Một số vấn đề khác
Điều 53 quy định việc phân chia tiền bồi
thường thiệt hại trong vụ án do tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng khởi kiện được thực hiện theo
thứ tự ưu tiên sau:
“1. Chi phí hợp lý của tổ chức bảo vệ người
tiêu dùng phát sinh trong quá trình giải quyết
vụ án;
2. Tiền bồi thường thiệt hại cho người tiêu
dùng tham gia vụ án;
3. Nộp vào Quỹ bảo vệ người tiêu dùng theo
quy định tại Điều 57 của Luật này”.
Thứ tự phân chia như vậy chúng tôi cho là
hợp lý, tuy nhiên một vấn đề được đặt ra mà
Dự thảo luật chưa quy định rõ đó là ai sẽ là
người quyết định việc phân chia này và mức
phân chia cho mỗi mục sẽ là bao nhiêu khi mà
tiền bồi thường sau khi thanh toán chi phí giải
quyết vụ án vẫn còn dư.
Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng, Điều 62 và 63 của Dự thảo
luật còn quá thiên về vấn đề kiến nghị, khiếu
kiện của tổ chức này mà chưa thấy quy định
những nội dung mang tính chất “sứ mệnh” của
chính tổ chức đó là việc tự khảo sát, điều tra về
các vấn đề của người tiêu dùng; xuất bản các
ấn phẩm hướng dẫn người tiêu dùng; phổ biến,
nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về các
quyền của mình và các văn bản pháp luật có
liên quan v.v.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 177 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật bảo vệ người tiêu dùng: Quy định càng đơn giản, tính khả thi càng cao, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
22 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1. Việc phân đoạn chu trình bảo vệ người
tiêu dùng
Theo Dự thảo Luật, chu trình tiêu dùng từ
giai đoạn trước khi giao kết hợp đồng giữa
thương nhân với người tiêu dùng đến khi giao
kết, thực hiện giao dịch và cho đến khi người
tiêu dùng sử dụng hàng hóa, dịch vụ đều cần
có những biện pháp bảo vệ cụ thể. Cụ thể, chu
trình này được phân làm 3 công đoạn: những
hành vi của thương nhân và người tiêu dùng
“trước khi giao dịch”, những hành vi của
thương nhân và người tiêu dùng “trong giao
dịch”, và những hành vi của thương nhân và
người tiêu dùng “trong quá trình sử dụng hàng
hóa, dịch vụ”. Trong mỗi công đoạn, người
tiêu dùng lại được bảo vệ bởi một nhóm biện
pháp (thể hiện tại Chương 2 (từ Điều 6 đến
Điều 9), Chương 3 (từ Điều 10 đến Điều 14),
và Chương 4 (từ Điều 15 đến Điều 20)). Cách
suy nghĩ như vậy, về mặt lý thuyết, là hoàn
toàn hợp lý. Tuy nhiên, để thể hiện vào Dự án
luật thì lại bộc lộ những vấn đề riêng của nó.
Trong thực tế, đối với mỗi giao dịch giữa
một thương nhân với một người tiêu dùng cụ
thể, ba công đoạn trên khá tách biệt và rành
mạch. Tuy nhiên, xét trên tổng thể thị trường,
trong tương tác giữa các thương nhân với hàng
ngàn người tiêu dùng, ba công đoạn kể trên
sẽ luôn đan xen, hòa quyện với nhau và nhiều
trường hợp là không thể tách rời ra được. Có
những hành vi gây thiệt hại cho người tiêu
dùng của thương nhân không chỉ tác động
LUẬT BẢO VỆ NGƯỜI TIÊU DÙNG:
QUY ĐỊNH CÀNG ĐƠN GIẢN,
TÍNH KHẢ THI CÀNG CAO
* ThS. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp
(1)
Hiện nay, Dự thảo 4 Luật Bảo vệ người tiêu dùng đang công bố trên website của Bộ Công
thương1 và được sử dụng để tham vấn ý kiến công chúng cũng như các đối tượng có liên quan.
