Thứ ba, quy định hiệu quả cơ chế kiểm
soát (trong học thuyết đại diện) đối với
người quản lý, điều hành công ty. Hiện
nay, LDN năm 2014 có những quy định
về cơ chế kiểm soát đối với người quản
lý, điều hành công ty nhưng tính hiệu quả
chưa cao, nhất là đối với các giao dịch của
người quản lý công ty.
Luật hóa học thuyết đại diện trong
quy định pháp luật về quyền của CĐPT
nói riêng, trong quản trị CTCP nói chung
cần quan tâm mối quan hệ giữa CĐPT và
người quan lý, điều hành công ty. Chủ sở
hữu cổ phần phải kiểm soát được nguồn
vốn đầu tư và quyết định người quản lý
công ty, tránh sự lạm quyền của người đại
diện ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ
sở hữu cổ phần, lợi ích chung của công
ty. Ngược lại, người quản lý công ty phải
được chủ động điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh, phải được hưởng lợi ích
tương xứng với năng lực điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty.
Quyền bỏ phiếu biểu quyết là quyền
quan trọng thực hiện quyền kiểm soát của
CĐPT. CĐPT có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp thực hiện quyền của họ và pháp luật
phải tạo điều kiện thuận lợi, đa dạng để
họ thực hiện quyền. Pháp luật nên: (i) tạo
cơ chế để người đại diện ủy quyền thực
hiện quyền đúng như nguyện vọng của
CĐPT; (ii) đề cao trách nhiệm pháp lý
của người quản lý công ty, gắn quyền lợi
của họ với quyền lợi của công ty, của cổ
đông. Họ phải bị hạn chế quyền chuyển
nhượng cổ phần và phải chịu trách nhiệm
đối với những thiệt hại của công ty (trong
thời gian họ làm quản lý) kể cả sau khi
người quản lý đã nghỉ quản lý công ty;
(iii) bổ sung thành viên HĐQT có thể bao
gồm đại diện người lao động trong công
ty; (iv) các CĐPT cần chủ động thực hiện
quyền yêu cầu, quyền khởi kiện như là
một công cụ để CĐPT bảo vệ quyền lợi
của mình khi những người quản lý, điều
hành vi phạm nghĩa vụ.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 216 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật hóa những lý thuyết cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông trong pháp luật doanh nghiệp ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
62
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
1. Những lý thuyết cơ bản về quyền
của cổ đông phổ thông
Pháp luật về quyền của CĐPT được
nghiên cứu trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam,
chịu sự chỉ đạo của quan điểm chính trị
của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng pháp
luật về quyền của CĐPT phải dựa trên
những giá trị pháp lý, những lý thuyết,
học thuyết khác như:
1.1. Lý thuyết về quyền sở hữu (A theory
of property)
Lý thuyết về quyền sở hữu được xây
dựng dựa trên bài viết của A.M. Honoré
(1961)1, sau đó được nghiên cứu trong
nhiều bài nghiên cứu khoa học khác của
1 A.M. Honoré (1961), Ownership, in A.G. Guest,
ed., Oxford Essays in Jurisprudence (First Series)
(Oxford: Clarendon Press, 1961), tr 47-107.
A. A. Alchian (1987)2, Harold Demsetz
(1973)3 Theo quan điểm của A.M.
Honoré, đối với tài sản nói chung, khi
sở hữu tài sản, chủ sở hữu tài sản có các
quyền như: quyền chiếm hữu (the right to
possess), quyền sử dụng (the right to use),
quyền quản lý (the right to manage), quyền
đối với thu nhập từ tài sản (the right to
the income of the thing), quyền đối với chi
phí (the right to the capital), quyền an toàn
(the right to security), quyền liên quan đến
chuyển giao tài sản và vắng mặt có thời
hạn của chủ sở hữu (the rights of incidents
2 A. A. Achian (1987), Property rights, trong J.
Eatwell, M. Milgrate và P. Newman (ed.), The
New Palgrave: A dictionary in Economics
3 A. A. Alchian, Harold Demsetz (1973), The
Property Right Paradigm, The Journal of Economic
History, Vol. 33, No. 1, The Tasks of Economic
History. (Mar., 1973), pp. 16-27.
