.
Ở điện thờ mẫu thường có đôi câu đối
"Vô danh thiên địa chi thuỷ
Hữu danh vạn vật chi mẫu"
(Chưa hình thành trời đất là lúc khởi thuỷ
Hình thành muôn vật ấy là từ người mẹ)
Câu đối đề cao ca tụng người mẹ, vì công người mẹ sinh thành như khởi
thuỷ trời đất.[8, tr186-187]
Việc thờ Mẫu đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh của ngư
dân Quan Lạn. Mẫu được coi như một thế lực siêu nhiên có quyền năng rất
lớn. Ngoài việc thờ cúng mẫu thường xuyên tại chùa, thì cứ vào đầu năm,
trong lễ cầu bình từ mùng 6 đến mùng 10 tháng giêng, ngư dân trên đảo đều
đến chùa Linh Quang, dâng lễ lên điện mẫu để xin sự chở che cho những
người thân của mình trước bão tố đại dương.
3.2.1.4. Các tín ngưỡng liên quan đến ngư nghiệp
- Thờ bà Hang: Tín ngưỡng phồn thực có từ thời nguyên thuỷ vốn là đặc
trưng thiết yếu nhất của văn hóa nông nghiệp để duy trì và phát triển sự sống
để mùa màng tốt tươi. Nếu cư dân nông nghiệp đề cao tín ngưỡng phồn thực
với ý nghĩa sinh sôi nảy nở thì ngư dân Quan Lạn lại đề cao nó với yếu tố
“dưỡng‟‟ che chở bảo vệ trước đại dương bao la nhiều nguy hiểm. Tín
ngưỡng phồn thực đến nay chỉ còn tồn duy nhất ở tục cúng trước khi nhổ neo
của ngư dân Quan Lạn đặc biệt là ngư dân cư xóm lẻ Hải Yến. Truyền thuyết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
68
kể lại rằng từ xa xưa việc giao lưu buôn bán giữa Việt Nam và Trung Quốc
diễn ra rất thuận tiện. Lúc bấy giờ có một người phụ nữ sinh ra trong một gia
đình buôn thuốc, đã theo thuyền buôn đi lại nhiều lần giữa hai vùng đất này.
Trong một lần giao thương, không may bà bị bọn cướp biển bắt, bị hiếp rồi
vứt xác bà xuống biển. Xác bà trôi dạt vào một hang đá của xã đảo Quan Lạn.
Bà báo mộng cho ngư dân biết, dân xã đảo ở đây đã lập mộ và thờ bà trong
miếu gọi là miếu bà Hang. Ngư dân tin rằng oan hồn của bà vẫn phù hộ các
chàng trai đi biển. Do đó vào đầu năm trước khi ra biển hay mỗi lần nhổ neo,
ngư dân ở một số xóm lẻ thường tập trung về miếu bà Hang cúng lễ. Theo lời
báo mộng của bà "ta chết nghiệp nào thì thờ ta nghiệp ấy" cho nên ngoài vàng
hương, hoa trái thì lễ cúng còn mang cả hai dạng biểu hiện của hình thái tín
ngưỡng này là: thờ hành vi giao phối (bằng hình ảnh tượng trưng hoặc do
người cúng diễn tả) và thờ sinh thực khí của đàn ông mong tìm được sự che
chở, may mắn thuận buồm xuôi gió khi ra khơi, đặc biệt bảo vệ ngư dân trước
thế lực côn đồ nơi biển cả. [42, 7]. Song đến nay do tính văn minh ngày càng
nâng cao, nên trong lễ cúng của ngư dân đã bỏ các động tác giao phối.
- Lễ tháp ấn: theo nghĩa dân gian có nghĩa là thay áo cho tượng được tiến
hành vào ngày 26 tháng Chạp âm lịch hàng năm. Lễ được tổ chức theo từng
xóm thôn. Mỗi xóm thôn chịu trách nhiệm làm lễ trong các đình chùa có trong
thôn xóm mình. Chủ lễ thường là những người có tuổi, am hiểu nghi lễ. Sau
khi đọc văn tế chủ lễ xin đài âm dương để xin sự cho phép của “các ngài, các
quan”, tiếp đó người chủ lễ đại diện lau rửa và thay áo cho các tượng. Từ sau
ngày lễ tháp ấn cho đến ngày 30 tết các gia đình ngư dân mới sửa sang thuyền
của mình để chuẩn bị cho một năm làm ăn mới.[42, 2]
- Lễ ra binh đầu năm: Sau khi ăn tết, tuỳ từng dòng họ, từng gia đình chọn
ngày, thông thường mùng 6 hoặc mùng 8 tết để làm lễ ra binh (nghi lễ ra
biển) tức là ngày quay mũi thuyền đi làm ăn. Trưởng họ và chủ mỗi gia đình
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
69
làm lễ cúng "ra binh" rồi cùng chèo thuyền đi đánh cá ở những nơi đã định
sẵn. Lễ cúng ra binh được người dân thực hiện ở Cao Sơn thần miếu, một số
xóm lẻ tập trung ở miếu bà Hang. Vật cúng bao giờ cũng có thuyền chèo bằng
vàng mã để tiến cúng các thần, thế mạng cho ngư dân, cầu mong sự che chở,
thuận buồm xuôi gió, mong một năm bội thu tôm cá. Hiện nay lễ ra binh đầu
năm vẫn được giữ, song với kinh nghiệm đánh bắt thì ngày ra binh có thể
được lựa chọn trong nhiều ngày hơn, có những gia đình ra biển từ mùng 2 tết
hoặc rất muộn, để tránh việc trùng quá nhiều người ra biển làm biển động.
- Lễ cầu bình: Nghề đánh cá nhiều rủi ro bất trắc, phụ thuộc nhiều vào tự
nhiên. Biển nuôi sống con người song cũng có thể nhấn chìm con người. Do
đó mùng 6 đến mùng 10 tháng giêng âm lịch, ngư dân Quan Lạn làm lễ cầu
bình. Các gia đình ngư dân đi lễ ở hầu hết các đình chùa để xin sự bình an,
che trở hoặc đơn giản để cầu may. Trong lễ cầu bình, thì các thế lực siêu
nhiên thường được đề cao như Đại càn quốc gia Nam Hải, Cao Sơn thần
miếu, các Thánh mẫu…
- Ngày đóng thuyền - hạ thuỷ: Đời sống ngư dân gắn liền với con thuyền.
Thuyền là phương tiện đi lại, là công cụ đánh bắt. Do đó khi khởi công đóng
thuyền và hạ thuỷ, ngư dân đều xem ngày, chọn ngày tốt, hợp với tuổi của
chủ thuyền. Những ngày này, ngư dân đều cúng khấn gia tiên, đặc biệt ngày
hạ thuỷ còn cúng vua hà bá tại nơi thuyền xuống, nước để xin thần sông biển
biết tên mặt thuyền, cho phép thuyền lưu thông trên địa phận cai quản của vua
hà bá được bình an.
3.2.2. Những ảnh hưởng của tam giáo trong đời sống ngư dân Quan Lạn
Du nhập vào nước ta trong những thời điểm khác nhau, bằng các con
đường khác nhau, song đến thời Lý 3 tôn giáo: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo
cùng tồn tại được triều đình thừa nhận, tôn trọng trong giáo dục và thi cử.
