* Tăng cường sự phối hợp trong công tác
lập quy hoạch, tổ chức thực hiện đối với giao
thông đô thị và quy hoạch phát triển đô thị giữa
các Bộ, ngành và địa phương.
* Huy động và kêu gọi đầu tư của các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm tạo
nguồn vốn để thực hiện đầu tư hạ tầng, phương
tiện vận tải đô thị. Tập trung áp dụng các ứng
dụng công nghệ mới trong quản lý và phát triển
giao thông đô thị.
* Xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống giao
thông cộng cộng đồng bộ, trong đó nhất thiết phải
xây dựng quy hoạch hệ thống xe buýt, đường sắt đô
thị gắn liền với quy hoạch phát triển đô thị.
* Tăng cường phối hợp và tổ chức đào tạo
nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng lực quản lý,
năng lực ứng dụng khoa học kỹ thuật trong phát
triển giao thông đô thị bền vững. Tăng cường công
tác học tập các nước trong và ngoài khu vực về các
lĩnh vực phát triển giao thông đô thị bền vững.
Để phát triển hệ thống giao thông đô thị bền
vững cần giải quyết đồng bộ các thách thức hiện
tại về hạ tầng giao thông, tổ chức quản lý, con
người và môi trường
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật giao thông đường bộ năm 2008 hành lang pháp lý cho sự phát triển bền vững của giao thông vận tải đường bộ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Chuyển đổi mô hình tổ chức hoạt động
của Viện khoa học và công nghệ GTVT sang loại
hình doanh nghiệp. Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Bùi
Thị Thu Hương.
[2]. Luật Khoa học và Công nghệ, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2003.
[3]. Luật Doanh nghiệp.
[4]. Nghị định 115/2005/NĐ-CP của Chính
phủ quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm
của tổ chức khoa học và công nghệ nhà nước
ngày 05/09/2005.
[5]. Nghị định 80/2007/NĐ-CP về doanh
nghiệp khoa học và công nghệ.
[6]. Nghị định 96/2010/NĐ-CP sửa đổi bổ
sung một số điều của Nghị định 115/2005/NĐ-CP
quy định cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của
tổ chức KHCN công lập và Nghị định số
80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KHCN.
[6]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, X.
LUẬT GIAO THÔNG ĐƢỜNG BỘ NĂM 2008 HÀNH LANG
PHÁP LÝ CHO SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CỦA GIAO
THÔNG VẬN TẢI ĐƢỜNG BỘ
TS. Trịnh Minh Hiền
Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ GTVT
CNL. Nguyễn Thị Kiều Nguyệt
Vụ Pháp chế Bộ GTVT
oạt động giao thông vận tải nói chung và
giao thông vận tải đường bộ nói riêng có ý
nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã
hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước
và mở rộng giao lưu quốc tế. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã viết “Giao thông là mạch máu của tổ
chức, giao thông tốt thì các việc đều dễ dàng,
giao thông xấu thì các việc đình trệ”.
Cùng với sự phát triển của đất nước, sự đa
dạng của các hoạt động trong lĩnh vực giao
thông đường bộ và trước yêu cầu cấp thiết trong
công tác quản lý nhà nước, tổ chức quản lý hoạt
động giao thông đường bộ, năm 2001, Luật Giao
thông đường bộ được Quốc hội khoá X kỳ họp
thứ 9 thông qua. Đây là Luật đầu tiên trong lĩnh
vực giao thông đường bộ tại Việt Nam. Luật
được xây dựng với mục tiêu tăng cường hiệu lực
quản lý nhà nước, đề cao ý thức trách nhiệm của
cơ quan, tổ chức, cá nhân, thể hiện chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước là xây dựng
và tổ chức quản lý hoạt động giao thông đường
bộ thông suốt, an toàn, thuận lợi, từng bước
phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Sau khi Luật có hiệu lực,
Chính phủ, Bộ Giao thông Vận tải và các Bộ,
ngành đã ban hành nhiều văn bản quy phạm
pháp luật để hướng dẫn thực hiện. Trong 6 năm,
từ năm 2001 đến năm 2007, đã có 190 văn bản
được ban hành, trong đó Chính phủ ban hành 14
Nghị định và 02 Nghị quyết, Thủ tướng Chính
phủ ban hành 09 Quyết định và 05 Chỉ thị; Bộ
Giao thông vận tải ban hành 93 Quyết định, 11
Thông tư và 09 Chỉ thị; Bộ Công an ban hành 10
Quyết định, 13 Thông tư, 02 Chỉ thị; Bộ Tài chính
ban hành 02 Quyết định và 11 Thông tư; Bộ Y tế
ban hành 01 Quyết định và các Bộ ban hành 08
Thông tư liên tịch; Uỷ ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương cũng ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn thực hiện Luật ở địa
phương.
Sau 6 năm thi hành Luật Giao thông đường
bộ năm 2001, bên cạnh những kết quả đã đạt
được vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém, nhất là
trong công tác quản lý nhà nước. Cùng với sự
phát triển của nền kinh tế quốc dân và hệ thống
pháp luật Việt Nam, trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, để Luật phát huy tốt tác dụng, xây dựng
được mạng lưới giao thông hiện đại, tổ chức
giao thông hợp lý, nâng cao ý thức chấp hành
luật của người tham gia giao thông, bảo đảm
giao thông đường bộ luôn an toàn, thông suốt và
phát triển bền vững, Luật Giao thông đường bộ
năm 2001 cần được sửa đổi, bổ sung kịp thời.
Sau gần một năm xây dựng, ngày
13/11/2008, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII đã
thông qua Luật Giao thông đường bộ.
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 bao
gồm 8 Chương với 89 Điều, quy định về quy tắc
giao thông đường bộ; kết cấu hạ tầng giao thông
đường bộ; phương tiện và người tham gia giao
thông đường bộ; vận tải đường bộ và quản lý
nhà nước về giao thông đường bộ và được áp
dụng đối với tổ chức, cá nhân liên quan đến giao
thông đường bộ trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong số 89 Điều chỉ có
03 Điều của Luật Giao thông đường bộ năm
2001 được giữ nguyên (chiếm 3,37%); có 68
Điều bổ sung, sửa đổi (chiếm 76,40%) và 18
H
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
26 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
Điều mới (chiếm 20,23%). Luật Giao thông
đường bộ năm 2008 đã tham khảo nhiều quy
định của Công ước quốc tế về giao thông đường
bộ và pháp luật về giao thông đường bộ của một
số nước trên thế giới.
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 không
chỉ tập trung vào quy tắc giao thông đường bộ
mà còn có nhiều quy định mới điều chỉnh về
quản lý vận tải, phương tiện giao thông đường
bộ, người điều khiển phương tiện tham gia giao
thông đường bộ, đầu tư, xây dựng, khai thác,
bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông.
Luật đã có nhiều quy định mới thể hiện
những quan điểm tiến bộ trong chính sách phát
triển giao thông vận tải như chính sách huy động
các nguồn lực để quản lý, bảo trì đường bộ,
khuyến khích, tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân
Việt Nam và nước ngoài đầu tư, kinh doanh khai
thác kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và
hoạt động vận tải đường bộ; ưu tiên phát triển
vận tải hành khách công cộng; hạn chế sử dụng
phương tiện giao thông cá nhân ở các thành
phố. Trong Luật cũng bổ sung những quy định
chặt chẽ hơn về quy tắc đối với người tham gia
giao thông, đặc biệt là quy định cấm uống rượu,
bia khi lái xe. Đối với lĩnh vực kết cấu hạ tầng
giao thông, quy định cụ thể tỷ lệ đất dành cho
giao thông đường bộ trong các đô thị cũng được
đưa vào Luật, đặc biệt, Luật cũng quy định về
nguyên tắc làm căn cứ lập Quỹ bảo trì đường bộ
tạo sự huy động nguồn lực của xã hội đầu tư cho
quản lý, bảo trì đường bộ. Trong quản lý hoạt
động vận tải, Luật Giao thông đường bộ năm
2008 đã thể hiện quyết tâm của nhà quản lý là
lập lại trật tự trong hoạt động vận tải đường bộ
với nhiều quy định chặt chẽ về điều kiện kinh
doanh vận tải, đặc biệt là vận tải hành khách với
mục tiêu bảo đảm an toàn giao thông, từng bước
xây dựng, phát triển một hệ thống vận tải văn
minh, an toàn, hiện đại. Cho đến tháng 10/2010,
đã có 34 văn bản hướng dẫn thi hành Luật do
Chính phủ và các Bộ ban hành; một số Uỷ ban
nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương cũng đã ban hành nhiều văn bản hướng
dẫn thực hiện Luật ở địa phương.
Có thể nói, với những quy định mới nhằm đáp
ứng sự phát triển của nền kinh tế và hệ thống
phát luật Việt Nam, trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, để xây dựng được mạng lưới giao thông
hiện đại, tổ chức giao thông hợp lý, nâng cao ý
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 27
thức chấp hành luật của người tham gia giao
thông, bảo đảm giao thông đường bộ thông suốt,
an toàn, hiệu quả, Luật Giao thông đường bộ
năm 2008 đã tạo hành lang pháp lý cho sự phát
triển bền vững của giao thông vận tải đường bộ.
Cùng với sự ra đời của Luật Giao thông đường bộ
năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành, hệ
thống pháp luật về giao thông vận tải đường bộ của
Việt Nam đã được phát triển thêm một bước mới.
Xin mượn lời của Bộ trưởng Bộ GTVT Hồ Nghĩa
Dũng tại Hội nghị tổng kết công tác xây dựng và
phổ biến Luật Giao thông đường bộ năm 2008
thay cho lời kết bài viết này: “Còn phải một thời
gian dài nữa mới có thể đánh giá được sự thành
công của một Dự án Luật nhưng tôi hy vọng rằng
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 sẽ góp
phần phát triển kinh tế, xã hội của đất nước”
PHÁT TRIỂN GIAO THÔNG VẬN TẢI BỀN VỮNG LUÔN GẮN
BÓ MẬT THIẾT VỚI CÔNG TÁC BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
TS. Chu mạnh Hùng
Vụ trưởng Vụ Môi trường Bộ GTVT
hát triển giao thông vận tải bền vững với môi
trường là khái niệm mới mà bất kỳ quốc gia
nào cũng rất quan tâm. Có thể hiểu GTVT bền
vững với môi trường là hệ thống GTVT có năng
lực thông qua cao, đáp ứng nhu cầu vận tải và đi
lại của người dân một cách an toàn, thuận tiện,
ổn định lâu dài, gắn kết chặt chẽ với nhịp phát
triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đất nước
ta đã có bước chuyển mình mạnh mẽ về mọi
mặt; kinh tế-xã hội ngày càng phát triển, đời sống
nhân dân ngày càng được nâng cao, tiềm lực
quốc phòng được củng cố, trật tự xã hội ổn định.
Nước ta đang phấn đấu để trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020, cũng vì vậy mà
ngành GTVT có vai trò hết sức quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cũng
còn không ít những trở ngại, đó là: Vừa phát triển
GTVT đáp ứng nhu cầu đi lại an toàn, thuận tiện
của nhân dân đồng thời luôn sẵn sàng bảo đảm
và nâng cao khả năng Quốc phòng-An ninh của
Tổ quốc, lại vừa phải theo kịp trình độ tiên tiến
của các nước là phát triển bền vững, không huỷ
hoại môi trường sinh thái và phù hợp với xu thế
thế giới là phát triển GTVT thân thiện với môi
trường, sẵn sàng ứng phó với hiện tượng biến
đổi khí hậu và kịch bản nước biển dâng đang
diễn ra trên toàn cầu. Điều kiện thuận lợi rất cơ
bản song cũng còn nhiều khó khăn thách thức
cho mọi hoạt động của ngành Giao thông Vận
tải.
Thời gian qua, Bộ Giao thông Vận tải đã tập
trung chỉ đạo xây dựng, ban hành hệ thống văn
bản pháp quy về bảo vệ môi trường trong hoạt
động GTVT để thực hiện Nghị quyết số 41-
NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành
động của Chính phủ. Mới đây nhất là Thông tư
09/2010/TT-BGTVT ngày 06.04.2010 về Bảo vệ
môi trường trong phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông; Chỉ thị số 14/2008/CT-BGTVT ngày
22/12/2008 về tiếp tục tăng cường công tác bảo
vệ môi trường trong ngành Giao thông Vận tải;
Chỉ thị này cần được các cơ quan, đơn vị thuộc
Bộ thực hiện nghiêm túc và báo cáo kết quả định
kỳ hàng năm để nâng cao hiệu quả công tác bảo
vệ môi trường của toàn ngành.
GTVT bền vững còn hướng tới mục tiêu bảo
vệ sức khoẻ con người, không ảnh hưởng đến
hệ sinh thái, bảo đảm công bằng đến mọi tầng
lớp trong xã hội, đồng thời hạn chế tiếng ồn, hạn
chế ô nhiễm, hạn chế sự phát thải và chất thải
trong giới hạn hấp thụ của môi trường; hạn chế
sự tiêu thụ các nguồn tài nguyên không tái tạo,
tiết kiệm nhiên liệu và tiết kiệm đất sử dụng cho
nông, lâm nghiệp. Cùng với sự phát triển kinh tế-
xã hội, thì công tác bảo vệ môi trường cũng cần
được quan tâm nhằm hạn chế tối đa các tác
động và bảo đảm phát triển bền vững.
1. Thực trạng và yêu cầu của việc phát
triển giao thông vận tải bền vững.
Với việc tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng và đổi mới phương tiện, ngành GTVT đã
từng bước phát triển để đáp ứng nhu cầu vận
chuyển hàng hoá, hành khách, giao lưu văn hoá-
xã hội giữa các vùng kinh tế trong cả nước, đảm
bảo công tác Quốc phòng-An ninh và có vai trò
cầu nối quan trọng trong hội nhập kinh tế quốc
tế. Việt Nam ta có đặc thù địa lý là lãnh thổ trải
dài từ Bắc vào Nam và bờ biển trên 3200 km,
nước ta có hệ thống GTVT đồng bộ, gồm đủ các
loại hình: Đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội
địa, đường biển và đường hàng không.
Việc hoàn chỉnh quy hoạch xây dựng kết
cấu hạ tầng trong cả nước và từng vùng, từng
bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ
tầng đồng bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường
là một trong những nhiệm vụ trọng tâm; phát
triển giao thông vận tải bền vững mà trong đó
việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên thiên
nhiên và giảm thiểu chất thải ra môi trường có
P
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
28 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
mối quan hệ hữu cơ, thể hiện qua các lĩnh vực
quy hoạch và phát triển kết cấu hạ tầng giao
thông.
