Luật học - Hồ sơ tình huống 3. 1
Theo Quy tắc 23.5 của bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề luật sư Việt Nam được ban hành bởi Hội đồng luật sư toàn quốc vào ngày 20 tháng 7 năm 2011:
“Luật sư luôn giữ bình tĩnh và có quyền có những phản ứng, yêu cầu thỏa đáng, hợp lệ, đúng pháp luật trước những thái độ, hành vi sai trái, thiếu tôn trọng luật sư hay khách hàng của luật sư tại phiên tòa cũng như trong quá trình tố tụng.”
Quan hệ giữa luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng có đặc thù là vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau. Một mặt nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật, tôn trọng lẫn nhau một mặt giám sát nhau. Mối quan hệ này tiềm ẩn những xung đột, đòi hỏi luật sư phải bình tĩnh, sáng suốt để tìm ra hướng giải quyết hiệu quả. Ở đây, hành vi bỏ về trong buổi đối chất tuy không nghiêm trọng như hành vi tự ý bỏ về trong phiên toà (hành vi luật sư không được làm được quy định tại Quy tắc 24.6) và mang tính chất vi phạm quy tắc ứng xử của luật sư nhưng cũng gây ảnh hưởng đến uy tín của luật sư và quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, thể hiện sự nóng nảy và thiếu chuyên nghiệp và . Trong trường hợp này, luật sư có quyền phản ứng và đưa ra những yêu cầu hợp pháp trước những hành vi sai trái của Kiểm sát viên.
3 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luật học - Hồ sơ tình huống 3. 1, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỒ SƠ TÌNH HUỐNG 3.1
Tóm tắt vụ việc
Ngọ Thành Tới, sinh năm 1985, trú quán tại thôn Ngọ Xá, xã Châu Minh, huyện H, tỉnh G bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố với tội danh “Cố ý gây thương tích” theo Điều 104 của Bộ luật hình sự. Gia đình bị can có ký hợp đồng dịch vụ pháp lý với Văn phòng luật sư C và theo đó, Toà án nhân dân huyện H đã đã cấp Giấy chứng nhận người bào chữa số 14 và số 15 cho các luật sư Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A là luật sư thuộc văn phòng Luật sư C – Đoàn luật sư TP B để tham gia tố tụng bào chữa cho bi can Ngọ Thành Tới.
Ngày 12/3/2013, Viện kiểm sát nhân dân huyện H , tỉnh G có Công văn số 98//CV-VKS thông báo đến Văn phòng luật sư C đề nghị cử luật sư đã được cấp Giấy chứng nhận bào chữa để tham gia hoạt động đối chất của Kiểm sát viên Đinh Văn Kh đối với bị can Ngọ Thành Tới với bị can Ngọ Văn Hùng trong vụ án. Ngày 19/3/2013, hai luật sư Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A đã có mặt tại Trại tạm giam Công an tỉnh G tham gia hoạt động đối chất của Kiểm sát viên đối với bị can Tới và bị can Hùng. Tại buổi đối chất hai luật sư Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A có ý kiến phản đối với hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không có thật của Kiểm sát viên và để phân biệt hành vi này của Kiểm sát viên, hai luật sư đã bỏ về.
Viện kiểm sát nhân dân huyện H cho rằng hành vi của hai luật sư Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A đã vi phạm nghĩa vụ của người bào chữa, vi phạm nguyên tắc hành nghề luật sư, vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử của nghề luật sư và làm ảnh hưởng đến quyền được bào chữa của bị can Ngọ Thành Tới nên đã đề nghị Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP B có biện pháp xử lý đối với những vi phạm của hai luật sư nêu trên.
Nhận xét đối với hành vi vi phạm.
Về nghĩa vụ của người bào chữa
Theo Công văn số 122/CV-VKS ngày 20 tháng 3 năm 2003 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, hai luật sư Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A đã có hành vi và lời nói phản ứng thiếu tôn trọng Kiểm sát viên rồi tự ý bỏ ra về, không tiếp tục tham gia buổi đối chất để bảo vệ quyền lợi cho bị cán Tới, cũng không có ý kiến chính thức và ký xác nhận vào biên bản đối chất (mặc dù đã được Kiểm sát viên nhắc nhở, yêu cầu quay trở lại để tiếp tục làm việc). Hơn thế nữa, trước khi ra về, luật sư Nguyễn Văn A còn trực tiếp xúi giục bị can Ngọ Thành Tới từ chối tiếp tục buổi đối chất và không ký biên bản đối chất. Viện kiểm sát nhân dân huyện H cho rằng, hai luật sư đã vi phạm:
Nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại các điểm b, c và d khoản 3 Điều 58 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
“3. Người bào chữa có nghĩa vụ:
b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng;
d) Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật;”
Thực tế, theo yêu cầu của bị can Ngọ Thành Tới và Viện kiểm sát nhân dân huyện H, hai luật sư A và B đã có mặt đứng thời gian và địa điểm để tham gia buổi đối chất. Việc bỏ về của hai luật sư là phản ứng phản đối hành vi được cho là mớm cung của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H chứ không phải là hành vi không giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ hay từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa.