Lịch sử gọi là thời kì “ Tam giáo đồng nguyên ”.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
70
Quan Lạn nằm trong thương cảng Vân Đồn được nhà Lý thành lập năm
1149. Đến đây đã chịu sự quản lí của triều đình phong kiến, cùng với sự giao
lưu văn hoá với bên ngoài qua đường biển, đã làm tư tưởng tam giáo dần
được du nhập vào Quan Lạn.
- Đạo giáo xâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỉ thứ II, đã tìm thấy
những tín ngưỡng tương đồng sẵn có từ lâu, nên đã nhanh chóng thâm nhập
hoà quyện với tín ngưỡng dân gian đến mức không còn ranh giới. Trên cơ sở
của thuyết vô vi, đạo giáo đến với ngư dân Quan Lạn tạo nên tư tưởng dân
chủ, lối sống phóng khoáng, gần gũi với tự nhiên và hết sức giản dị- giản dị
trong lễ nghi tâm linh, giản dị trong sinh hoạt.
- Nho giáo được nhà nước phong kiến tiếp nhận về khai thác những yếu
tố thế mạnh của nó cho việc tổ chức và quản lí đất nước. Song đến với Quan
Lạn, trong điều kiện xa đất liền, việc quản lí của triều đình còn hạn chế, cuộc
sống ngư nghiệp tương đối tự do thì Nho giáo có ảnh hưởng về văn hoá hơn
là thống trị: đó là tình yêu thương con người trong cộng đồng, đề cao chữ hiếu
trung quân gắn liền với ái quốc. Cũng do điều kiện đó, Nho giáo ở Quan Lạn
có tính mềm dẻo hơn biểu hiện ở tư tưởng bình đẳng nam-nữ, tư tưởng tự do
yêu đương. [42,1]
- Phật giáo: xuất hiện ở Quảng Yên rất sớm, đến thời Lý nhất là thời nhà
Trần đạo Phật cực thịnh ở vùng đất này và Yên Tử, Quỳnh Lâm đã trở thành
trung tâm Phật giáo của toàn quốc. Người dân Quan Lạn rất sùng bài đạo
Phật, và hầu hết theo dòng thiền phái Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông lập
ra trên cơ sở dung hợp tư tưởng Phật với triết lí sống tìm về thiên nhiên của
lão Trang. Nhu cầu về tín ngưỡng được giải quyết bằng việc lập chùa chiền,
dựng bia tạc tượng. Chùa Linh Quang tại Quan Lạn là một ngôi chùa nổi
tiếng. Chùa nằm bên cạnh đình Quan Lạn. Chùa có tên chữ là Linh Quang tự.
Chùa khi mới xây dựng là nhà tranh vách đất sau đến thời Trần được tu sửa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
71
lại. Chùa có kiến trúc giản dị theo lối kiến trúc chung của chùa làng thời Trần.
Nền nhà được tôn cao hơn mặt đất 80 phân. Mặt nền hình chữ nhật gần như
vuông. Nền được vỉa bằng gạch. Chùa có 1 gian hai chái với 4 cột cái thấp to
và 12 cột quân tương ứng, có 2 bờ vì để đỡ 2 mái chính và 2 mái bên. Ngoài
cùng là tam quan sau đến bái đường và hậu cung. Trong chùa trên các đầu xà,
đầu trụ, có chạm khắc hoa lá, chủ yếu là hoa sen. Tường xung quanh xây bằng
gạch.[3; ]
Cách bày trí Phật điện, việc thờ cúng trong chùa Linh Quang thể hiện rõ
tư tưởng Tam giáo trong văn hoá tinh thần của ngư dân Quan Lạn.
Phía trước chùa đặt tượng bà Quan Âm để thể hiện lòng sùng phật - một
lối thượng thần mang siêu lực vô lượng đem đến nguồn hạnh phúc cho đời.
Nơi thờ chính của chùa được chia làm ba gian. Gian giữa phật điện được xây
cao hơn. Trên cùng đặt ngang hàng ba bức tượng ở giữa là Phật bà bên trái là
Lão tử, bên phải là Khổng Tử. Bên dưới là tượng vua Trần Nhân Tông -
người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm và vua Lý Anh Tông người lập ra
thương cảng Vân Đồn. Gian bên phải thờ cấp cô độc - người cấp đất xây
chùa.[42, 10]
Gian bên trái thờ mẫu Tam Phủ, Tứ Phủ là sự hoà quyện giữa đạo giáo
với tín ngưỡng dân gian.
Ngoài ra chùa còn thờ cụ Hậu - một bà lão ở Quan Lạn không chồng
con, sinh thời hiền lành phúc đức, chăm chỉ làm ăn để dành được một số tiền
của lớn. Trước khi chết đã dành toàn bộ số tài sản của mình cho nhà chùa.
Dân làng đã tạc tượng cụ và thờ trong chùa. Bức tượng cụ Hậu là một bức
tượng dân gian khá đặc sắc được lưu giữ trong chùa.
Chùa còn thờ sư tăng Trần Huyền Trang (thời Đường - Trung Quốc).
Bức tượng mô tả Trần Huyền Trang trong thế đứng, mặc áo cà sa, tay cầm
trượng. Chùa cũng thờ Quan Công (quan Vân Trường). Trong chùa còn đặt
nhiều bát nhang cho các linh hồn vong linh đã khuất.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
72
Qua cách bày trí trên ta thấy được sự tiếp xúc giữa tín ngưỡng truyền
thống với các tôn giáo ngoại lai biểu hiện trong lối kiến trúc phổ biến của
chùa chiền Việt Nam đó là “tiền Phật hậu Thần” tức là thờ trong chùa các
thần, các thánh, các vị thần thành hoàng làng, thổ địa... hay việc thờ Mẫu
trong thần điện... đồng thời thấy rõ sự dung hợp của 3 tôn giáo ngoại lai.
Trước đây chùa Linh Quang là trung tâm văn hoá của làng. Hầu hết các
sinh hoạt văn hoá đều diễn ra ở chùa. Ngày nay, chùa vẫn được còn là chốn
linh thiêng. Người dân đến chùa để cầu may, để ngư dân ra biển an toàn, mưa
thuận gió hoà, để làm lễ ra binh đầu năm hay đơn thuần là để du ngoạn. Hiện
nay chùa còn lưu giữ được đầy đủ hệ thống tượng Phật có giá trị điêu khắc
mang đậm phong cách thời Nguyễn, các bức hoành phi, câu đối, sắc phong
của vua Thành Thái (1889) phong cho mẫu Liễu Hạnh.
3.3. Văn học dân gian
Ở Quan Lạn, có gần như đầy đủ các loại hình văn học dân gian. Tất cả
các loại hình từ tự sự đến trữ tình không chỉ phong phú về số lượng mà còn
rất đặc sắc, độc đáo về giá trị nội dung và nghệ thuật.
- Truyện cổ
Ở cửa sông Mang nơi giáp giới giữa hai xã Minh Châu và Quan Lạn có
hai quả núi mang tên Cõng Ông, Cõng Bà với chuyện kể cảm động về tình
thương yêu của đôi vợ chồng già.