Hoạt động của ngành có tính xã hội cao,
việc quản lý giao thông vận tải cũng hết sức đa
dạng, phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Tính hoàn
thiện của kết cấu hạ tầng; chất lượng phương
tiện; phương pháp tổ chức khai thác vận tải, điều
tiết giao thông kết hợp với giải pháp sử dụng
hiệu quả năng lượng và điểm rất quan trọng là ý
thức của người tham gia giao thông. Kinh
nghiệm quốc tế cho thấy: Sự phát triển của
GTVT sẽ kèm theo là ô nhiễm không khí, tiếng
ồn và gia tăng lượng nhiên liệu tiêu thụ cũng như
phải choán diện tích đất sử dụng cho GTVT, dẫn
tới phương thức giao thông bền vững đang ngày
càng mất cân đối. Điều này đặt ra sự cần thiết
phải có những định hướng cho ngành GTVT để
đạt được sự phát triển bền vững mà mục tiêu là
bảo đảm phát triển kinh tế, an sinh xã hội và
củng cố Quốc phòng - An ninh của đất nước.
Hình 1. Xây dựng công trình và “bảo vệ môi trường”.
Giao thông vận tải bền vững với môi trường,
bảo đảm công tác quốc phòng an ninh sẽ đạt
được thông qua việc thực hiện đồng bộ các hoạt
động, giải pháp về phương tiện, nhiên liệu, kết
cấu hạ tầng và quản lý GTVT; thể hiện trong các
mặt cộng tác chủ yếu sau:
Quy hoạch giao thông; Phát triển hệ
thống vận tải năng lực cao, chú trọng vận tải
khách công cộng.
Phát triển kết cấu hạ tầng GTVT, trong
đó bao gồm cả hệ thống giao thông thông
minh (ITS).
Bảo trì tốt hệ thống GTVT, đặc biệt là
mạng lưới đường bộ, đường sắt, đường
thủy nội địa, các bến cảng, nhà ga, sân
bay....
Kiểm tra và bảo dưỡng (KTBD) các
phương tiện giao thông.
Kiểm soát khí thải từ phương tiện giao
thông; Quan trắc chất lượng không khí trên
các trục đường đô thị có mật độ phương tiện
tham gia giao thông cao và các hầm đường
bộ có chiều dài lớn, trọng điểm.
Kiểm soát, xử lý chất thải độc hại tác
động tiêu cực tới môi trường đối với các
phương tiện giao thông đường sắt, đường
thủy, hàng không và đặc biệt là tại các bến
cảng, nhà ga.
Hạn chế ùn tắc giao thông trong đô thị và
các nút giao thông trọng điểm; Bảo đảm an
toàn giao thông (ATGT).
Thông tin và ý thức cộng đồng.
Với các tiêu chí cơ bản nêu trên, chúng ta có
thể thấy hoạt động giao thông vận tải rất phong
phú, có tác động rõ rệt tới mọi mặt đời sống, kinh
tế, xã hội và tính cộng đồng rất cao; trên cơ sở
đó, phải nghiêm túc nghiên cứu, triển khai để đạt
mục tiêu phát triển bền vững và đó cũng là quan
điểm nhân văn của những người trong ngành,
trong nghề, đó là:
Cần phát triển kết cấu hạ tầng giao thông
một cách đồng bộ, hợp lý, từng bước hiện đại;
tạo nên mạng lưới hoàn chỉnh, liên hoàn, liên kết
giữa các phương thức vận tải, giữa các vùng
lãnh thổ, giữa đô thị và nông thôn trên phạm vi
khu vực và toàn quốc. Thực tế chỉ ra rằng, công
tác quy hoạch phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
giao thông hợp lý sẽ giảm được quãng đường xe
chạy và cự ly vận chuyển, giảm ách tắc giao
thông và cũng dẫn đến việc tiết kiệm năng lượng,
giảm thiểu lượng phát thải trong hoạt động giao
thông vận tải. Đó là ý nghĩa của việc quy hoạch
phát triển.
Ví dụ: Cầu Thanh Trì ở Hà Nội vừa được
đưa vào sử dụng đã phát huy hiệu quả tích cực
trong việc kết nối với các tỉnh, giảm ùn tắc giao
thông, lại tiết kiệm được cự ly vận chuyển hơn 3
km so với tuyến đường cũ; tới đây, với việc một
loạt cây cầu bắc ngang sông Hồng được xây
dựng và hoàn thành cũng như việc bổ sung vành
đai III thì giao thông của Hà Nội lại càng thuận
tiện, thông thoáng hơn.
Về lâu dài, cần lồng ghép giải pháp bảo vệ
môi trường vào các dự án phát triển và mọi hoạt
động của GTVT; trong đó đặc biệt lưu ý vấn đề ô
nhiễm môi trường không khí và tiếng ồn ở các đô
thị mà chủ yếu là do hoạt động giao thông vận tải
gây ra. Ô nhiễm môi trường không khí đô thị
nước ta hiện nay đó là vấn đề cần nghiên cứu,
khảo sát và kiểm soát; Cùng với việc gia tăng số
lượng phương tiện và hàng loạt các công trình
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 29
xây dựng dân dụng đang thi công trong nội đô,
khu dân cư thì ở một số đường phố và các nút
giao thông trọng điểm, không khí đã bị ô nhiễm
nghiêm trọng, đặc biệt là chỉ số ô nhiễm bụi vượt
mức quy định rất cao. Các chất ô nhiễm không
khí gây tác hại đối với sức khỏe con người chủ
yếu là bụi (TSP, PM10, ), SO2, NOx, CO, CO2, O3,
chì và hơi xăng dầu.
Ước tính nguồn thải bụi (TSP) do hoạt động
GTVT gây ra chiếm khoảng 30% trong tổng
lượng bụi thải ra ở đô thị, trong đó 70% chủ yếu
là do hoạt động xây dựng; nếu chỉ xét không gian
hẹp dọc theo các đường phố thì lượng bụi do
hoạt động GTVT gây ra chiếm tới 80%. Tính
chung cho các đô thị lớn, lượng thải khí NO2 của
ngành GTVT chiếm tới 30%; lượng thải khí CO -
85% và lượng thải khí SO2 - khoảng 5%, lượng
thải bụi chì và hơi chì chiếm tới 80-90% trong
tổng lượng thải các chất ô nhiễm này ở khu vực
đô thị. Tiếng ồn ở đô thị Việt Nam, đặc biệt là
tiếng ồn trong các giờ ban đêm chủ yếu là do
hoạt động của giao thông vận tải.
Hầu hết các đô thị lớn của Việt Nam đều bị ô
nhiễm bụi, nhiều nơi theo số liệu quan trắc thì đã
tới mức báo động. Nồng độ bụi trong không khí
trung bình ngày ở các thành phố như Hà Nội, TP.
Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng cao hơn tiêu
chuẩn cho phép (TCCP = 0,200 mg/m
3
) từ 2 đến
3 lần; ở các nút giao thông cao hơn từ 3 đến 5
lần; ở các khu vực đang diễn ra hoạt động xây
dựng thì nồng độ bụi vượt TCCP từ 10 đến 20
lần. Đồng thời ô nhiễm khí CO và NOx ở một số
nút giao thông lớn trong các thành phố lớn đã
vượt trị số cho phép từ 1,2 đến 1,5 lần.