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG
PHỔ THÔNG TRONG PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
TRƯƠNG VĨNH XUÂN*
* Thạc sĩ, Học viện Chính trị khu vực IV
Bài viết đề cập đến những lý thuyết cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông
(CĐPT) và thực trạng luật hóa các lý thuyết cơ bản về các quyền này trong pháp
luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó kiến nghị về việc tiếp tục luật
hóa các lý thuyết về quyền của cổ đông phổ thông trong xây dựng và hoàn thiện
pháp luật về quyền của cổ đông phổ thông.
Từ khóa: Cổ đông, quyền của CĐPT, lý thuyết về quyền của CĐPT.
Ngày nhận bài: 25/9/2019; Biên tập xong: 14/10/2019; Duyệt đăng: 21/10/2019.
The paper mentions foundamental theories about rights of common
shareholders and current situation of legalizing these rights in Vietnamese
corporate laws. Hence, proposals to continue legalizing theories about
common shareholders’ rights in formulating and perfecting the law on
shareholders’ rights are given.
Keywords: Shareholders, shareholders’ rights, theories about common
shareholders’ rights.
63Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
TRƯƠNG VĨNH XUÂN
of transmissibility and absence of term),
quyền ngăn cấm việc sử dụng tài sản gây
hại (the prohibition of harmful use), trách
nhiệm thực thi (liability to execution) và
quyền còn lại (the incident of residuarity)4.
Lý thuyết về quyền sở hữu còn được
sử dụng để luận giải cho sự phát triển của
công ty và các quyền của cổ đông công ty.
Sự phát triển của công ty và nhận thức
về vị trí, vai trò của cổ đông, quyền của
CĐPT là một quá trình gắn liền với nhận
thức về sở hữu tài sản trong công ty cổ
phần (CTCP). Các CTCP ban đầu cũng
không khác gì công ty hợp danh có quy
mô lớn5, không có sự tách bạch giữa thành
viên công ty với công ty. Với tư cách là
những người sở hữu, cổ đông có quyền
quản lý để công ty hoạt động vì lợi ích
của họ và có thể phê chuẩn các giao dịch
không quy định trong điều lệ và không
phù hợp với lợi ích của họ6. Khi cấu trúc
sở hữu trong CTCP thay đổi, cổ đông là
những đồng sở hữu đối với công ty, pháp
luật bắt đầu phát triển các giới hạn và từ
chối nhiều quyền của cổ đông như quyền
của cổ đông đối với khối tài sản của công
ty, quyền trực tiếp điều hành quản lý công
ty... Khi đó, quan điểm cổ đông là chủ sở
hữu không còn là lý thuyết chủ yếu giải
thích cho vị trí và các quyền của cổ đông7.
Sự thay đổi cấu trúc sở hữu trong các
CTCP đã làm lý thuyết về quyền sở hữu
4 The Nature and process of law: An introdution
to legal philosophy, Oxford university press, New
York, 1993 (370 – 375), tr 370
5 Ross Grantham (1998), The doctrinal basis of the
rights of company shareholders, The Cambridge
Law Journal, Vo 57, No 3, tr. 554-588, tr557
6 Ross Grantham (1998), tlđd, tr559
7 Ross Grantham (1998), tlđd, tr. 556
không còn hoàn hảo trong luận giải các
quyền của CĐPT.