Trong các làng bản của Quảng Ninh nói chung và Quan Lạn nói riêng
thường lưu truyền chuyện kể về các thành hoàng, các sơn thần, thuỷ thần. Đối
với Quan Lạn, có là các câu chuyện kể về Đương cảnh thành hoàng, Nam hải
tôn thần và tứ vị tôn thần, thần Cao Sơn, câu chuyện của ba anh em họ Phạm
người địa phương cùng lập công và hy sinh trên đảo… Nhìn chung các thần
tích, thần phả và các truyện dã sử không có kết cấu truyện hoàn chỉnh, nhân
vật truyện không được giới thiệu đầy đủ song loại truyện này vẫn được lưu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
73
truyền và gây ấn tượng mạnh bởi các tình tiết, các sự việc đặc biệt. Loại
truyện này thực chất là sự huyền thoại hoá các nhân vật hoặc sự kiện lịch sử
có thật đã diễn ra trên vùng đất thiêng liêng này. Ví dụ: Ngư dân Quan Lạn
tôn thờ thần Cao Sơn. Theo truyền thuyết Cao Sơn là một trong 50 người con
trai của Lạc Long Quân theo cha lên núi. Thần Cao Sơn giỏi thuốc, thường
hiện thân làm thầy lang chữa bệnh đậu mùa cho nhân dân. Lúc sinh thời có
hiệu là Tế giang cư sĩ. Nhân dân Quan Lạn thờ Cao Sơn trong miếu ở xóm
Thái Hoà gọi là Cao Sơn thần miếu.
Ở trên mỗi bến thuyền của thương cảng xưa, đều có một giếng nước
ngọt. Giếng Hệu hay giếng nàng Tiên trên bến Cái Làng, giếng Rùa Vàng trên
bến Con Quy. Mỗi bến đều gắn với một câu chuyện thần thoại.
- Tục ngữ và phương ngôn
Cư dân trên đảo Quan Lạn có hàng loạt phương ngôn, tục ngữ liên quan
đến vùng biển và nghề biển. Có khi đó chỉ là những kinh nghiệm vặt: “Bán
ruộng đầu cầu, ăn đầu cá đối”, bởi vì đầu cá đối xương mềm ăn ngon. Có khi
là một tổng kết thật giản dị: “Bắc lặng về hôm, nồm lặng về sớm” (Mùa gió
bấc, biển thường lặng về chiều. Mùa gió nam, biển lặng lúc sáng sớm). Có khi
chỉ đơn giản bốn chữ: “Đầu động, cuối yên” mà kết tinh bao quan sát: Bão
chưa đến, biển hơi động là lúc cá xô vào gần bờ, có thể cho thuyền ra đánh
nhanh một hai mẻ lưới dễ thu hoạch lớn. Sau đó phải tìm chỗ cho thuyền
tránh bão và đợi tan bão, biển thật yên (cuối yên) mới đánh được cá. Ngư dân
đã tổng kết “đăng dài, chài rộng” mới mong được nhiều cá.
Với người đi thuyền kinh nghiệm sông nước thật sự là lẽ sống còn nên
tục ngữ, phương ngôn nghề biển không những nhiều mà lời lẽ còn hết sức
mạnh mẽ, quyết liệt, tha thiết và dứt khoát. Có những câu như trêu đùa bằng
sự chơi chữ nhưng thực chất vẫn là lời dặn dò người đi biển:
“Mồng mười tháng ba
Giỗ cha thằng Nghẹo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
74
Muốn ăn cá nghéo
Thì chạy ra khơi” [42, 5]
Tháng ba, đã sang xuân, mây quang, trời sáng, nắng ấm, dân làm nghề
biển sau đợt nghỉ tết và hội hè dài đã nóng lòng muốn ra khơi xa. Nhưng hãy
coi chừng, mồng mười tháng ba thường còn đợt gió mạnh rất nguy hiểm.
Chẳng biết thật hay hư chuyện ngày giỗ cha thằng Nghẹo, chuyện cá nghéo
(thuộc họ cá mập) hay chuyện “ngoẻo” thật hay đùa mà bao đời rồi câu
phương ngôn như một bài vè cứ được lưu truyền.
Vùng biển giữa vịnh Hạ Long và Bái Tử Long khá rộng. Ở đây có hòn
Đũa chơi vơi giữa sóng gió. Phía ngoài, đảo chạy dài, trong bờ là dãy núi đá
Quang Hanh lừng lững, khi trời giông bão, chỗ này thường sóng gió rất mạnh,
thuyền qua đây phải hết sức cẩn thận: “Kín Đũa thì sống, trống Đũa thì chết”.
Hãy lách vào khe núi để không nhìn thấy hòn Đũa (kín Đũa), nếu xem thường
đi ra chỗ trống là chết.
Bên cạnh đó, còn có những câu tục ngữ, phương ngôn về con người và
sản vật, về đường ăn lễ ở như “gái Liễu Mai, trai Vân Đồn”.
- Vè: là thể loại kể chuỵên bằng văn vần rất đáng chú ý trong kho tàng
văn học dân gian trên đảo Quan Lạn.
Chùm bài Vè đi lính ở quần đảo Vân Hải: Các nhà sưu tầm phát hiện một
hiện tượng lạ ở quần đảo Vân Hải trong đó có xã Quan Lạn, cùng đề tài đi
lính mà ở đây có đến hàng chục bài. Đại thể các bài đều kể giống nhau: lệnh
quan truyền xuống, làng xóm xôn xao, trai tráng bị bắt đi lính, tính cảnh thật
éo le, cha mẹ già, vợ dại, con thơ. Từ đây lấy ai đứng mũi chịu sào, lấy ai kéo
lưới thả mồi kiếm cá nuôi nhau. Đây là tai hoạ lớn với mỗi nhà. Chàng trai gạt
nước mắt xuống thuyền theo lính dẫn giải để rồi đi đóng đồn ở nơi vùng rừng
thiêng nước độc, ba năm vò võ mong chờ hết hạn quay về... Một số bài có kết
cục bi thảm khi người lính trở về thì bố đã chết, chẳng biết mà để tang hoặc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
75
vợ con đói khổ đã tha phương cầu thực. Có lẽ do đặc thù của nghề biển, người
đàn ông là trụ cột trong lao động và là chủ của mỗi con thuyền. Trai làng chài
chừng mười tám, đôi mươi đã lập gia đình và tách ra ở riêng, làm ăn riêng
trên một con thuyền. Đang là chủ một gia đình vợ thơ con dại mà phải đi lính
thì đúng là một đại hoạ.
Bài Lính thú đời xưa:
“...Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón dấu, vai mang súng dài
Một tay thì cắp hoả mai, một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền
Tùng tùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa...”
Bài Trấn thủ lưu đồn:
“..Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
“Hữu thân, hữu khổ” phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa, lấy ai bạn cùng
Nước giếng trong con cá vẫy vùng..” [42, 6]
Đến nay nhiều ý kiến xác định đây là hai đoạn của cùng một bài vè.