Ô nhiễm tiếng ồn ở các đường phố thông
thường trong các đô thị nước ta vào khoảng 70
đến 75 dBA, ở các đường phố có cường độ dòng
xe lớn vào khoảng 80 đến 85 dBA, khi có tiếng
còi xe mức ồn tăng lên tới 90 đến 100 dBA. Với
điều kiện khí hậu nhiệt đới và tập quán xây dựng
nhà mở cửa thông thoáng, sát mặt đường như
nước ta thì tác động trực tiếp của tiếng ồn đối với
con người cũng lớn hơn nhiều lần so với các
nước trong khu vực.
Trong vòng 10 năm qua, số lượng phương
tiện cơ giới đường bộ của cả nước đã tăng gấp 4
lần, trong đó, số lượng phương tiện mô tô, xe
máy tại các đô thị đã tăng lên đáng kể và hiện tại
rất khó kiềm chế. Tốc độ gia tăng hàng năm của
mô tô, xe máy trong giai đoạn 1996-2008 là 15%,
của ô tô là 11%. Cơ cấu phương tiện đi lại hiện
nay ở các đô thị đều tập trung vào các phương
tiện giao thông cá nhân. Hiện tại cả nước có
khoảng 27 triệu xe máy và gần 1 triệu ô tô các
loại đang lưu hành trên mạng lưới đường bộ và
đường đô thị. Tại Hà Nội, vận tải hành khách
công cộng chỉ đáp ứng khoảng 7,4% còn ở thành
phố Hồ Chí Minh - chỉ đáp ứng khoảng 5% nhu
cầu đi lại của nhân dân. Xe mô tô hai bánh vẫn là
phương tiện giao thông chính và chiếm tỷ trọng
lớn. Tại TP Hồ Chí Minh có tới 98% hộ gia đình
có xe máy, còn ở Hà Nội, xe máy chiếm hơn
87% tổng lưu lượng xe hoạt động trong nội
thành. Sự gia tăng ùn tắc giao thông, ô nhiễm
môi trường và tai nạn đang là vấn đề trọng điểm
mà chính quyền đô thị các địa phương cần tập
trung giải quyết.
Để giảm thiểu ô nhiễm cũng cần chú trọng
tới chất lượng đội ngũ phương tiện giao thông.
Chất lượng phương tiện giao thông phụ thuộc
vào quá trình sản xuất, lắp ráp, chất lượng linh
kiện nhập khẩu, thời gian sử dụng, chế độ bảo
dưỡng, sửa chữa và quá trình khai thác, sử
dụng. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy việc triển
khai các chương trình bảo dưỡng kỹ thuật
phương tiện bảo đảm chất lượng kỹ thuật có thể
giảm phát thải CO và HC trong khí xả từ 20 đến
30%. Thực hiện tốt công việc Bảo dưỡng kỹ
thuật sẽ bảo đảm duy trì chất lượng kỹ thuật của
phương tiện và qua đó giảm thiểu mức phát thải
của các loại phương tiện giao thông, đặc biệt là
phương tiện cơ giới đường bộ. Các bộ Luật giao
thông đều đó quy định vấn đề này.
Ví dụ cụ thể: Điều 55 Luật giao thông đường
bộ đó qui định việc bảo đảm về “chất lượng an
toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của xe cơ
giới tham gia giao thông đường bộ”. Đây là yêu
cầu bắt buộc về bảo dưỡng kỹ thuật giữa 2 kỳ
kiểm định đối với ô tô nên các chủ phương tiện
phải quan tâm đến các chỉ tiêu an toàn và môi
trường khi thực hiện kiểm định. Tuy vậy, với mô
tô, xe máy là nguồn phát thải lớn hiện tại chưa có
biện pháp và chế tài kiểm soát nên hầu hết các
chủ phương tiện tự ý thức bảo dưỡng, sửa chữa
phương tiện theo nhu cầu sử dụng theo kiểu
hỏng đâu sửa đấy; vấn đề này cần lưu tâm để
triển khai thực hiện và cũng cần gắn trách nhiệm
của các hãng sản xuất xe trong công tác bảo
hảnh, bảo dưỡng, sửa chữa phương tiện, bảo
đảm lợi ích khách hàng và cũng là tham gia tích
cực vào công tác bảo vệ môi trường với lợi ích
của cộng đồng.
Quản lý chất lượng nhiên liệu cũng là vấn đề
quan trọng cần đề cập tới. Nhiên liệu cho xe cơ
giới ở nước ta chủ yếu là xăng và dầu diesel.
Việc sử dụng nhiên liệu sinh học thay thế xăng
dầu truyền thống chiếm tỷ lệ rất nhỏ và chỉ giới
hạn ở mức độ nghiên cứu thử nghiệm. Việc sử
dụng khí thiên nhiên LPG (khí hóa lỏng) hoặc
CNG (khí nén) hầu như rất hạn chế. Tiêu chuẩn
chất lượng nhiên liệu có tầm quan trọng căn bản
đối với việc kiểm soát khí thải từ các nguồn gây ô
nhiễm di động và đối với chất lượng không khí
đô thị. Nước ta đã bắt đầu tiến hành kiểm soát
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
30 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
chất lượng chặt chẽ hơn đối với xăng, thông qua
việc sử dụng xăng không chì và giảm bớt hàm
lượng lưu huỳnh.
Tác hại của ô nhiễm không khí và tiếng ồn
cần được quan tâm và xử lý tối ưu với lợi ích của
toàn xã hội. Ô nhiễm không khí trước hết sẽ gây
ra tác hại đối với sức khỏe của cộng đồng, các
hệ sinh thái trên cạn, các thiết bị trong nhà, đặc
biệt là thiết bị điện - điện tử, tác hại đến vật liệu
và gây ra biến đổi khí hậu. Đối với sức khỏe
cộng đồng, ô nhiễm không khí gây ra các bệnh
đường hô hấp (viêm mũi, viêm xoang, viêm
họng, viêm phế quản, ho, viêm phổi, bụi phổi,
ung thư phổi v.v), gây ra các bệnh về mô tế
bào da (viêm da, mề đay, dị ứng da), gây ra
các bệnh về thị giác (đau mắt, viêm mắt), làm
cho trầm trọng thêm đối với các bệnh của hệ
thần kinh và các bệnh của hệ tim mạch. Theo
báo cáo môi trường quốc gia 2007, tỷ lệ người
mắc bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí ở các
thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Đà Nẵng thường cao hơn ở các tỉnh,
thành phố khác. Theo số liệu của Bộ Y tế,
khoảng 20-26% tổng số người bị các bệnh
đường hô hấp, 6-7% tổng số ngời bị bệnh về
mắt, 2-4% tổng số người bị bệnh ngoài da và
0,1-0,5% tổng số người bị bệnh lao phổi ở nước
ta là do ô nhiễm không khí gây ra. Kết quả
nghiên cứu điều tra dịch tễ học của một số đề tài
khoa học cho thấy, khi so sánh tỷ lệ số người bị
mắc bệnh đường hô hấp trên tổng số người
được điều tra giữa phường dân cư bị ô nhiễm
không khí nặng và phường dân cư ít bị ô nhiễm
không khí thì tỷ lệ số người bị viêm cuống phổi
mãn tính gấp khoảng 4 đến 6 lần, tỷ lệ số người
bị viêm dị ứng mũi gấp khoảng 2 đến 3 lần, tỷ lệ
số người bị ho thường xuyên gấp khoảng 7 đến
11 lần. Tất cả các thiệt hại do ô nhiễm không khí
gây ra nêu ở trên đều dẫn đến gây ra thiệt hại
kinh tế và xã hội. Báo cáo môi trường quốc gia
2007 ước tính thiệt hại về kinh tế do ô nhiễm
không khí tác động đến sức khoẻ con người tại
Hà Nội là 2,58 tỷ đồng/ngày (tương đương
khoảng 60 triệu USD/năm), tại TP Hồ Chí Minh là
4,93 tỷ đồng/ngày (khoảng 120 triệu USD/năm);
Ô nhiễm tiếng ồn phá vỡ sự yên tĩnh, thường
gây ra hoặc làm tăng thêm các bệnh về suy
nhược thần kinh, bệnh tim mạch và giảm thể lực,
gây ra các bệnh giảm thính lực của con người.