Có thể nói, Dự thảo Luật được xây dựng dựa trên tinh thần chung được pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng của nhiều quốc gia ghi nhận, đó là: Coi người tiêu dùng là trung tâm và là bên yếu thế
trong quan hệ với thương nhân. Việc xây dựng Luật Bảo vệ người tiêu dùng nhằm cân bằng lợi ích
xã hội, doanh nghiệp và người tiêu dùng, bảo đảm môi trường kinh doanh lành mạnh, nâng cao
trách nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng. So với các quy định về bảo vệ người tiêu
dùng hiện hành trong các văn bản pháp luật có liên quan như Bộ luật Dân sự năm 2005, Pháp
lệnh Bảo vệ người tiêu dùng năm 1999 v.v.., Dự thảo Luật có nhiều quy định mới mang tính đột
phá. Tuy nhiên, theo dõi sát quá trình xây dựng đạo luật và nghiên cứu kỹ bản Dự thảo 4, chúng
tôi vẫn thấy còn nhiều vấn đề cần được hoàn thiện tiếp để nâng cao tính khả thi.
NGUYễN VăN CƯơNG *
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 23122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
trong công đoạn “trước giao dịch” mà còn tác
động tới cả những công đoạn còn lại. Việc tách
các hành vi của thương nhân để xếp riêng vào
từng công đoạn với cách thức xử lý riêng rất
có thể sẽ giống như việc cố “gọt chân cho vừa
giày”. Thêm vào đó, với những hành vi xâm
hại tới cả ba công đoạn của thương nhân mà
chỉ xếp vào một công đoạn để xử lý, thì rất dễ
gây hiểu lầm rằng hành vi này chỉ bị cấm trong
từng công đoạn cụ thể, còn ở những công đoạn
khác, hành vi đó sẽ không bị cấm.
Chúng tôi đơn cử một vài ví dụ đã được Dự
thảo đề cập tới. Điều 9 của Luật này có một số
quy định như sau:
“Hành vi ép buộc người tiêu dùng: Cấm
thương nhân thực hiện một trong những hành
vi sau đây:
1. Trực tiếp hay gián tiếp dùng vũ lực, đe
dọa sử dụng vũ lực đối với người tiêu dùng;
5. Hạn chế hoặc ngăn cản người tiêu
dùng thực hiện các quyền được pháp luật quy
định”.
Chúng ta dễ dàng nhận thấy, các hành vi kể
trên hoàn toàn có thể diễn ra trong quá trình
giao dịch, thậm chí trong quá trình thực thi các
nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch giữa người tiêu
dùng với thương nhân.
Tương tự, một số nội dung trong Điều 15
như nghĩa vụ “chấp hành đầy đủ các quy định
của pháp luật về bảo đảm an toàn sản phẩm”
hay “cảnh báo ngay cho người tiêu dùng nếu
phát hiện nguy cơ mất an toàn của hàng hóa,
dịch vụ đã cung cấp”, “ngừng việc cung ứng
hàng hóa, dịch vụ có nguy cơ gây ảnh hưởng
trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của
người tiêu dùng” có thể phải thực hiện trước cả
khi thương nhân giao kết với người tiêu dùng.
Khi tham khảo các đạo luật về bảo vệ người
tiêu dùng của các nước như Anh, Pháp, Nhật,
Canada và một số nước ASEAN, chúng tôi
không thấy cách phân chia kể trên. Do đó, đề
nghị Ban soạn thảo cân nhắc vì sao luật về bảo
vệ người tiêu dùng của các nước đi trước ta chỉ
cần dùng ba chế định độc lập “hành vi thương
mại không công bằng”, “hợp đồng tiêu dùng”
và “trách nhiệm sản phẩm” cũng đủ để giải
quyết những vướng mắc vừa nêu mà không
cần phân chia thành ba công đoạn như thế.
2. Hợp đồng tiêu dùng
Dự thảo Luật đã cố ý tránh dùng thuật ngữ
hợp đồng tiêu dùng (tức là hợp đồng được
giao kết giữa thương nhân và người tiêu dùng)
nhằm tránh khả năng có một cuộc tranh luận
mới tương tự như cuộc tranh luận đã từng diễn
ra ở nước ta trong suốt thập niên 1990 - cho tới
khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế chính thức bị
bãi bỏ2 - trong giới pháp lý về việc nên có hai
hay ba loại hợp đồng thì phù hợp3. Tuy nhiên,
dù muốn hay không, Dự thảo Luật cũng không
tránh khỏi đưa ra các quy định điều chỉnh quan
hệ hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu
dùng như trong Chương 3 của Dự luật (từ Điều
10 đến Điều 14). Chẳng hạn:
Điều 10. Ngôn ngữ của hợp đồng: “Ngôn
ngữ của hợp đồng với người tiêu dùng phải
được thể hiện một cách rõ ràng, dễ hiểu và
phải thể hiện bằng tiếng Việt”.