1.2. Lý thuyết về mối quan hệ của các hợp
đồng (the Nexus of Contracts Theory)8
Nguồn gốc của lý thuyết có thể được
bắt nguồn từ bài viết “The Nature of the
Firm” của Ronald Coase (năm 1937)9. Lý
thuyết về mối quan hệ của các hợp đồng
nhìn nhận công ty cũng là một tập hợp
“quan hệ hợp đồng” giữa các bên khác
nhau – chủ yếu là các cổ đông, thành viên
Hội đồng quản trị (HĐQT), nhân viên, các
nhà cung cấp và khách hàng. Các cổ đông
cũng chỉ là một trong số các nhà cung cấp
“đầu vào” khác, có quyền được xác định
thông qua các hợp đồng khác nhau khi
thành lập doanh nghiệp10. Quyền của cổ
đông nói chung, của CĐPT nói riêng đạt
được từ sự thoả thuận giữa cổ đông với
nhau, với người quản lý và các bên liên
quan khác. Cổ đông, người quản lý và các
bên liên quan khác muốn bảo vệ quyền,
lợi ích của họ thì phải tự mặc cả lấy quyền
của mình. Pháp luật định ra các nguyên
tắc tự do hợp đồng là cần thiết.
Dù có nhiều ưu thế nhưng Lý thuyết
về mối quan hệ của các hợp đồng vẫn
chưa có tính thuyết phục cao, coi công ty
như là một sự liên kết giữa các bên, trong
đó có cổ đông công ty, làm cơ sở cho lý
thuyết hợp đồng vẫn còn nhiều tranh
luận. Lý thuyết về hợp đồng không phải
và không thể là lời giải thích duy nhất về
8 Tổng hợp từ Ross Grantham (1998), tlđd, David
Million (1990), Theories of the corporation, Duke
Law journal Vol.1990:201, tr. 229
9 R. H. Coase (1937), The Nature of the Firm,
Economica, New Series, Volume 4, Issue 16 (Nov.,
1937), tr386-405.
10 David Million (1990), Theories of the corporation,
Duke Law journal Vol.1990:201, tr. 229
64
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
nội dung của luật công ty hoặc quyền của
cổ đông, CĐPT.
1.3. Học thuyết về đại diện (Agency Theory)
Từ những yếu tố đầu tiên Adam
Smith11, nhà kinh tế học Gardiner C.
Means và giáo sư luật Adolf A. Berle12, M.
C. Jensen và W. H. Meckling13 cho rằng, sự
phân tách giữa quyền sở hữu và quản lý
điều hành là một đặc trưng tất yếu ở các
CTCP mà chính những người chủ sở hữu
của nó vì quá đông đảo và phức tạp nên
không đủ điều kiện và khả năng để trực
tiếp quản lý điều hành công ty14.
Thông qua việc nhân rộng các chủ sở
hữu, sự xuất hiện các công ty lớn đã có
sự phân chia lớn giữa quyền sở hữu và
kiểm soát công ty. Sự tách biệt quyền sở
hữu và kiểm soát trở nên gần như hoàn
chỉnh khi không có sự quan tâm lớn của
cổ đông thiểu số. Thực tế, đa số các công
ty đại chúng đều thuộc sở hữu của các
cổ đông nhỏ có ít cơ hội ảnh hưởng đến
quyết định của công ty, sự kiểm soát của
các công ty sau đó đã chuyển sang các nhà
quản lý, những người có cơ hội và động
cơ lạm dụng vị trí của họ. Theo C. Means
11 Xem thêm tác phẩm Adam Smith (2005), An
Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth
of Nations, A Penn state electronic classics series
publication.
12 A. Berle and G. Means (1933), The Mordern
Corporation and private property, The Macmillan
Company, NY
13 Michael C. Jesen and William H. Meckling
(1976), Theory of the firm: Managerial behavior,
agency cost and ownership structure, Journal of
Financial Economics, Vol.3, No.4, tr. 305-360.