Để cải thiện chất lượng không khí trong các
đô thị, mới đây Thủ tướng Chính phủ bằng Quyết
định số 909/QĐ-TTg ngày 17.06.2010 đã phê
duyệt Đề án kiểm soát khí thải xe mô tô, xe gắn
máy tham gia giao thông tại các tỉnh, thành phố.
Đề án này có ý nghĩa quan trọng với việc kiểm
soát khí thải xe cơ giới trên địa bàn; đây là vấn
đề rất nhạy cảm với cộng đồng, chúng ta cần
thực hiện từng bước, có trọng tâm, trọng điểm,
tập trung trước tiên vào các khu vực ô nhiễm
không khí nghiêm trọng và đặc biệt là tạo được
sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân tham gia,
tự giác chấp hành vì lợi ích và sức khoẻ của
cộng đồng.
Đổi mới tổ chức khai thác vận tải, cải thiện
giao thông đô thị. Đây là chủ đề rất quan trọng,
việc phát triển vận tải cần theo hướng hiện đại
với chi phí hợp lý, an toàn, giảm thiểu tác động
môi trường và tiết kiệm năng lượng; cần sớm
ứng dụng công nghệ vận tải tiên tiến, đặc biệt là
vận tải đa phương thức; nhanh chóng đổi mới
phương tiện vận tải có hiệu suất khai thác sử
dụng cao, tiết kiệm nhiên liệu, hạn chế ô nhiễm
môi trường. Trước hết, cần nâng cao chất lượng
dịch vụ vận tải khách công cộng trong nội đô và
khu vực liền kề; nghiên cứu, khảo sát, lựa chọn
phương tiện vận tải khách công cộng phù hợp
đặc thù của từng tỉnh, Thành phố với tiêu chí
thân thiện với môi trường, đáp ứng tiện nghi và
bảo đảm yêu cầu của người tham gia giao thông.
Chú trọng hoàn thiện hệ thống dịch vụ vận tải đối
ngoại, trước hết là vận tải hàng không, đường
sắt nhằm tăng cường khả năng giao lưu và tạo
điều kiện đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế,
phục vụ tích cực cho sự phát triển kinh tế, an
sinh xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh và bảo
vệ môi trường .
Các giải pháp đó tựu trung đều hướng đến
mục tiêu cố gắng tối ưu hoá hiệu suất vận tải,
phát huy sự kết nối giữa các phương thức vận tải
tiến tới hoàn thiện mạng lưới vận tải đa phương
thức. Qua đó vừa nâng cao tính cạnh tranh lại
hạ giá thành sản phẩm và tiết kiệm nhiên liệu.
Chúng ta cần nghiêm túc khảo sát, nghiên cứu
mạng lưới vận tải khách bằng ô tô buýt nội đô và
khu vực liền kề. Đây là bài toán vận tải rất khó
song cần khẩn trương thực hiện.
Phát triển giao thông vận tải ở các đô thị
theo hướng sử dụng vận tải công cộng là chính,
đảm bảo hiện đại, an toàn, tiện lợi và bảo vệ môi
trường; từng bước giảm thiểu phương tiện cá
nhân, nhất là giảm số lượng mô tô xe máy cá
nhân. Đây là vấn đề lớn, bài toán khó cho giao
thông của các đô thị trong cả nước, đặc biệt là
với Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh.
Có thể nhận rõ là, những năm gần đây số
lượng ô tô, xe máy tham gia giao thông tại các
thành phố tăng lên nhanh chóng, đặc biệt là mô
tô xe máy; loại phương tiện này có “ưu điểm” rất
linh hoạt, tiện dụng cho từng người, từng gia
đình song cũng là nguyên nhân cơ bản gây ùn
tắc giao thông và tai nạn giao thông. Theo số liệu
khảo sát của các chuyên gia kinh tế kỹ thuật về
giao thông vận tải: Nếu tính cho một cung chặng
vận chuyển như nhau, một hành khách đi bằng
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 31
phương tiện xe buýt thì lượng nhiên liệu cần phải
chi phí chỉ bằng 1/3 người đi xe máy và 1/8 đối
với người đi xe ôtô con. Nếu tính về diện tích
choán chỗ khi di chuyển trên đường phố thì mô
tô, xe máy và ô tô con chiếm tổng diện tích rất
lớn, rất “lãng phí”. Đây cũng là nguyên nhân gây
ùn tắc giao thông vào giờ cao điểm, đồng thời
cũng là nguồn phát thải cao gây ô nhiễm không
khí trong đô thị .
Tuy nhiên, trong thực tế hiện tại chúng ta
cần có cách nhìn nhận và ứng xử khách quan,
nhân văn với loại phương tiện này; trước mắt.
chúng ta chấp nhận sự tồn tại của mô tô xe máy
cá nhân như là một giải pháp tình thế trong khi
chưa hoàn thiện được hệ thống vận tải năng lực
thông qua cao trong các đô thị; và như vậy, để
hạn chế các nhược điểm của phương tiện cá
nhân trong đô thị thì chúng ta phải tổ chức giao
thông hợp lý hơn, các lực lượng chức năng gồm
cảnh sát giao thông, thanh tra giao thông và
chính quyền địa phương sẽ phải vất vả hơn để
phân luồng, bố trí tổ chức giao thông linh hoạt
với từng địa điểm và thời gian cụ thể nhằm đáp
ứng nhu cầu đi lại thuận tiện của người tham gia
giao thông trong đô thị. Mặt khác, cần phát triển
và hoàn thiện mạng lưói vận tải khách công cộng
vì phương thức này hiệu quả kinh tế hơn, lượng
khí thải do đốt cháy nhiên liệu ít hơn.
Việc phối hợp với các Bộ, ngành, địa
phương nhằm đạt được mục tiêu bảo vệ môi
trường đó đề ra cũng rất quan trọng. Ví dụ: Việc
Quản lý chất lượng nhiên liệu rất cần có sự tham
gia, chủ trì của Tổng cục đo lường chất lượng-Bộ
Khoa học công nghệ nhằm kiểm soát chất lượng
nhiên liệu; Việc triển khai kiểm soát khí thải
phương tiện giao thông cần có sự tham gia quyết
liệt của lực lượng cảnh sát giao thông, cảnh sát
môi trường và chính quyền đô thị các tỉnh, thành
phố; việc bảo đảm an toàn giao thông, bảo vệ
hành lang giao thông không thể tách rời trách
nhiệm của chính quyền địa phương; và điều rất
cơ bản, có ý nghĩa quan trọng là ý thức tự giác
chấp hành các quy định của người dân khi tham
gia giao thông...