Điều 11. Giải thích hợp đồng: “Trong
trường hợp có nhiều cách hiểu khác nhau về
nội dung hợp đồng thì hợp đồng được giải
thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng”.
Điều 12.1. Điều khoản vô hiệu: “Các điều
khoản trong hợp đồng ký kết với người tiêu
dùng và các điều kiện thương mại áp dụng
chung có một trong những nội dung sau đây
bị vô hiệu:
a) Loại trừ trách nhiệm của thương nhân
đối với người tiêu dùng theo quy định của
pháp luật;
b) Quy định loại trừ các quyền khiếu nại,
khởi kiện của người tiêu dùng;
c) Cho phép thương nhân có quyền đơn
(2) Theo Nghị quyết thi hành Bộ luật Dân sự năm 2005 của Quốc hội.
(3) Tức là tranh luận xem có nên phân chia hợp đồng thành hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế (thậm chí là hợp đồng thương mại)
hay không.
24 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
phương thay đổi các điều kiện thương mại đã
thoả thuận với người tiêu dùng;
d) Cho phép thương nhân có quyền đơn
phương quyết định người tiêu dùng không thực
hiện được một hoặc một số nghĩa vụ;
đ) Hạn chế các quyền khác của người tiêu
dùng theo quy định của pháp luật”.
Điều 13. Hợp đồng theo mẫu:
“1. Khi giao kết hợp đồng theo mẫu, thương
nhân phải dành cho người tiêu dùng có một
thời gian hợp lý để nghiên cứu hợp đồng.
2. Người tiêu dùng có quyền yêu cầu sửa
đổi hợp đồng trong trường hợp không đồng ý
với nội dung của hợp đồng theo mẫu.
3. Thương nhân phải chịu trách nhiệm bảo
quản hợp đồng theo mẫu đã giao kết cho đến
khi hợp đồng đó hết hiệu lực. Trong trường
hợp bản hợp đồng do người tiêu dùng giữ bị
mất hoặc hư hỏng thì thương nhân phải cấp
cho người tiêu dùng bản sao hợp đồng có giá
trị như bản chính.
4. Thương nhân kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ thiết yếu cho người tiêu dùng có sử dụng
hợp đồng theo mẫu phải đăng ký với cơ quan
quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng
trước khi sử dụng.
5. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ
người tiêu dùng có quyền yêu cầu thương
nhân hủy bỏ hoặc sửa đổi hợp đồng theo mẫu
theo đề nghị của người tiêu dùng hoặc trong
trường hợp phát hiện quy định trong hợp đồng
vi phạm quyền lợi của người tiêu dùng”.
Theo lý luận cơ bản về pháp luật bảo vệ
người tiêu dùng thì đạo luật bảo vệ người tiêu
dùng được xây dựng để khắc phục các khuyết
tật trong quan hệ thị trường giữa thương nhân
với người tiêu dùng, bởi đây là một dạng quan
hệ “bất cân xứng”. Sự bất cân xứng này thể
hiện chủ yếu ở ba khía cạnh: “bất cân xứng về
thông tin”, “bất cân xứng về khả năng thương
lượng giao kết hợp đồng” và “bất cân xứng
về khả năng tài chính trong việc gánh chịu rủi
ro”. Trong sự bất cân xứng ấy, người tiêu dùng
luôn ở thế bất lợi. Kinh nghiệm của các nước
có kinh nghiệm lâu năm về bảo vệ người tiêu
dùng chỉ ra rằng, sự bất cân xứng kể trên thể
hiện nghiêm trọng nhất ở trong một số loại
giao dịch như bán hàng tại cửa, bán hàng từ xa
và cung ứng dịch vụ liên tục.