Ở quần đảo Vân Hải xưa có Vè ông đĩ Tràng được nhiều người thuộc.
không rõ tên ông là gì. Ông có con gái tên là Tràng, theo tập tục xưa gọi luôn
ông là ông đĩ Tràng (hoàn toàn không có nghĩa xấu). Ông sáng tác rất nhiều
và rất nhanh. Hầu như mọi chuyện ở Quan Lạn (trước cách mạng tháng Tám)
đều được ông đặt vè. Chuyện mấy cô đi đào mồi bị nước trôi mất váy, chuyện
ông ba vợ mà chịu nằm không, chuyện bố chồng mò vào buồng nàng dâu,
chuyện một cô chửa hoang tử tự không chết... Bài vè nào của ông cũng mang
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
76
yếu tố hài hước. Từ một chuyện nhỏ đi câu không may bị ngã qua lời kể khoa
trương của ông lại thành “..Đi câu cá mó, nó xách xuống sông”. Trong bài Vè
cứu tàu Héng Coỏng, cái hài lại khá thâm thuý. Bài vè kể về việc chiếc tàu
Hông Kông bị bão giạt vào bãi cát Quan Lạn. Xã trình lên quan. Quan nhận lễ
của chủ tàu rồi sai lính ra ép dân đào bãi cứu tầu. Cả làng cật lực ra làm ba
ngày ba đêm liền, háo hức mong khi tàu nổi sẽ đươc trả công. Nào ngờ khi lối
ra được mở, tàu liền nổ máy và dông thẳng ra biển. Cả làng nhìn theo tưng
hửng. Đáng cười quan huyện ngồi không vớ bẫm, đáng cười chủ tàu tệ bạc,
hay đáng cười cả đám dân làng chất phát bị một quả lừa? Bài vè không bình
luận. Cũng lối kể vô tư ấy, ông còn có bài vè “Sửa đình Quan Lạn” nói rõ
việc thu tiền rồi ăn uống, chia chác của hào lý trong làng, còn lại không đủ
tiền mua gỗ, tiền công thợ lại bắt dân đóng góp. Bọn chức dịch doạ dẫm, đe
nẹt, nhưng ông cãi thắng vì “chẳng có điều gì nói sai”. Chúng tức tối mà
không làm được gì ông. Dân làng thì hả hê bình luận, bài vè càng lan rộng.
[36, tr160]
- Hát chèo đường
Hát chèo đường còn gọi là hát ví, hát véo, hát đố- giảng...cũng có khi gọi
là hò biển, đây là một loại hình văn nghệ dân gian truyền thống, lối hát giao
duyên đặc sắc theo dạng đối đáp giữa hai bên trai gái của ngư dân vùng sông
nước Vân Đồn. Hát chèo đường diễn ra rất tự nhiên giữa các thuyền của ngư
dân. Cuộc hát có thể diễn ra trên thuyền, dưới bến sông, trong ngày hội đình
làng và đặc biệt hay trong khung cảnh đám cưới. Ở đó câu hát vang lên một
cách tự nhiên, dung dị như lời tâm tình tha thiết. Qua lời hát, người ta giãi bày
tâm sự và tìm những tâm hồn đồng điệu. Giữa vùng non xanh nước biếc
những khi chung bến, chung bờ, những khi buông neo, chờ gió, đợi nước,
thuyền này gọi hát, thuyền kia đáp lời:
“Trên mây sa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
77
Dưới hòn Gà Chọi
Anh hát câu này anh gọi nàng ra
Những lời mình hát đêm qua
Đêm nay hát nữa mau ra hát cùng
Hát cho con gái bỏ chồng
Đàn ông bỏ vợ, nạ dòng bỏ con…” [36, tr303]
Xét về hình thức, hát chèo đường Vân Đồn thực chất là hát hò biển kết
hợp với hát giao duyên, được phát triển từ thể thơ lục bát truyền thống vốn rất
giàu có, phong phú về câu từ, và sâu sắc, thâm thuý về ý nghĩa. Xét về nội
dung, ngôn từ bài hát thường là những lời tâm tình về cuộc sống hàng ngày,
về tình yêu đôi lứa, những giận hờn trách cứ, những yêu thương nhớ nhung,
hay những buồn vui, kinh nghiệm trong lao động sản xuất. Trong đó tâm sự
về tình yêu thường là nội dung phổ biến nhất. Theo Tiến sĩ Hoàng Sơn, một
nhà nghiên cứu về âm nhạc, thì cơ bản giai điệu của lối hát chèo đường rất
gần với giai điệu của giọng hò miền Trung và là sự kết hợp hài hoà với điệu
hát Đúm vốn có tiết tấu chậm, âm vực thấp của vùng châu thổ sông Hồng.
Điều này cho thấy cư dân vùng Vân Đồn khi tiến ra biển đã tiếp thu, tích hợp
một cách có sáng tạo, mang tính đặc thù riêng. [24, tr12]
Hát chèo đường là loại hình văn nghệ dân gian lâu đời, mang tính đặc
trưng của người dân vùng biển Vân Đồn. Đáng tiếc là hiện nay lối hát này
không còn được phổ biến rộng rãi, nhiều người trẻ tuổi không biết hát chèo
đường đúng cách, đúng trật tự, lề lối...
- Ca dao
Những người dân Quan Lạn sống trên đảo, vị trí cách biệt với đất liền,
họ không chỉ thiếu thông tin mà còn thiếu thốn về tình cảm. Họ rất cần giao
lưu kết bạn mà hình thức chủ yếu là thông qua hát đối đáp lấy ngôn từ trong
kho tàng ca dao. Để đáp ứng nhu cầu đó, những bài ca dao được sáng tác liên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
78
tục. Cũng chính vì vậy mà ca dao của dân đảo luôn đi liền với diễn xướng, tồn
tại và phát triển trong diễn xướng
Do hoạt động đánh bắt trong cùng ngư trường vịnh Hạ Long - Bái Tử
Long nên sự gặp gỡ giữa các cộng đồng ngư dân diễn ra thường xuyên nên
văn hoá có sự giao thoa rất lớn, vì thế ca dao vùng biển được coi là sản phẩm
văn hoá tinh thần chung của ngư dân Quảng Ninh. Ca dao vùng biển phong
phú về chủ đề, uyển chuyển về ngôn ngữ tiết tấu, mang đậm chất lạc quan,
yêu đời phóng khoáng của ngư dân Quan Lạn nói riêng và ngư dân vùng biển
Quảng Ninh nói chung.
Tình yêu quê hương gắn liền với những địa danh cụ thể của vùng biển
đảo với niềm tự hào khôn xiết
Chàng trai hỏi:
“ Em là con gái Liễu Mai
Anh mong vượt biển ra ngoài đất Vân
Hỏi em đâu xóm đâu làng
Mênh mông trời nước biết đường nào đi..”
Cô gái trả lời:
“ Đất Vân có cửa Chà Vàng
Núi Thồng, núi Gội nghênh ngang lưng chừng
Đất Vân lại có núi Vừng
Xóm Cằm, Mai Mác nửa chừng ngoài khơi
Trông về Móc Vượn anh ơi
Đông Hồ, Giếng Bẹ là nơi có làng
Soi Ba, soi Oản thênh thang
Lựng Giao, soi Buộm vào làng gần thay
...Muốn sang thuyền cứ chèo sang
Non xanh, nước biếc, mây vàng chàng ơi”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
79
Ở làng Vân xưa, có giếng quý lạ- giếng Hệu, các cô gái tắm gội bằng
nước giếng Hệu thì làn da, mái tóc đẹp lên rất nhanh
“Ngày đi tóc chửa bằng vai
Ngày về tắm nước giếng Hệu tóc dài bằng lưng...”
