Luật giáo dục Đại học năm 2012 cơ sở pháp lý để đổi mới giáo dục Đại học Việt Nam

Luật GDĐH chính thức có hiệu lực thi hành sẽ là bước đổi mới căn bản để nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Tuy nhiên, sau khi Luật GDĐH được ban hành và có hiệu lực, việc soạn thảo các văn bản quy định chi tiết là nhiệm vụ không kém phần quan trọng để góp phần nhanh chóng đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, thúc đẩy hệ thống GDĐH phát triển. Sau khi Luật GDDH được ban hành và có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành một số văn bản như: Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDĐH, Nghị định về ĐHQG, Quy chế về Tổ chức và Hoạt động của ĐHQG. Cùng với soạn thảo các văn bản trong Danh mục văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ Giáo dục và đào tạo cũng đang rà soát, điều chỉnh các văn bản hiện hành cho phù hợp với yêu cầu của Luật GDĐH, như: xây dựng khối lượng kiến thức tối thiểu đối với các trình độ đào tạo, ngành đào tạo để thay thế cho các chương trình khung trước đây; xây dựng Nghị định về phân tầng và xếp hạng để trình Chính phủ. Các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đã và đang xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện. Mặc dù Luật GDĐH đã có hiệu lực hơn một năm, song do việc xây dựng các văn bản Luật GDĐH chưa đầy đủ nên các cơ sở GDĐH và cơ quan quản lý nhà nước về GDĐH vẫn còn chờ những văn bản hướng dẫn hoặc quy định chi tiết để triển khai thực hiện

pdf9 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 95 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật giáo dục Đại học năm 2012 cơ sở pháp lý để đổi mới giáo dục Đại học Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
51NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 12 (268) T6/2014 LUÊÅT GIAÁO DUÅC ÀAÅI HOÅC NÙM 2012 CÚ SÚÃ PHAÁP LYÁ ÀÏÍ ÀÖÍI MÚÁI GIAÁO DUÅC ÀAÅI HOÅC VIÏåT NAM ĐỖ ĐỨC MINH* Luật Giáo dục đại học (GDĐH) được Quốc hội thông qua ngày 18/6/2012 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Luật gồm 12 chương, 73 điều; quy định chi tiết, cụ thể các chính sách phát triển GDĐH, tổ chức và hoạt động của cơ sở GDĐH. Ngày 24/10/2013, Chính phủ ban hành Nghị định 141/2013/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDĐH. Việc ban hành Luật GDĐH và Nghị định hướng dẫn thi hành là sự kiện có ý nghĩa quan trọng nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý, nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động giáo dục, đổi mới quản lý GDĐH, tạo điều kiện cho sự nghiệp giáo dục phát triển mạnh mẽ hơn. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 1. Những điểm mới của Luật Giáo dục đại học 2012 Luật GDĐH nhằm mục tiêu thể chế hóa các chủ trương chính sách của Đảng về giáo dục, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động GDĐH để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chuẩn bị nhân lực cho phát triển nền kinh tế tri thức. Để đạt được mục tiêu trên, Luật GDĐH quy định nhiều nội dung mới, trong đó có quy định về Phân tầng cơ sở GDĐH, Xã hội hóa GDĐH, Quyền tự chủ của cơ sở GDĐH và Kiểm soát chất lượng đào tạo. 1.1. Phân tầng cơ sở GDĐH (Điều 9, Luật GDĐH) Việc phân tầng nhằm đánh giá uy tín, chất lượng đào tạo; phục vụ công tác quản lý nhà nước và ưu tiên đầu tư ngân sách nhà nước. Các cơ sở GDĐH sẽ được phân tầng, xếp hạng dựa trên các tiêu chí chính như: vị trí, vai trò trong hệ thống GDĐH; quy mô, ngành nghề và trình độ đào tạo, cơ cấu các hoạt động đào tạo và khoa học công nghệ, chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học. Phân tầng cơ sở GDĐH còn nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; thực hiện xếp hạng các cơ sở GDĐH để đánh giá uy tín và chất lượng đào tạo phục vụ quản lý nhà nước và ưu tiên đầu tư về ngân sách. Việc xếp loại các trường đại học sẽ làm cho đầu tư của Nhà nước và xã hội cho các trường đại học hiệu quả, các trường đại học lựa chọn, xác định được chính xác nhu cầu xã hội và mục tiêu đào tạo của nhà trường hơn, sinh viên cũng dễ dàng lựa chọn trường đại học phù hợp để theo học. Thực hiện Luật GDĐH, hệ thống các cơ sở GDĐH của nước ta sẽ được phân tầng * TS, Ban Thanh tra và Pháp chế, Đại học Quốc gia Hà Nội. THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT thành các cơ sở GDĐH định hướng nghiên cứu, các cơ sở GDĐH định hướng ứng dụng và cơ sở GDĐH định hướng thực hành (nghề nghiệp). Như vậy, mỗi một loại hình trường có mục tiêu đào tạo khác nhau và mức độ đầu tư cũng khác nhau. Sự phân tầng cơ sở GDĐH nhằm tránh việc đầu tư dàn trải và tạo điều kiện đào tạo đội ngũ nhân lực hài hòa theo nhu cầu của xã hội. Khoản 1 Điều 9 của Luật quy định: “Cơ sở GDĐH được phân tầng nhằm phục vụ công tác quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng kế hoạch đầu tư phát triển, nâng cao năng lực đào tạo và nghiên cứu khoa học của cơ sở GDĐH; thực hiện quản lý nhà nước”. Để từng bước thực hiện phân tầng cơ sở GDĐH, Khoản 2 Điều 12 của Luật quy định: “Tăng ngân sách nhà nước đầu tư cho GDĐH; đầu tư có trọng điểm để hình thành một số cơ sở GDĐH chất lượng cao, theo định hướng nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học cơ bản, các ngành công nghệ cao và ngành kinh tế - xã hội then chốt đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới”. 