Chẳng hạn, với loại bán hàng tại cửa, theo
đó, doanh nghiệp cho nhân viên của mình
mang hàng hóa tới tiếp thị và bán trực tiếp cho
người tiêu dùng tại nơi ở hoặc nơi làm việc
của họ. Trường hợp này, người tiêu dùng ở thế
bị động khi được tiếp thị, hoàn toàn khác với
trường hợp người tiêu dùng chủ động tới cửa
hàng, cửa hiệu, siêu thị hoặc liên hệ trực tiếp
với doanh nghiệp để mua hàng. Tình trạng này
không phải là hiếm trong bối cảnh hoạt động
bán hàng đa cấp và các phương thức bán hàng
tương tự đang bùng phát ở Việt Nam. Thực tế,
nhiều loại hàng gia dụng như bàn là, máy sấy
tóc, máy sinh tố, thực phẩm chức năng, máy
mát xa, máy tạo ôzôn, đệm từ... ở Việt Nam
đang được phân phối theo phương thức này.
Không ít trường hợp, do ở thế bị động và thiếu
thông tin, người tiêu dùng đã mua phải các
sản phẩm với giá rất đắt hoặc những sản phẩm
kém chất lượng hoặc không rõ công dụng do
chỉ tin vào thông tin một phía từ nhân viên bán
hàng. Hiện tại, pháp luật hợp đồng Việt Nam
(quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005) coi
các hợp đồng bán hàng này cũng giống như
mọi loại hợp đồng bán hàng, bán tài sản khác.
Điều đó có nghĩa, nếu người tiêu dùng đã đồng
ý mua hàng, trả tiền thì nói chung không còn
được tự ý chấm dứt hợp đồng, trả lại hàng, đòi
lại tiền. Xét từ góc độ bảo đảm quyền được
thông tin và quyền lựa chọn hàng hoá của người
tiêu dùng, quy định như trên của pháp luật Việt
Nam chưa thực sự bảo đảm tốt các quyền năng
của người tiêu dùng. Lý do là, phương thức bán
hàng trực tiếp đã khiến cho người tiêu dùng rơi
vào thế “bị tấn công”, thế bị động, không có đủ
thời gian, sự tỉnh táo cần thiết để kiểm chứng
thông tin, tìm hiểu thêm về sản phẩm được tiếp
thị và dễ đưa ra các quyết định vội vàng. Giải
quyết tình huống đó, pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng của nhiều quốc gia, như
Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Nhật Bản v.v.. thường
đưa ra quy định cho phép người tiêu dùng có
một thời gian nhất định (thường là từ 7 đến 10
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 25122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
ngày) để cân nhắc, suy nghĩ, tham khảo thêm
thông tin. Trong thời hạn đó, người tiêu dùng
có thể đổi ý, trả lại hàng hoá, đòi lại tiền của
người bán hàng bất cứ khi nào mà không cần
giải thích lý do.
Đối với trường hợp bán hàng từ xa (ví dụ
mua bán qua mạng Internet, mua bán hàng qua
kênh bán hàng trên tivi v.v..), khi giữa người
mua và người bán không trực tiếp gặp nhau
thương lượng, không trực tiếp cùng kiểm tra
hàng hóa mua bán, người tiêu dùng rất có khả
năng gặp những rủi ro từ loại giao dịch này.
Chẳng hạn, do thông tin trao đổi giữa hai bên
không rõ ràng, người tiêu dùng có thể phải
nhận những loại hàng hóa không giống như
suy nghĩ và kỳ vọng ban đầu của mình. Với
sự phát triển mạnh mẽ của Internet hiện nay
ở Việt Nam (với hơn 20 triệu người sử dụng),
cùng với sự phổ cập ngày càng lớn các kênh
truyền hình bán hàng trực tiếp, các hợp đồng
bán hàng từ xa sẽ không còn trở nên xa lạ với
người tiêu dùng Việt Nam. Theo quy định của
pháp luật hợp đồng hiện hành của Việt Nam (Bộ
luật Dân sự năm 2005), hợp đồng bán hàng từ
xa cũng được coi như một hợp đồng bán hàng
thông thường. Hình thức của hợp đồng này có
thể thể hiện dưới bất cứ hình thức nào (bằng
lời nói, hành vi hoặc bằng văn bản). Những
quy định như vậy hoàn toàn không giải quyết
được những vấn đề mà người tiêu dùng có thể
gặp phải trong loại giao dịch này. Để bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng, pháp
luật bảo vệ người tiêu dùng của nhiều quốc
gia trên thế giới thường đưa ra quy định hợp