2. Giải pháp triển khai, thực hiện.
Trên cơ sở phân tích trên chúng tôi xin nêu
một số giải pháp trước mắt cần triển khai thực
hiện nhằm cải thiện và thúc đẩy công tác bảo vệ
môi trường trong trong hoạt động GTVT sau đây:
Một là: Tăng cường việc phối hợp với các
Bộ, ngành, địa phương nhằm đạt được các mục
tiêu đề ra cũng rất quan trọng. Ví dụ: Việc Quản
lý chất lượng nhiên liệu rất cần có sự tham gia,
chủ trì của Bộ Khoa học công nghệ về kiểm soát
chất lượng và Bộ Công thương về nhập khẩu
nhiên liệu. Việc triển khai kiểm soát khí thải
phương tiện giao thông cần có sự tham gia quyết
liệt của lực lượng cảnh sát giao thông, cảnh sát
môi trường và chính quyền đô thị các tỉnh, thành
phố; việc bảo đảm an toàn giao thông, bảo vệ
hành lang giao thông không thể tách rời trách
nhiệm của chính quyền địa phương; và điều rất
cơ bản, có ý nghĩa quan trọng là ý thức tự giác
chấp hành các quy định của người dân khi tham
gia giao thông...
Hai là: Nghiên cứu tổ chức, quản lý GTVT
phù hợp điều kiện khu vực, địa phương, bảo
đảm nhu cầu đi lại khu vực công cộng; sử dụng
hợp lý các giải pháp khuyến khích, tự giác, đòn
bẩy kinh tế nhằm:
1. Phát triển mạng lưới vận tải hành khách
công cộng, phát triển xe buýt; mở rộng thêm
tuyến; nâng cao chất lượng phục vụ; đổi mới
phương tiện; thí điểm phương tiện vận chuyển
nhanh, khối lượng lớn; có chính sách và thực
hiện trợ giá cho vận tải hành khách công cộng
bằng xe buýt; hạn chế hoạt động của xe máy ở
các đô thị;
2. Tiến hành tổ chức và tăng cường quản lý
giao thông, thực hiện phân làn, phân luồng giao
thông hợp lý; tăng cường điều hành, hướng dẫn
và thanh tra giao thông vào các giờ cao điểm tại
các điểm có ùn tắc giao thông; thực hiện bố trí
sắp xếp lại thời gian làm việc của các đơn vị, cơ
quan trên địa bàn thành phố.
3. Kết hợp xây dựng mới, nâng cấp, cải tạo
kết cấu hạ tầng giao thông đô thị với việc nâng
cấp, cải tạo các tuyến đường trục giao thông đối
ngoại, các đường trục hướng tâm; xây dựng và
hoàn thiện hệ thống các đường vành đai; xây
dựng các nút giao thông khác mức tại các nút
giao là điểm nóng về tình hình ùn tắc giao thông.
Ba là: Kiểm soát khí thải từ các phương tiện
1. Thực hiện nghiêm lộ trình áp dụng tiêu
chuẩn khí thải đối với phương tiện giao thông cơ
giới đường bộ theo Quyết định 249 ngày
10/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó từ
ngày 01/7/2008, khí thải của tất cả các loại xe ô
tô phải đạt tiêu chuẩn tương đương Euro 2.
2. Tăng cường công tác kiểm tra chất
lượng, an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trờng xe
cơ giới nhập khẩu, lắp ráp, sản xuất trong nước;
kiểm tra định kỳ và đột xuất công tác an toàn kỹ
thuật và bảo vệ môi trường đối với phương tiện
cơ giới đường bộ.
Việc kiểm soát khí thải đối với xe cơ giới cần
có sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ của các
ngành, các cấp và chính quyền địa phương. Sự
phối hợp, gắn kết giữa các bộ ngành, đặc biệt là
giữa Bộ GTVT , Bộ Tài nguyên Môi trường, Bộ
Công An, Bộ Công nghiệp... để thực hiện đồng
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
32 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
bộ kiểm soát phát thải từ khi nhập khẩu, chế tạo
đến quá trình khai thác phương tiện nhằm hạn
chế lượng phát thải ra môi trường.
3. Hướng dẫn để Ủy ban nhân dân các tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ban hành quy
định kiểm soát việc phát tán bụi từ các phương
tiện phục vụ xây dựng các công trình trong thành
phố.
4. Đầu tư cải tạo và phát triển hệ thống hạ
tầng kỹ thuật giao thông đô thị nhằm đạt tới trị số
trung bình của các nước tiên tiến trong khu vực
về các chỉ tiêu: Chất lượng mặt đường, chiều
rộng đường, tỷ lệ km đường trên km
2
đô thị, tỷ lệ
diện tích giao thông trên tổng diện tích đô thị, các
nút giao thông khác mức v.v
5. Khuyến khích việc tham gia giao thông
của toàn cộng đồng bằng các phương tiện phi cơ
giới, đặc biệt ở các khu vực có mật độ dân cư
cao, cho những khoảng cách ngắn, nhất là một
phương thức giao thông thân thiện môi trường.
Khuyến khích quy hoạch, xây dựng cơ sở hạ
tầng thúc đẩy giao thông phi cơ giới, đồng thời
tăng cường sự an toàn cho những người tham
gia phương thức giao thông này.
Bốn là: Tuyên truyền, nâng cao nhận thức.
Thực hiện các chiến dịch tuyên truyền sâu
rộng về kiểm soát khí thải trên tất cả phương tiện
thông tin đại chúng, huy động nguồn kinh phí
đóng góp từ các nhà sản xuất và nhập khẩu
phương tiện, nhiên liệu cho các hoạt động này.
Năm là: Ứng phó với biến đổi khí hậu.
Biến đổi khí hậu tác động mạnh đến đời
sống của con người chủ yếu là qua việc trái đất
ấm dần lên do vậy cần lưu ý khả năng ứng phó
với các biến đổi của từng quốc gia, trong đó có
Việt Nam mà mức độ nghiêm trọng của biến đổi
khí hậu tác động đến hệ thống giao thông vận tải
của chúng ta cũng như đời sống xã hội của từng
cộng đồng. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp
để ứng phó với các biến đổi nhằm giảm thiểu các
tác nhân gây ra hiện tượng này. Hai vấn đề nổi
cộm trong việc đối đầu với các biến đổi khí hậu ở
một nước đang phát triển là nhận thức đúng đắn
của các cấp chính quyền và nguồn tài chính để
làm hậu thuẫn cho các biện pháp cần thiết.
Đứng trước thảm hoạ biến đổi khí hậu toàn
cầu chính là lúc để mọi người, từ nhà lãnh đạo
quốc gia đến chủ doanh nghiệp và người dân
thường, nhận ra sai lầm trong lối tư duy, cách
hành xử và tập quán sử dụng năng lượng phí
phạm của mình. Qua đó, nhận thức chung cần
phải và cũng đã có thay đổi với khuynh hướng tư
duy mới để thực hiện ba giải pháp lớn: Tiết kiệm
năng lượng, nâng cao hiệu quả sử dụng năng
lượng và phát triển năng lượng/nhiên liệu tái tạo
thay cho nhiên liệu hoá thạch.
Hình 2. Công trình đường bộ và môi trường.