1.2. Xã hội hóa GDĐH Xã hội hóa giáo dục là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, chủ trương này đã được quy định trong Luật Giáo dục và tiếp tục được cụ thể hóa trong Luật GDĐH. Theo đó “Thực hiện xã hội hóa GDĐH; ưu tiên về đất đai, thuế, tín dụng, đào tạo cán bộ để khuyến khích các cơ sở GDĐH tư thục và cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động không vì lợi nhuận; ưu tiên cho phép thành lập cơ sở GDĐH tư thục có vốn đầu tư lớn, bảo đảm các điều kiện thành lập theo quy định của pháp luật; cấm lợi dụng các hoạt động GDĐH vì mục đích vụ lợi” (Khoản 3 Điều 12). Để tránh tình trạng một sơ sở GDĐH nào đó muốn lợi dụng danh nghĩa không vì lợi nhuận để mưu cầu lợi nhuận, Khoản 3 Điều 66 về quản lý tài chính của cơ sở GDĐH đã quy định: “Phần tài chính chênh lệch giữa thu và chi từ hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học của cơ sở giáo dục tư thục được sử dụng như sau: a/ Dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển cơ sở GDĐH, cho các hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập sinh hoạt của người học hoặc cho cá mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội. Phần này được miễn thuế; b/ Phần còn lại, nếu phân phối cho các nhà đầu tư và người lao động của cơ sở GDĐH thì phải nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế”. Mặt khác, để đảm bảo sự phát triển bền vững của nhà trường, Luật GDĐH quy định giá trị tài sản tích lũy được trong quá trình hoạt động của cơ sở GDĐH tư thục và giá trị của tài sản được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng cho cơ sở GDĐH tư thục là tài sản chung không chia, được quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển. Tài sản và đất đai Nhà nước giao cho cơ sở GDĐH tư thục quản lý và tài sản cơ sở GDĐH tư thục được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng phải được sử dụng đúng mục đích và không được chuyển thành sở hữu tư nhân dưới bất cứ hình thức nào; Nhà nước dựa vào việc sử dụng phần tài chính chênh lệch giữa thu chi và tài chính trong hoạt động của nhà trường để có chính sách phù hợp. Với quy định đó, Nhà nước không cấm các cơ sở GDĐH hoạt động vì lợi nhuận hợp lý, đồng thời có chính sách phù hợp, khuyến khích đối với cơ sở GDĐH hoạt động không vì lợi nhuận. 1.3. Quyền tự chủ của cơ sở GDĐH Triết lý chính và tư tưởng được thể hiện nhất quán, xuyên suốt trong các quy định của Luật GDĐH là trao quyền tự chủ phù hợp với năng lực thực hiện của các cơ sở GDĐH, theo sự phân tầng, xếp hạng đại học. Khẳng định quyền tự chủ là một thuộc tính của cơ sở GDĐH, Luật GDĐH đã trao quyền tự chủ ở mức tối đa phù hợp với năng lực tự chủ và điều kiện đảm bảo thực hiện quyền tự chủ của các cơ sở GDĐH. Cụ thể là, các cơ sở GDĐH được tự chủ trong các hoạt động chủ yếu thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP52 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT bảo đảm chất lượng GDĐH; tự chủ quyết định phương thức tuyển sinh, chịu trách nhiệm về công tác tuyển sinh; chịu trách nhiệm công bố công khai chỉ tiêu tuyển sinh, chất lượng đào tạo và các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo; tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc xây dựng, thẩm định, ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ... Việc công khai các thông tin này một mặt thể hiện sự cam kết về chất lượng đào tạo của nhà trường, mặt khác, để các lực lượng xã hội tham gia giám sát thực hiện chất lượng đào tạo của nhà trường. Đồng thời, để gắn chất lượng đào tạo với tên tuổi của nhà trường, Luật quy định cơ sở GDĐH được tự chủ xác định và thực hiện chỉ tiêu tuyển sinh, xây dựng và thực hiện chương trình giáo dục, đánh giá kết quả học tập và công nhận tốt nghiệp, in phôi văn bằng, cấp văn bằng cho người học. Việc trao quyền tự chủ gắn với cam kết chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH, trên cơ sở phân tầng và lộ trình thích hợp. Tự chủ để đảm bảo sự năng động sáng tạo nhưng phải công khai, được kiểm soát chặt chẽ, đồng thời đảm bảo quyền lợi của người học. Cơ sở GDĐH thực hiện quyền tự chủ ở mức độ cao hơn phù hợp với năng lực, kết quả xếp hạng và kết quả kiểm định chất lượng giáo dục. Luật cũng quy định: cơ sở GDĐH không còn đủ năng lực thực hiện quyền tự chủ hoặc vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện quyền tự chủ, tùy thuộc mức độ, bị xử lý theo quy định của pháp luật. Điều 16 Luật GDĐH bổ sung quy định cụ thể hơn về hội đồng trường đối với cơ sở GDĐH công lập so với quy định tại Điều 53 của Luật Giáo dục để phù hợp hơn với thực tiễn GDĐH Việt Nam. Hội đồng trường là thiết chế không thể thiếu để giao quyền tự chủ cho các trường. Hoạt động của hội đồng trường tạo ra cơ chế kiểm soát quyền lực, giám sát hoạt động điều hành của người đứng đầu cơ sở, tránh tình trạng độc đoán, mất dân chủ. 1.4. Kiểm soát chất lượng đào tạo Luật GDĐH đã đưa vào những điều khoản kiểm soát chất lượng đào tạo trong suốt quá trình sinh viên học tập tại trường. Thay vì quy định chương trình khung như trước đây, Luật quy định về chuẩn tối thiểu kiến thức, kỹ năng tại Khoản 3 Điều 36 như sau: “Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định khối lượng kiến thức tối thiểu, yêu cầu về năng lực mà người học đạt được sau khi tốt nghiệp đối với mỗi trình độ đào tạo của GDĐH; quy định xây dựng, thẩm định và ban hành chương trình đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ...”. Theo Luật GDĐH, kiểm định chất lượng là bắt buộc đối với các cơ sở GDĐH để thực hiện quyền tự chủ. Trên cơ sở kết quả kiểm định chất lượng, các cơ sở GDĐH sẽ được xếp hạng theo những tiêu chí được các cấp có thẩm quyền quy định. Để khuyến khích các cơ sở GDĐH huy động nguồn lực đầu tư cho các điều kiện đảm bảo chất lượng, cạnh tranh nâng cao chất lượng đào tạo, đảm bảo hài hòa cơ cấu nhân lực, nâng cao tính cạnh tranh của sinh viên Việt Nam trong khu vực và trên thế giới, Khoản 6 Điều 65 Luật GDĐH quy định: “Cơ sở GDĐH thực hiện chương trình đào tạo chất lượng cao được thu học phí tương xứng với chất lượng đào tạo”. 1.5. Một số quy định khác Ngoài những nội dung mới cơ bản trên, Luật GDĐH cũng chính thức ghi nhận, làm rõ mô hình Đại học Quốc gia (ĐHQG) nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các mô hình này phát triển đúng với tiềm năng và kỳ vọng. Đây là lần đầu tiên mô hình ĐHQG được chính thức đưa vào các văn bản luật do Quốc hội ban hành. Điều 2 Luật GDĐH nêu rõ: ĐHQG thuộc đối tượng áp dụng của Luật, Điều 7 của Luật cũng xác định ĐHQG là cơ sở GDĐH trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đặc biệt, Luật GDĐH đã dành riêng toàn bộ Điều 8 quy định về địa vị pháp lý của ĐHQG. Cơ cấu tổ chức của ĐHQG, Hội đồng ĐHQG, nhiệm vụ và quyền hạn của ĐHQG cũng luật hóa. Điều 15 của Luật quy định về cơ cấu của ĐHQG gồm Hội đồng ĐHQG, Ban Giám đốc, Văn phòng, các Ban chức năng, các đơn vị thành viên, các đơn vị trực thuộc, phục vụ, Hội đồng tư Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 53 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT vấn... Điều 18 quy định những nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng đại học (gồm cả Hội đồng ĐHQG) như: “Phê duyệt chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của đại học; Quyết nghị về phương hướng hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng giáo dục; Quyết nghị về cơ cấu tổ chức và phương hướng đầu tư phát triển của đại học; Quyết nghị về việc thành lập, giải thể, sáp nhập, chia, tách các tổ chức quy định tại khoản 3, 5, 6, 7 Điều 15 của Luật này; thông qua đề án thành lập, giải thể, sáp nhập, chia, tách các tổ chức quy định tại khoản 4 Điều 15 của Luật này; Giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng đại học, việc thực hiện quy chế dân chủ trong các hoạt động của đại học”. Ngoài quy định chung về cơ cấu, thành phần của Hội đồng tại Điều 18, Khoản 2 Điều 8 quy định rõ: “Chủ tịch Hội đồng ĐHQG... do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm”. Đây là một điểm mới so với quy định hiện hành về Hội đồng ĐHQG trong Quyết định số 16/2001/QĐ- TTg ban hành Quy chế Tổ chức và Hoạt động của ĐHQG. Khoản 2, Điều 29 ghi: “Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của ĐHQG và các cơ sở GDĐH thành viên; Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của đại học vùng và các cơ sở GDĐH thành viên”. Bên cạnh quyền tự chủ chung đối với các cơ sở GDĐH khác, Luật cũng quy định ĐHQG quyền tự chủ cao trong các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế. Ngoài quy định chung về quyền tự chủ cao tại Khoản 2 Điều 8; điểm đ, khoản 1 Điều 29, Luật cũng có một số quy định cụ thể. Khoản 2, Điều 33 quy định: “ĐHQG, các cơ sở GDĐH đạt chuẩn quốc gia được tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc mở ngành đào tạo trình độ cao đẳng, đại học, ngành hoặc chuyên ngành đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ trong danh mục ngành, chuyên ngành đào tạo đã được phê duyệt thuộc lĩnh vực đào tạo của nhà trường khi có đủ năng