đồng bán hàng từ xa phải được thể hiện dưới
hình thức văn bản (nhất là từ một mức giá trị
nào đó) do người bán phát hành, trong đó phải
ghi rõ những điều khoản cơ bản nhất như: tên,
địa chỉ liên lạc của người bán; tên, địa chỉ của
người mua; ngày ký hợp đồng; mô tả chi tiết
về hàng hoá, dịch vụ được cung ứng (ghi rõ
các chỉ tiêu về kỹ thuật và chuyên môn); cấu
thành giá của hàng hoá, dịch vụ (nêu rõ giá
chưa có thuế và giá có thuế, các khoản phí phải
trả, bao gồm cả phí vận chuyển, phí môi giới);
điều kiện về vận chuyển (bao gồm cả tên của
người có trách nhiệm vận chuyển, địa điểm
giao hàng); cách thức thanh toán tiền hàng (các
khoản trả chậm, trả dần nếu có, mức lãi suất áp
dụng cho các khoản trả chậm, trả dần); các giới
hạn trách nhiệm (nếu có) của người bán, người
vận chuyển; điều kiện chấm dứt hợp đồng;
điều kiện đổi, trả lại hàng hoá; chính sách trả
lại tiền hàng v.v.. Trường hợp hợp đồng bán
hàng từ xa được thể hiện dưới hình thức điện
tử (trên mạng Internet), thì người bán hàng
phải bảo đảm rằng trước khi người tiêu dùng
giao kết hợp đồng, họ phải được cung cấp các
thông tin cần thiết về hàng hoá, dịch vụ. Các
thông tin đó có thể lưu giữ lại dưới dạng bản
in; đồng thời, người tiêu dùng phải được quyền
sửa chữa những sai sót mà mình đã viết vào
bản hợp đồng. Chúng tôi cho rằng, Dự thảo
luật cũng nên có các quy định tương tự nhằm
bảo đảm quyền lợi của người tiêu dùng ở nước
ta hiện nay. Luật nên nêu rõ trong một thời
hạn nhất định sau khi đã giao kết hợp đồng,
người bán phải gửi cho người tiêu dùng một
bản hợp đồng chính thức để người tiêu dùng
biết và kiểm tra quá trình thực hiện hợp đồng
của các bên. Nếu người tiêu dùng không nhận
được bản hợp đồng trong thời hạn đó, người
tiêu dùng có quyền đơn phương chấm dứt hợp
đồng mà không phải bồi thường, bồi hoàn cho
người bán; trong trường hợp người tiêu dùng
chấm dứt hợp đồng mà người tiêu dùng đã trả
tiền cho người bán thì trong một thời hạn nhất
định (chẳng hạn nhiều nhất là 15 ngày), người
bán phải trả lại khoản tiền đã nhận của người
tiêu dùng.
Một điểm nữa cũng liên quan đến các quy
định về hợp đồng giữa thương nhân và người
tiêu dùng tại Điều 12 của Dự thảo luật đã nêu,
đó là: khi thương nhân có các hành vi bị cấm
nêu tại Chương 2 của Dự thảo luật (nhất là
có các hành vi thông tin gian dối với người
tiêu dùng), thì hợp đồng giữa người tiêu dùng
với thương nhân có đương nhiên vô hiệu hay
không? Chúng tôi cho rằng, Dự thảo luật nên
bổ sung và quy định rõ: khi thương nhân thực
hiện những hành vi có tính gian dối hoặc ép
buộc, đe dọa với người tiêu dùng, thì hợp đồng
26 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
giữa thương nhân và người tiêu dùng cũng bị
coi là vô hiệu. Thêm nữa, vấn đề mấu chốt
không chỉ ở việc hợp đồng có vô hiệu hay
không mà đối với người tiêu dùng, điều họ
quan tâm hơn nữa là nếu đã biết hợp đồng vô
hiệu rồi thì họ sẽ được hưởng những quyền gì
và thương nhân có trách nhiệm bảo đảm cho
họ hưởng các quyền ấy ra sao (chẳng hạn, khi
nào thì được trả lại hàng hóa, khi nào thì được
hoàn lại tiền v.v..). Việc Dự thảo luật (Điều 12)
đòi hỏi để xác định hợp đồng vô hiệu, người
tiêu dùng lại phải nhờ cậy tới kênh Tòa án4
thì không phải là cách thức tối ưu và đơn giản
để bảo vệ người tiêu dùng. Đồng thời, cũng
không khả thi, tạo thêm gánh nặng cho người
tiêu dùng. Một phương án đơn giản là Luật
quy định những trường hợp mà Điều 12 đã dự
liệu thì hợp đồng đương nhiên vô hiệu. Trên
cơ sở đó, người tiêu dùng có thể dựa vào Điều
12 này để khiếu nại với thương nhân một cách
trực tiếp mà chưa cần phải cầu viện tới một
trung gian thứ ba là Tòa án.
