Luận văn Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU - Thực trạng và giải pháp phát triển

Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây có những bước phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên quá trình này vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy để khắc phục những khó khăn, phấn đấu đạt mục tiêu đề ra thì ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện hơn nữa nhằm nâng cao sức cạnh tranh của của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường này, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trên thế giới. Mặc dù ngành dệt may của chúng ta đang gặp phải rất nhiều khó khăn trên thị trường này nhưng với những giải pháp và chiến lược hợp lý chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản để xứng đáng là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam trong quá trình chuyển dịch kinh tế hướng vào xuất khẩu chủ yếu của đất nước.

doc46 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1572 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU - Thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua đã mở ra những cơ hội to lớn cho ngành ngoại thương Việt Nam, đặc biệt là ngành dệt may. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho Viẹt Nam kkhắc phục tình trạng phân biệt đối xử trong thương mại quốc tế, góp phần mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt Nam và tạo điều kiện khai thác tốt hơn các cơ chế hợp tác kinh tế đa phương, hơn nữa hội nhập kinh tế quốc tế góp phần nâng cao sức hấp dẫn của môi trường đầu tư tại Việt Nam và thúc đẩy sự phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ của Việt Nam. Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam không ngừng tăng ở một số thị trường như: xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ, Nhật, EU, ASEAN và Trung Quốc. Điều này chứng tỏ rằng, khi Việt Nam hội nhập kinh tế với các nước trên thế giới thì ngành ngoại thương Việt Nam sẽ chuyển sang một bước tiến mới phát triển hơn đó là nền kinh tế thị trường. Chương 2 Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường eu. I. KháI quát chung về thị trường eu 1. Liên minh Châu Âu và quan hệ Việt Nam - Liên minh Châu Âu. a. Vài nét chung về Liên minh Châu Âu. Ngày 25 tháng 3 năm 1957, Liên minh Châu Âu (EU) ra đời với hiệp ước thành lập Cộng đồng Kinh tế Châu Âu EEC (European Economic Community) và Cộng đồng Năng lượng Nguyên tử Châu Âu (Euratom) được ký tại Rome. Trụ sở của EU được đặt tại Bruxelles (thủ đô của Bỉ) Liên minh Châu Âu (EU) là thị trường hấp dẫn với tổng diện tích 3,3 triệu km2, khoảng 375 triệu người tiêu dùng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao với tổng GDP khoảng 7000 tỷ USD. EU hiện là khu vực thương mại lớn nhất thế giới, chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu toàn cầu, bao gồm cả xuất - nhập khẩu trong nội bộ EU. Liên minh Châu Âu là một hệ thống thể chế đặc biệt bao gồm 15 quốc gia được hình thành trên cơ sở hiệp ước xác định và quản lý hợp tác về kinh tế và chính trị giữa các nước thành viên. Liên minh Châu Âu còn có một đặc điểm riêng là có các tổ chức lập pháp, hành pháp và tư pháp chung. Đây không phải là liên minh chính trị vì mặc dù 15 quốc gia này luôn duy trì sự hợp tác và hoà khí với nhau nhưng mỗi quốc gia này có chủ quyền riêng với Quốc hội, nền văn hoá, và truyền thống riêng của mình. Về Liên minh Kinh tế các nước EU đã tiến hành xoá bỏ kiểm soát giao lưu vốn giữa các nước thành viên, thành lập Viện Tiền tệ Châu Âu năm 1994, thành lập Ngân hàng Trung ương Châu Âu năm 1998, và từ ngày 01/01/1999 đồng Euro đã chính thức trở thành đồng tiền chung của 11 nước trong 15 nước thuộc EU. Liên minh Châu Âu là cái nôi của nền văn minh công nghiệp, là nơi khai sinh đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), hiện nay, EU vẫn đang đi tiên phong trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp quốc tế. Trong thời gian tới EU sẽ tăng thêm 10 nước biến EU thành một thị trường lớn. b. Quan hệ Việt Nam - Liên minh Châu Âu. Ngay từ thời kỳ 1975 - 1978, EU đã có những cuộc tiếp xúc chính trị với Việt Nam, viện trợ kinh tế cho Việt Nam 108 triệu USD. Đặc biệt tại hội nghị ngoại trưởng của EU tổ chức tại Luxembourg ngày 22/10/1980, các đại biểu đã thoả thuận về việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Đây là một sự kiện hết sức quan trọng đánh dấu một bước chuyển mới trong quan hệ Việt Nam - EU. Việt Nam và Liên minh Châu Âu chỉ những năm gần đây mối quan hệ mới phát triển rõ rệt đăc biệt là Hiệp định hàng dệt may 1992 - 1997. Liên minh Châu Âu là khách hàng nhập các loại hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam, chiếm hơn 35% tổng số xuất khẩu của Việt Nam trong ngành hàng này trong các năm trước đây. Sự kiện ngày 17/7/1995 ký “Hiệp định hợp tác giữa cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu” đã đánh dấu quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU sang một giai đoạn phát triển mới . Hiệp định này sẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam giúp Việt Nam thực hiện tốt hơn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2. Đặc điểm của thị trường EU. Thị trường EU là một thị trường rộng với diện tích 3,3 triệu km2, bao gồm 15 quốc gia, 375 triệu người tiêu dùng. Thị trường EU là thị trường thống nhất cho phép mọi người thuộc khối EU, hàng hoá được lưu thông tự do. 2.1. Tập quán, thị hiếu người tiêu dùng. Từ trước tới nay, EU luôn ủng hộ thương mại tự do. Mặc dù vậy, chính sách thương mại của EU luôn bị các nước bên ngoài chỉ trích bởi các biện pháp bảo hộ. “Pháo đài Châu Âu” là một trong những cái tên thường được gán cho EU nhằm ám chỉ sự khó khăn mà các nhà xuất khẩu sang EU thường gặp phải trong việc tiếp cận thị trường này. Đặc biệt với hàng dệt may đang chuyển dần sang các nước khác có giá nhân công rẻ nên thị trường này có xu hướng nhập khẩu ngày càng nhiều hàng dệt và may mặc. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, khi mà hàng hoá đều trong tình trạng cung vượt quá cầu. Lúc đó, người tiêu dùng được đặt lên vị trí hàng đầu và thực hiện nghiêm chỉnh phương châm “ chiều khách để bán hàng”. EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả bằng cách không nhập khẩu những mặt hàng đánh cắp bản quyền và tìm những thị trường có mặt hàng rẻ, đẹp song cũng phải đảm bảo chất lượng. Ngoài ra, ở khối EU vấn đề văn hoá là rất quan trọng và từng nước có khác nhau. Nó quyết định cách thức mua sắm và tiêu dùng của từng nơi. Tuy tập quán, thị hiếu tiêu dùng của EU là của Châu Âu, nhưng từng nước EU cũng giữ những đặc tính riêng của mình.Thời gian tới khi EU sẽ là 25 nước, quan hệ kinh tế với Việt Nam sẽ có cẩ thuận lợi và khó khăn. Với 15 thành viên cũ thì tập quán tiêu dùng có phần khác với 10 thành viên mới, trước hết, do các thành viên cũ có trình độ phát triển cao hơn (như Đức, Pháp, ý... ) trong khi đó ở các nước thành viên mời thì phát triển kinh tế thấp hơn. 15 nước thành viên cũ có tập quán tiêu dùng chặt chẽ, khắt khe hơn. Cần lưu ý là khi đã thành khối 25 nước EU thống nhất không có biên giới hải quan nên khi hàng nước ngoài đã vào được một nước thì tự do lưu thông ở tất cả các nước còn lại trong khối. Quan hệ của Việt nam với các nước Đông Âu như Ba Lan, Cộng hoà Séc, Slovakia...đã hình thành và quen biết từ lâu nên hàng của Việt Nam có thể vào EU qua các “cửa hải quan” đó dễ hơn các nước khác. Mặt khó khăn với Việt Nam là EU vẫn áp dụng các biện pháp hỗ trợ nông nghiệp (trợ cấp) nên hàng noong nghiệp Việt Nam vẫn bị gián tiếp “phân biệt đối xử”. 2.2. Chính sách thương mại nội khối. Hàng hoá của nhiều nước đang phát triển xuất khẩu vào EU đang bị ràng buộc bởi nhiều hiệp định thương mại khác nhau, nhiều hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các quy định, quy chế cũng như các yêu cầu của thị trường này về chất lượng, y tế, an toàn và môi trường. Về thuế nhập khẩu: một khi hàng hoá đã được đưa vào EU thì không còn có bất kỳ thủ tục thông quan nào nữa tại biên giới nội bộ EU. Nhờ có hệ thống ưu đãi thuế phổ cập(GSP) hay các hiệp định thương mại khác, hàng xuất khẩu từ các nước đang phát triển như Việt Nam có thể được giảm thuế hoặc miễn thuế nhập khẩu. II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của việt nam sang EU. 1. Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua. Xuất khẩu của Việt Nam chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam không ngừng tăng. Đến nay, dệt may là một trong những ngành xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Quan hệ buôn bán thương mại Việt Nam - EU phát riển rất khả quan, trong 10 năm tư năm 1990 - 1999 với quy mô tăng lên 12 lần và tốc độ tăng bình quân mỗi năm là 32%. Năm 1999 tổng kim ngạch xuất khẩu hai chiều đạt gần 4500 triệu USD, trong đó, Việt Nam xuất khẩu hơn 3300 triệu USD. 6 tháng đầu năm 2000, Việt Nam xuất khẩu sang EU đạt khoảng 1400 triệu USD. Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25% trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. Việt Nam và EU đã dành cho nhau chế độ đãi ngộ tối huệ quốc (MFN) và EC ( cộng đồng Châu Âu) cam kết dành cho hàng hoá xuất xứ từ Việt Nam chế độ ưu đãi phổ cập (GSP), gia hạn và tăng hạn ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Việt Nam. Mặc dù là trong quý I năm 2003 ngành dệt may tăng nhưng ở thị trường Nhật và đặc biệt là ở thị trường EU bị giảm sút do Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ và Canada.. Kết thúc quý I/2003 hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đạt được những kết quả đáng mừng, với tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 4,667 tỷ USD (bình quân mỗi tháng đạt 1,555 tỷ USD). Đặc biệt là sự tăng vọt kim ngạch xuất khẩu của ngành dệt may (tăng 90,6%)so với cùng kỳ năm ngoái. Bảng 2: Giá trị xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam Đơn vị: Triệu USDNăm Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Tổng kim ngạch xuất khẩu Tỉ trọng dệt may/tổng kim ngạch xuất khẩu 1992 211 2.581 8,1% 1993 350 2.985 11,7% 1994 550 4.054 13,6% 1995 750 5.200 14,4% 1996 1150 7.255 15,2% 1997 1349 8.759 15,4% 1998 1351 9.361 14,4% 1999 1682 11.532 14,6% 2000 1892 14.455 13,08% 2001 2200 15.100 13,25% 2002 2710 16.530 16,4% (Nguồn: Bộ Thương mại và tổng công ty Vinatex) Các đặc điểm về thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam. * Thị trường Mỹ. Thị trường Mỹ là một thị trường rộng lớn khá hấp dẫn đối với ngành dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên việc tham gia được vào thị trường nay là một vấn đề hết sức khó khăn buộc bởi phải chịu mức thuế nhập khẩu cao từ 40% đến 90%. Không những thế, các doanh nghiệp muốn thâm nhập vào được thị trường này cũng phải cạnh tranh gay gắt với nhiều công ty khác. Trong những năm qua, do chưa có quy chế tối huệ quốc (MFN) nên hàng dệt may của Việt Nam vẫn còn chịu thuế xuất nhập khẩu cao. Bảng 3: Thuế nhập khẩu hàng dệt may vào Mỹ. Thuế suất % Thuế MFN Thuế phi MFN Sản phẩm may mặc 13,4% 68,5% Sản phẩm dệt 10,3% 55,1% (Nguồn: Bộ thương mại Mỹ) * Thị trường Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản là một thị trường mở quy mô lớn đối với các nhà đầu tư lớn và hàng hoá nước ngoài với khoảng 125,9 triệu dân có mức sống khá cao và là người tiêu dùng có tính khắt khe nhất. Người Nhật Bản trung bình hàng tháng chi 160 USD cho viêc mua sắm chiếm 5,8% thu nhập. Theo thống kê của hiệp hội dệt may Việt Nam, trong tổng số 1,892 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2000 thì kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm tỷ trọng lớn gần 620 triệu USD. Song Nhật Bản là một thị trường rất khó tính về chất lượng và giá cả vì thế nên khả năng chiếm lĩnh thị phần ở Nhật Bản vẫn còn nhiều hạn chế nhưng hiện nay, Nhật Bản là đối tác kinh tế quan trọng và là bạn hàng số một của Việt Nam. * Thị trường Châu úc, Nam Mỹ, Đông Âu ... hàng dệt may củâ Việt Nam khó cạnh tranh được với hàng Trung Quốc về giá tại các thị trường truyền thống này. * Thị trường các nước trong khu vực. Hàng năm, hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu một lượng lớn sản phẩm sang các nước trong khu vực như: Hồng Kông, Singapore, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc... Đặc biệt Trung Quốc vẫn là đối thủ cạnh tranh lớn của nước ta, hơn nữa Trung Quốc còn là thành viên của tổ chức WTO. 2. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang EU. * Giai đoạn trước 1990. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam hết sức nhỏ bé do quan hệ giữa hai bên chưa được bình thường hoá. Về cơ cấu mặt hàng trong giai đoạn này không có nhiều chuyển biến. Từ năm 1980 Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may sang một số nước thành viên EU như Đức, Pháp, Anh...song kim ngạch xuất khẩu còn nhiều hạn chế. Chỉ sau hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam - EU được ký ngày 15/12/1992 thì xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam mới đặc biệt phát triển. * Giai đoạn 1991 đến nay. Kể từ khi Việt Nam bình thường hoá quan hệ ngoại giao với EU vào ngày 22/12/1990 ký tắt hiệp định buôn bán dệt may ngày 15/12/1992 thì quan hệ Việt Nam không ngừng phát triển. Đây chính là nhân tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng Việt Nam (tốc độ tăng trưởng xuất nhập khẩu nói chung của Việt Nam là 18,4% (1991-2000) nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của GDP 2,6 lần.) và các sản phẩm dệt may của Việt Nam (năm 1999, riêng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường EU đã lên đến 590 triệu USD, tăng 30 triệu so với năm 1998,năm 2000 kim ngạch xuất khẩu là 1,815 tỷ USD, năm 2001 kim ngạch xuất khẩu là 2 tỷ USD). Từ ngày 25/2/2002, ngừng cấp giấy phép xuất khẩu tự động đối với một số “cat nóng” (4,6,7,15,78) do đã thực hiệ trên 50% hạn ngạch. Một số cat thực hiện được khoảng 20 - 30% hạn ngạch là sơ mi nam, bộ quần áo ngủ, áo lót... Trong các mặt hàng dệt may xuất khẩu sang EU thì kim ngạch lớn nhất là áo jacket đạt trên 20 triệu, thứ hai là sơ mi nam đạt trên 14 triệu ( bảng 4 phần phụ lục) * Tình hình chung về chất lượng .giá cả, mẫu mã sản phẩm. Mặc dù chất lượng, giá cả, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu sang EU được đánh giá khá tốt, nhưng không vì thế mà hàng dệt may của Việt Nam có thể thống lĩnh được thị trường này. Cụ thể là chất lượng của sản phẩm vẫn chưa đạt dược đúng tiêu chuẩn của khách hàng, điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty trong việc nâng cao uy tín mở rộng thị trường. Tuy nhiên, thị trường EU tiêu dùng theo tầng lớp nên sản phẩm dệt may Việt Nam thường thích hợp, thoả mãn với nhu cầu của tầng lớp trung lưu nghĩa là đa có sự chấp nhận mặt hàng này hơn là chất lượng cũng như giá cả vừa với mức thu nhập của họ. * Cơ cấu hàng xuất khẩu đã có sự cải tiến và hoàn thiện dần dần. Năm 1991 hàng nguyên liệu thô chiếm trên 92% tổng kim ngạch xuất khẩu, đến nay chỉ còn khoảng 60%. Với thị trường EU luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới liên tục nhưng phải thừa nhận rằng lượng hàng dệt may xuất khẩu sang EU còn quá ít. Vì vậy điều quan trọng hiện nay để thâm nhập vào thị trường EU là phải nâng cao chất lượng và đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc... nhằm cạnh tranh với các nước khác để tồn tại trên thị trường này. Hiện tại, EU mở rộng sang phía Đông kết nạp thêm 10 thành viên, do đó, chúng ta càng khó khăn hơn khi xuất khẩu sang thịi trường này. 3. Đánh giá kết quả đạt được của dệt may Việt Nam sang EU. 3.1. Kết quả đạt được. Ngành công nghiệp dệt may ngày càng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, vì nó không chỉ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người mà còn là ngành giải quyết được nhiều công ăn việc làm cho lao động xã hội, có thế mạnh trong xuất khẩu, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triểnvà đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách Nhà nước. Thật vậy trong 10 năm trở lại đây, ngành dệt may đã chứng tỏ là một ngành công nghiệp mũi nhọn trong nền kinh tế, có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực xuất khẩuvới tốc độ tăng trưởng bình quân 24,8 %/năm, vươn lên vị trí thứ 2 trong cả nước về kim ngạch xuất khẩu, sau ngành dầu khí. * Kim ngạch xuất khẩu luôn tăng. Kể từ khi hiệp định buôn bán hàng dệt may Việt Nam - EU có hiệu lực (1/1/1993) kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang EU ngày càng tăng . Năm 2001 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đạt 2 tỷ USD gấp 16,9 lần so với năm 1990 và chiếm tỷ trọng 13,25 % trong cơ cấu các mặt hàng xuất khẩu. * Tăng uy tín, mở rộng khả năng thâm nhập thị trường. Việc EU tăng hạn ngạch cho Việt Nam trong giai đoạn 2001 - 2002 cũng chứng tỏ uy tín của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường EU. Vì vậy từ đâykhả năng tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào từng nước trong thị trường này ngày càng nhiều và hiệu quả hơn. Cụ thể các nước này đánh giá cao quan hệ làm ăn, ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam và độ tin cậy cao về độ giao hàng đúng thời hạn, đúng chất lượng, mẫu mã, do vậy hàng dệt may Việt Nam dần chiếm tỷ trọng nhập vào EU nhiều hơn và mở rộng thêm thị trường nhiều hơn. * Góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ và phát triển kinh tế. Mặc dù giá trị ngoại tệ thực tế thu được chỉ chiếm 22,4 % tổng giá trị xuất khẩu song đây là nguồn thu nhập ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thanh toán và tăng dự trữ ngoại tệ, tăng khả năng nhập máy móc, công nghệ tiên tiến để phát triển đất nước. * Sử dụng nhiều lao động giải quyết công ăn việc làm Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, mấy năm qua ngành dệt may đã có những bước tiến quan trọng, tạo công ăn viêc làm cho hàng triệu lao động giúp cải thiện được đời sống cho nhân dân và là một trong những mũi nhọn xuất khẩu của kinh tế cả nước. 3.2. Tồn tại. * Trong những năm qua, cho dù kim ngạch xuất khẩu dệt may cao nhưng lợi nhuận đem lại thấp. Trong tổng giá trị hàng hoá, có trên 80% nguyên liệu phụ liệu phải nhập ngoại. * Quy mô của ngành dệt may xuất khẩu sang EU quá nhỏ bé so với tiềm năng kinh tế của Việt Nam và nhu cầu nhập khẩu của EU. Do bị hạn chế bởi hạn ngạch và chịu thuế suất cao, hơn nữa là những đòi hỏi khắt khe của người tiêu dùng về mẫu mã, chất lượng ... nên tỷ trọng xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam vào EU hiện nay chiếm khoảng 25% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của ta. * Hàng dệt may của Việt Nam có giá thành cao hơn các nước trong khu vực. Do nguyên phụ liệu phục vụ cho ngành dệt may nước ta chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu nên luôn thiếu sự chủ động trong đầu vào. * Khả năng tiếp thị và trình độ marketing trên thị trường EU còn yếu. Cụ thể là khi thực hiện một dự án hợp tácthì phía doanh nghiệp Việt Nam không muốn tham gia tích cực vào phần bán hàng và làm nhiệm vụ marketing quốc tế, vì thế Việt Nam sẽ mất dần tính chủ động trên thị trường quốc tế, cũng như nắm được nhu cầu thị hiếu của khách hàng, giá cả và các thông tin khác. * Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may sang EU vẫn còn nhiều bất cập, hình thức xuất khẩu giản đơn. Đó là so với ngành may thì công nghiệp dệt của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế bởi hệ thống máy móc thiết bị chưa hiện đại và đồng bộ nên chưa đủ khả năng phục vụ chính ngành may trong nước. * Giá cả, chất lượng hàng hoá chưa đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng. Chất lượng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước còn kém so với các nước