Ca dao của người dân chài luôn gắn liền với cuộc sống lao động. Ngư
dân có một loạt bài ca dao đặc sắc về nghề biển như hát đố, hát giảng về cá,
về thiên văn địa lý, về các nghề biển, đóng thuyền... Ví dụ như:
Hỏi: Chàng là trai giữa biển khơi
Cá đâu chàng kể mấy lời cho hay
Cá gì mà lại biết bay?
Cá gì phun nước lên mây hỡi chàng
Cá gì đổ mực tối tăm
Cá gì méo miệng chỉ nằm một bên
Cá gì mà hoá thành chim
Cá gì chồng vợ nổi chìm cõng nhau
Cá gì chưa đánh đã đau
Cá gì chỉ ở bùn sâu hỡi chàng...”
Đáp: “Anh là trai giữa biển khơi
Lặng nghe anh đáp mấy lời nàng hay
Cá chuồn mà lại biết bay
Cá ông phun nước lên mây hỡi nàng
Cá mực đổ mực tối tăm
Thờn bơn méo miệng chỉ nằm một bên
Cá mòi mà hoá thành chim
Con sam chồng vợ nổi chìm cõng nhau
Cá gầu chưa đánh đã đau
Cá nhệch chỉ ở bùn sâu hỡi nàng...” [36, tr171]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
80
Hay một bài ca dao về chắn đăng:
Chắn đăng vui lắm ai ơi
Mong sao thuận biển, thuận giời, cá to
Có khi bãi dốc chẳng mò
Đợi cơn rặc sát cá xô xuống chuồng
Có khi tía cá phải luồng
Cá vào đầy bãi liệu đường ra tay
Nhớ khi nước cạn bát ngày
Dù mà cá đến chạm tay chẳng thèm
Những chiều nước cạn bát đêm
Anh đi bắt đóm để em mò thầm
Thực lòng hỏi bạn tri ân
Cá gầu em có dám cầm hay không?
Nửa ngày lặn ngụp dưới sông
Đầu con cuối kém chắn không được gì
Nhìn nhau mà những xót xa
Bụng đói cật rét thịt ra tím bầm
Yêu nhau kể thực kẻo lầm
Hỏi nàng có lấy chồng đăng hỡi nàng?” [36, tr172]
Trong mỗi bài ca dao, người dân chài luôn gửi gắm vào đó những tâm
tình, kể về những gian nan, vất vả của nghề chài lưới cũng như tình yêu lao
động. Những khi biển lặng, trời yên, dân chài vui khi đánh được nhiều cá;
Gió đông nam đang còn hây hẩy
Gió đông vàng lừng lẫy thuyền lên
Giong buồm từ vũng Cặp Tiên
Hôm nay Cặp Vấn tới miền Gãnh Dong
Xôn xao vợ vợ chồng chồng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
81
Trở giời cá nổi cá dông áp bờ
Vui sao vui đến bất ngờ
Cá vào vỡ lưới phải chờ cá ra”
Nghề biển cũng là một nghề vất vả nguy hiểm. Do đó có không ít bài ca
dao thể hiện nỗi buồn lo phất phỏng:
“Buồn trông dông nổi đằng đông
Gió thì ngược gió thuyền chồng thì xa
Đã lo ván nát thuyền hà
Lại lo một nỗi phong ba thuyền chồng”
Cao dao là một mảnh hồn của quê hương, mảnh hồn của con người, phản
ánh đặc trưng vùng miền. Với tính chất lạc quan phóng khoáng như chính
thiên nhiên kì vĩ vùng biển đảo, người dân chài có không ít bài ca dao phản
ánh cuộc sống lạc quan tâm hồn rộng mở:
“Anh là con trai thuyền nghề
Tối đi buông lưới, sáng về đậu chơi
Thuyền kề bãi cát thảnh thơi
Non xanh, nước biếc, mây trời mà vui” [42, 5]
Song phong phú cung bậc và giàu sắc thái hơn cả vẫn là ca dao về tình
yêu đôi lứa. Trong ca dao về tình yêu đôi lứa của dân chài có một đặc điểm
nổi bật là khát vọng tự do yêu đương. Với dân chài, Nho giáo và các tập tục
phong kiến không đè nặng như cư dân trên bờ. Họ không biết chữ, không
được học sách Thánh hiền, không bị các thế lực cường quyền áp chế mà sống
rất tự do. Do vậy tuy dân chài có lấy vợ lấy chồng sớm nhưng hầu như không
có sự ép buộc của cha mẹ. Trai gái dân chài nhất là con gái thường rất mạnh
dạn chủ động bày tỏ tình cảm.
Chàng trai đi biển, xa cách dù chỉ tạm thời tạm thời cũng đủ làm nỗi nhớ
thương trở nên da diết:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
82
“Kẻ về người lại trông theo
Trông chương chương khuất, trông đèo đèo cao
Trông buồm, buồm một cánh nâu
Nửa đêm thức dậy trông sao sao mờ”
Trong những ngày xa cách, trước biển rộng non cao, người chờ đợi ngày
đêm mong ngóng bóng dáng con thuyền của người bạn:
“Nước lên cho chóng nước ơi
Cho thuyền nhân ngãi ngoài khơi chèo vào”
Ngược lại chàng trai đi biển ngoài khơi cũng cháy bỏng nỗi nhớ mơng
khi nghĩ về người yêu
Em như lấp lánh ánh đèn
Anh như đêm bão nhìn lên thấy bờ
Nỗi buồn tương tư của đôi trai gái như làm mờ tối cả trời mây:
“Trên trời u ám vì mây
Thuyền ta u ám vì dây tơ hồng” [42, 7]
Sau chuyến đi biển dài ngày trở về, những chàng trai, cô gái gặp lại
nhau, khăng khít tưởng như không dứt trong tình yêu cháy bỏng:
Mấy khi đông đám thuyền nghề
Mấy khi giáp mạn kề be sum vầy
Buộc vào xin chớ cởi ngay
Dây đay thì cởi, xin chớ cởi dây tơ hồng
Người dân chài rất coi trọng tình yêu chung thuỷ. Sức mạnh tình yêu của
họ thật mãnh liệt:
“Tình ta rừng thẳm biển sâu
Đã yêu dẫu mấy cơ cầu cũng yêu
Cho dù lái gẫy buồm xiêu
Tan thuyền nát ván cũng liều vì nhau”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
83
Mỗi bài ca dao là những lời thề nguyền tình yêu thật chân thành, cảm
động;
Trăm năm một cuộc tình duyên
Phải đâu thăm ván bán thuyền cho qua
Một lời đã nói cùng ta
Đừng như bãi sú vào ra trăm đường
Đã thương thì một lòng thương
Đừng như tép lẫn vãi đường vịt ăn. [42,6]
Hạnh phúc lứa đôi của người dân chài không chỉ đẹp giữa cảnh non xanh
nước biếc, mà còn đẹp hơn trong lao động gian khổ:
“Buồm duyên chạy với thuyền tình
Đi xuôi có mình đi ngược có ta
Động trời gió táp mưa sa
Anh về bẻ lái, em ra xuống buồm”
Một mảng không thể thiếu trong ca dao của ngư dân vùng biển Vân Đồn