3. Kiểm soát hợp đồng mẫu
Nhiều doanh nghiệp cho rằng việc quy định
phương thức “tiền kiểm” đối với hợp đồng
mẫu là một dạng hạn chế quyền tự do kinh
doanh của doanh nghiệp một cách bất hợp lý.
Chúng tôi cho rằng, quan điểm này rất hợp lý,
cần được cân nhắc. Trong thực tế, hàng ngàn
doanh nghiệp sử dụng các loại hợp đồng mẫu
khi cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu
dùng thuộc rất nhiều ngành, lĩnh vực khác
nhau, Cơ quan bảo vệ người tiêu dùng rất khó
có đủ nhân lực và chuyên môn để “rà soát”,
thẩm định tất cả các loại hợp đồng này. Về mặt
lý thuyết, cơ quan này chỉ được trang bị nhiệm
vụ và chức năng để rà soát dưới góc độ bảo
vệ người tiêu dùng mà thôi. Bản thân một hợp
đồng có hàng chục khía cạnh khác nhau mà cơ
quan này không thể và không có quyền thẩm
định, cho ý kiến được.
Thêm vào đó, việc tiền kiểm đối với hợp
đồng mẫu cũng khiến cơ quan bảo vệ người
tiêu dùng có thể gặp phải những rủi ro pháp
lý không lường trước được. Chẳng hạn, một
bản hợp đồng mẫu, sau khi đã được rà soát và
phê duyệt bởi một cơ quan và cơ quan này cho
rằng đây là hợp đồng phù hợp với quy định của
Luật Bảo vệ người tiêu dùng, nhưng sau này,
khi có tranh chấp xảy ra, vụ việc được đưa ra
tranh tụng tại Tòa án và Tòa án, với tư cách là
một cơ quan độc lập trong việc ra phán quyết,
lại ra bản án theo đó, bản hợp đồng này có điều
khoản xâm phạm quyền lợi người tiêu dùng,
khi đó, trách nhiệm của cơ quan bảo vệ người
tiêu dùng sẽ là như thế nào? Dù về mặt pháp
lý, việc truy cứu trách nhiệm đối với cơ quan
này không hề đơn giản, nhưng về uy tín trước
công chúng, chắc chắn cơ quan bảo vệ người
tiêu dùng sẽ bị thiệt hại lớn.
4. Thủ tục rút gọn
Việc quy định thủ tục rút gọn là cần thiết.
Kinh nghiệm của hầu hết các quốc gia đã ban
hành luật bảo vệ người tiêu dùng đều cho thấy,
thủ tục tố tụng rút gọn là công cụ hữu ích đối
với người tiêu dùng. Tuy nhiên, đi vào chi tiết,
còn một số nội dung đáng lưu ý sau:
- Điều 46 quy định chưa rõ việc giải quyết
vụ việc của người tiêu dùng sẽ do hội đồng
(gồm một thẩm phán và hai hội thẩm) hay chỉ
một thẩm phán giải quyết. Có vẻ như Ban soạn
thảo thiên về phương án “một thẩm phán”. Tuy
nhiên, nếu như vậy thì quy định này lại không
phù hợp với quy định trong Hiến pháp5. Một
điểm nữa rất đáng lưu ý là Điều luật này quá
thiên vào việc làm sao vụ việc được “xét xử”
thật nhanh mà không quy định thủ tục “hòa
giải” giữa các bên trước phiên xét xử. Thông lệ
của các tòa án xét xử theo thủ tục rút gọn của
các nước, giai đoạn “hòa giải” giữa các bên, kể
cả giữa các bên trong vụ việc của người tiêu
dùng, bao giờ cũng là giai đoạn rất được coi
trọng. Có lẽ Dự thảo luật nên bổ sung nội dung
này vào Điều 46. Ngoài ra, Điều luật này cũng
(4) Nguyên văn “Người tiêu dùng có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố toàn bộ hợp đồng vô hiệu nếu trong hợp đồng có nội dung quy
định tại khoản 1 Điều này”.
(5) Điều 129 Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân.