trong khu vực, giá thành lại cao và số lượng không đáp ứng đủ nhu cầu ngành may xuất khẩu, tỷ lệ vải trong nước có chất lượng chỉ mới đáp ứng được 12,15% nhu cầu của ngành may. Bên cạnh những kết quả đáng mừng của ngành dệt may Việt Nam thì chúng ta vẫn phải đề cập tới những vấn đề còn tồn tại của ngành dệt may vì nếu chúng ta biết và khác phục được những điều này thì dệt may của Việt Nam ngày càng phát triển hơn. 4. Chuyển từ gia công là chủ yếu sang xuất khẩu trực tiếp. Hàng dệt may của Việt Nam trước đây xuất khẩu sang EU chủ yếu theo phương thức gia công (chiếm tỷ trọng 80%) vì do thiếu máy móc, công nghệ hiện đại và do đội ngũ lao động chưa được tiếp xúc với các công nghệ chính vì vậy hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang EU thông qua các thị trường thứ ba như thị trường Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan... các thị trường này thường là nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công rồi tái xuất sang thị trường EU. Chính điều này đã tạo nên sự bất cập đối với các công ty Việt Nam bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như luôn bị thụ động trong việc thực hiệ hoạt động sản xuất của mình về mẫu mã, chủnh loại. Nhưng hiện nay, do quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, Việt Nam đã và đang ký kết với rất nhiều nước khác nhau trên thế giới nên việc chuyển từ gia công là chủ yếu sang xuất khẩu trực tiếp là rất có lợi cho Việt Nam vì công việc này giúp cho ngành dệt may Việt Nam đáp ứng được nhu cầu của các đơn đặt hàng của các nước khác nhiều hơn, hơn thế nữa còn tăng kim ngạch xuất khẩu cho Việt Nam. Chương 3 GiảI pháp nhằm thúc đẩy hàng dệt may việt nam sang eu. I. triển vọng phát triển hàng dệt may của việt nam. Trong những năm qua, ngành dệt may của Việt Nam có cơ hội phát triển rất lớn nhưng bên cạnh đó cũng có rất nhiều nhân tố tác động quá trình phát triển này. 1.Những nhân tố phát sinh từ Việt Nam. * Quá trình đổi mới nền kinh tế của Việt Nam. Việt Nam đang trong giai đoạn quốc tế hoá về thương mại, vốn và sản xuất dưới dạng tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế. Việc chuyển hướng này giúp cho tổng công ty dệt may Việt Nam nâng cao chất lượng, đa dạng hoá sản phẩm, mở rộng và thâm nhập thị trường ngày càng được tốt hơn. * Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế “ hướng về xuất khẩu”. Đây là sự chuyển dịch với mục đích tạo ra nhiều sản phẩm và nhiều loại sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới nói chung và thị trường EU nói riêng. Sự chuyển dịch này sẽ tạo điều kiện cho khoa học công nghệ phát triển, tGăng năng xuất lao động, đẩy mạnh xuất khẩu. Ngoài ra, các doanh nghiệp có thể cải thiện được chất lượng, mẫu mã... để có thể đáp ứng được nhu cầu khắt khe của thị trường EU. 2. Những khó khăn khi xuất khẩu sang thị trường EU. ă Thứ nhất, EU thương lượng với các nước khác như một thể đồng nhất trong vấn đề thương mại toàn cầu và trở thành tiếng nói chung của Châu Âu trong các cuộc thảo luận quốc tế. Các doanh nghiệp làm ăn ở Châu Âu tất nhiên phải tuân theo các quy tắc, hướng dẫn và chịu sự giám sát của Uỷ ban Châu Âu (EC). EC đã ban hành và củng cố các quy tắc cạnh tranh và cấu trúc tổ chức liên quan đến những hoạt động như sát nhập, chống độc quyền và đánh thuế. Thậm chí còn quyết định cả việc định giá, quảng cáo và các hoạt động hàng ngày khác. Tuy đã có một hoạt động chung như vậy, nhưng thực tế đến nay chưa có hiệu lực hoàn toàn, nên có nhiều công ty nước ngoài đang hoạt động với sự hiểu lầm thị trường chung Châu Âu có nhiều mặt đồng nhất, cho nên đã phải chịu nhiều thất bại. ă Thứ hai, những điểm khác biệt về văn hoá giữa các nước thành viên. Mặc dù EU là một bức tranh hợp tác kinh tế đẹp nhưng đối với các công ty nước ngoài thì vẫn là những cách giải quyết đối với 15 nước khác nhauvề các hệ thống pháp lý. Trên thực tế đã có những dấu hiệu cho người ta thấy tinh thần dân tộc của các nước thành viên của EU đang khuếch đại những sụ khác nhau giữa các nước. Ví dụ, Pháp rất quan tâm đến tính đồng nhất và đã thông qua một số điều lệ đăc biệt băt buộc phải sử dụng tiếng Pháp trên tất cả các sản phẩm, trong tất cả các tờ rơi quảng cáo, các sổ tay hướng dẫn, giấy bảo hành và các thông tin khác của sản phẩm. Đồng thời nhân danh người tiêu dùng, EU đã phát triển một chương trình trách nhiệm sản phẩm (nếu sản phẩm làm ra có những khuyết tật gây nguy hiểm cho người sử dụng thì người sản xuất phải có trách nhiệm đối với sản phẩm của họ). Có thể nhận thấy, thị trường EU chỉ thống nhất về mặt kỹ thuật, còn trong thực tế là nhóm thị trường quốc gia và khu vực, mỗi nước có một bản sắc và đăc trưng riêng mà các nhà xuất khẩu tại các nước đang phát triển thường không hay để ý tới. Các nước thành viên tạo ra những cơ hội khác nhau và yêu cầu của họ cũng khác nhau. ă Thứ ba, EU là một thành viên của tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) có chế độ quản lý nhập khẩu chủ yếu dựa trên nguyên tắc của tổ chức này. Các mặt hàng quản lý bằng hạn ngạch không nhiều, nhưng lại sử dụng khá nhiều biện pháp phi thuế quan. Mặc dù thuế quan của EU thấp hơn so các cường quốc kinh tế lớn và có xu hướng giảm, nhưng EU vẫn là thị trường bảo hộ rất chặt chẽ vì hàng rào phi thuế quan (rào cản kỹ thuật) rất nghiêm ngặt. Do vậy, hàng xuất khẩu của ta muốn vào được thị trường này thì phải vượt qua rào cản kỹ thuật của EU. Rào cản kỹ thuật chính là quy chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU, được cụ thể hoá ở tiêu chuẩn của sản phẩm. Đối với tiêu chuẩn chất lượng:Hệ thổng quản lý chất lượng ISO 9000 gần như là yêu cầu bắt buộc đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu sang thị trường EU thuộc cấc nước đang phát triển. Đối với tiêu chuẩn an toàn cho người sử dụng: ký mã hiệu trở nên quan trọng nhất trong viêc lưu thông hàng hoá trên thị trườngEU. ă Thứ tư, việc tư hoá về thương mại và đầu tư trên thế giới cũng như cải cách về chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của EU đang có xu hướng ngày càng được nới lỏng, các nhà xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới chắc chắn sẽ phải đương đầu với những thử thách và cạnh tranh quyết liệt trên thị trường này.Thị trường EU có đặc tính cạnh tranh mạnh mẽ như vậy nên bắt buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải tạo ra lợi thế cạnh hơn so với các đối thủ khác. Có nghĩa là chất lượng của sản phẩm luôn được cải thiện, mẫu mã và kiểu dáng phải được đổi mới nhanh hởntước đây. Chu trình sống của sản phẩm sẽ ngắn hơn, giá thành sẽ rẻ hơn