Tóm lại: Khái niệm phát triển giao thông
bền vững với môi trường còn là vấn đề mới ở
nước ta. Trong bài này tôi xin đề cập tổng quan
đến các lĩnh vực trong hoạt động GTVT; về các
vấn đề thuộc kết cấu công trình, các vấn đề liên
quan trực tiếp tới môi trường đô thị. Hiện tại, có
thể thấy: Quy hoạch, phát triển hệ thống GTVT
khu vực đô thị vừa thân thiện với môi trường
vừa bảo đảm an toàn và công bằng xã hội trong
cộng đồng còn hạn chế và cần có biện pháp
giảm thiểu ô nhiễm môi trường; Mặt khác, Ý thức
của người tham gia giao thông chưa tự giác thực
hiện đúng Luật pháp đã dẫn đến sự gia tăng về
ùn tắc giao thông tại các đô thị lớn, gia tăng
TNGT trong phạm vi toàn quốc. Nhận thức của
người dân về sử dụng hợp lý các loại phương
tiện giao thông phi cơ giới còn hạn chế.
Bảo vệ môi trường là nhân tố quan trọng
bảo đảm sức khỏe và chất lượng cuộc sống
cộng đồng, góp phần quan trọng vào việc phát
triển kinh tế-xã hội ; Bảo vệ môi trường là quyền
lợi và nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình,
của mỗi người . Đây là nhiệm vụ vừa phức tạp,
vừa khó khăn mà đòi hỏi phải kiên trì thực hiện.
Đặc biệt là rất cần sự quan tâm chỉ đạo của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân trên tinh thần trách
nhiệm cao nhằm hạn chế mức độ gia tăng ô
nhiễm vì lợi ích chung của toàn xã hội.
Điều đó càng thấy cần thiết phải đẩy mạnh
công tác tuyên truyền pháp luật về giao thông
vận tải và bảo vệ môi trường vì lợi ích của cộng
đồng và toàn xã hội. Hướng tới một nền giao
thông vận tải phát triển bền vững và thân thiện
với môi trường
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin 33
NHỮNG VẤN ĐỀ TRONG GIAO THÔNG ĐÔ THỊ VÀ
GIẢI PHÁP TRONG QUẢN LÝ GIAO THÔNG ĐÔ THỊ BỀN
VỮNG Ở VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Xuân Nguyên
Vụ Vận tải – Bộ GTVT
A. Những vấn đề phát triển giao thông đô
thị bền vững ở Việt Nam:
Phát triển giao thông đô thị bền vững chính
là quá trình phát triển giao thông đảm bảo sự cân
bằng hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội
và bảo vệ môi trường. Phát triển giao thông đô
thị bền vững luôn gắn liền với quá trình phát triển
đô thị bền vững, nó vừa phụ thuộc vào quá trình
quy hoạch và phát triển đô thị, đồng thời vừa tác
động trực tiếp đến quá trình phát triển bền vững
của đô thị.
Về xã hội, giao thông đô thị phát triển bền
vững là hệ thống đảm bảo quyền đi lại của mọi
người dân. Nghĩa là đáp ứng được nhu cầu đi lại
của mọi đối tượng trong xã hội, trong đó việc
đảm bảo hệ thống giao thông công cộng hiện đại,
thuận lợi, phù hợp để mọi người dân gồm cả
những người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em,
người nghèo có thể sử dụng đi lại thuận tiện với
chi phí hợp lý.
Về môi trường, phát triển giao thông đô thị
bền vững nhất thiết phải gắn chặt với gìn giữ môi
trường. Hoạt động giao thông vận tải là nguồn
đóng góp đáng kể chất ô nhiễm môi trường, đặc
biệt là ô nhiễm không khí. Uớc tính hàng năm,
hoạt động giao thông vận tải tiêu thụ khoảng
30% tổng lượng xăng dầu nhập khẩu và phát thải
khoảng 70% tổng lượng khí thái tại các đô thị
lớn. Một hệ thống giao thông phát triển bền vững
phải là một hệ thống đảm bảo mức độ ảnh
hưởng ô nhiễm môi trường là thấp nhất. Trong
đầu tư, nếu không tính đến yếu tố môi trường, có
thể chi phí đầu tư cho phát triển giao thông sẽ
bớt đi nhưng các chi phí khác nảy sinh từ nó sẽ
không thể tính hết. Những hậu quả về môi
trường không thể tính hết như hiệu ứng nhà
kính, giảm đáng kể năng suất lao động của con
người hay các bệnh sinh ra do khí thải của các
phương tiện giao thông.
Về kinh tế, phát triển giao thông đô thị bền
vững trước hết là phải thiết lập được một hệ
thống giao thông hỗ trợ tốt cho việc phát triển
kinh tế của đô thị. Bởi vì bất kỳ một hệ thống giao
thông nào cũng đều có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của khu vực. Yếu tố kinh tế còn
được thể hiện thông qua chi phí giao thông trong
đô thị. Nếu sử dụng phương tiện giao thông cá
nhân, chi phí bỏ ra là rất lớn, không chỉ bao gồm
chi phí phương tiện, chi phí nhiên liệu, chi phí
bảo trì phương tiện mà còn các chi phí về môi
trường, chi phí đầu tư hệ thống hạ tầng và còn
cả những chi phí do ách tắc giao thông.
Như vậy, việc phát triển giao thông đô thị
bền vững chính là phát triển một hệ thống giao
thông đồng bộ, có cơ cấu sử dụng phương tiện
hợp lý trong đó tập trung phát triển giao thông
công cộng, hiện đại, văn minh có khả năng đáp
ứng nhu cầu đi lại của mọi người dân một cách
nhanh chóng, thuận tiện, an toàn với giá cước
vận tải hợp lý và trên cơ sở bảo vệ môi trường.
Những năm gần đây, Việt Nam đã và đang
có những bước tiến mạnh mẽ trong xu thế hội
nhập quốc tế, có sự hỗ trợ từ các nước phát
triển, đã có nhiều tổ chức đầu tư trong nước và
nước ngoài quan tâm đầu tư phát triển đô thị tạo
những động lực mạnh mẽ trong quá trình phát
triển đô thị nói chung và giao thông đô thị nói
riêng. Đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối
với công tác quản lý và phát triển giao thông đô
thị bền vững đối với các đô thị của nước ta.
Hiện nay, chất lượng phục vụ của giao thông
công cộng tại các đô thị, các vùng và trên cả
nước đang ngày càng được hoàn thiện và nâng
cao hơn. Giao thông công cộng của các đô thị từ
loại 3 trở lên được nghiên cứu đưa vào ngay từ
quy hoạch đồ án xây dựng đô thị. Tuy nhiên, mới
chỉ tập trung cho loại hình vận tải hành khách
công cộng bằng xe buýt, còn thiếu các loại
phương tiện giao thông công cộng có sức chở
lớn trong đô thị, nhất là các đô thị loại I và đô thị
đặc biệt. Thành phố Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh
đang triển khai đầu tư xây dựng các tuyến tàu
điện ngầm và đường sắt trên cao, song tiến độ
còn chậm. Bên cạnh đó, tốc độ tăng phương tiện
cá nhân quá nhanh, đặc biệt là đối với TP. Hà
Nội và TP. Hồ Chí Minh đã dẫn đến tình trạng ùn
tắc giao thông, ô nhiễm và tiếng ồn do phương
tiện giao thông cơ giới gây nên ngày càng trầm
trọng. Thực trạng của hệ thống giao thông đô thị
cho thấy một số bất cập ảnh hưởng trực tiếp đến
sự hình thành và phát triển giao thông đô thị bền
vững ở nước ta gồm:
* Sự gia tăng nhanh các phương tiện giao
thông, tập trung lớn tại các đô thị, nhất là đối với
Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (Tại TP. Hồ Chí Minh
năm 2009 có trên 4 triệu xe mô tô, xe gắn máy,
tăng 159% so với cuối năm 2000, trên 400 nghìn
xe ô tô, tăng 211% so cuối năm 2000. Tại TP. Hà
Giao th«ng vËn t¶I vµ ph¸t triÓn bÒn v÷ng
34 Trung t©m §µo t¹o vµ Th«ng tin
Nội, năm 2009 có trên 300 nghìn xe ô tô và gần 4
triệu xe mô tô, xe gắn máy, tốc độ tăng phương
tiện cá nhân 12 - 15%/năm).