14 Hà Thị Thanh Bình (chủ nhiệm đề tài) (2013),
Sự tách bạch giữa quyền sở hữu và quyền quản
lý, điều hành công ty cổ phần đại chúng, Đề tài
nghiên nghiên cứu khoa học cấp bộ của Trường
đại học Luật TP HCM, tr. 33.
và A. Berle15, nguyên tắc tách bạch quyền
sở hữu và quản lý, điều hành công ty là
nguyên tắc nền tảng trong quản trị công
ty hiện đại16. Quan hệ này được trình bày
như một trường hợp đặc biệt của quan hệ
người ủy quyền – người đại diện.
Trong CTCP, người ủy nhiệm là cổ
đông – những người sở hữu công ty,
người đại diện là những người quản lý,
điều hành công ty. Họ thay mặt cổ đông
ra quyết định định đoạt tài sản của công
ty. Các cổ đông (thông qua Đại hội đồng
cổ đông - ĐHĐCĐ) sẽ có quyền chọn lựa
để bầu, bổ nhiệm, kiểm soát người đại
diện và sử dụng các cơ chế thích hợp để
có thể hạn chế sự phân hóa lợi ích giữa cổ
đông và người quản lý, điều hành công ty.
Đồng thời, cổ đông phải dành cho người
đại diện một phạm vi tự do nhất định để
việc điều hành công ty hiệu quả.
1.4. Lý thuyết về bất cân xứng thông tin
(Theory of Asymmetric Information)
Lý thuyết bất cân xứng thông tin được
xây dựng bởi George Akerlof (1970) và lý
thuyết thông tin bất cân xứng được biết
đến nhiều nhất từ bài viết “The Market for
Lemons”17. Bài viết này xác định các vấn
đề lớn ảnh hưởng tới thị trường, trong đó
có sự bất cân xứng về thông tin.
Thông qua các ví dụ trong bài viết, sự
bất cân xứng thông tin xảy ra khi một hoặc
nhóm các nhà đầu tư sở hữu nhiều thông
15 A. Berle and G. Means (1933), The Mordern
Corporation and private property, The Macmillan
Company, NY
16 Hà Thị Thanh Bình (chủ nhiệm đề tài) (2013),
tlđd, tr. 34
17 George Akerlof (1970), The Market for “Lemons”:
Quality Uncertainty and the Market Mechanism
The Quarterly Journal of Economics, Vol. 84, No.
3. (Aug., 1970), tr. 488-500.
65Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
TRƯƠNG VĨNH XUÂN
tin hơn các nhà đầu tư khác về công ty.
Bên nào có nhiều thông tin hoặc thông tin
có chất lượng hơn sẽ có lợi trong việc đưa
ra quyết định đầu tư. Trong CTCP, bất cân
xứng thông tin xảy ra khi một hoặc nhóm
các nhà đầu tư sở hữu nhiều thông tin
hơn các nhà đầu tư khác về công ty hoặc
khi doanh nghiệp, những người quản lý
doanh nghiệp có nhiều thông tin hơn so
với cộng đồng nhà đầu tư. Các giao dịch
có liên quan đến các nhà quản lý vì tính
chất bất cân xứng thông tin, các cơ quan
quản lý thị trường chứng khoán cũng cần
kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc giao
dịch cổ phiếu của các nhà quản lý để bảo
vệ các cổ đông khác18. Pháp luật nên có
các quy định khắt khe và xử phạt cứng
rắn đối với việc vi phạm bảo mật thông
tin, giao dịch nội gián nhằm bảo vệ lợi ích
của nhà đầu tư, của CĐPT.
Tóm lại, luận giải cho quy định pháp
luật về quyền của cổ đông nói chung, CĐPT
nói riêng, không thể dựa trên cơ sở một lý
thuyết, học thuyết (hay một quan điểm)
mà phải có sự kết hợp nhiều lý thuyết, học
thuyết khác nhau mới có thể làm rõ được
các quyền của CĐPT trong CTCP.