và phương thức phục vụ tốt hơn. Các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể dựa vào chi phí để cạnh tranh. ă Thứ năm, kênh phân phối của EU rất phức tạp. nhưng cho tới nay các doanh ngghiệp Việt Nam vẫn chưa tiếp cận được kênh phân phối này. Muốn tiếp cận được kênh phânn phối EU, các doanh nghiệp phải nắm bắt được đặc điểm của kênh phân phối để từ đó có những biện pháp cụ thể xâm nhập vào. Nhiều khi hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường EU chỉ theo một kênh phân phối. Việc này đã hạn chế khả năng đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao giá trị bán của doanh nghiệp. ăThứ sáu, chính sách thương mại và đấu tư của EU bấy lâu nay chủ yếu nhằm vào các thị trường truyền thống có tính chiến lược là Châu Âu và Châu Mỹ còn đối với Châu á trong đó có Việt Nam, chính sách thương mại của EU mới hình thành gần đây, đang trong quá trình xem xét, thử nghiệm và khai thác. Hơn nữa chính sách thương mại của EU đối với Việt Nam thời gian qua chủ yếu dựa trên cơ sở xếp Việt Nam vào danh sách những nước không phải là nền kinh tế thị trường, gần như không được hưởng chế độ ưu đãi của EU dành cho các nước đang phát triển. Tóm lại, EU là thị trường đòi hỏi chất lượng cao, điều kiện thương mại nghiêm ngặt và được bảo hộ đăc biệt. Vì thế, chúng ta phải vượt qua những khó khăn đó để tiến vào thị trường EU. 3. Triển vọng xuất khẩu dệt may của Việt Nam đến 2010. Với cơ cấu kinh tế hoàn toàn bổ sung cho nhau, môi trường kinh tế thuận lợi, xu thế tự do hoá thương mại, khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế, hoạt động xuất khẩu dệt may Việt Nam vào thị trường EU sẽ có bước chuyển biến vượt bậc và phát triển mạnh mẽ. Ngày 23/4/2001, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 với các cơ chế, chính sách cởi mở cho ngành dệt may phát triển. Theo thương vụ của Việt Nam tại EU, từ năm 2003, nhu cầu nhập khẩu của toàn bộ khu vực EU đối với hàng dệt may 69,8 tỷ Euro, trong đó cần nhập khẩu 51,4 tỷ euro. Mặc dù hàng dệt may bị giới hạn bởi hạn ngạch, nhưng việc ký Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa Việt Nam và EU tại Hà Nội mới đây là một thuận lợi để hàng dệt may của Việt Nam vào EU tăng. Bảng 5: Các chỉ tiêu phát triển ngành dệt may Việt Nam đến 2010 Chỉ tiêu Đtv Đến 2005 Đến 2010 1. Sản xuất - Bông sơ Tấn 30.000 80.000 - Xơ sợi tổng hợp Tấn 60.000 120.000 - Sợi các loại Tấn 150.000 300.000 - Vải lụa thành phẩm Triệu m2 800 1.400 - Dệt kim Triệu sp 300 500 - May mặc Triệu sp 780 1.500 2. Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 4.000-5.000 8.000-9.000 3. Sử dụng lao động Triệu người 2,5-3 4-4,5 4. Tỷ lệ giá trị sử dụng nguyên phụ liệu nội địa trên sản phẩm may xuất khẩu % >50 >75 5. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển Tỷ đồng 35.000 30.000 - Vốn đầu tư mở rộng Tỷ đồng 23.200 20.000 - Vốn đầu tư chiều sâu Tỷ đồng 11.800 10.000 Trong đó: Vinatex Tỷ đồng 12.500 9.500 6. Vốn đầu tư phát triển trồng bông Tỷ đồng 1.500 (Nguồn : VINATEX) Tiềm năng của may mặc Việt Nam trong lĩnh vực may mặc dệt kim là rất lớn. Do EU kiểm soát việc nhập khẩu hàng dệt may từ Việt Nam bằng mức quota nhập khẩu thấp trong khuôn khổ các hiệp định không ưu đãi về dệt may của EU (do chưa gia nhập WTO). Nếu các hiệp định hàng dệt may của EU có tính ưu đãi hơn thì việc xuất khẩu dệt may của Việt Nam vào EU sẽ còn tăng lên nhiều. Kể từ năm 2005 chế độ hạn ngạch bị bãi bỏ nhưng đồng thời Việt Nam cũng không được hưởng các hạn ngạch về thuế quan. Vì vậy đòi hỏi hàng dệt may của Việt Nam phải nâng cao khả năng cạnh tranh để duy trì vị trí trên thị trường này. Bảng 6: Triển vọng các thị trường may mặc của Việt Nam trong thời gian tới (Đơn vị: triệu sản phẩm) Thị trường xuất khẩu Năm 2000 Năm 2005 1. SNG 30 34 2. EU 41 30 3. Nhật Bản 25 70 4. Mỹ và Bắc Mỹ 80 130 5. Canada 4 6 6. Các nước khác 20 30 Tổng 200 300 Kim ngạch 1200 1250 (Nguồn: Tổng công ty may Việt Nam) II. GiảI pháp kiến nghị. 1. Chiến lược cạnh tranh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 1.1. Cạnh tranh bằng giá. Một trong những nguyên nhân dẫn tới hiện tượng giá cao là do các loại chi phí cho một sản phẩm cao hơn từ 15 - 20% nên giá thành của các loại dệt may chưa cạnh tranh được với các nước đặc biệt là Trung Quốc và năng suất lao động của ngành dệt may Việt Nam nhìn chung chỉ bằng 2/3 so với mức bình quân của các nước ASEAN là do hoạt động kỹ năng của con người không đồng đều nên dẫn đến năng suất lao động thấp. Các chi phí đều cao do công nghệ lạc hậu, mức tiêu hao lớn, hệ thống cung cấp đầu vào chưa chạt chẽ, chi phí trung gian cao nên giá thành cao làm giảm đi khả năng cạnh tranh của Việt Nam. Chính vì vậy, ngành dệt may của Việt Nam muốn cạnh tranh được phải khắc phục những điểm trên thì mới có thể đẩy được các đối thủ của mình được. 1.2. Cạnh tranh bằng chất lượng. So với các nước trong khu vực thì chất lượng của nguyên phụ liệu sản xuất trong nước còn kém. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải tăng cường giải pháp phát triển các nguyên phụ liệu thiên nhiên của mình để đáp ứng được nhu cầu chất lượng của người tiêu dùng. Bất kỳ nước nào cũng vậy, người tiêu dùng luôn đòi hỏi chất lượng của sản phẩm là hàng đầu mà đặc biệt là thị trường EU. 1.3. Cạnh tranh bằng quan hệ thị trường và khách hàng. Trong bối cảnh kinh tế thương mại và khu vực hiện nay, việc thâm nhập vào một thị trường và giữ vững được vị trí trong thị trường là một khó khăn lớn cho ngành dệt may của Việt Nam, không những một thị trường Việt Nam còn phải thâm nhập vào nhiều thị trường cùng một lúc nên đã khó khăn càng khó khăn hơn. Vì thế mà mỗi doanh nghiệp khi thâm nhập vào một thị trường nào đó hay nhiều thị trường cùng một lúc thì cũng cần phải tìm hiểu kỹ xem thị trường đó như thế nào,nhu cầu của người dân thích những mặt hàng gì... Về khách hàng để giữ được khách hàng quen của mình các doanh nghiệp cần sử dụng nhiều chiến lược marketing như khuyến mại để thu hút và giữ được khách hàng. Điều đặc biệt lưu ý là giữ uy tín của công ty và sản phẩm nếu khách hàng có tín nhiệm thì tiêu thụ sẽ tăng và ổn định. 1.4. Cạnh tranh bằng thương hiệu. Hiện tại, ngành dệt may của Việt Nam về xuất khẩu sang các nước vẫn chưa có vị trí vì thường là sản phẩm xuất khẩu qua nước thứ ba rồi sau đó mới được xuất khẩu sang EU. Nên hàng hoá của Việt Nam chỉ tồn tại qua thương hiệu của một nước khác. Để giải quyết tình trạng này, các doanh nghiệp của Việt Nam phải có chiến lược nhất định làm cho sản phẩm của mình có chỗ đứng trên thị trường Châu Âu. Cũng như ở Việt Nam các doanh nghiệp như công ty May 10, dệt Minh Khai, vải Thái Tuấn... các doanh nghiệp đó đã có chiến lược cụ thể như quảng cáo... để tạo chỗ đứng cho mình trong lòng của mỗi khách hàng. Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam muốn có được chỗ đứng của mình trên thị trường EU thì phải tìm hiểu được nhu cầu của thị trường EU, khách hàng cần những mặt hàng như thế nào, giá cả chất lượng của mặt hàng làm sao để phù hợp với khả năng tài chính của họ, và đặc biệt là quảng cáo các doanh nghiệp phải có chiến dịch quảng cáo ấn tượng và đẹp mắt để khi bất kỳ một khách hàng nào có nhu cầu mua săm đều phải nghĩ đến thương hiệu của Việt Nam. 1.4. Cạnh tranh bằng xúc tiến thương mại. Trước hết là phải quan tâm đến quảng cáo. Để quảng cáo hiệu quả phải chú ý sản xuất đúng theo thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng EU. Ngày naythị trường EU quan tâm đến chất liệu của hàng may mặc như hàng nguyên liệu tự nhiên như bông và tơ tằm của Việt Nam được ưa chuộng. Hàng hoá chất (polyeste...)người tiêu dùng không ưa chuộng. Khi sản xuất của ta chủ yếu là nguyên liệu tự nhiên thì phải thể hiện ở quảng cáo và từ đó xúc tiến thương mại, hướng dẫn người tiêu dùng. Một điều cần lưu ý là gày nay người tiêu dùng EU ít quan tâm về độ bền của sản phẩm may mặc với trước kia, mà quan tâm về mẫu mã, thời trang hơn. Do yêu cầu đơn giản hơn nên giá cả cũng không chuộng nhiều hàng đắt tiền, mà dùng hàng giá thấp, nhưng chất bền vừa phải mẫu mã hợp thời trang. Đây cũng là đặc điểm của xúc tiến thương mại. Vận dụng marketing trong xuất khẩu việc tiêu thụ hàng gắn với các bộ phận marketing trước hết là marketing Mix - chú ý 4P ( price - giá, product - sản phẩm, place - phân phối và promotion - xúc tiến). Tuỳ thời điểm và từng nơi thích hợp cần vận dụng để tranh thủ đạt mục đích. 2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp. Trước hết, doanh nghiệp phải nhận thức đưựoc những cơ hội, thách thức trong quá trình hội nhập, đăc biệt là áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt khi nước ta mở của thị trường. 2.1. Nâng cao chất lượng sản phẩm - Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Bất cứ một sản phẩm nào muốn tồn tại và chiến thắng trên thị trường cạnh tranh đều phải đáp ứng đuực ba điều kiện cần thiêt: chất lượng cao, giá thành hạ và giao hàng đúng thời hạn. Riêng với sản phẩm dệt may, ba yếu tố này là rất cần thiết và quan trọng. Nhất là trong tình hình hiện nay, khi mà giá nhân công của một số nước trong khu vực ngày càng hạ. Để đạt được điều này nhằm đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của EU, các doanh nghiệp của Việt Nam sản xuất sang thị trường này cần thực hiện một số giải pháp sau: * Đầu tư máy móc thiết bị, công nghệ tiên tiến, hiện đại, áp dụng công nghệ mới để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Ngày nay để sản phẩm có thể cạnh tranh và thâm nhập vào thị trường EU buộc các doanh nghiệp phải áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến nhưng để đạt được hiệu quả cần phải có sự lựa chọn và định hướng phù hợp với điều kiện của từng công ty, từng xí nghiệp và trình độ công nhân. Vì thế việc áp dụng một mô hình sản xuất chuyên môn hoá cao như các nước phát triển là điều không dễ dàng mà cần lựa chọn máy móc, công nghệ phù hợp với công nhân là điều quan trọng nhất. * Đào tạo đội ngũ cán bộ, công nhân có tay nghề kỹ thuật cao nhăm đáp ứng yêu cầu về sản phẩm, chủ động trong sản xuất. Bất kỳ công ty nào dù có vốn, trang thiết bị hiện đại mà nguồn lực không đảm bảo yêu cầu quản lý, kinh doanh, lao động sáng tạo thì không thể phát triển được.Do vậy, nguồn nhân lực phải được đào tạo thường xuyên và liên tục có như vậy thì công ty mới có những cơ hội tạo được những sản phẩm mới đáp ứng được với sự thay đổi của thị trường, của khách hàng. Đối tượng được đào tạo là tất cả mọi thành phần của công ty, từ cấp trên cho xuống cấp dưới. Việc đào tạo này phải có chương trình và phương pháp đào tạo phù hợp để không ảnh hưởng tới hoạt động của công ty. * Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần phấn đấu sản xuất nguyên liệu phụ nội địa đảm bảo yêu cầu chất lượng, nâng cao tỷ lệ sử dụng nguyên liệu phụ trong nước, tăng tỷ lệ vật liệu nội địa trong cơ cấu giá trị sản phẩm để hạ giá thành, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Khuyến khích đầu tư cho sản xuất phụ liệu như sản xuất vải đủ tiêu chuẩn xuất khẩu, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu phụ nhập ngoại, kết hợp với ngành sản xuất hoá chất để cung cấp thuốc nhuộm và các hoá chất khác cho ngành dệt. * Ngoài ra đối với doanh nghiệp phải tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành hàng, củng cố tổ chức này ngang tầm với những đòi hỏi của doanh nghiệp trong bối cảnh hội nhập. Các hiệp hội sẽ là người liên kết các doanh nghiệp tạo nên sức mạnh tổng hợp trong cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. 2.2. Sử dụng phương thức thâm nhập thị trường và nghiên cứu thị trường xuất khẩu, thị hiếu người tiêu dùng, kênh tiêu thụ hàng. * Sử dụng phương thức thâm nhập thị trường như xuất khẩu trực tiếp, thực hiện liên doanh, liên kết với các công ty, đầu tư trực tiếp là con đường chính để thâm nhập vào thị trường EU hiện nay. Và các công ty may Việt Nam cần tận dụng mọi cơ hội nghiên cứu thị trường để nắm được đặc điểm của thị trường như: nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùngvà kênh phân phối của thị trương EU để từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp cải tiến, nâng cao và đa dạng hoá sản phẩm, tạo nguồn hàng thích hợp với thị trường EU nhằm đạt được mục đích là tăng khả năng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này. Đồng thời phải thu thập và nắm bắt, xử lý thông tin kịp thời để có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng. 2.3. Sử dụng chiến lược Marketing. Nói tới marketing chúng ta không thể bỏ qua một công cụ quan trọng là quảng cáo. Nhiều người cho rằng, quảng cáo chính là nghệ thuật trong kinh doanh. Nếu hoạt động quảng cáo có hiệu quả thì nó sẽ là công cụ đắc lực giúp cho doanh nghiệp thành công trên thương trường. Việc các doanh nghiệp sử dụng chiến lược marketing là rất quan trọng, chiến lược này giúp cho các doanh nghiệp phát hiện ra nhu cầu hiện tại và tiềm năng của thị trường, triển vọng phát triển của thị trường. 