lực đáp ứng các điều kiện theo quy định”. Khoản 2 Điều 45 quy định “Giám đốc đại học phê duyệt chương trình liên kết đào tạo với nước ngoài trình độ cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ tổ chức tại đại học”. Ngày 17/11/2013, Chính phủ ban hành Nghị định số 186/2013/NĐ-CP về ĐHQG, gồm 7 điều; áp dụng đối với ĐHQG Hà Nội, ĐHQG TP. Hồ Chí Minh, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan đến quản lý và hoạt động của ĐHQG. Theo đó, ĐHQG là tổ hợp các trường đại học, viện nghiên cứu, trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học, công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao, được Nhà nước ưu tiên đầu tư phát triển. ĐHQG chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và đào tạo về giáo dục và đào tạo, của Bộ Khoa học và Công nghệ về khoa học và công nghệ, của các bộ, ngành khác và UBND cấp tỉnh nơi ĐHQG đặt trụ sở trong lĩnh vực được phân công theo quy định của Chính phủ và phù hợp với pháp luật. ĐHQG có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế theo quy định của pháp luật; đào tạo, bồi dưỡng nhân tài khoa học; chuyển giao tri thức và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế. Đồng thời, nghiên cứu, cung cấp luận cứ khoa học nhằm góp phần xây dựng các định hướng, chủ trương, chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đề xuất và thực hiện các chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm quốc gia theo quy định. ĐHQG được quyền tự chủ cao trong các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học, tài chính, quan hệ quốc tế và tổ chức bộ máy theo Quy chế tổ chức và hoạt động của ĐHQG và các cơ sở GDDH thành viên và có cơ chế tài chính đặc thù do Thủ tướng Chính phủ quy định. ĐHQG được thí điểm mở các ngành, chuyên ngành đào tạo mới, ngoài danh mục các ngành, chuyên ngành đào tạo đã được quy định, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và thực hiện trên cơ sở có đủ các điều kiện theo quy định; báo cáo Bộ Giáo dục và đào tạo theo dõi, kiểm tra; được làm việc trực tiếp với các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Khi cần thiết, Giám đốc Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP54 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT ĐHQG báo cáo Thủ tướng Chính phủ về những vấn đề liên quan đến hoạt động và phát triển của ĐHQG. Thành viên Hội đồng ĐHQG gồm: Giám đốc, các Phó Giám đốc; Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Công đoàn, Bí thư Đoàn TNCS Hồ Chí Minh của ĐHQG; Hiệu trưởng các trường đại học thành viên; Viện trưởng các Viện nghiên cứu khoa học thành viên; đại diện cơ quan quản lý nhà nước; một số thành viên hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, công nghệ, sản xuất, kinh doanh. Nhiệm kỳ của Hội đồng ĐHQG là 5 năm và theo nhiệm kỳ của Giám đốc ĐHQG. Hội đồng ĐHQG làm việc theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số. Tiếp theo, ngày 26/3/2014 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 26/2014/QĐ-TTg ban hành Quy chế Tổ chức và hoạt động của ĐHQG (ĐHQG Hà Nội và ĐHQG TP. Hồ Chí Minh) và các cơ sở GDĐH thành viên. Quy chế có 8 chương, 30 điều, bao gồm các nội dung: tổ chức và nhân sự, hoạt động đào tạo, khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế, đảm bảo chất lượng giáo dục, tài chính, tài sản, mối quan hệ công tác, chế độ thông tin, báo cáo và thanh tra, kiểm tra. Theo Điều 2 của Quy chế, ĐHQG là cơ sở GDĐH có các đơn vị thành viên thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau, tổ chức theo hai cấp, đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ; có cơ cấu đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao, trong đó tập trung vào lĩnh vực khoa học, công nghệ cao và một số lĩnh vực kinh tế - xã hội mũi nhọn. Quy chế đã cụ thể hóa rất nhiều quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ĐHQG cũng như các trường đại học, viện nghiên cứu khoa học thành viên1. Luật GDĐH dành chương VIII gồm 5 điều (từ Điều 54 đến Điều 58) đề cập tới các vấn đề có liên quan đến giảng viên đại học; có nhiều điều, khoản mới quy định về chức danh của giảng viên trong cơ sở GDĐH (gồm các chức danh: trợ giảng, giảng viên, giảng viên chính, phó giáo sư, giáo sư2); quy định trình độ chuẩn của chức danh giảng viên giảng dạy trình độ đại học (từ thạc sĩ trở lên); quy định cấp có thẩm quyền ban hành chuẩn quốc gia của cơ sở GDĐH; quyền và nghĩa vụ của giảng viên, người học; quy định về công tác quản lý nhà nước về GDĐH và công tác thanh tra, kiểm tra. Để huy động đội ngũ giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và học vị tiến sĩ đến tuổi nghỉ chế độ, Luật GDĐH cũng quy định việc kéo dài thời gian giảng dạy và nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên này. Điều 55 nêu quy