2. Thực trạng luật hóa các lý thuyết
cơ bản về quyền của cổ đông phổ thông
trong pháp luật doanh nghiệp ở Việt
Nam hiện nay
Một là, qua quy định cổ đông sẽ “sở
hữu một phần tài sản của công ty tương ứng
với phần vốn góp vào công ty” (khoản 1 Điều
8), quan điểm “cổ đông là chủ sở hữu công
ty” (mặc dù không hoàn toàn nhưng) đã
18 La Văn Giàu (chủ nhiệm đề tài) (2016), “Giao
dịch cổ phiểu của cổ đông nội bộ: bằng chứng từ
thị trường chứng khoán Việt Nam”, Đề tài khoa
học cấp cơ sở của Trường Đại học kinh tế thành
phố Hồ Chí Minh, tr 29-30
được quy định rõ ràng trong Luật Công
ty năm 1990. Quy định này là chưa hợp lý,
vì công ty là một thực thể pháp lý độc lập,
có quyền sở hữu tài sản. Cổ đông chỉ góp
vốn hình thành vốn điều lệ công ty nhưng
không thể sở hữu tài sản của công ty.
Tài sản của công ty do công ty sở hữu,
và cổ đông chỉ sở hữu đối với cổ phần.
Nhận thức xu thế chung đó, Luật Doanh
nghiệp (LDN) năm 1999 đã thay đổi
nhưng cũng chưa quy định rõ ràng như
LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm
2013) và LDN năm 2014 về quyền và vị
trí của CĐPT trong CTCP. LDN năm 2005
(sửa đổi, bổ sung năm 2013), LDN năm
2014 đã chứng minh hoạt động lập pháp
về công ty của Việt Nam đã đoạn tuyệt
với quan điểm cũ do quy định “cổ đông là
cá nhân, tổ chức sở hữu ít nhất một cổ phần
của CTCP”19. Nhà đầu tư có trách nhiệm
chuyển quyền sở hữu tài sản (khi góp
vốn) cho CTCP. Sở hữu cổ phần là cơ sở
để phát sinh quyền của CĐPT theo những
điều kiện do pháp luật quy định.
Hai là, pháp luật về công ty ở Việt
Nam (Luật công ty năm 1990, LDN năm
1999, LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung
năm 2013) và LDN năm 2014) vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau khi nhìn
nhận sự tồn tại của thỏa thuận cổ đông.
Pháp luật công ty nhiều nước (như
Nga, Ấn độ, Mỹ, Anh) đã có quy định
về thỏa thuận cổ đông. Riêng pháp luật
về công ty ở Việt Nam (Luật công ty năm
1990, LDN năm 1999, LDN năm 2005 và
LDN năm 2014) vẫn còn nhiều quan điểm
khác nhau khi nhìn nhận sự tồn tại của
thỏa thuận cổ đông, CĐPT trong các quy
19 Khoản 11 Điều 4 LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ
sung năm 2013) và khoản 2 Điều 4 LDN năm 2014.
66
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
định pháp luật, nhất là LDN năm 2014.
Dưới góc độ luật thực định, LDN năm
2014 quy định về hợp đồng trước đăng
ký doanh nghiệp của người thành lập
CTCP phục vụ cho việc thành lập, hoạt
động của CTCP trước và trong quá trình
đăng ký CTCP như là sự thỏa thuận của
giữa người thành lập CTCP với các bên
liên quan khác nhằm phục vụ cho việc
thành lập CTCP (điều 19); và đề cập đến
các quyền của cổ đông đối với số cổ phần
đã thanh toán (so với đăng ký mua) khi
đăng ký doanh nghiệp như quyền biểu
quyết, quyền nhận cổ tức và các quyền
khác. LDN năm 2014 và các văn bản luật
khác có liên quan (như Luật các tổ chức
tín dụng năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), Luật Chứng khoán năm 2007 (sửa
đổi, bổ sung năm 2010), ) hiện vẫn chưa
thừa nhận giá trị pháp lý của các thỏa
thuận cổ đông, CĐPT và do đó, pháp
luật cũng chưa đặt ra tính hợp pháp của
những thỏa thuận cổ đông, CĐPT.