Viện kiểm sát cũng nêu rằng, trước khi ra về, luật sư Nguyễn Văn A còn trực tiếp xúi giục bị can Ngọ Thành Tới từ chối tiếp tục buổi đối chất và không ký biên bản đối chất. hành vi này không thuộc các hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối. Thực tế trong phiên đối chất, hai luật sư A và B cho rằng tại buổi đối chất này kiểm sát viên Đinh Văn Kh đã có hành vi mớm cung để dựng lên những lời khai không có thật, cụ thể: khi Kiểm sát viên hỏi bị cáo Ngọ Văn Hùng về hòn gạch và nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch như thể nào, ở vị trí nào và đi lên chỗ đánh nhau như thế nào thì bị can Ngọ Văn Hùng không trả lời được, do không biết trả lời thế nào, sau đó ông Đinh Văn Kh lại tiếp tục mớm cung Ngọ Văn Hùng để trả lời theo ý của Kiểm sát viên (Lưu ý:Trước đó ông Đinh Văn Kh đã gợi ý mớm cung Ngọ Văn Hùng, luật sư chúng tôi đã có ý kiến phản đối, đề nghị Kiểm sát viên để Ngọ Văn Hùng tự khai và khai đến đâu thì ghi đến đó, ông Đinh Văn Kh đã nhất trí). Nhưng sau đó ông Đinh Văn Kh lại tiếp tục gợi ý để bị cáo Ngọ Văn Hùng khai theo ý của ông và việc khai này là hoàn toàn bịa đặt, không khách quan bởi, trước đó toàn bộ hồ sơ và quá trình xét xử vụ án chưa bao giờ Ngọ Văn Hùng khai nhìn thấy Ngọ Thành Tới cầm gạch đánh Nguyễn Văn Tuấn. Nếu thực sự bản thân hai luật sư đã nhận thấy hành vi mớm cung của kiểm sát viên thì việc yêu cầu bị can không đồng ký tên vào biên bản đối chất sai sự thật và gây bất lợi cho bị can là hành vi hợp pháp nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can.
Tuy nhiên, hành vi thiếu tôn trọng Kiểm sát viên rồi tự ý bỏ ra về, không tiếp tục tham gia buổi đối chất của hai luật sự Nguyễn Văn A và Nguyễn Văn B là hành vi vi phạm quy tắc đạo đức và ứng xử của nghề luật sư.
Về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề luật sư.
Theo Quy tắc 23.5 của bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề luật sư Việt Nam được ban hành bởi Hội đồng luật sư toàn quốc vào ngày 20 tháng 7 năm 2011:
“Luật sư luôn giữ bình tĩnh và có quyền có những phản ứng, yêu cầu thỏa đáng, hợp lệ, đúng pháp luật trước những thái độ, hành vi sai trái, thiếu tôn trọng luật sư hay khách hàng của luật sư tại phiên tòa cũng như trong quá trình tố tụng.”
Quan hệ giữa luật sư và các cơ quan tiến hành tố tụng có đặc thù là vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau. Một mặt nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật, tôn trọng lẫn nhau một mặt giám sát nhau. Mối quan hệ này tiềm ẩn những xung đột, đòi hỏi luật sư phải bình tĩnh, sáng suốt để tìm ra hướng giải quyết hiệu quả. Ở đây, hành vi bỏ về trong buổi đối chất tuy không nghiêm trọng như hành vi tự ý bỏ về trong phiên toà (hành vi luật sư không được làm được quy định tại Quy tắc 24.6) và mang tính chất vi phạm quy tắc ứng xử của luật sư nhưng cũng gây ảnh hưởng đến uy tín của luật sư và quá trình giải quyết vụ án của cơ quan tiến hành tố tụng, thể hiện sự nóng nảy và thiếu chuyên nghiệp và . Trong trường hợp này, luật sư có quyền phản ứng và đưa ra những yêu cầu hợp pháp trước những hành vi sai trái của Kiểm sát viên.
Hình thức xử lý
Thẩm quyền xem xét quyết định kỳ luật luật sư: Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư TP.B theo đề nghị của Hội đồng khen thưởng, kỷ luật của Đoàn luật sư TP.B.
Cơ sở pháp lý: Khoản 2 Điều 85 Luật luật sư.
Nguyễn Văn B và Nguyễn Văn A là luật sư thuộc văn phòng Luật sư C – Đoàn luật sư TP B tuy đã có những vi phạm trong quá trình hành nghề luật sư nhưng chỉ vi phạm quy tắc ứng xử của nghề, không gây ảnh hưởng lớn đến uy tín và quyền lợi của khách hàng.
Mức xử đề xuất sau khi đã xem xét tính chất, mức độ vi phạm: Nhắc nhở đẻ hia luật sư rút kinh nghiệm. Mức độ vi phạm không nghiêm trọng để chịu các hình thức kỷ luật theo khoản 1 Điều 85 Luật luật sư.
Bài học rút ra.
Bản thân tôi sau nghi được tìm hiểu trường hợp của luật sư A cũng đúc kết cho mình những kinh nghiệm và bài học:
Luôn giữ bản lĩnh và bình tĩnh trong mọi tình huống, tuân thủ các quy tắc đạo đức và ứng xử của nghề luật sư;
Không nên có thái độ tiêu cực với cơ quan tiến hành tố tụng;
Khiếu nại, tố cáo theo quy trình, thủ tục luật định.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ho_so_3_1_2504.docx