định, yêu cầu về nhân thân, phẩm chất đạo đức, điều kiện sức khỏe, các chức danh và trình độ chuyên môn chuẩn của giảng viên trong các cơ sở GDĐH, như: quy định những “nhiệm vụ và quyền hạn của giảng viên” về giảng dạy, nghiên cứu, học tập, bồi dưỡng. Giảng viên phải có trình độ thạc sĩ trở lên, trường hợp đặc biệt ở một số chuyên ngành chuyên môn đặc thù sẽ do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo quy định; những qui tắc đạo đức mà các giảng viên phải tuân theo, như: “giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự” của mình đồng thời “tôn trọng nhân cách và đối xử công bằng với người học cũng như bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của người học”. Điều này cũng nêu rõ vai trò và quyền của giảng viên trong việc tham gia vào công tác quản lý, giám sát các hoạt động của cơ sở GDĐH. Theo đó, giảng viên có quyền “tham gia quản lý và giám sát hoạt động của cơ sở GDĐH và tham gia các công tác Đảng, đoàn thể và công tác khác”; “được ký hợp đồng thỉnh giảng và nghiên cứu khoa học với các cơ sở GDĐH, cơ sở nghiên cứu khoa học theo quy định của pháp luật”. Điều 56 về “Chính sách đối với giảng viên” quy định về các chính sách đối với giảng viên. Theo đó giảng viên được nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và các ưu đãi khác như phụ cấp, về chỗ 1 Quyết định số 26/2014/QĐ-TTg ngày 26/3/2014 có hiệu lực kể từ ngày 20/5/2014 và thay thế Quyết định số 16/2001/QĐ- TTg do Thủ tướng Chính phủ ký ngày 12/02/2001 về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của ĐHQG. 2 Việc quy định giảng viên đại học gồm 5 chức danh sẽ tạo cơ hội để xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên và thể hiện chính sách của Nhà nước đối với đội ngũ giảng viên. Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 55 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT ở cho giảng viên ở các vùng có điều kiện khó khăn theo các quy định của Chính phủ. Đặc biệt, Khoản 4, Điều 56 quy định “Giảng viên có trình độ tiến sĩ, giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư công tác trong cơ sở GDĐH có thể kéo dài thời gian làm việc kể từ khi đủ tuổi nghỉ hưu để giảng dạy, nghiên cứu khoa học, nếu có đủ sức khỏe, tự nguyện kéo dài thời gian làm việc, đồng thời cơ sở GDĐH có nhu cầu”. Đây là quy định mới, vì việc kéo dài thời gian làm việc cho giảng viên không chỉ dành riêng cho những giảng viên có chức danh từ phó giáo sư trở lên như hiện nay mà còn cả cho những giảng viên có trình độ tiến sĩ. Điều 58 quy định về “Các hành vi giảng viên không được làm” như: xúc phạm danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể người học và người khác; gian lận trong hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học; lợi dụng danh hiệu nhà giáo và hoạt động giáo dục để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Để Luật GDĐH thực sự đi vào cuộc sống, thúc đẩy hệ thống GDDH phát triển, Chính phủ đã ban hành Nghị định 141/2013/NĐ-CP ngày 24/10/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDĐH, có hiệu lực thi hành từ ngày 10/12/2013. Đây là văn bản dưới luật quan trọng nhất cụ thể hóa một số quy định của Luật làm cơ sở cho việc thi hành Luật. Nghị định đã quy định cụ thể chính sách đối với giảng viên, hướng dẫn khá chi tiết chính sách đối với giảng viên và việc kéo dài thời gian làm việc đối với giảng viên đủ tuổi nghỉ hưu. Theo đó, hệ thống chức danh và tiêu chuẩn các chức danh giảng viên được làm căn cứ để xếp hạng chức danh nghề nghiệp và thực hiện các chế độ chính sách đối với giảng viên trong các cơ sở GDĐH. Bộ trưởng Bộ Bộ Giáo dục và đào tạo quy định tiêu chuẩn các chức danh giảng viên. Thang, bậc lương đối với giảng viên được quy định cụ thể, có sự phân biệt khác nhau giữa 5 chức danh theo quy định của Luật GDĐH. Chức danh phó giáo sư được xếp hạng I theo phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và hưởng thang, bậc lương tương ứng ngạch chuyên viên cao cấp. Chức danh giáo sư được xếp hạng I theo phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và hưởng thang, bậc lương tương đương chuyên gia cao cấp. Cơ sở GDĐH tư thục và cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài vận dụng quy định hệ thống chính sách tiền lương, phụ cấp và các chính sách khác đối với giảng viên trong các cơ sở GDĐH công lập để thực hiện chế độ chính sách đối với nhà giáo, bảo đảm không thấp hơn tiền lương và phụ cấp của giảng viên trong các cơ sở GDĐH công lập có cùng trình độ đào tạo và thâm niên công tác. Giảng viên có chức danh giáo sư, phó giáo sư và giảng viên có trình độ tiến sĩ đang công tác tại cơ sở GDĐH được kéo dài thời gian làm việc kể từ khi đủ tuổi nghỉ hưu để giảng dạy, nghiên cứu khoa học nếu có các điều kiện như: có đủ sức khỏe, tự nguyện kéo dài