Dưới góc nhìn thực tiễn, việc thành
lập CTCP theo LDN năm 2014 đã phát
sinh các thỏa thuận góp vốn, hợp đồng
chuyển nhượng vốn góp giữa cổ đông và
nhà đầu tư, hợp đồng chuyển nhượng vốn
góp giữa CTCP và nhà đầu tư, thỏa thuận
chuyển nhượng cổ phần giữa CTCP và
nhà đầu tư. và những thỏa thuận này có
thể là phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp
lý của cổ đông, CĐPT. Những quyền và
nghĩa vụ của các bên thỏa thuận có thể
nằm ngoài những quyền của cổ đông,
CĐPT do luật quy định nhưng có giá trị
ràng buộc các bên hay không vẫn là nội
dung còn bỏ ngỏ trong LDN năm 2014.
Có thể nói, sự luật hóa lý thuyết về
mối quan hệ của các hợp đồng trong xây
dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về quyền của CĐPT cần phải được tiếp
tục nghiên cứu và cụ thể.
Ba là, nội dung của Luật Công ty năm
1990 cho thấy việc luật hóa học thuyết đại
diện còn đơn giản, chưa rõ ràng.
Quy định về quản trị CTCP đã phát
triển và có nhiều thay đổi khi pháp luật
về doanh nghiệp cụ thể hóa học thuyết đại
diện trong các quy định. LDN năm 2005
(sửa đổi, bổ sung năm 2013) đã luật hóa
học thuyết đại diện trong quản trị CTCP,
nhưng mức độ còn hạn chế. LDN năm 2014
đã kế thừa LDN năm 2005 (sửa đổi, bổ sung
năm 2013) và bổ sung những điểm tiến bộ
khi luật hóa học thuyết đại diện trong xây
dựng LDN: (i) mô hình quản trị (cơ cấu tổ
chức quản lý) CTCP đa dạng; (ii) Quy định
cho phép cổ đông, nhóm cổ đông có quyền
tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện
trách nhiệm dân sự đối với thành viên
HĐQT, Tổng giám đốc (Giám đốc) trong
một số trường hợp và kiểm soát đối với
trách nhiệm của người quản lý công ty;
(iii) trách nhiệm bảo đảm thực hiện quyền
CĐPT trong một số trường hợp được biểu
hiện dưới dạng “nghĩa vụ”, không phải
“nhiệm vụ” như LDN năm 2005 (sửa đổi,
bổ sung năm 2013).
Tuy nhiên, sự luật hóa học thuyết
đại diện trong LDN năm 2014 cũng chưa
đầy đủ, cơ chế giám sát chưa hiệu quả:
(i) Các giao dịch giữa người quản lý, điều
hành công ty với người có liên quan là
do người quản lý, điều hành công ty thực
hiện nhưng phải được sự chấp thuận của
CĐPT thông qua thực hiện quyền biểu
quyết tại ĐHĐCĐ cũng còn nhiều vấn
đề; (ii) chưa được quy định rõ ràng, minh
67Khoa học Kiểm sátSố 05 - 2019
TRƯƠNG VĨNH XUÂN
bạch quyền và nghĩa vụ của người quản lý
công ty trong việc công nhận, bảo đảm và
bảo vệ quyền của CĐPT, đặc biệt là trách
nhiệm pháp lý của họ trong việc đảm bảo
thực hiện quyền của CĐPT. Do đó, đôi khi
chính họ là người vi phạm pháp luật về
quyền của cổ đông.