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 27122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
chưa quy định khi người tiêu dùng tiến hành
khởi kiện và được thụ lý thì trong thời hạn bao
lâu, phía bị đơn được cung cấp đơn khởi kiện
hoặc được thông báo về mình đang bị kiện để
có cơ hội chuẩn bị cho việc tham gia tố tụng
của mình. Đây cũng là nội dung cần bổ sung
vào Dự thảo luật.
- Điều 47 quy định án sơ thẩm có hiệu lực
ngay, các đương sự không có quyền kháng
cáo cũng không phù hợp với nguyên tắc hai
cấp xét xử - một thông lệ chung được pháp
luật của hầu hết các quốc gia dân chủ áp dụng,
kể cả các quốc gia có quy định về thủ tục rút
gọn (kiểu mô hình Tòa khiếu kiện nhỏ - Small
Claims Court).
5. Một số vấn đề khác
Điều 53 quy định việc phân chia tiền bồi
thường thiệt hại trong vụ án do tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng khởi kiện được thực hiện theo
thứ tự ưu tiên sau:
“1. Chi phí hợp lý của tổ chức bảo vệ người
tiêu dùng phát sinh trong quá trình giải quyết
vụ án;
2. Tiền bồi thường thiệt hại cho người tiêu
dùng tham gia vụ án;
3. Nộp vào Quỹ bảo vệ người tiêu dùng theo
quy định tại Điều 57 của Luật này”.
Thứ tự phân chia như vậy chúng tôi cho là
hợp lý, tuy nhiên một vấn đề được đặt ra mà
Dự thảo luật chưa quy định rõ đó là ai sẽ là
người quyết định việc phân chia này và mức
phân chia cho mỗi mục sẽ là bao nhiêu khi mà
tiền bồi thường sau khi thanh toán chi phí giải
quyết vụ án vẫn còn dư.
Về quyền và nghĩa vụ của tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng, Điều 62 và 63 của Dự thảo
luật còn quá thiên về vấn đề kiến nghị, khiếu
kiện của tổ chức này mà chưa thấy quy định
những nội dung mang tính chất “sứ mệnh” của
chính tổ chức đó là việc tự khảo sát, điều tra về
các vấn đề của người tiêu dùng; xuất bản các
ấn phẩm hướng dẫn người tiêu dùng; phổ biến,
nâng cao nhận thức của người tiêu dùng về các
quyền của mình và các văn bản pháp luật có
liên quan v.v...
(Tiếp theo trang 15)
lượt mình Pháp lệnh Thẩm phán và hội thẩm
nhân dân lại quy định: “Hội đồng tuyển chọn
Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện gồm có Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh làm Chủ tịch, Chánh
án Tòa án nhân dân cấp tỉnh, đại diện lãnh đạo
Ban Tổ chức chính quyền (nay là Sở Nội vụ)
– là cơ quan chuyên môn thuộc UBND”. Với
Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán như vậy, thì
không thể độc lập trong suy nghĩ chứ chưa nói
đến chuyện độc lập khi xét xử.
Điều 12 Hiến pháp hiện hành quy định:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật,
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa”. Pháp chế đó là sự tuân thủ một cách
tuyệt đối các đạo luật, là sự chấp hành pháp
luật một cách nghiêm minh, bình đẳng và
thống nhất bởi tất cả các cơ quan, tổ chức và cá
nhân. Nguyên tắc này đòi hỏi tiền đề là phải có
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh . Hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh thì về hình thức phải chặt
chẽ, về nội dung phải hợp lý và hợp pháp, đảm
bảo tính khả thi và đồng bộ. Tuy nhiên, không
phải lúc nào ý chí của nhà làm luật cũng được
hiểu đủ và hiểu đúng. Chính vì vậy, giải thích
pháp luật ra đời như một tất yếu, khách quan.
Việc trao quyền này cho TAHP sẽ đảm bảo tính
đúng đắn, công bằng cũng như hạn chế những
vi phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân để từ đó, tạo lập trật tự an toàn xã hội, góp
phần ổn định tình hình đất nước, tiến tới xây
dựng thành công một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa, xây dựng một nhà nước thực sự
của dân, do dân và vì dân với mục tiêu hàng
đầu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh”.
VAI TRÒ GIẢI THÍCH PHÁP LUẬT ...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_bao_ve_nguoi_tieu_dung_quy_dinh_cang_don_gian_tinh_kha.pdf