nói chung và Quan Lạn nói riêng, là ca dao trào phúng với lối nói tếu táo, vui
vẻ. Lợi dụng tiếng hát „theo gió bay đi”, trai gái dân chài hay bạo miệng nửa
đùa, nửa thật:
“Thuyền em chiếu giải màn vây
Sao anh chê chiếc thuyền này không sang
Thuyền chật em trải chiếu ngang
Em thì nằm giữa hai chàng hai bên” [42,6]
Cũng có khi các cô gái dân chài tỏ ra chua ngoa, đáo để:
“Vợ anh ướt lắm anh ơi
Như con cá thối nằm phơi trong nhà
Càng phơi càng chảy nước ra
Thân anh cũng khổ đến già mà thôi”
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
84
Hay “Chồng em như con cù kì
Đi sao về vậy biết gì mà ghen”
Ẩn trong những câu ca dao khôi hài đó đôi khi lại là lời tỏ tình chân
thành, những day dứt trăn trở vì tình yêu ngang trái hay sự than thở của người
phụ nữ trước nỗi niềm đắng cay của số phận:
“Chồng em như con cóc già
Vợ anh ở nhà như cái dơi dơi
Làm tờ đánh đổi anh ơi
Để cho chúng nó ở đời với nhau”
Hay “Tiếc công cuốc đất đào giầm
Thuyền mình không đỗ đỗ nhầm thuyền ai
Tiếc công đáy bể mò kim
Kim thì chẳng thấy, cá kìm nổi lên”
Hay “Chàng như rồng cuốn giữa trời
Thiếp như con cáy nằm phơi bãi bùn”[36, tr175]
Nhìn chung, ca dao của ngư dân Quan Lạn cũng như ca dao vùng biển
Quảng Ninh là một kho tàng lớn chưa được nhiều người biết đến. Có thể thấy,
hơn ở đâu hết, nội dung của kho tàng ca dao đó thể hiện tình yêu đằm thắm
đối với vùng biển đảo kì quan, và một tình yêu sâu nặng với con thuyền và
nghề biển, tình yêu đôi lứa thuỷ chung son sắt mang đậm tính tự do, dân chủ
và chất lạc quan yêu đời phóng khoáng của người dân chài. Những đặc trưng
nghề biển, những đặc sản của vùng đất quê hương được người dân vận dụng
một cách uyển chuyển, tinh tế thông qua các thủ pháp ẩn dụ, khoa trương
cùng với tiết tấu, âm điệu, ca dao đã trở thành một sinh hoạt văn hoá dân gian
không thể thiếu trong cuộc sống cũng như giao lưu tình cảm của con người
nơi đây.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
85
3.4. Mối quan hệ và ảnh hưởng giữa văn hoá tinh thần của ngư dân Quan
Lạn với ngư dân và cư dân Quảng Ninh.
Mỗi cộng đồng dân cư không chỉ sống trong mối quan hệ với môi trường
tự nhiên mà còn luôn quan hệ với các dân tộc, các cộng đồng xung quanh đó
là môi trường xã hội. Cách ứng xử với môi trường xã hội là một thành tố của
hệ thống văn hoá. Trong quá trình giao lưu văn hoá, ngư dân Quan Lạn đã tạo
nên mối quan hệ và ảnh hưởng qua lại với ngư dân vùng biển Quảng Ninh nói
chung.
Đối với ngư dân Quảng Ninh: cộng đồng ngư dân Quảng Ninh chia làm
3 bộ phận nhỏ: ngư dân các làng vạn chài đời nối đời sống lênh đênh trên các
con thuyền; ngư dân vùng ven biển và ngư dân đảo. Do cách thức khai thác
đánh bắt, khai thác khác nhau, do điều kiện cư trú khác nhau mỗi bộ phận ngư
dân có những đặc trưng riêng về văn hoá tinh thần gắn với quan niệm tâm linh
khác nhau, gắn với lịch sử ở từng địa phương.
Song do cùng khai thác nguồn lợi trên vùng biển Quảng Ninh những lần
ra khơi vào lộng diễn ra thường xuyên cho nên các bộ phận ngư dân này
thường xuyên gặp gỡ, giao lưu với nhau. Điều đó đã tạo nên sự giao thoa văn
hoá tương đối lớn.
Do đặc trưng của hoạt động ngư nghiệp nhiều rủi ro bất trắc phụ thuộc
vào tự nhiên, nên sự sùng bái tự nhiên chủ yếu là các thế lực mang ý nghĩa
che chở chiếm vị trí quan trọng trong tín ngưỡng - tôn giáo của ngư dân. Các
nghi lễ tín ngưỡng liên quan đến hoạt động ngư nghiệp như lễ ra binh, lễ cầu
binh, lễ đóng thuyền, hạ thuỷ trong các nhóm ngư dân đều giống nhau về tên
gọi, nghi thức và ý nghĩa tâm linh.
Quá trình giao lưu văn hoá của ngư dân biển Quảng Ninh diễn ra dưới
nhiều hình thức khác nhau song đáng chú ý nhất là hình thức giao lưu bằng
hát đối và hát ví. Trong mỗi lần gặp nhau trên biển hay cùng neo đậu tại nơi
kín gió họ chào nhau bằng những điệu hò biển, hay còn gọi là hát chèo đường,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
86
để thổ lộ tâm tình để giao lưu kết bạn, để thay cho lời giới thiệu tự hào về quê
hương, vùng đất của họ. Những điệu hò biển lấy ngôn từ của ca dao tục ngữ
với âm vực dễ hát, dễ đi vào lòng người. Sự giao lưu này đã tạo nên một kho
tàng ca dao chung của ngư dân biển Quảng Ninh vừa phong phú về nội dung
ngôn từ, vừa mềm mại uyển chuyển về ngữ điệu thể hiện tình yêu đằm thắm
với vùng biển đảo, tình yêu sâu nặng đối với con thuyền và nghề biển, tính tự
do dân chủ rất lạc quan yêu đời phóng khoáng của dân chài. Một kho tàng ca
dao và đến nay chưa được nhiều người biết đến. Đặc biệt hình thức hát cưới
diễn xướng, mua hoa bán hoa trước khi trở thành đặc trưng riêng của ngư dân
Quan Lạn, nó là hình thức nghệ thuật chung cho cả cộng đồng ngư dân Quảng
Ninh như một đặc trưng văn hoá không thể thiếu.
- Đối với cộng đồng cư dân Quảng Ninh:
Nếu như mối liên hệ văn hoá trong cộng đồng ngư dân bắt nguồn từ sự
tương đồng về nghề nghiệp, lối sống và chất tự do phóng khoáng trong tâm
hồn, thì mối liên hệ ảnh hưởng giữa văn hoá ngư dân Quan Lạn với cư dân
Quảng Ninh lại được tạo nên bởi những quy luật trong của quá trình hình
thành và phát triển chung bởi đặc điểm tự nhiên và xã hội mà trước hết là
những diễn biến lịch sử trên vùng đất Đông Bắc của tổ quốc.