Bốn là, các quyền thông tin của cổ đông
nói chung, CĐPT còn mờ nhạt trong Luật
công ty năm 1990. LDN năm 1999 đã tạo ra
bước thay đổi khi quy định quyền thông
tin của cổ đông cũng như trách nhiệm của
các chủ thể có thẩm quyền phải có trách
nhiệm thực hiện quyền thông tin của cổ
đông. Đến lượt LDN năm 2005 (sửa đổi,
bổ sung năm 2013) và LDN năm 2014, các
quyền thông tin của cổ đông, CĐPT được
quy định phong phú hơn, nhất là quyền
thông tin của CĐPT trong các công ty đại
chúng. Song song với đó, LDN năm 2014
cũng quy định trách nhiệm của người
quản lý, điều hành công ty có nghĩa vụ
thực hiện nghĩa vụ của họ nhằm đáp ứng
quyền thông tin của CĐPT. Nhiều quy
định pháp luật khác quy định chế tài khi
các chủ thể có liên quan vi phạm quyền
thông tin của cổ đông (chế tài hành chính,
chế tài hình sự).
Như vậy, ở Việt Nam hiện nay, sự luật
hóa các lý thuyết về quyền của CĐPT
trong ban hành các văn bản pháp luật về
công ty đã phát triển nhưng mức độ còn
hạn chế hoặc chưa bao quát. Các lý thuyết
cần tiếp tục nghiên cứu và luật hóa trong
pháp luật công ty Việt Nam.
3. Những kiến nghị về việc tiếp tục
luật hóa các lý thuyết về quyền của cổ
đông phổ thông trong xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về quyền của cổ đông
phổ thông
Cơ sở lý thuyết là nền tảng cho các
công trình nghiên cứu ở mọi lĩnh vực,
trong đó có pháp luật về quyền của CĐPT
trong CTCP. Cơ sở lý thuyết về quyền của
CĐPT cung cấp những luận cứ kiến giải
cho sự cần thiết và định hướng cho hoạt
động xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về quyền của CĐPT. Hiện nay chưa có
lý thuyết nào là hoàn hảo để cụ thể hóa
trong pháp luật về quyền của CĐPT nên
pháp luật về quyền của CĐPT được xây
dựng dựa trên những nhân tố hợp lý của
các lý thuyết đó.
Trên cơ sở các lý thuyết đã nghiên cứu,
pháp luật về quyền của CĐPT nghiên cứu
cụ thể một số nội dung mới trong pháp
luật về công ty ở Việt Nam:
Thứ nhất, CĐPT sở hữu cổ phần có
các mục đích khác nhau, trong đó có mục
đích cổ tức. Với vai trò là người sở hữu cổ
phần, họ phải được đảm bảo quyền nhận
cổ tức thông qua các quy định của pháp
luật về doanh nghiệp. Pháp luật phải quy
định trách nhiệm của các chủ thể có nghĩa
vụ trong việc thực hiện quyền được nhận
cổ tức của CĐPT: (i), Công ty chỉ được
trích lập các quỹ không được vượt quá
giới hạn nhất định nhằm đảm bảo quyền
được nhận cổ tức của CĐPT. Mức trích
lập quỹ có thể không được vượt quá 30%
lợi nhuận ròng của công ty trong năm đó.
Các doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu là
doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhu cầu vốn để
tái đầu tư phát triển doanh nghiệp là rất
lớn. Do đó, tỷ lệ không quá 30% lợi nhuận
ròng hằng năm của công ty được dùng để
trích lập các quỹ là phù hợp, vừa đảm bảo
sự phát triển của công ty, vừa đảm bảo lợi
ích của CĐPT; (ii), Quyền nhận cổ tức của
68
LUẬT HÓA NHỮNG LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA CỔ ĐÔNG...
Khoa học Kiểm sát Số 05 - 2019
CĐPT phải được đảm bảo bằng nghĩa vụ,
trách nhiệm của người quản lý công ty;
(iii), quyền khởi kiện của CĐPT yêu cầu
thanh toán cổ tức chậm trả phải thông
thoáng hơn.