2.4. Thu hút vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn. Đối với ngành dệt luôn đòi hỏi đầu tư lớn, vì vậy để thu hút nguồn vốn thì các công ty của Việt Nam cần tăng cường các hình thức như liên doanh, liên kết, cổ phần hay 100% vón nước ngoài. Tuy nhiên, các công ty nên tập trung vào các mặt hàng mới mà các doanh nghiệp hiện có chưa sản xuất được cũng như ưu tiên phân bổ hạn ngạch xuất khẩu sang EU cho các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài tìm kiếm thị trường phi hạn ngạch. 3. Kiến nghị đối với Nhà nước. 3.1. Củng cố mở đường vào thị trường xuất khẩu. EU là một thị trường lớn trên thế giới, nhu cầu nhập khẩu hàng dệt may là rất lớn thế nhưng cho đến nay hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu vào EU chỉ mới chiếm một thị phần nhỏ. Do đó, để các doanh nghiệp Việt Nam giữ vững vị trí và giữ vững thị trường EU một cách suôn sẻ thì cần có sự hỗ trợ của Nhà nước một cách thích hợp. * Trước hết xây dựng môi trường pháp lý rõ ràng, nhất quán, ổn định nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, loại bỏ độc quyền và chống các hành vi gian lận thương mại. * Đề nghị Chính phủ cần nỗ lực hơn trong quan hệ đàm phán với EU để giảm thuế xuất nhập khẩu của hàng hoá nói chung và của dệt may nói riêng. * Nghiên cứu, ứng dụng các nghiệp vụ marketing để nhằm phát hiện thêm nguồn khách hàng tiềm năng, thực hiện các hoạt động khuếch trương cần thiết giúp cho các mặt hàng mới của dệt may Việt Nam tìm được chỗ vững chắc, và phát triển trên thị trường này. * Tổ chức hội chợ triển lãm ở Việt Nam và EU nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp trong công tác tuyên truyền, quảng cáo, khuếch trương hoạt động kinh doanh thương mại, tiếp xúc với bạn hàng EU, trao đổi, học tập kinh nghiệm kinh doang trên thị trường quốc tế. * Cung cấp thông tin cập nhật tạo điều kiện cho doanh nghiệp kịp thời ứng xử. 3.2. Tạo mối liên kết giữa các doanh nghiệp, chú trọng công tác đào tạo và nâng cao năng lực cán bộ. Hiện tại thị trường khu vực và quốc tế hoạt động với quy chế tham gia hội chợ, triển lãm,... với sự đóng góp chi phí của các nước thành viên, thị trường nội bộ công ty may và trong ngành với quy chế kéo sợi dùng bông trong nước, dệt vải dùng sợi trong nước, vải phải đưa đến nhà máy nhuộm hoàn tất, may phải dùng vải của các doanh nghiệp sản xuất trong nước, doanh nghiệp phải gắn bó với thị trường. Chính vì vậy phải khuyến khích các doanh nghiệp liên kết với nhau theo nhiều chiều như liên kết dọc, liên kết ngang, liên kết ngược. Các doanh nghiệp của Việt Nam muốn tồn tại và xuất khẩu được sản phẩm của mình được thì bắt buộc phải liên kết chặt chẽ với nhau để cùng phát triển. Với xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá kinh tế và tiến trình hội nhập của Việt Nam vào quá trình này, càng với sự phát triển của công nghệ luôn đặt ra yêu cầu rất cao đối với đội ngũ cán bộ. * Chính phủ cần có chính sách khuyến khích và thu hút các học sinh có khả năng theo học nghề may, khắc phục tình trạng thiếu kỹ sư trầm trọng. Đầu tư cho các trường dạy nghề, đào tạo công nhân kỹ thuật đấp ứng nhu cấu sản xuất theo day truyền hiện đại nhằm đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề cao để trở thành thế mạnh của Việt Nam. Ưu tiên đào tạo các chuyên gia về thiết kế mẫu thời trangvà hoạt động Marketing, đồng thời có chính sách hỗ trợ và đẩm bảo việc làm và nguồn thu nhập cho người lao động tránh tình trạng những công nhân chuyển đi sang công ty khác làm việc. * Tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước theo phương châm gắn vùng công nghiệp dệt với vùng nguyên liệu, công nghiệp may với các trung tâm tiêu thụ và xuất khẩu cụ thể là: - Gắn vùng công nghiệp dệt may với các nghành công nghiệp khác nhằm tận dụng lao động, mối quan hệ liên ngành. - Gắn công nghiệp may thành khu công nghiệp liên hoàn nguyên liệu sợi, dệt, nhuộm, may, dịch vụ... nhằm giảm chi phí vận chuyển nguyên liệu, sản phẩm để nâng cao một bước công nghiệp hoá và có điều kiẹn gọi vốn nước ngoài. - Gắn công nghiệp dệt may vào các khu trung tâm dân cư để vừa tận dụng lao động tại chỗ, vừa tận dụng điều kiện cơ sở hạ tầngvề giao thông, văn hoá, thông tin, vận chuyển. - Tổ chức hiệp hội dệt may xuất khẩu để giữ quan hệ cho phía Việt Nam không bị sức ép và giữa các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu của Việt Nam không đối mặt cạnh tranh triệt tiêu nhau gây lợi cho nước ngoài. Cần có chính sách chung được Đảng và Nhà nước hướng dẫn và hỗ trợ. 3.3. Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu. Với chính sách này chúng ta có thể thu hút được sự tham gia đông đảo của các công ty dệt may của EU vào quá trình sản xuất hàng dệt may xuất khẩu tại Việt Nam. Việt Nam không ngừng nhập khẩu công nghệ từ EU, khai thác có hiệu quả lợi thế so sánhcủa mình là nguồn tài nguyên phong phú và nguồn lao động dư thừa, nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu, cải thiện cơ cấu hàng xuất khẩu, nâng cao trình độ sản xuất trong nước, cải thiện được công nghệ mà còn học hỏi được kinh nghiệm quản lý và tổ chức sản xuất của các doanh nghiệp EU góp phần thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và tiếp tục cải thiện môi trường đầu tưvà có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo hướng tích cực. 3.4. Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp cạnh tranh năng động để thúc đẩy nâng cao tính linh hoạt và khả năng thích ứng nhanh. Khi nói đến sự năng động và linh hoạt là nói đến khả năng thích nghi với các thay đổi của môi trường ngoài để tự tồn tại và phát triển. Khả năng này sẽ được tăng cường trong một môi trường cạnh tranh năng động. Vì vậy, các chính sách và giải pháp trong thời gian tới đây cần tập trung hơn vào việc tạo ra môi trường ấy, qua đó buộc các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước, phải chú ý hơn đến các vấn đề như giảm chi phí, tăng năng suất, nâng cao chất lượngvà hạ giá thành, tự tìm đến lợi thế so sánh động trong môi trường động. Theo hướng đó, cần có chính sách khuyến khích mạnh sự hình thành và phát triển các chủ thể có tính linh hoạt cao, có hình thái tổ chức cho phép ra quyêté định nhanh. Cuối cùng cần cố gắng bảo đảm cho tín hiệu thị trường không bị lệch lạc, giảm can thiệp sâu và giảm hỗ trợ tài chính trực tiếp cho các doanh nghiệp. Những biên pháp có thẻ thực hiện ngay là: * Cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được quyền xuất khẩu hàng hoá như thương nhân Việt Nam. * Tập trung nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhất là các doanh nghiệp sản xuất nhỏ. * Giảm dần, tiến tới xoá bỏ trợ cấp và trợ giá trong xuất khẩu. 3.5. Cơ chế xuất nhập khẩu và cải cách hành chính tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển. * Nhà