thời gian làm việc và cơ sở GDĐH có nhu cầu và chấp nhận. Thời gian kéo dài làm việc đối với giảng viên có trình độ tiến sĩ là không quá 5 năm; đối với giảng viên có chức danh phó giáo sư là không quá 7 năm và đối với giảng viên có chức danh giáo sư là không quá 10 năm. Trong thời gian kéo dài làm việc, người được kéo dài làm việc nêu trên có quyền đề nghị nghỉ làm việc để hưởng chế độ nghỉ hưu theo quy định. Giảng viên trong thời gian làm việc kéo dài được xác định là giảng viên cơ hữu của cơ sở GDĐH; được hưởng lương và các chính sách, chế độ khác theo quy định đối với giảng viên. 2. Ý nghĩa của việc ban hành Luật GDĐH và những vấn đề đặt ra hiện nay a. Luật GDĐH được ban hành nhằm mục tiêu thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục3. Sự ra đời của Luật GDĐH sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất cho sự phát triển của GDĐH và thực hiện các mục tiêu giáo dục, như: đổi mới quản lý nhà nước về GDĐH và đổi mới quản lý của cơ sở giáo dục, nâng cao chất lượng GDĐH, góp phần đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác quản lý giáo dục và cán bộ quản lý GDĐH; đẩy mạnh phân cấp quản lý GDĐH và thực hiện quyền tự chủ, Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP56 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH phù hợp với năng lực quản lý, năng lực tổ chức hoạt động giáo dục và trách nhiệm xã hội; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, huy động các nguồn đầu tư phát triển GDĐH; tạo điều kiện pháp lý để cải tiến mạnh mẽ chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy, đẩy mạnh việc đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục theo hướng khoa học, hiện đại, tiên tiến và thiết thực, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GDĐH hưởng thụ các quyền và thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tham gia các hoạt động xã hội. Căn cứ vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, Luật GDĐH mở đường cho GDĐH có hiệu quả theo xu hướng của thế giới. Luật GDĐH được ban hành cũng tác động mạnh mẽ tới việc xây dựng và ban hành một số chính sách, chế độ đối với đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GDĐH, tạo động lực thu hút, động viên đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý GDĐH toàn tâm toàn ý phục vụ sự nghiệp GDĐH. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực là mục tiêu xuyên suốt và là trục trung tâm của Luật GDĐH. Luật GDĐH ra đời sẽ tác động tới người dạy, người học, tổ chức và cá nhân, công dân và xã hội quan tâm nhiều hơn đến sự nghiệp GDĐH, phát huy truyền thống hiếu học của dân tộc, xây dựng xã hội học tập đồng thời tăng cường kỷ luật, khắc phục bệnh hình thức và các tiêu cực trong GDĐH. Trong bối cảnh GDĐH Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với hệ thống GDĐH khu vực và thế giới, ban hành Luật GDĐH là cần thiết để điều chỉnh các hoạt động GDĐH phù hợp với các cam kết và Điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, quản lý tốt hơn hoạt động hợp tác, đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực GDĐH. Luật GDĐH ra đời góp phần thực hiện quốc sách hàng đầu là phát triển sự nghiệp giáo dục, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, thực hiện mục tiêu của giáo dục là hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đào tạo những người lao động có nghề, năng động và sáng tạo, có niềm tự hào dân tộc, có đạo đức, có ý chí vươn lên góp phần làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Được xây dựng trên tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo, nên khi thực hiện luật GDĐH sẽ có nhiều thay đổi trong hệ thống với mục tiêu là góp phần nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực và chuẩn bị nguồn nhân lực cho nền kinh tế tri thức trong giai đoạn tiếp theo, phù hợp với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. b. Từ đây, GDĐH được đặt trong hệ thống giáo dục quốc dân, thực hiện các quy định của Luật Giáo dục và Luật GDĐH. Luật GDĐH là Luật điều chỉnh một nhóm quan hệ xã hội đặc thù trong lĩnh vực giáo dục, đồng bộ với Luật Giáo dục, góp phần hoàn thiện pháp luật về giáo dục trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật GDĐH quy định chi tiết những nội dung về GDĐH mà Luật Giáo dục đã quy định nhưng còn mang tính chất là luật khung. Những quy định trong Luật Giáo dục đã cụ thể thì được dẫn chiếu trong Luật GDĐH nếu thực sự cần thiết. Một số quy định của Luật Giáo dục liên quan đến GDĐH được bổ sung cho phù hợp với điều kiện thực tiễn GDĐH Việt Nam và xu thế phát triển của GDĐH trên thế giới. Nhiều vấn đề quan trọng của GDĐH được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ trưởng các Bộ, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ ban hành, cần được điều chỉnh bằng một số văn bản quy phạm pháp luật có 3 Cụ thể là Nghị quyết hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục và đào tạo, Kết luận Hội nghị Trung ương 6 (khóa IX), Thông báo số 242/TB-TW thông báo kết luận của Bộ Chính trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo đến năm 2020, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI. Những tư tưởng, chủ trương của Đảng và Nhà nước được thể hiện qua những điều, khoản nằm ở các chương mục khác nhau nhằm xử lý những vấn đề lớn của hoạt động GDĐH. Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 57 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT giá trị pháp lý cao hơn, pháp điển hóa các quy định còn phân tán trong các văn bản dưới luật thành quy định của Luật GDĐH. Luật GDĐH là luật chuyên ngành đầu tiên quy định về tổ chức, hoạt động GDĐH, cụ thể hóa các quy định khung của Luật Giáo dục về GDĐH. Luật GDĐH nâng các quy định tại các văn bản dưới luật (nghị quyết của Quốc hội; nghị định, nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ) đã được thực tiễn kiểm nghiệm và mang tính ổn định thành các nội dung của Luật GDĐH4. Một số nội dung quy định tại Luật Giáo dục đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật GDĐH và những vấn đề chưa được quy định hoặc quy định chưa rõ trong Luật Giáo dục cũng được quy định mới, cụ thể hơn trong Luật GDĐH5. Điều đó đã đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc luật hóa chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về GDĐH nói chung và về ĐHQG nói riêng, hướng tới xây dựng một nền giáo dục Việt Nam hiện đại. c. Luật GDĐH được xây dựng trên quan điểm thực tiễn, quan điểm toàn diện và quan điểm phát triển, góp phần giải quyết những vấn đề bức xúc mà thực tiễn GDĐH đang đặt ra và thực hiện những mục tiêu chiến lược của GDĐH; xử lý những vấn đề quan trọng trong GDĐH mà cho tới nay chưa có văn bản pháp quy nào hoặc có văn bản nhưng chưa đủ để áp dụng một cách có hiệu quả. Luật GDĐH được kỳ vọng sẽ khắc phục nhiều vấn đề cơ bản, cấp bách và tác động tích cực để đổi mới hệ thống GDĐH, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước. Theo đó, GDĐH không chỉ tập trung đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài mà phải đặc biệt coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Mạng lưới các cơ sở GDĐH, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phải phù hợp với quy hoạch phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Phát triển GDĐH phải gắn với tiến bộ khoa học và công nghệ, phù hợp với quy luật khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo (trong đó có GDĐH) từ chủ yếu theo số lượng sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng cơ sở vật chất một số trường đại học, ngành đào tạo trọng điểm, trường sư phạm. Tập trung đầu tư hạ tầng công nghệ thông tin của các trường đại học, nâng cao ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy và học tập, lấy trọng tâm là thư viện, tạo lập hệ thống thư viện dùng chung, chia sẻ dữ liệu trong hệ thống. Đẩy mạnh phân cấp quản lý GDĐH và thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH phù hợp với năng lực quản lý, năng lực tổ chức hoạt động giáo dục và trách nhiệm xã hội. Đẩy mạnh xã hội hóa GDĐH, huy động các nguồn đầu tư cho GDĐH, khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo, lựa chọn các dự án đầu tư để khuyến khích đầu tư theo hình thức hợp tác công - tư (PPP). Quyền tự chủ của cơ sở GDĐH là vấn đề Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP58 4 Đó là các quy định về: 1/ Thành lập GDĐH quy định tại Nghị quyết số 50/2010/QH12 ngày 19/6/2010 của Quốc hội khóa XII về việc thực hiện chính sách, pháp luật về thành lập trường, đầu tư và bảo đảm chất lượng đào tạo đối với GDĐH; 2/ Quy hoạch mạng lưới cơ sở GDĐH quy định tại Khoản 1 Điều 17 Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; 3/ Cơ cấu tổ chức cơ sở GDĐH quy định tại Điều 25 Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02/8/2006 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giáo dục; 4/ Nhiệm vụ và quyền hạn của trường đại học quy định tại Điều 5, Chương II Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học; Vấn đề mở ngành đào tạo quy định tại Điều 9 Chương III Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học; Vấn đề tuyển sinh quy định tại Điều 11 Chương III Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học; 6/ Vấn đề nhiệm vụ của giảng viên quy định tại Điều 25 và quyền của giảng viên quy định tại Điều 26 Chương VI Quyết định số 58/2010/QĐ-TTg ngày 22/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ trường đại học. 5 Như: Chính sách của Nhà nước về phát triển GDĐH, Về quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH; Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của