Thứ hai, thừa nhận giá trị pháp lý của
thỏa thuận cổ đông trong trong sửa đổi,
bổ sung LDN.
Pháp luật về quyền của CĐPT là các
quy định mang tính mở, tạo điều kiện
cho cổ đông thỏa thuận về những quyền
của mình, tôn trọng và ghi nhận sự thỏa
thuận của CĐPT nhưng thỏa thuận cổ
đông không được trái với quy định của
pháp luật. Pháp luật về quyền của CĐPT
phải đặt ra phạm vi, không gian cho sự
thỏa thuận của CĐPT và trong phạm vi
đó, CĐPT và các cổ đông khác tự do thỏa
thuận. Đồng thời, pháp luật phải hạn chế
những thỏa thuận ảnh hưởng đến quyền,
lợi ích của công ty; những thỏa thuận
hạn chế hoặc gây khó khăn cho việc điều
hành, quản lý của người quản lý công ty.
Thứ ba, quy định hiệu quả cơ chế kiểm
soát (trong học thuyết đại diện) đối với
người quản lý, điều hành công ty. Hiện
nay, LDN năm 2014 có những quy định
về cơ chế kiểm soát đối với người quản
lý, điều hành công ty nhưng tính hiệu quả
chưa cao, nhất là đối với các giao dịch của
người quản lý công ty.
Luật hóa học thuyết đại diện trong
quy định pháp luật về quyền của CĐPT
nói riêng, trong quản trị CTCP nói chung
cần quan tâm mối quan hệ giữa CĐPT và
người quan lý, điều hành công ty. Chủ sở
hữu cổ phần phải kiểm soát được nguồn
vốn đầu tư và quyết định người quản lý
công ty, tránh sự lạm quyền của người đại
diện ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ
sở hữu cổ phần, lợi ích chung của công
ty. Ngược lại, người quản lý công ty phải
được chủ động điều hành hoạt động sản
xuất kinh doanh, phải được hưởng lợi ích
tương xứng với năng lực điều hành hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty.
Quyền bỏ phiếu biểu quyết là quyền
quan trọng thực hiện quyền kiểm soát của
CĐPT. CĐPT có thể trực tiếp hoặc gián
tiếp thực hiện quyền của họ và pháp luật
phải tạo điều kiện thuận lợi, đa dạng để
họ thực hiện quyền. Pháp luật nên: (i) tạo
cơ chế để người đại diện ủy quyền thực
hiện quyền đúng như nguyện vọng của
CĐPT; (ii) đề cao trách nhiệm pháp lý
của người quản lý công ty, gắn quyền lợi
của họ với quyền lợi của công ty, của cổ
đông. Họ phải bị hạn chế quyền chuyển
nhượng cổ phần và phải chịu trách nhiệm
đối với những thiệt hại của công ty (trong
thời gian họ làm quản lý) kể cả sau khi
người quản lý đã nghỉ quản lý công ty;
(iii) bổ sung thành viên HĐQT có thể bao
gồm đại diện người lao động trong công
ty; (iv) các CĐPT cần chủ động thực hiện
quyền yêu cầu, quyền khởi kiện như là
một công cụ để CĐPT bảo vệ quyền lợi
của mình khi những người quản lý, điều
hành vi phạm nghĩa vụ.
Tóm lại, mỗi lý thuyết có những hạn
chế, những điểm hợp lý nhất định khi
xây dựng pháp luật về quyền của CĐPT
nhưng việc phát huy tối đa những yếu tố
hợp lý của các lý thuyết để pháp luật về
quyền của CĐPT vừa mang tính hiện đại,
vừa phù hợp thực tiễn và thu hút công
chúng đầu tư./.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luat_hoa_nhung_ly_thuyet_co_ban_ve_quyen_cua_co_dong_pho_tho.pdf