Có thể thấy trong văn hoá tinh thần của ngư dân Quan Lạn nói riêng và
cư dân Quảng Ninh nói chung đều ghi đậm dấu ấn lịch sử. Đó là những chiến
công lừng lẫy trong lịch sử dựng nước. Đó là tên tuổi của những vị anh hùng
gắn liền với cửa ngõ phên giậu phía Đông Bắc - nổi bật là chiến thắng quân
Nguyên Mông trên sông Bạch Đằng, sông Mang Vân Đồn và tên tuổi các vị
tướng nhà Trần. Cũng giống như ở Quan Lạn, trên dọc vùng đất Quảng Ninh
ta dễ dàng tìm thấy đền, miếu thờ hệ thống đức Thánh Trần.
Bên cạnh đó, công sức lao động, dựng nghiệp của tổ tiên cũng in đậm rõ
nét trong văn hoá tinh thần cư dân Quảng Ninh và ngư dân Quan Lạn. Đó là
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
87
tấm lòng hướng về những người khai hoang lấn biển, đắp đê lập đất phá núi
san đồi, tạo dựng môi trường sống thuận lợi cho con cháu đời sau. Điều này
được thể hiện trong tín ngưỡng thờ thành Hoàng làng, thờ các vị tiên công.
Tựu chung lại sợi dây nối kết văn hoá tinh thần của ngư dân Quan Lạn
với cộng đồng cư dân Quảng Ninh là lòng yêu nước căm thù giặc, truyền
thống uống nước nhớ nguồn, lòng ngưỡng mộ chân chính hướng về những
người có công. Trong quá trình giao lưu ngư dân Quan Lạn vừa lưu giữ được
những sắc thái riêng gắn liền với điều kiện sống, lao động, sinh hoạt và đấu
tranh của mình, vừa tiếp thu và tạo ảnh hưởng làm phong phú văn hoá tinh
thần của mình và của cộng đồng cư dân Quảng Ninh.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
88
KẾT LUẬN
Thông qua việc tái hiện, mô tả những nội dung và hình thức biểu hiện
trong đời sống văn hoá của ngư dân xã đảo Quan Lạn, huyện Vân Đồn tỉnh
Quảng Ninh trong lịch sử, ta có thể rút ra những nhận xét sau:
1. Những nét cơ bản trong đời sống vật chất của cư dân đảo Quan Lạn từ
ăn, ở, mặc cho đến các những hoạt động kinh tế đều mang đầy đủ đặc trưng
của thiên nhiên vùng biển đảo. Trong đó, đáng chú ý nhất là sự phong phú về
điều kiện địa hình cũng như tài nguyên thiên nhiên đã tạo nên tính đa dạng
trong lĩnh vực kinh tế với đầy đủ các ngành nghề mà quan trọng nhất là kinh
tế ngư nghiệp. Với vai trò là hoạt động kinh tế chủ yếu, ngư nghiệp có tác
động chi phối không chỉ đến các mặt trong văn hoá vật chất mà còn quy định
cả quan niệm tâm linh, nội dung cũng như hình thức sinh hoạt văn hóa tinh
thần. Mặc dù quan hệ giữa con người trong sản xuất rất đa dạng song quan hệ
hợp tác giữa chủ thuyền với bạn thuyền, giữa bạn thuyền với nhau là những
quan hệ chủ yếu.
2. Sinh hoạt văn hoá tinh thần phong phú về nội dung và hình thức biểu
hiện. Nội dung của đời sống văn hoá tinh thần của ngư dân xã đảo Quan Lạn
không chỉ thể hiện quan niệm tâm linh mà còn ghi đậm dấu ấn lịch sử của dân
tộc của điạ phương. Sự hoà quyện giữa yếu tố tâm linh và tính lịch sử trong
tâm hồn lạc quan, phóng khoáng của ngư dân nơi biển đảo hùng vĩ đã tạo ra
nhiều yếu tố tiến bộ trong sinh hoạt văn hoá tinh thần: không cầu kì về mặt
nghi lễ, không có hiện tượng tiêu cực nảy sinh từ tín ngưỡng tôn giáo như mê
tín, dị đoan, đồng bóng. Đồng thời thể hiện đầy đủ tính cộng cảm, uống nước
nhớ nguồn của dân tộc, lòng ngưỡng mộ chân chính hướng về những người
có công, những vị anh hùng dân tộc. Đây là những giá trị đáng trân trọng
trong đời sống văn hoá tinh thần của ngư dân Quan Lạn, và cũng là giá trị văn
hoá truyền thống cần được bồi đắp và phát huy trong đời sống xã hội ngày
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
89
nay. Sinh hoạt văn hoá tinh thần không chỉ làm phong phú đời sống thường
nhật của ngư dân mà còn trở thành một tiềm năng góp phần tích cực vào việc
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế-xã hội ở địa phương. Thông qua những hoạt
động văn hoá tinh thần đó nếp sống đạo đức xã hội được hình thành, giáo dục
thế hệ trẻ truyền thống dân tộc khiến con người sống thiện hơn, có kỉ cương
và biết hy sinh hơn.
3. Sinh hoạt văn hoá mang tính cộng đồng chiếm một vị trí quan trọng
trong đời sống văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của cư dân Quan Lạn như
quan hệ hợp tác trong sản xuất, các lễ nghi tín ngưỡng-tôn giáo thờ cúng thần
bản mệnh làng xã như thờ Thành hoàng làng, thờ Mẫu…, hoạt động lễ hội và
diễn xướng dân gian. Điều này được lý giải bởi điều kiện cư trú hải đảo, sự
giao lưu tiếp xúc với đất liền còn nhiều hạn chế, do đó nhu cầu giao lưu tình
cảm trong cộng đồng càng cao. Họ gắn kết với nhau không chỉ trong đời sống
lao động ngư nghiệp vất vả khó khăn, mà còn cùng vui chung, cùng hưởng thụ
những sản phẩm văn hoá do chính cộng đồng mình tạo ra. Trải qua các thế hệ,
những sinh hoạt mang đậm tính cộng đồng này đã có tác dụng như một sợi dây
mềm mại gắn kết cộng đồng, góp phần tạo nên truyền thống đoàn kết.
4. Là người trực tiếp đi sâu nghiên cứu đời sống văn hoá của cư dân đảo
Quan Lạn, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau: trước hết cần phải biết
vận dụng chọn lọc, sáng tạo những kinh nghiệm cũng như các mối quan hệ tốt
đẹp trong sản xuất của các thế hệ đi trước trong hoạt động kinh tế của cư dân
trên đảo hiện nay; do sự phong phú về hình thái tín ngưỡng tôn giáo, chúng ta
phải nắm vững đặc điểm nhận dạng của các hình thái đó, có những biện pháp
cụ thể và đồng bộ để nâng cao trình độ dân trí, giáo dục ý thức giữ gìn phát
huy những giá trị văn hoá truyền thống dưới góc độ di sản văn hoá vật thể và
phi vật thể. Ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực nảy sinh từ tín ngưỡng - tôn
giáo khi đời sống xã hội nâng cao, sự thương mại hoá các hoạt động sinh hoạt
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
90
cộng đồng. Sở văn hoá thông tin tỉnh cần có nhiều dự án để khôi phục và bảo
tồn kho giá trị văn hoá của ngư dân Quan Lạn nói riêng và ngư dân tỉnh
Quảng Ninh nói chung - một kho tàng đặc sắc song ít được biết đến. Đồng
thời cần có kế hoạch khai thác có hiệu quả các hoạt động văn hoá như một
nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội đặc biệt là loại hình kinh tế du lịch
văn hoá - lịch sử.