nước cần có chính sách toàn diện tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển, nới lỏng quy định về điều kiện kinh doanh, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp, xoá bỏ các trở ngại hành chính quan liêu, tăng cường tính minh bạch. Trước hết cần đơn giản hoá thủ tục hải quan đối với kiểm tra hợp lý hàng xuất khẩu. * Cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên phụ liệu, hàng mẫu, bản vẽ hiện vẫn còn rườm rà, mất thời gian gây khó khăn cho doanh nghiệp. * Cải tiến và đơn giả hoá thủ tục hoàn thuế cho các doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các doanh nghiệp khác may xuất khẩu, đồng thời tính phần xuất khẩu tại chỗ này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu quy định tại giấy phép đầu tư, giảm khó khăn cho doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. * Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. * Điều chỉnh lại chính sách thuế để thúc đẩy nâng cao hàm lượng nội địa của sản phẩm. * Cho phép doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu tư vào sau khi xuất khẩu thay vì phải nộp sau khi hàng về. * Thực hiện hoàn thiện cơ chế quản lý như cho ngành may được hưởng cơ chế quản lý thoả đáng, tổ chức đào tạo cho các đại lý, áp dụng cơ chế phân bổ hạn ngạch theo thành tích xuất khẩuvào thị trường EU của doanh nghiệp tạo nên sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ xã hội hơn. Như vậy sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. * Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư và có chính sách phù hợp để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng tích cực. Cơ cấu xuất khẩu được coi là chuyển dịch theo hướng tích cực khi luôn có sự xuất hiện của hàng xuất khẩu mới. Thay đổi cơ cấu sản xuất nói chung và cơ cấu hàng xuất khẩu nói riêng, cần phải có đầu tư. Vì vậy, trong những năm qua, Nhà nước đã ban hành rất nhiều chế độ, chính sách để khuyến khích đầu tư, bao gồm cả đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu. * Nhanh chóng có biện pháp thoả đáng để tháo gỡ khó khăn về mặt bằng cho các nhà đầu tư. Kết luận Hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm gần đây có những bước phát triển đáng khích lệ, từng bước khẳng định vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế và trên thương trường quốc tế. Tuy nhiên quá trình này vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy để khắc phục những khó khăn, phấn đấu đạt mục tiêu đề ra thì ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam cần có sự đổi mới và hoàn thiện hơn nữa nhằm nâng cao sức cạnh tranh của của sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường này, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam phát triển ngang tầm với các nước trên thế giới. Mặc dù ngành dệt may của chúng ta đang gặp phải rất nhiều khó khăn trên thị trường này nhưng với những giải pháp và chiến lược hợp lý chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam sẽ vượt qua được những rào cản để xứng đáng là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn của Việt Nam trong quá trình chuyển dịch kinh tế hướng vào xuất khẩu chủ yếu của đất nước. Phụ lục Bảng 4: Tình hình cấp giấy phép xuất khẩu cho các mặt hàng dệt may xuất khẩu vào EU. TT Mặt hàng Cat. Đ/vị Tổng hạn ngạch Đã cấp giấy phép đến ngày 9/5/2003 Hạn ngạch còn So với ngày 8/5/2003 Số lượng Tỷ lệ (%) 1 T- shirt, polo shirt 4 Chiếc 10.709.000 3.999.145 37,3 6.709.855 108.012 2 áo len, áo nỉ 5 Chiếc 3.551.000 294.491 8,3 3.256.509 14.736 3 Quần 6 Chiếc 5.465.000 1.542.855 28,2 3.922.145 35.731 4 Sơ mi nữ 7 Chiếc 3.003.000 945.764 31,5 2.057.236 70.575 5 Sơ mi nam 8 Chiếc 14.206.000 4.753.142 33,5 9.452.858 99.584 6 Khăn bông 9 Tấn 892.0 187.74 19,1 794 4,85 7 Găng tay 10 Đôi 6.160.000 440.840 7,2 5.719.160 13.362 8 Bít tất 12 Đôi 3.096.000 118.200 3,81 2.977.800 0 9 Quần lót 13 Chiếc 9.253.000 1.303.051 14,1 7.949.949 30.575 10 áo khoác nam 14 Chiếc 493.000 26.469 5,4 466.591 1.025 11 áo khoác nữ 15 Chiếc 550.000 51.258 9,3 498.742 2.179 12 Bộ quần áo ngủ 18 Tấn 968,0 247,70 25,6 720 6,07 13 Ga trải giường 20 Tấn 255,0 42,99 16,9 212 1.85 14 áo jacket 21 Chiếc 20.837.000 2.356.780 11,3 18.480.220 48.889 15 Váy dài nữ 26 Chiếc 1.256.000 3725.185 29,9 880.815 7.395 16 Quần dệt kim 28 Chiếc 3.881.000 1.047.220 27,0 2.833.780 18.879 17 Bộ quần áo nữ 29 Bộ 381.000 103.163 27,1 277.37 0 18 áo lót 31 Chiếc 4.372.000 1.483.187 33,9 2.888.813 15.504 19 Vải tổng hợp 35 Tấn 671,0 137,55 25,9 497 1,64 20 Khăn trải bàn 39 Tấn 244,0 95,27 39,0 149 1,15 21 Sợi tổng hợp 41 Tấn 809,0 608,61 75,2 200 0,00 22 Quần áo trẻ em 68 Tấn 473,0 115,83 24,5 357 26,05 23 Bộ thể thao 73 Bộ 1.159.000 143.056 12,3 1.015.944 1,913 24 Quần áo bảo hộ lao động 76 Tấn 1.259,0 490,41 39,0 769 27,02 25 Quần áo khác 78 Tấn 1.311,0 374,54 28,6 936 2,72 26 Quần áo khác dệt kim 83 Tấn 436,0 83,39 19,1 353 3,00 27 Lưới các loại 97 Tấn 144,0 81,07 33,2 163 0,22 28 Khăn trải bàn, ga trải giường bằng lanh 118 Tấn 277,0 50,12 18,1 227 0,22 29 Quần áo bằng vải thô đũi 161 Tấn 284,0 100,56 40,5 147 2,35 Nguồn:Bộ Thương mại Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình ngoại thương – Trường Đại học Quản lý Kinh doanh 2. Giáo trình kinh tế đối ngoại - Đại học Quản lý Kinh doanh 3. Giáo trình thương mại quốc tế - Đại học Quản lý Kinh doanh 4. Giáo trình Marketing - Đại học Quản lý Kinh doanh 5. Báo cáo dệt may Bộ ngoại thương 6. Báo cáo dệt may Vinatex 7. Báo thương mại số 6,7,9,11,15,16,17,18,19,21 (2003) 8. Báo kinh tế kế hoạch số 1,2,3 (2002) 9. Kỷ yếu xuát khẩu 2001 10. Doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới 11. Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập – Hoàng Đức Thân – Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 12. Tạp chí nghiên cứu Châu Âu số 5/1999 Các từ viết tắt trong bàI - EU (European Union) - Liên minh Châu Âu - EEC (European Economic Community) - Cộng đồng kinh tế Châu Âu - GSP - Hệ thống thuế ưu đãi phổ cập - WTO ( World Trade organization) - Tổ chức thương mại thế giới - FDI (Foreign Direct Investment) - Đầu tư trực tiếp nước ngoài - ASEAN ( Association of South Easth Asian Nation) – Hiệp hội các nước Đông Nam á - WB (World Bank) Ngân hàng thế giới - APEC (The Asian Pacific Economic Conference - Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á Thái Bình Dương) - AFTA (Asean Free Trade Area - Khu vực mậu dịch tự do ASEAN). - MFN (Most Favoured Nation - Quy chế tối huệ quốc) Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36198.doc
Tài liệu liên quan