đại học, đại học quốc gia; vấn đề lợi nhuận và không vì lợi nhuận; học phí và chất lượng đào tạo; chính sách đối với giảng viên; có những nội dung quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ sở GDĐH có vốn đầu tư nước ngoài; Về thanh tra, kiểm tra THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT được thể hiện nhất quán và xuyên suốt trong các quy định của Luật và được quy định cụ thể tại các điều, khoản của Luật. Việc giao quyền tự chủ cho cơ sở GDĐH là đòi hỏi của thực tiễn khách quan, phù hợp xu thế phát triển của giáo dục hiện đại nhằm phát huy tính dân chủ, năng động, sáng tạo của cơ sở GDÐH và là động lực khuyến khích các cơ sở GDĐH phấn đấu vươn lên; đồng thời là một trong những giải pháp nâng cao chất lượng GDĐH, đưa GDDH Việt Nam nhanh chóng tiếp cận trình độ quốc tế. Theo đó, quyền tự chủ của cơ sở GDĐH được quy định tương ứng với năng lực và điều kiện đảm bảo quyền tự chủ, đi kèm với tự chịu trách nhiệm của cơ sở GDĐH. Nhằm tăng cường trách nhiệm của cơ sở GDĐH trong việc bảo đảm tương quan giữa phát triển quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo, luật quy định cơ sở GDĐH tự chủ xác định chỉ tiêu tuyển sinh và chịu trách nhiệm công bố công khai về chỉ tiêu tuyển sinh, ngành và chuyên ngành đào tạo, chuẩn đầu ra và các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo, học phí và các thông tin quan trọng khác liên quan đến tổ chức đào tạo. Việc công khai các thông tin này thể hiện sự cam kết về chất lượng đào tạo của nhà trường đồng thời để các lực lượng xã hội tham gia giám sát thực hiện chất lượng đào tạo của nhà trường. Để gắn chất lượng đào tạo với tên tuổi của nhà trường, Luật cũng quy định cơ sở GDĐH được tự chủ in phôi văn bằng, cấp văn bằng cho người học. Việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các trường cũng là để Bộ Giáo dục và đào tạo trở về đúng chức năng của cơ quan quản lý nhà nước. Xã hội hóa giáo dục là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, chủ trương này đã được quy định trong Luật Giáo dục và tiếp tục được cụ thể hóa trong Luật GDĐH. Luật GDĐH cũng đưa vào những điều khoản kiểm soát chất lượng đào tạo trong suốt quá trình sinh viên học tập tại trường. Thay vì quy định chương trình khung như trước đây, Luật quy định về chuẩn tối thiểu kiến thức, kỹ năng (tại Khoản 3 Điều 36). Song song với việc thiết lập các tiêu chí đảm bảo chất lượng đào tạo, Luật quy định kiểm định chất lượng là bắt buộc đối với các cơ sở GDĐH để thực hiện quyền tự chủ và đưa ra khung pháp lý của việc tổ chức, hoạt động công tác kiểm định chất lượng giáo dục. Trên cơ sở kết quả kiểm định chất lượng, các cơ sở GDĐH sẽ được xếp hạng theo những tiêu chí được các cấp có thẩm quyền quy định. Đây là lần đầu cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở GDÐH được thể chế hóa thành luật. Có thể nói, nếu chính sách xã hội hóa giáo dục góp phần quan trọng tăng đầu tư cho giáo dục từ các nguồn lực xã hội, thì việc giao quyền tự chủ cho các cơ sở giáo dục sẽ xác lập một cơ chế quản lý năng động, tạo điều kiện thông thoáng cho hoạt động giáo dục vận hành với chất lượng, hiệu quả cao hơn. d. Luật GDĐH chính thức có hiệu lực thi hành sẽ là bước đổi mới căn bản để nâng cao chất lượng đào tạo đại học. Tuy nhiên, sau khi Luật GDĐH được ban hành và có hiệu lực, việc soạn thảo các văn bản quy định chi tiết là nhiệm vụ không kém phần quan trọng để góp phần nhanh chóng đưa các quy định của Luật đi vào cuộc sống, thúc đẩy hệ thống GDĐH phát triển. Sau khi Luật GDDH được ban hành và có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành một số văn bản như: Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật GDĐH, Nghị định về ĐHQG, Quy chế về Tổ chức và Hoạt động của ĐHQG... Cùng với soạn thảo các văn bản trong Danh mục văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ Giáo dục và đào tạo cũng đang rà soát, điều chỉnh các văn bản hiện hành cho phù hợp với yêu cầu của Luật GDĐH, như: xây dựng khối lượng kiến thức tối thiểu đối với các trình độ đào tạo, ngành đào tạo để thay thế cho các chương trình khung trước đây; xây dựng Nghị định về phân tầng và xếp hạng để trình Chính phủ... Các cơ quan quản lý nhà nước liên quan đã và đang xây dựng các văn bản hướng dẫn thực hiện. Mặc dù Luật GDĐH đã có hiệu lực hơn một năm, song do việc xây dựng các văn bản Luật GDĐH chưa đầy đủ nên các cơ sở GDĐH và cơ quan quản lý nhà nước về GDĐH vẫn còn chờ những văn bản hướng dẫn hoặc quy định chi tiết để triển khai thực hiện n Söë 12 (268) T6/2014 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP 59

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluat_giao_duc_dai_hoc_nam_2012_co_so_phap_ly_de_doi_moi_giao.pdf
Tài liệu liên quan