Trên cơ sở đó, đời sống văn hoá địa phương sẽ được nâng lên một nấc
thang mới thực hiện mục tiêu chung là xây dựng “nền văn hoá tiên tiến đậm
đà bản sắc dân tộc”, góp phần thực hiện nhiệm vụ “xây dựng tư tưởng đạo
đức lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội” (Nghị quyết hội
nghị lần thứ 10 BCH TW Đảng khoá IX).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
91
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Toan Ánh (2001), Phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình Việt Nam,
Nxb Văn hoá dân tộc Hà Nội.
2. Ban Kinh tế đối ngoại tỉnh Quảng Ninh (1998), Quảng Ninh tiềm năng và
triển vọng, UBND tỉnh Quảng Ninh.
3. Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
4. Đông Châu (1924), Khảo về địa dư và lịch sử tỉnh Quảng Yên, báo Nam
Phong số 84.
5. Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (1992), Quảng Ninh lịch sử và danh thắng,
NXB Quảng Ninh, Quảng Ninh.
6. Trương Chính (1978), Sổ tay văn hoá Việt Nam, NXB Văn hoá, Hà Nội.
7. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3, nxb sử học,
Hà Nội.
8. Nguyễn Đăng Duy (2001), Các hình thái tín ngưỡng - tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội.
9. FREUD, Lương Văn Kế dịch (2000), Nguồn gốc của văn hoá và tôn giáo,
Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. Hội văn nghệ Quảng Ninh (1974), Ký Quảng Ninh, NXB Quảng Ninh,
Quảng Ninh.
11. Lê Như Hoa (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, NXB Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
12. Vũ Ngọc Khánh (chủ biên) (2004), Lễ hội trong cộng đồng các dân tộc
Việt Nam, Nxb Văn hoá thông tin Hà Nội.
13. Hồ Chí Minh toàn tập (1995), tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Đỗ Văn Ninh (1997), Huyện đảo Vân Đồn, Uỷ ban nhân dân huyện Vân
Đồn xuất bản.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
92
15. Đỗ Văn Ninh (1971), Tìm lại dấu vết Vân Đồn lịch sử, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
16. Đỗ Văn Ninh (2001), Thương cảng Vân Đồn, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
17. Lê Xuân Quang (1996), tập 1, Thờ thần ở Việt Nam, NXB Hải Phòng, Hải
Phòng.
18. Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí (1992), tập IV, Nxb
Thuận Hoá, Huế.
19. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ (2005),
tập III, Nxb Thuận Hoá, Huế.
20. Đỗ Phương Quỳnh (1993), Quảng Ninh miền đất hứa, NXB Thế giới, Hà
Nội.
21. Thi Sảnh (1982), Quảng Ninh, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
22. Thi Sảnh (1993), Thần đền Cửa Ông, Quảng Ninh- UBND phường Cửa
Ông.
23. Thi Sảnh (2001), Văn hoá nghệ thuật Quảng Ninh từ một góc nhìn, Sở
Văn hoá thông tin tỉnh Quảng Ninh.
24. Sở Văn hoá thông tin tỉnh Quảng Ninh (2003), Hát chèo đường - sự tiếp
biến văn hoá vùng miền.
25. Sở Văn hoá thông tin tỉnh Quảng Ninh (1991), Quảng Ninh trong sự
nghiệp đổi mới, Quảng Ninh.
26. Hoàng Minh Thảo (1988), Thế trận Bạch Đằng 1288, Tạp chí khảo cổ
học, số 4.
27. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam, Nxb thành
phố Hồ Chí Minh.
29. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (2001), Tín ngưỡng và văn hoá tín ngưỡng ở
Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
93
30. Trung tâm khoa học tín ngưỡng và tôn giáo (2000), Góp phần tìm hiểu tín
ngưỡng - tôn giáo dân gian ở Việt Nam, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội.
31. Nguyễn Khắc Tụng (1979), Quá trình chuyển biến của nhà người Việt gốc
ở huyện đảo Cẩm Phả, Tạp chí khảo cổ, số 4.
32. Nguyễn Đức Tý (2006), Lễ hội Quảng Ninh, Sở văn hoá thông tin
Quảng Ninh.
33. Uỷ ban nhân dân huyện Vân Đồn (2008), Kịch bản lễ hội truyền thống
Vân Đồn.
34. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Địa chí Quảng Ninh (2001), tập 1,
Nxb Chính trị - Quốc gia, Hà Nội.
35. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Địa chí Quảng Ninh (2001), tập 2,
Nxb Chính trị - Quốc gia, Hà Nội.
36. Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh, Địa chí Quảng Ninh (2001), tập 3,
Nxb Chính trị - Quốc gia, Hà Nội.
37. Đặng Nghiêm Vạn (2000), Lí luận về tôn giáo và tình hình tôn giáo ở Việt
Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Đặng Nghiêm Vạn (1994), tập 1, Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
39. Đặng Nghiêm Vạn (1994), tập 2, Những vấn đề tôn giáo hiện nay, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Viện Sử học (1989), Đô thị cổ Việt Nam.
41. Nguyễn Thanh Vỹ (1995), Mối quan hệ giao lưu văn hoá giữa Quảng
Ninh (Việt Nam) và Quảng Tây (Trung Quốc), Tập san văn hoá thông tin,
Quảng Ninh
42. Danh sách nhân chứng cung cấp thông tin và tư liệu điền dã:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
94
STT Họ và tên Tuổi
Giới
tính
Địa chỉ Ghi chú
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
Phạm Quang Dung
Phạm Thế Duật
Hoàng Văn Thọ
Nguyễn Thúc Ngai
Phạm Thị Thái
Đỗ Văn Hoà
Vũ Thị Tươi
Phạm Thế Quang
Hoàng Đình Đô
Nguyễn Văn Phước
78
66
76
75
74
52
46
60
52
68
Nam
Nam
Nam
Nam
Nữ
Nam
Nữ
Nam
Nam
Nam
Thôn Đoài
Thôn Đông Nam
Thôn Thái Hoà
Thôn Thái Hoà
Thôn Đoài
Thôn Đông Nam
Thôn Hải Yến
Thôn Đoài
Thôn Hải Yến
Thôn Thái Hoà
Bí thư chi bộ xóm
Nguyên trưởng ban
văn hoá.
Ngư dân
Ngư dân
Ngư dân
Ngư dân
Ngư dân
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Hai giáp trước hội chèo bơi
Tướng giáp Đoài Bắc Võ, Tướng Đông Nam Văn
trong lễ hội truyền thống
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Sắc phong thời Nguyễn
Đình Quan Lạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
PHỤ LỤC
Đánh bắt trên biển
Chế biến sá sùng khô
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Bản đồ huyện Vân Đồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Bản đồ đảo Quan Lạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Bàn thờ gia tiên trong một gia đình ngư dân
Phục dựng hát giao duyên trên thuyền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LV2010_SP_NguyenThanhThuy.pdf