* Còn thiếu sự gắn kết giữa quy hoạch đô thị
và giao thông đô thị. Chính điều này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến việc phát triển hệ thống giao
thông đô thị mang tính bền vững, thể hiện cơ bản
đó là thiếu quỹ đất dành cho giao thông. Tỷ lệ đất
dành cho giao thông chưa đảm bảo theo yêu cầu
đối với sự phát triển giao thông đô thị bền vững.
* Lòng đường, hè phố bị lấn chiếm sử dụng,
thiếu quy hoạch hệ thống bến xe, bãi đỗ phương tiện.
* Vấn đề ùn tắc giao thông tại các đô thị lớn,
điển hình là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh có diễn
biến phức tạp, công tác tổ chức giao thông đã có
nhiều cố gắng song còn mang tính trước mắt,
chưa đồng bộ và lâu dài; TNGT mặc dù đã được
áp dùng nhiều biện pháp để kéo giảm số vụ tai
nạn và số người chết, người bị thương song còn
chưa đạt được theo mong muốn của xã hội.
* Thiếu quy hoạch cho sự phát triển đối với
loại hình vận tải hành khách bằng xe taxi, một
trong các yếu tố tác động đến sự phát triển bền
vững của giao thông đô thị. Nhiều nước trong
khu vực đã nghiên cứu và áp dụng các cơ chế,
chính sách nhằm tạo lập và phát triển giao thông
đô thị bền vững. Trong đó tập trung chủ yếu đến
các biện pháp như:
+ Hạn chế sử dụng phương tiện cá nhân thông
qua các chính sách về thuế nhập khẩu, lệ phí đăng
ký, thuế đường, xăng dầu, phí kiểm định xe bắt
buộc. Các chính sách này giúp cho việc hạn chế sự
đi lại và sử dụng xe khi không cần thiết.
+ Hệ thống thu phí giao thông điện tử: Theo
hệ thống này, số tiền mà các lái xe phải trả cho
việc sử dụng mỗi tuyến đường sẽ phụ thuộc vào
mức độ ùn tắc trên tuyến đường đó. Khi đó,
người tham gia giao thông sẽ chỉ sử dụng xe ô tô
cá nhân khi thật cần thiết và chọn những tuyến
đường ít ùn tắc hơn, nhờ đó mà tối ưu được
công suất sử dụng mạng lưới đường.
+ Kiểm soát xe taxi để hạn chế ùn tắc giao thông.
+ Nhanh chóng khắc phục và giải quyết sự
cố giao thông.
+ Kết nối các loại hình vận tải nhằm tối ưu
hoá việc chuyển đổi các phương tiện công cộng
trong mỗi chuyến đi của người dân.
+ Tăng cường quản lý, cải thiện trật tự giao
thông đô thị. Tăng cường trao đổi thông tin, kinh
nghiệm về quy hoạch, quản lý giao thông đô thị.
B. Giải pháp trong quản lý giao thông đô
thị ở Việt Nam:
* Giao thông đô thị cần phải đảm bảo được
3 mục tiêu: Về kinh tế, cần thiết lập được một hệ
thống giao thông hỗ trợ tốt cho việc phát triển
kinh tế đô thị và chi phí hợp lý. Về khía cạnh xã
hội, hệ thống giao thông phải đảm bảo quyền đi
lại cho mọi đối tượng trong xã hội. Về khía cạnh
môi trường, phát triển không gây ô nhiễm, đảm
bảo vấn đề về bảo vệ môi trường.
* Trước hết cần xác định phải luôn gắn quy
hoạch phát triển đô thị với phát triển giao thông
vận tải đô thị. Hoạt động giao thông đô thị chỉ
đảm bảo tính bền vững khi nó được hình thành
và phát triển trên cơ sở sự phát triển quy hoạch
của đô thị nói chung. Tính bền vững của giao
thông đô thị chính là sự đáp ứng phù hợp, ổn
định và lâu dài của hệ thống giao thông vận tải
trong các đô thị, đáp ứng được thuận tiện nhu
cầu đi lại, đảm bảo môi trường và hài hoà các lợi
ích của người dân đô thị. Điều này chỉ được thực
hiện khi quy hoạch đô thị đồng bộ với quy hoạch
giao thông đô thị. Phát triển giao thông đô thị bền
vững gắn với quy hoạch đô thị phải xem xét trên
các phương diện:
+ Đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân một cách
nhanh chóng, thuận tiện, đảm bảo an toàn giao thông.
+ Quản lý nhu cầu giao thông là một trong
những giải pháp quan trọng được các nước công
nghiệp phát triển, các nước tiên tiến áp dụng.
Quản lý nhu cầu nhằm điều tiết nhu cầu vận tải,
cân đối việc phát triển hợp lý giữa các phương
thức và bảo đảm phát triển bền vững thành phố.
Các giải pháp chính gồm khuyến khích đi lại
bằng phương tiện công cộng, hạn chế sự phát
triển phương tiện cá nhân; Tổ chức quản lý giao
thông, tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp
luật. Trong công việc, mọi người sử dụng thương
mại điện tử, thư điện tử, họp trực tuyến... để hạn
chế số lượng chuyến đi không cần thiết...
* Tăng cường sự phối hợp trong công tác
lập quy hoạch, tổ chức thực hiện đối với giao
thông đô thị và quy hoạch phát triển đô thị giữa
các Bộ, ngành và địa phương.
* Huy động và kêu gọi đầu tư của các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước nhằm tạo
nguồn vốn để thực hiện đầu tư hạ tầng, phương
tiện vận tải đô thị. Tập trung áp dụng các ứng
dụng công nghệ mới trong quản lý và phát triển
giao thông đô thị.
* Xây dựng quy hoạch phát triển hệ thống giao
thông cộng cộng đồng bộ, trong đó nhất thiết phải
xây dựng quy hoạch hệ thống xe buýt, đường sắt đô
thị gắn liền với quy hoạch phát triển đô thị.
* Tăng cường phối hợp và tổ chức đào tạo
nguồn nhân lực nhằm nâng cao năng lực quản lý,
năng lực ứng dụng khoa học kỹ thuật trong phát
triển giao thông đô thị bền vững. Tăng cường công
tác học tập các nước trong và ngoài khu vực về các
lĩnh vực phát triển giao thông đô thị bền vững.
Để phát triển hệ thống giao thông đô thị bền
vững cần giải quyết đồng bộ các thách thức hiện
tại về hạ tầng giao thông, tổ chức quản lý, con
người và môi trường
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_giao_thong_duong_bo_nam_2008_hanh_lang_phap_ly_cho_su_p.pdf